Thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Việt Nam đang trên bước đường hội nhập kinh tế quốc tế, hiện đại hoá nền sản xuất và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong bối cảnh đó nhiều thị trường đã hình thành, ngày càng có những biến chuyển tích cực như: thị trường hàng tiêu dùng, hàng xuất nhập khẩu, hàng nông lâm thủy sản. Nhưng một trong những thị trường có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng đó chính là thị trường sức lao động- thị trường sức lao động ở nước ta hình thành và phát triểGn khá chậm chạp.

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2709 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy vậy trong những năm gần đây nhờ sự nỗ lực điều chỉnh của hệ thống chính sách cũng như nhờ những tác động của cơ chế mở, thị trường này đã thu được một số kết quả khả quan. Bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt trái gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của nền kinh tế đất nước. Khi phân tích những tác động của thị trường sức lao động đối với nền kinh tế và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, em thấy rằng thị trường sức lao động là nhân tố quan trọng nhất giúp điều hòa và thiết lập trạng thái cân bằng của hệ thống thị trường. Một đất nước chỉ thật sự phát triển khi thị trường sức lao động ổn định, mang lại những lợi ích căn bản cho người dân, tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội phát huy được khả năng, thế mạnh của mình. Đối với Việt Nam điều này càng có ý nghĩa hơn. Chính vì những lý do đó em đã chọn đề tài: "Thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu. Đề tài gồm 3 chương: Chương 1 : Cơ sở lý luận chung Chương 2: Thực trạng thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay Chương 3 : Một số giải pháp để phát triển thị trường sức lao động Việt Nam Hy vọng đề tài này sẽ đem đến những thông tin đầy đủ và có hệ thống hơn về sự phát triển của thị trường những năm gần đây. Một số giải pháp đưa ra có thể chưa đáp ứng được tính thực tế, ứng dụng cao. Nhưng mong rằng chúng có tác dụng gợi mở trong việc hoạch định các chính sách cũng như cụ thể hóa giải pháp để đưa vào thực hiện có hiệu quả. Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Cấn Anh Tuấn đã giúp em hoàn thành đề tài một cách tốt nhất. Chương 1:Cơ sở lý luận chung I. Hàng hoá sức lao động 1. Khái niệm sức lao động Để hiểu về sức lao động trước hết chúng ta phải hiểu về khái niệm thế nào là lao động? Theo lý luận của Mac: Lao động trước hết là hoạt động diễn ra giữa con người và tự nhiên trong đó bản thân con người đóng vai trò một lực tự nhiên đối với tự nhiên. Sự vận động của con người tác động vào tự nhiên bên ngoài thay đổi tự nhiên đồng thời cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát triển năng khiếu tiềm tàng của bản thân. Con người được lao động sẽ đem lại những kết quả hữu hiệu trong quá trình bồi dưỡng và phát triển nhân cách của mỗi người. Vì lao động là nguồn gốc của mọi của cải trong xã hội nên nó cũng là sự cần thiết thuộc cơ thể cuả đời sống xã hội và chính do đó mà sự cần thiết ấy độc lập với mọi hình thái xã hội của đời sống loài người. Xã hội ngày càng hiện đại, lao động được lấy làm nhiệm vụ trung tâm, quan hệ lao động chi phối một loạt các quan hệ xã hội khác. Con người đã không ngừng hoàn thiện cả về kĩ năng nghề nghiệp và nhân cách của mình. Thông qua lao động chúng ta luôn rút ra được những kinh nghiệm, những bài học qua đó nâng cao hơn khả năng sáng tạo, hoạt động thực tiễn của cá nhân và cả cộng đồng. Của cải vật chất không tự nhiên sinh ra, nó là sản phẩm của lao động, con người cũng không nằm ngoài quy luật nhân quả ấy. Nếu xét theo một khía cạnh nào đó con người cũng chính là một sản phẩm đặc biệt nhất và có giá trị nhất trong số toàn bộ sản phẩm mà lao động đã tạo ra. Để có được một quá trình lao động cần hội tụ đủ các yếu tố như hoạt động cá nhân của con người, đối tượng lao động và công cụ lao động. Trong đó yếu tố được xét đến đầu tiên, giữ vị trí trọng tâm chi phối những yếu tố khác là hoạt động của con người. Bên cạnh đó đối tượng lao động và công cụ lao động cũng đa phần là sản phẩm đã trải qua một quá trình lao động nhất định. Quá trình này chỉ chấm dứt trong sản phẩm nghĩa là trong giá trị sử dụng khi mà sản phẩm thực hiện được giá trị sử dụng của mình. Lao động tạo ra sản phẩm tuy nhiên xét theo chiều ngược lại thì sản phẩm lại chính là những điều kiện của quá trình lao động. Không thể có lao động để tạo ra sản phẩm mới nếu thiếu đi những tư liệu cần thiết được tạo ra bởi những lao động quá khứ trước đó. Nhưng bản