Thị trường tài chính - Các công cụ & nhân tố ảnh hưởng

Phần mở đầu Ngày nay, trong xã hội hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Hoạt động trên thị trường tài chính diễn ra hết sức sôi động, thậm trí ra quyết định phải tính đến một phần của giây, đứng trên góc độ này thì kinh doanh trên thị trường tài chính thực ra là kinh doanh thông tin. Thị trường tài chính được ra đời và phát triển một cách nhanh chóng và cùng với những công nghệ thông tin như vậy thì ngày nay thị trường tài chính đặc biệt được quan tâm. Nội dung bài

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thị trường tài chính - Các công cụ & nhân tố ảnh hưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viết gồm 2 phần: I. Tìm hiểu về thị trường tài chính và các công cụ của thị trường tài chính. II. Các nhân tố ảnh hưởng. I -/ Tìm hiểu về thị trường tài chính và các công cụ của thị trường tài chính: 1. Thị trường tài chính: Thị trường tài chính theo cách hiểu chung nhất đó là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán các công cụ tài chính và các công cụ thanh toán. 1.1. Chức năng của thị trường tài chính: Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là khơi thông dòng chảy vốn từ người đang dư thừa có nhu cầu đầu tư sang người đang cần vốn. Hoạt động của thị trường tài chính diễn ra khẩn trương sôi động xét về bản chất thì những người kinh doanh trên thị trường tài chính là rất quan trọng bởi vì hoạt động của họ làm nguồn vốn được điều hòa có nghĩa là dòng chảy vốn sẽ chảy mạnh mẽ đến những ngành, lĩnh vực làm ăn có hiệu quả và ngược lại nó cũng sẽ rút khỏi những lĩnh vực kém hấp dẫn. Như vậy hoạt động trên thị trường tài chính sẽ góp phần lớn vào bình quân hóa tỉ suất lợi nhuận đưa nền kinh tế tới mô hình tối ưu hơn. Để có thể nêu nên một cách đầy đủ những chức năng tác dụng của thị trường này còn nhiều điểm phải đề cập song ở đây chỉ đề cập đến chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính. 1.2. Phân loại thị trường tài chính: Có nhiều cách phân loại thị trường tài chính dựa theo các tiêu thức khác nhau, nếu căn cứ vào thời hạn các hàng hóa trên thị trường có thể chia thành thị trường vốn và thị trường tiền tệ, nếu căn cứ vào mức độ rộng rãi của các chủ thể tham gia có thể chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nếu căn cứ vào tiêu thức huy động vốn của các chủ thể thì lại chia thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. 2. Các công cụ tài chính: Tại sao khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường chúng ta cần thiết phải tìm hiểu đặc điểm của các công cụ tài chính? Thực tế đã chứng minh rằng nền kinh tế càng phát triển thì các hình thức thanh toán nợ cũng phát triển tương xứng, do đó mà sự đa dạng hóa các công cụ tài chính sẽ được đề cập đến dưới đây. Nhưng để trả lời câu hỏi trên chúng ta cần thiết phải nhận thấy rằng hàng hóa trên thị trường tài chính cũng giống như trên các thị trường khác cũng có những nét riêng biệt của nó. Tức là mỗi nhân tố ảnh hưởng có thể chỉ ảnh hưởng đến một hay một nhóm các công cụ này mà không ảnh hưởng đến các công cụ khác, thậm chí với những diễn biến nhất định thì có lợi cho công cụ này nhưng lại không có lợi cho công cụ khác. Một ví dụ điển hình là nguyên nhân gây ra sụp đổ thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ vào “ngày thứ hai đen tối” 19/07/1987 lại là nguyên nhân làm cho trái khoán kho bạc trở nên hấp dẫn, cầu về trái khoán kho bạc tăng vọt. Kết quả là sự chênh lệch lãi suất giữa trái khoán của công ty kém tín nhiệm với trái khoán của kho bạc lên đến 6%. Hay nói cách khác thì những công cụ trên thị trường tài chính hoàn toàn có thể coi là những hàng hóa thay thế cho nhau. Do đó các nhân tố ảnh hưởng không phải luôn luôn ảnh hưởng thuận chiều đối với mọi trái khoán nên cần thiết phải tìm hiểu từng loại công cụ tài chính. Nếu xem xét thị trường tài chính theo cách phân loại như trên thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì hai loại thị trường này cũng có những công cụ riêng của nó. 2.1. Các công cụ trên thị trường tiền tệ: Đó là các công cụ tài chính ngắn hạn, kỳ hạn thường dưới một năm (hay một năm). Có thể chia ra thành các công cụ chiết khấu và các công cụ mang lãi suất. 2.1.1. Công cụ chiết khấu: Công cụ chiết khấu là những chứng nhận nợ ngắn hạn không mang lãi suất, được bán với giá chiết khấu và được thanh toán khi đến hạn với đầy đủ mệnh giá. Bao gồm các công cụ sau: a. Tín phiếu kho bạc (Bills) Chủ thể phát hành: Do kho bạc nhà nước hay NHTW phát hành. Mục đích phát hành: do ngân sách các quốc gia thường xuyên bị thâm hụt, tín phiếu kho bạc được phát hành để bù đắp sự thâm hụt này và cũng là công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ. Các đặc điểm khác: Thời hạn thông thường là 3 tháng, 6 tháng hay một năm và phát hành bằng cách đấu giá. Việc mua bán ở thị trường tín phiếu chủ yếu dùng tiền mặt. Kho bạc thường phát hành tín phiếu dưới hình thức vô danh. Tín phiếu kho bạc được phát hành ở mức chiết khấu của mệnh giá và được kho bạc chuộc lại ở kỳ hạn thanh toán với các mệnh giá. Ví dụ mua tín phiếu kho bạc 900$ sau một năm sẽ được thanh toán bằng giá trị ghi trên tín phiếu là 1000$. Tín phiếu kho bạc là công cụ quan trọng nhất của thị trường tiền tệ và có khối lượng phát hành lớn, nó cũng là công cụ lỏng nhất trong các công cụ của thị trường tiền tệ. b. Các chấp nhận của ngân hàng (Banker’s Acceptance) Chủ thể phát hành: do một công ty thường là bên mua trong giao dịch thương mại quốc tế. Mục đích dựa vào uy tín của ngân hàng, nhờ ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Do đó các công ty không phải thanh toán bằng tiền của mình ngay, do vậy giải quyết được các khó khăn về tài chính. Thực chất thì đây là hình thức mua bán chịu song các hối phiếu chấp nhận của ngân hàng được coi là tài sản lưu động với bên sở hữu hối phiếu. Các đặc điểm khác: gần đến ngày thanh toán, công ty phát hành hối phiếu phải gửi số tiền bắt buộc vào tài khoản của mình ở ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu nếu không làm được thì ngân hàng phải thay công ty thanh toán, các hối phiếu đang là công cụ tỏ ra khá an toàn vì ngay cả trong trường hợp công ty mua hàng đã phá sản thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh toán đủ. Các hối phiếu này được bán lại trên thị trường thứ cấp với sự giảm giá và có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc. c. Thương phiếu (Commercial Papers) Cũng tương tự như hối phiếu ở trên về chủ thể phát hành và về mục đích song các thương phiếu không được ngân hàng chấp nhận các công ty phải đảm bảo thanh toán. Đặc điểm: Thương phiếu cũng có thể chiết khấu hoặc tái chiết khấu. Chiết khấu thương phiếu là việc chủ sở hữu thương phiếu đem bán thương phiếu trước thời hạn thanh toán (discount) tại các NHTM Tái chiết khấu thương phiếu là việc NHTM đem bán các thương phiếu cho NHTW trước thời hạn (Rediscount). Bên cạnh đó thương phiếu còn được các doanh nghiệp lớn phát hành, tức là họ đã thực hiện tài chính trực tiếp có thuận lợi là: + Lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất vay trực tiếp ngân hàng + Có thể thu hút nguồn vốn nhàn rỗi phi ngân hàng để đầu tư ngắn hạn + Có đủ điều kiện linh hoạt người đi vay có thể tham gia hay rút khỏi thị trường. + Với người đầu tư thương phiếu thị trường thu lợi nhuận lớn hơn các công cụ thị trường tiền tệ khác. 1.2. Các công cụ mang lãi suất: Các chứng khoán mang lãi suất được phát hành với mệnh giá cố định được đáo hạn ở những ngày nhất định và tất cả đến mang phiếu lãi suất, đó là lãi suất mà người phát hành hứa hẹn thanh toán cho người nắm giữ trên mệnh giá của chứng khoán sau một khoảng thời gian đã thỏa thuận bao gồm các loại sau: a. Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (CDs): Là sổ tiết kiệm xác nhận cá nhân hay tổ chức có tiền gửi ở ngân hàng. Chủ thể phát hành: các ngân hàng thương mại Mục đích: đáp ứng nhu cầu vốn cho vay của ngân hàng đó là nghiệp vụ “đi vay để cho vay”. Các đặc điểm: Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được quy định cho từng thời kỳ nhất định. Khi đến hết thời hạn thanh toán, CDs đuợc trả hết giá mua ban dầu. Tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia quy định CDs có thể lập được mua bán chuyển nhượng hay không. b. Các hợp đồng mua lại (Repurchase agreement) Chủ thể phát hành: Những người kinh doanh ngân hàng và phi ngân hàng là những người tạo chứng khoán chính phủ, chứng chỉ tiền gửi, các chấp nhận của ngân hàng. 2. Các công cụ của thị trường vốn: Là các công cụ tài chính trung và dài hạn bao gồm một số loại chủ yếu sau: a) Cổ phiếu Là loại chứng khoán vốn do công ty cổ phần phát hành để hình thành vốn điều lệ khi mới thành lập hoặc chỉ tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Định nghĩa này đã xác định chủ thể phát hành và mục đích phát hành công cụ này. b) Vay thế chấp Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất, hoặc những công trình kiến trúc thực khác, trong đó các công trình kiến trúc và đất được dùng làm vật thế chấp cho món vay. c. Trái khoán công ty Đây là loại trái khoán dài hạn do các công ty phát hành với mức tín dụng rất mạnh. Trái khoán công ty điển hình mang lại cho người giữ nó một khoản thanh toán lãi 2 lần mỗi năm và thanh toán hết mệnh giá khi trái khoán đến kỳ hạn thanh toán. d. Những món vay thương mại ngân hàng cấp và vay tiêu dùng Đây là những món vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh và chủ yếu do ngân hàng cho vay, nhưng trường hợp các món vay của người tiêu dùng, cũng còn do những công ty tài chính cho vay. II/ Các nhân tố ảnh hưởng: Bình luận: Qua việc tìm hiểu ở trên đặc biệt là các đặc điểm của từng loại công cụ tài chính đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự thân nó đã là chủ thể phát hành, mục đích phát hành, quy định của nhà nước áp dụng đối với từng loại công cụ... hay đó là những nhân tố hiện tại của công cụ tài chính. Và xét trong thời gian dài thì tại mỗi thời điểm thì lãi suất thực của công cụ tài chính sẽ khác nhau. Trong rất nhiều các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội ảnh hưởng nên xem xét dưới góc độ những nguyên nhân thay đổi, chúng có thể phân chia làm 4 nhóm nhân tố lớn: nhóm thứ nhất là các yếu tố nội tại kể trên, nhóm thứ hai là tác động của các nhân tố chính trị xã hội, và cuối cùng là tác động của công ty và tình hình tài chính công ty chủ thể quan trọng trong tạo ra hàng hóa cho thị trường tài chính. Việc phân chia này chỉ có tính chất tương đối bởi vì các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau đó là mối quan hệ “đa cộng tuyến”. ở phần này em xin trình bày các nhân tố ảnh hưởng và các cơ chế ảnh hưởng đến lãi suất hay trả lời câu hỏi như thế nào?. Xét dưới góc độ cung cầu thì mọi nhân tố trên có thể quy về ảnh hưởng tới đường cầu trái khoán hay đại lượng quyết định đến lãi suất của các công cụ tài chính. Vậy các nhân tố ảnh hưởng đến D-S của trái khoán như thế nào? 1. Các yếu tố nội tại của công cụ tài chính: 1.1. Độ rủi ro của các công cụ tài chính: i% Db’ Db i1 E2 E1 i2 Sb 0 Q Q2 Q1 Trong cuộc sống hàng ngày có lẽ cũng rất ít người được ưa thích rủi ro mạo hiểm, trong thị trường tài chính cũng vậy các công cụ tài chính được quảng cáo tuy rầm rộ đến mấy thì công chúng cũng không hào hứng tham gia nếu nó chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro ở bên trong. Do đó nó sẽ là hàng hóa không được mọi người ưa thích tức là cầu về công cụ đó giảm dẫn đến đường cầu về trái khoán sẽ dịch trái kết quả là làm tăng lãi suất i : Lãi suất của trái khoán Q: số lượng của trái khoán Đường cầu trái khoán dịch chuyển từ Db ->Db’ làm cho lãi suất tăng từ i1 -_ i2 Với các chủ thể tham gia thị trường tài chính hay cũng giống như bất cứ chủ thể kinh doanh trên các thị trường khác, câu hỏi đặt ra là sau một thời gian nhất định số của cải rời khỏi tay họ có quay trở về với quy mô lớn hơn hay chi ít cũng còn nguyên vẹn giá trị hay không? Như vậy là họ có thể tìm kiếm được một đối tác có thể tin cậy được, có nguồn lực đủ mạnh để thanh toán khoản tiền đã chuyển cho anh ta trong việc phát hành các công cụ tài chính, chủ thể phát hành có vị trí quan trọng. Thông thường nhà nước được coi là đối tác làm ăn tin cậy nhất vì đó là người nắm pháp luật trong tay và có nguồn ngân sách khổng lồ. Nhưng có ai dám mua trái phiếu chính phủ Mêxicô sau khi nước này tuyên bố không trả các món nợ quốc tế trong cuộc khủng hoảng vào năm 1994. Dân chúng có dám bỏ tiền ngay cho chính chính phủ của tân tổng sau khi ông này lật đổ vị tổng thống cũ Môbutu của nước Zaie - quốc gia châu Phi liên tục xảy ra các cuộc nội chiến. Nhưng đây chỉ là những trường hợp hiếm khi xảy ra với các nước kinh tế vững mạnh, chính trị ổn định như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức thống nhất... thì khả năng chính phủ không thanh toán các khoản nợ là không xảy ra. Với từng công cụ tài chính cụ thể, coi là người phát hành có tính chất quyết định đến lãi suất, thông thường thì lãi suất của các công cụ tài chính do chính phủ phát hành sẽ thấp hơn các công cụ do công ty phát hành. 1.2. Kỳ hạn của các công cụ tài chính: Theo trình bày ở trên thì thị trường hiện nay chủng loại các công cụ tài chính thật đa dạng. Xét về kỳ hạn thì các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có kỳ hạn ngắn nhất chỉ trên dưới một năm, còn trên thị trường vốn thì kỳ hạn dài hơn. Lãi suất hoàn vốn Theo kỳ thanh toán 0 Kỳ hạn của công chúng có rất nhiều loại tùy theo từng đợt phát hành với trái phiếu công ty kỳ hạn thông thường là 5,10,20 năm hay thậm chí đến 30 hay 50 năm. Trong thực tế lãi suất của các công cụ tài chính có kỳ hạn khác nhau thì mang lại lãi suất khác nhau và các công cụ ngắn hạn thường có lãi suất cao hơn các công cụ ngắn hạn như hình vẽ bên: Nói tóm lại câu hỏi đặt ra ở phần này: nhân tố kỳ hạn ảnh hưởng tới lãi suất của công cụ tài chính như thế nào? Đây là câu hỏi không dễ trả lời, đã có một số lý thuyết được đưa ra để giải thích vấn đề này. Các lý thuyết đưa ra thường gặp trở ngại: Nếu giải thích được đường cong lãi suất thì không giải thích được tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn thay đổi khi các công cụ dài hạn có xu hướng thay đổi theo. Theo lý thuyết về “giả thuyết dự tính” đưa ra quan điểm: “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của lãi suất ngắn hạn mà dân chúng dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó”. Do vậy lý thuyết này đã thành công trong việc giải thích tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn, dài hạn lại thay đổi phụ thuộc lẫn nhau. Theo “lý thuyết thị trường phân cách” đúng như thế gọi của nó cho rằng lãi suất xác định cho một công cụ nào đó được xác định bằng cung cầu với trái khoán kỳ hạn đó và không chịu tác dụng của những kỳ hạn đó, tức là những trái khoán không phải là những hàng hóa thay thế cho nhau. Lý thuyết này được bổ sung thêm một giả thiết nữa là người ta thường ưu tiên cho những khoản đầu tư ngắn hạn hơn, lý thuyết này đã thành công trong giải thích đường cong lãi suất thường dốc lên phía trên. Lãi suất hoàn vốn Hạn kỳ thanh toán 0 Lý thuyết môi trường ưu tiên đã khắc phục được nhược điểm của hai lý thuyết trên bằng cách cho rằng “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trông đợi xuất hiện trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với mức bù hạn kỳ, mức bù này ứng với hạn kỳ trái khoán đó”. Do đó chúng ta thấy rằng lý thuyết môi trường ưu tiên là tổng hợp của 2 lý thuyết trên và nó cũng đã đưa ra các giải thích tại sao trong thực tế các đường lãi suất lại có các chiều dốc khác nhau: Cơ sở của việc giải thích dựa vào hai giả thiết: Dân chúng dự đoán rằng lãi xuất của