thân lao động không có giá trị. Nói một cáh đơn giản nhất lao động chỉ là hoạt động bản năng nhất của loài người. Lao động không mang lại giá trị cũng như giá trị sử dụng. Vậy tại sao sản phẩm của lao động lại mang giá trị? Đến đây ta phải nghiên cứu một phạm trù mới đặc biệt quan trọng đó là sức lao động. Theo một cách định nghĩa khác lao động là quá trình sử dụng sức lao động theo đúng mục đích của người sử dụng lao động. Như vậy sức lao động phải mạng giá trị nào đó và lao động đã chuyển giá trị ấy vào sản phẩm để sảnphẩm có thể lưu thông, trao đổi trên thị trường theo những giá trị khác nhau. Các Mac viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mới khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Sức lao động bắt đầu được phát hiện khi các nhà tư bản nhận ra mâu thuẫn tồn tại trong công thức chung của tư bản và sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, là điều kiện quyết định để biến tiền thành tư bản. Từ những phân tích trên cần phân biệt rõ lao động và sức lao động. Nói đến lao động là chỉ nói đến hoạt động vật chất của con người, lao động không mang bất kỳ một giá trị nào, còn sức lao động lại khác. Sức lao động tồn tại rất khác nhau trong mỗi cơ thể sống theo những khả năng và mức độ khác nhau. Tuy vậy nói năng lực lao động cũng chưa phải là nói lao động. Thực tế cho thấy đôi khi cá nhân có sức lao động, khả năng lao động nhưng vẫn không được tham gia lao động vì chưa hội đủ các yếu tố của một quá trình lao động đơn giản và hoàn hảo. 2. Hai thuộc tính của sức lao động: Sức lao động là một hàng hoá đặc biệt. Nó mang lại giá trị cho người sử dụng sức lao động đó còn người sở hữu chỉ được hưởng một phần rất nhỏ trong tổng giá trị mà sức lao động tạo ra. Là một loại hàng hoá đựơc đem ra trao đổi trên thị trường bản thân nó phải mang giá trị và giá trị sử dụng. + Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng như bất cứ một loại hàng hoá thông thường khác là thời gian lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống nên muốn tái sản xuất ra nó người công nhân phải tiêu dùng một khối lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Lúc này giá trị của sức lao động được lượng hoá gián tiếp bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động. Điều này bắt buộc phải xảy ra vì hai nguyên nhân chủ yếu: Nếu tính giá trị của sức lao động như giá trị của mọi hàng hoá khác thì nó phải được xác định từ khi sức lao động bắt đầu được hình thành. Sức lao động không tự nhiên mà có, nó phải luôn được bồi dưỡng và đào tạo. Vì vậy không thể tính hết các chi phí cho sự hình thành sức lao động của mỗi người (chi phí này được tính từ khi người lao động nằm trong bụng mẹ đến khi người đó mang sức lao động của mình ra thị trường trao đổi). Sức lao động không bao giờ tách rời khỏi người lao động, và người lao động chỉ bán sức lao động của mình chứ không bán quyền sở hữu riêng có về sức lao động đó. Do nó luôn tồn tại trong bản thân chủ sở hữu nên không cần thiết phải tính thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động khi xét đến thuộc tính giá trị của nó. Người lao động ngoài việc duy trì sự tồn tại của mình họ còn phải thực hiện tái sản xuất sức lao động của gia đình và đào tạo sức lao động cho con cái họ. Vì thế chi phí để tái sản xuất sức lao động hay giá trị sức lao động không những được tính qua giá trị tư liệu sinh hoạt để duy trì đời sống của người công nhân mà cần phải xét đến cả những chi phí giáo dục con cái họ cũng như chi phí để học tập, bồi dưỡng thêm kỹ năng nghề nghiệp cho bản thân người lao động. Khác với hàng hoá thông thường giá trị sức lao động còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Người công nhân không những đòi hỏi những nhu cầu về vật chất mà họ còn cần được vui chơi, giải trí tham gia những hoạt động của đời sống xã hội. Hơn nữa nó bao hàm yếu tố lịch sử vì giá trị sức lao động bằng giá trị tư liệu sinh hoạt nhất định nên giá trị thay đổi theo giá trị những tư liệu sinh hoạt đó và một số giá trị này ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì luôn tồn tại những giới hạn khác nhau. Giá trị sức lao động có thể dao động nhưng nó luôn phải nằm trong một giới hạn chuẩn nhất định. Nếu như với mọi hàng hoá khác, giá trị hàng hoá nhỏ nhất chính bằng chi phí để sản xuất ra hàng hoá đó thì đối với sức lao động giá trị nhỏ nhất của nó là giá trị những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu để duy trì đời sống cuả người công nhân. + Sức lao động mặc dù nằm ngay trong bản thân người lao động và nó luôn tồn tại cùng với sự tồn tại của người lao động nhưng nếu đời sống của công nhân không được bảo đảm ở mức tối thiểu thì sức lao động sẽ dần mất đi thậm chí thoái trào và tự huỷ diệt chính nó. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản luôn tím cách hạ thấp giá trị của sức lao động nhưng họ luôn phẩi tính toán để có thể duy trì được sự tồn tại của người lao động. Có tồn tại dù trong điều kiện sống khó khăn nhất thì sức lao động mới thực hiện được giá trị sử dụng của mình. Nếu giá trị sử dụng của hàng hoá thông thường biểu hiện ở công dụng của hàng hoá đó khi tiêu dùng nó thì giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động lại biểu hiện ở chỗ nó được sử dụng như một yếu tố của quá trình sản xuất, khi tiêu dùng sức lao động. Qua trình lao động của người công nhân ngoài sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, nó còn tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn giá trị đó bị nhà tư bản chiếm đoạt và được gọi là giá trị thặng dư. Thông thường giá trị sử dụng của hàng hoá sẽ giảm dần trong quá trình sản xuất. Những quỹ khấu hao được thiết lập cũng không nằm ngoài mục đích chống lại sự mất dần giá trị của sản phẩm khi đã đưa vào sử dụng. Hao mòn của giá trị sử dụng có thể do sự lạc hậu về công nghệ và cũng có thể chỉ do quá trình sử dụng thủ tiêu một số đặc tính ban đầu mà sản phẩm có được. Nhưng với sức lao động lại khác. Giá trị sử dụng của nó ngày càng được nâng cao cùng với quá trình sử dụng. Thời gian mà người lao động làm việc càng lớn, cường độ khẩn trương của công việc và năng suất lao động càng cao thì giá trị mà sức lao động tạo ra lại càng chênh lệch hơn so với giá trị sức lao động ban đầu mà nhà tư bản đã mua được trên thị trường. Hơn nữa một phần nguyên nhân cũng là do con người luôn cố gắng để hoàn thiện mình. Người lao động càng tích cực tham gia vào quá trình lao động sản xuất vật chất thì trình độ lành nghề của họ càng tăng vì thế sản phẩm mà họ làm ra càng nhiều với chất lượng thì tốt hơn. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động đã thể hiện tính chất đặc biệt của loại hàng hoá này : Giá trị sản xuất thuộc về người mua sức lao động và giá trị thuộc về người bán sức lao động. Không như hàng hoá thông thường, giá trị sản xuất và giá trị hàng hoá được thực hiện cùng một lúc. ở đây do việc sản xuất ra nó đòi hỏi phải chi phí một lượng sức lao động xã hội nào đó nên giá trị sản xuất sức lao động chỉ thực hiện được khi quá trình sản xuất vật chất diễn ra thuận lợi. ở các nước tư bản sức lao động chỉ có giá trị khi nào nó đã hoạt động trong một thời gian nào đó do hợp đồng quy định, và vì vậy nên giá trị thường được thực hiện sau giá trị sử dụng, hàng hoá được sản xuất và giá trị thặng dư được tạo ra. 3. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá Không phải bao giờ sức lao động cũng trở thành háng hoá. Các điều kiện cần thiết để sức lao động có thể trở thành hàng hoá là: + Bản thân sức lao động phải có giá trị kinh tế, phải có khả năng thường xuyên làm ra số lượng tương đương sản phẩm thặng dư. + Người lao động được tự do về thân thể và độc lập về nhân cách, là người chủ sở hữu sức lao động của mình, có thể tự do sử dụng sức lao động. Khi tìm thấy những lợi ích phù hợp, người lao động có thể thay đổi quyền sử dụng của người mua sức lao động, chỉ cần người lao động tôn trọng hợp đồng, thực hiện những quy định trong hợp đồng lao động đã ký trước đó. + Người lao động không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Cái duy nhất để có thể giúp họ tồn tại là bán sức lao động của mình, vì chỉ có sức lao động thuộc quyền sở hữu của bản thân người lao động mới có giá trị . + Ngoài những điều kiện chủ quan trên thì sức lao động còn bị chi phối bởi những yếu tố khách quan, như sự phát triển ở mức độ cao của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chỉ có trong một nền sản xuất hàng hoá phát triển thì đối tượng được xem là hàng hoá mới mở rộng. Sức lao động mới được xem là loại hàng hoá đặc biệt. Trong chế độ xã hội chủ nô, nền sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp người lao động không được tự do về thân thể vì vậy cái được đem ra rao bán không phải là sức lao động mà chính là người lao động. Nhưng bắt đầu khi nền sản xuất hàng hoá nhỏ được hình thành và cho phép tích luỹ tư bản thì đồng thời sức lao động đã trở thành hàng hoá. Nó được trao đổi trong một phạm vi nhất định kèm theo những điều kiện ràng buộc của các bên tham gia. Phạm vi trao đổi này có thể trong một địa phương, một quốc gia hoặc cũng có thể là một khu vực và toàn thế giới. Là một hàng hoá tất nhiên sức lao động phải được mua, bán và trao đổi. Vậy nó được trao đổi