các trái khoán ngắn hạn trong tương lai có trung bình thấp hơn mức lãi suất ngắn hạn hiện hành nhưng lại lớn hơn cả mức bù kỳ hạn. Do đó đường lãi suất có dạng như trên. * Liên hệ ở Việt Nam ở nước ta hiện nay mối liên hệ giữa kỳ hạn của một số công cụ tín dụng, cụ thể là lãi suất tiền gửi được công bố bởi ngân hàng Viêtcombank như sau: Kỳ hạn Lãi suất 3 tháng 0,6% 6 tháng 0,65% Không kỳ hạn 0,4% Hiện nay kho bạc nhà nước ta cũng đang phát hành loại trái phiếu kho bạc nhà nước kỳ hạn 2 năm lãi suất 12%. Như vậy là trái phiếu kho bạc nhà nước đã phát hành loại công cụ có kỳ hạn dài hơn và lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi ở trên, điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết đã phân tích ở trên. Nếu xem xét ngânhàng là người cho vay thì trước năm 1996, lãi suất cho vay giữa ngắn hạn và dài hạn hoàn toàn khác với lý thuyết trên, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên hiện nay đã được điều chỉnh lại, đây là chuyển biến tích cực khuyến khích các ngân hàng thương mại mạnh dạn hơn trong việc huy động vôn cho vay trong dài hạn. ở Việt Nam thị trường tài chính chưa phát triển và ta cũng chưa có thị trường chứng khoán. Do đó trên thị trường tài chính thiếu vắng các công cụ tài chính trung và dài hạn. Với người dân Việt Nam hay cũng giống như người dân ở các nước khác trên thế giới thật khó mà kiên trì đợi đến 5 năm hay 10 năm để thu hồi khoản vốn cho vay. Có nghĩa rằng ở nước ta hiện nay thông thường thì lãi suất hoàn vốn đúng bằng mức lợi tức hay là người dân sẽ gửi nó trong suốt thời hạn. Mặt khác ở nước ta vừa thoát ra khỏi lạm phát thì lại phát hành các công cụ tài chính dài hạn chúng chưa có tính khả thi vì nhân dân còn nghi ngại lạm phát có thể hoành hành trở lại. 1.3. Khả năng chuyển đổi : Tính linh động của một tài sản phản ánh khả năng và mức độ thuận tiện để chuyển tài sản đó thành tiền. Với các công cụ tài chính lỏng của mỗi loại là khác nhau. Trên thị trường tài chính người ta dễ dàng. Khi quyết định mua một trái phiếu của chính phủ và băn khoăn khi quyết định mua một lô cổ phiếu của một công ty nào đó. Lý do là vì với trái phiếu chính phủ khoản lợi họ nhìn thấy rõ ràng hơn so với cổ phiếu bởi vì trong thương trường có sự giám chắc rằng năm nay công ty đó làm ai đó lãi hay không. Tính lỏng của công cụ tài chính còn thể hiện ở chỗ thị trường của công cụ đó có lớn hay không? Hoạt động có nhộn nhịp hay không? Nếu có thì chúng ta dễ dàng bán công cụ trong tay người khác trên thị trường rộng lớn đó đang có nhu cầu cần loại công cụ này. Và với một nhà đầu tư, có những lúc họ cần chuyển một số công cụ mà họ nắm giữ sang tiền để lo liệu một công việc đang cần thiết mặc dầu trái khoán của họ đang sinh lợi. Lãi suất i% Db’ Db E2 E1 i1 Sb i2 Số lượng trái khoán Q2 Q1 0 Để xử lý những trường hợp như thế rõ ràng là các trái khoán trong tay họ phải có “tính lỏng” do vậy sẽ được ưa thích hơn. Và cái giá phải trả cho sự ưa thích của họ là họ sẽ nhận được một lãi suất thấp hơn do đường cầu dịch sang phải do số người ưa thích tăng lên (như hình vẽ). Đường cầu dịch từ Db -> Db’ làm cho lãi suất giảm từ i1 ->i2 1.4. Thuế thu nhập: Một yếu tố ra đời ngay khi công cụ tài chính được là nhà nước sẽ áp dụng một thuế suất thu nhập với nó. Thuế này quy định một tỷ lệ nhất định khoản thu nhập mà người sở hữu phải nộp cho nhà nước. Thuế suất áp dụng cho các loại công cụ khác nhau là không giống nhau tùy thuộc vào mục tiêu của nhà nước. Rõ ràng đứng dưới góc độ này thì nhà nước giữ vai trò quan trọng trong các nhân tố ảnh hưởng. Nếu xem xét các yếu tố khác là như nhau thì quyết định mua công cụ nào chưa hẳn đã phụ thuộc vào lãi suất mà người sở hữu đó thu được. Chúng ta sẽ chọn loại công cụ này hàng năm đem lại cho ta 100$ tiền lãi nhưng ta phải nộp 30$ hay sẽ chọn 90$ với khoản nộp vào ngân sách 10$. Kết quả là chính sách thuế của nhà nước trong một số trường hợp sẽ làm công chúng ưa thích hay tẩy chay một loại công cụ nào đó do vậy cầu sẽ tăng hay giảm làm cho lãi suất thay đổi. * Sức hấp hẫn của các công cụ tài chính khác Cũng giống như các loại hàng hóa khác cầu của một trái khoán nhất định sẽ phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các loại trái khoán khác, tức là sẽ chịu ảnh hưởng của hàng hóa thay thế. Hiệu ứng của việc các cônt ty đổ bể sẽ chuyển nguồn vốn của công chúng vào việc mua sắm các trái khoán của chính phủ có độ tin cậy cao hơn. Trong phân tích các nhân tố nội tại nếu xét chi tiết từng loại công cụ riêng biệt thì mỗi đặc điểm riêng của nó cũng gây ra mức lãi suất khác nhau. Nhất định là người mua trái phiếu của công ty có tài sản làm đảm bảo sẽ được nhận mức lãi suất thấp hơn loại không có tài sản đảm bảo, trái phiếu có khả năng chuyển đổi và trái phiếu thông thường của công ty sẽ nhận được lãi suất tương tự. Có thể coi lãi suất do nhà nước công bố với các trái khoán của mình cũng là một loại hàng hóa thay thế. Mặt khác thì nó cũng chịu ảnh hưởng của hàng hóa bổ sung. Trong một số trường hợp khi phát hành cổ phiếu, công ty sẽ khuyến khích người mua sách bán cho họ một chứng quyền đặt mua (Rights). Đó là một quyền ưu đãi mà công ty cho các cổ đông của mình được hưởng để mua cổ phiếu mới tỷ lệ thuận với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Khi phát hành họ sẽ được mua với giá ưu đãi. Rõ ràng là kỳ vọng thu được nhiều lợi tức hơn trong nghiệp vụ này của công chúng sẽ làm cho cầu của trái phiếu tăng lên và lãi suất sẽ giảm. 2. Các yếu tố kinh tế chung: Hoạt động mua bán trao đổi các công cụ tài chính xét về bản chất thìnó hoạt động đáp ứng và điều hòa vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện nào thì nền kinh tế mới hấp thụ tốt được nguồn vốn, có nhà kinh doanh nào dám bỏ vốn ra trong thời kỳ nền kinh tế đang suy thoái, sản phẩm đang ế thừa trên thị trường. Nói tóm lại là hoạt động của thị trường tài chính phải phụ thuộc vào cả nhu cầu về vốn đầu tư và khả năng cung ứng. Vậy trong tổng thể nền kinh tế có những nhân tố nào ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính. 2.1. Các biến số vĩ mô: Lạm phát là một khái niệm của kinh tế học chỉ sự tăng giá trung bình của hàng hóa theo thời gian. Khái niệm lạm phát thuần túy là trường hợp tất cả các giá cả của hàng hóa và các yếu tố sản xuất tăng theo cung f một tỷ lệ phần trăm. Tuy nhiên đây là trường hợp hiếm khi xảy ra. Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế xảy ra trầm trọng trong thời kỳ có khủng hoảng. Một ví dụ điển hình như lạm phát năm 1987 ở Braxin 230%, Mêxicô 130% trong lịch sử đã diễn ra siêu lạm phát ở Đức từ tháng giêng đến tháng 10 năm 1923 khi Đức thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất giá cả đã tăng 191.891,890 lần, con số khủng khiếp. Gần đây là Nam Tư đồng tiền mất giá đến mức trẻ em mang chúng ra dán diều làm đồ chơi. Hậu quả của lạm phát ai cũng thấy rõ, chính vì thế mà trong những năm 1980 tổng thống Reagan, bà Thatcher, thủ tướng H. Cohl và nhiều nhà lãnh đạo quốc gia khác đã gọi lạm phát là kẻ thù chung số 1, đẩy lùi lạm phát là ưu tiên hàng đầu. Lạm phát và lãi suất là biến số luôn đi song hành với nhau. Thực tế ở Việt Nam đã chứng minh điều đó, vào cuối những năm 1980 khi lạm phát ở nước ta lên đến mức hai con số thì lãi suất được NHTW công bố lên đến 10% tháng. Vào thời điểm hiện nay thì lạm phát đã được đẩy lùi chỉ số lạm phát 9 tháng đầu năm 1997 là 2%. Với một nhà đầu tư trên thị trường tài chính hay nói đúng hơn là người cho vay, người ta quan tâm đến lãi suất thực của các công cụ tài chính chứ không phải là các lãi suất được công bố, lãi suất thực là lãi suất đã tính đến yếu tố lạm phát và được xác định bởi: r = 1- f i: lãi suất danh nghĩa r: lãi suất thực f: tỉ lệ lạm phát Mặc dầu được mời chào với lãi suất hấp dẫn là 15% một năm nhưng không ai muốn mua công cụ tài chính đó nếu lãi suất hiện tại là 20% năm và có nguy cơ ngày càng tăng cao. Từ phương trình trên để cho r >0 thì i>f. Do vậy để hấp dẫn khách hàng thì lãi suất danh nghĩa khi phát hành là một loại công cụ phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát hiện hành. Do vậy có thể khẳng định rằng trong các biến số vĩ mô thì lạm phát là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến lãi suất. 2.2. Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp: Các nhà kinh tế tham dự cuộc hội thảo do ngân hàng châu á (ADB) tổ chức tại Manina (Philipin) tháng 10 năm 1997 đã đi đến kết luận là khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong 3 năm hay cũng đồng thời dự báo với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông nam á sẽ chỉ đạt từ 3-4% trong 2 năm 1997 và 1998. Kết quả đã làm cho một ố dòng đầu tư dự định vào khu vực này đã đổi hướng sang Mỹ La tinh đang được coi là khu vực kinh tế mới nổi. Dự đoán này làm cho thị trường tài chính khu vực kém sôi động, giá cả các loại cổ phiếu, trái phiếu sụt giảm mặc dầu còn nhiều nguyên nhân khác. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng quy mô của sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng là mức tăng % hàng năm của biến số này. Như vậy tốc độ phản ánh diễn biến kinh tế của giai đoạn hiện tại và dự đoán sức khỏe của nền kinh tế trong tương lai. Nếu tốc độ tăng trưởng cao thì cơ hội thu lợi nhuận sẽ lớn các nhà đầu tư tin vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế và mở rộng đầu tư nhu cầu về vốn sẽ lớn nâng lãi suất lên cao. Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời gian qua từ 1991 đến nay ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng lên đến 8-9% mà lãi suất không ngừng được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Câu hỏi này có thể được trả lời dưới nhiều góc độ trước hết là lạm phát phi mã được đẩy lùi, mặt khác là từ khi ngân hàng nước ta thực hiện chế độ ngân hàng hai cấp vào năm 1991 với chính sách mở của nền kinh tế xuất hiện một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài làm cho thị trường tài chính nước ta bước đầu tiếp cận được với thị trường tài chính quốc tế làm lãi suất của ta gần với lãi suất quốc tế hơn (hiện nay khoảng 8,2%/năm). Tăng trưởng kinh tế có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là số % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. Người thất nghiệp được hiểu là người có khả năng và sẵn sàng làm việc ở một mức lương nhất định nhưng không kiếm đựơc việc làm. Khi thất nghiệp ở mức cao sản xuất sút kém tài nguyên không được sử dụng hết thu nhập dân cư giảm sút. Nạn thất nghiệp là vấn đề nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường. Một điều hiển nhiên là tỷ lệ thất nghiệp cao làm cho một số người thu nhập, có nhu cầu đầu tư vốn giảm xuống ảnh hưởng một phần tới cung về vốn hay về cầu trái khoán. 2.3. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái nếu hiểu theo nghĩa rộng là số đồng nội tệ cần thiết để mua một đồng ngoại tệ thì khi tỷ giá hối đoái tăng lên cao thì nhà đầu tư cảm thấy trái phiếu của họ ở các nước láng giềng giữ giá cao hơn và ngược lại khi tỷ giá hối đoái xuống thấp thì của cải của họ đầu tư vào các thị trường tài chính nước ngoài dường như bị mất giá trị. Do đó đây là một trong những cơ sở để xác định trái khoán của quốc gia này có hấp dẫn công chúng của quốc gia khác hay không là nguyên nhân dịch chuyển đường cầu trái khoán do đó ảnh hưởng tới lãi suất. Tuy nhiên sự thay đổi quá lớn trong tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm cho những nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm vì tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế nơi mà họ đang có ý định mua trái khoán trên thị trường tài chính nước này. Sự sụt giảm giá trị đồng tiền ở hàng loạt các quốc gia Đông Nam á thời gian quâ đã khiến người ta lầm tưởng đến nền kinh tế địa ốc bong bóng xà phòng của Nhật Bản vào đầu những năm 80. Giờ đây các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại hơn khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu, trái phiếu của các quốc gia Đông Nam á so với thời kỳ trước khủng hoảng tài chính tiền tệ. ở Việt Nam khi ngân hàng nhà nước nới rộng biên độ giao động của VND so với USD từ 5% lên 10% gía thị trường chợ đen có lúc lên tới 13500 VND/USD khiến cho các doanh nghiệp ở ta lúng túng không biết nên vay bằng VND hay USD. Rõ ràng là tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng lớn đến quyết định vay ở đâu, các ngân hàng quốc doanh hay các ngân hàng nước ngoài. 2.4. Triển vọng và các lĩnh vực của nền kinh tế: Trong thực tế khó có quốc gia nào liên tục giữ vững tốc độ tăng trưởng một cách đều đặn vì có một nhân tố mang tính qui luật được các nhà kinh tế học gọi là chu kỳ kinh doanh (The bussiness cycb). Chu kỳ kinh doanh được biểu diễn trên đồ thị sau: C A 0 B Tốc độ tăng trưởng Thời gian Trong đó đỉnh của đường cong đánh dấu một sự phát triển phồn thịnh của nền kinh tế còn đáy của đường cong đánh dấu một giai đoạn suy thoái thường gắn với một cuộc khủng hoảng kinh tế. Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng :1918 - 1921; 1929 - 1933; 1970 - 1971; 1971 - 1982. Trong đó cuộc khủng hoảng 1l929 - 1933 trong các nước tư bản có lẽ là cuộc khủng hoảng qui mô và có sức tàn phá ghê gớm nhất đẩy nền kinh tế các nước tụt hậu đến 10 năm. Vậy chu kỳ kinh tế ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào? Khi nền kinh tế được dự đoán là thịnh vượng của sản xuất hàng hoá và dịch vụ gia tăng, có thể là đang trong giai đoạn đi từ điểm B đến điểm C trong đồ thị - nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh tăng và cũng tăng cầu về mặt hàng này. B A i% i2 i1 Q2 Q1 D2 D1 Thị trường trở nên sôi động "trăm người bán, vạn người mua" và thông thường thì lãi suất sẽ tăng lên như đồ thị bên ở Việt Nam, mặc dù đời sống nhân dân ta còn chưa cao nhưng ta có truyền thống là tiết kiệm,đặc biệt là từ khi nước ta thực hiện chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế đã khấm khá lên rõ rệt tạo điều kiện tăng khả năng tích luỹ lòng nhân dân. Tỷ lệ tích luỹ ở nước ta năm 1996 là 27,4% và người ta chợ đoán rằng còn có khoảng 20 ngàn tỷ VND nhàn rỗi chưa được huy động và khoảng 1 tỷUSD đang troi nổi trong dân cư. làm sao để nguồn vốn này phát huy tác dụng, các công cụ tài chính của ta đã thực sự hấp dẫn chưa? Tuy nhiên không phải cũng không hay quy thoái của nền kinh tế đều diễn riễn ra đồng đều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế hay trong điều kiện bình thường thì cũng có ngành kinh doanh phát đạt cơ ngành lại chật vật với những khó khăn. Do đó với một nhà đầu tư họ còn phải lựa chọn đưa của cải đến ngành nào, lĩnh vực nào có lợi nhuận cao nhất. Như vậy lãi suất trái khoán lại còn chịu ảnh hưởng của các hoạt động riêng biệt. Có một thực tế là bất chấp sự khủng hoảng trì trệ của một số ngành khác, ngành công nghệ thông tin đang phát triển một cách nhanh chóng và đã đưa Bill - Gate ông chủ của công ty Microsoft lên vị trí giàu nhất thế giới với tài sản 42 tỷ USD theo đánh giá của Fortune (10 - 1997) 2.5. Ngân sách chính phủ và thái độ với các biến số vĩ mô: Năm điều kiện để gia nhập liên minh tiền tệ châu Âu là thiếu hụt ngân sách nhỏ hơn 3% GDP, tổng nợ chính phủ ít hơn 60% GDP, lạm phát dưới 2,72%, lãi suất dài hạn dưới 8,23%/năm và đã tham gia cơ chế tỷ giá ngoại hối, trong đó điều kiện thâm hụt ngân sách không quá 8% là điều kiện khó khăn đối với nhiều nước đây là số lớn khi chúng ta biết rằng GDP của liên minh này khoảng trên 4 ngàn tỷ USD, và năm 1997 có thể sẽ là năm đầu tiên thâm hụt ngân sách của chính phủ Hoa kỳ giảm xuống dưới 100 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp từ nhiều nguồn song chủ yếu là phát hành tín phiếu kho bạc hay trong dài hạn bằng phát ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0668.doc