trên thị trường như thế nào ? II/ Thị trường sức lao động 1. Định nghĩa về thị trường sức lao động Hiện nay đang tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường sức lao động từ các nguồn tài liệu khác nhau tuỳ thuộc vào phương diện của thị trường lao động được nhấn mạnh trong khi định nghĩa. Ví dụ :Theo Adam Smith, thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động giữa một bên là người mua sức lao động và người bán sức lao động. Như vậy thị trường lao động là nơi để trao đổi dịch vụ lao động chứ hoàn toàn không phải là người lao động. Định nghĩa này đã khẳng định lao động không phải là sức lao động và ngược lại. Người lao động là người sở hữu sức lao động. Sức lao động này trở thành hàng hoá khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết của thị trường trao đôỉ hàng hoá. Người lao động lúc này không phải là hàng hoá, không được mua bán trên thị trường. Bên cạnh đó theo từ điển kinh tế học Pengiun: Thị trường sức lao động là thị trường trong đó tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác định trong bối cảnh quan hệ của cung lao động và cầu lao động. Định nghĩa này đã nhấn mạnh kết quả của quan hệ tương tác cung cầu trên thị trường lao động là tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động khác. Trong văn kiện đại hội IX của Đảng, thị trường lao động là: “Thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức lao động trong một phạm vi nhất định. ở nước ta hàng hoá sức lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân, các doanh nghiệp tư bản nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ và trong các hộ gia đình neo đơn thuê mướn người làm dịch vụ trong nhà. Trong các trường hợp đó có người đi thuê, có người làm thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền lương, tiền công”. Theo định nghĩa mà Văn kiện đưa ra thì thị trường lao động chỉ bó hẹp trong một vài thành phần kinh tế nhất định. Còn lại toàn bộ các quan hệ lao động trong khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và quan hệ lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp được đặt ra ngoài các khu vực của thị trường. Mặc dù còn tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường lao động nhưng nói chung nhất thì thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động và người mua sức lao động thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả và các điIều kiện việc làm khác trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận khác. Thị trường sức lao động được cấu thành bởi ba yếu tố: cung, cầu và giá cả sức lao động. Thị trường sức lao động chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi các quyền tự do mua, bán sức lao động được bảo đảm bằng luật pháp cũng như hệ thống các chính sách có liên quan. Tuy nhiên không phải bao giờ cũng hình thành thị trường sức lao động dù có người có sức lao động và người có nhu cầu sử dụng sức lao động đó. Thị trường chỉ được hình thành khi có đủ các yếu tố như: + Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường. Nghĩa là mọi thứ có giá trị đều được xem là hàng hoá và được đem ra trao đổi bằng sự thống nhất giữa người mua và người bán với quy luật ngang bằng về lợi ích. + Có định chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động trong đó người sử dụng có quyền tự do mua sức lao động, còn người lao động có toàn quyền sở hữu sức lao động của mình. + Người lao động ngoài sở hữu sức lao động không có sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất nào khác nhằm đảm bảo cho nhu cầu của bản thân và gia đình. Nếu người lao động có tư liệu sản xuất nào đó thì chắc chắn họ sẽ dùng sức lao động của mình để làm ra sản phẩm và cái họ đem ra bán trên thị trường là hàng hoá chứ không phải là sức lao động. + Có hệ thống thể chế thị trường lao động thích hợp để giải quyết các nhu cầu và các quan hệ phát sinh của thị trường như hệ thống các cơ quan, tổ chức dịch vụ việc làm và hệ thống thông tin về thị trường sức lao động. Nhưng một khi thị trường sức lao động hình thành và phát triển, nó lại có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như những giao động của các loại thị trường khác xung quanh cung và cầu về sức lao động. 2. Bản chất và các đặc đIểm của thị trường lao động 2. 1. Bản chất của thị trường sức lao động Như đã trình bày ở trên thị trường là nơi để mua bán , trao đổi một loại hàng hoá . Vì vậy thị trường sức lao động là nơi diễn ra sự mua bán sức lao động. Sự trao đổi này diễn ra giữa người đem sức lao động của mình đi bán và người mua sức lao động để sử dụng. Mối quan hệ này nhằm xác định số lượng và chất lượng sức lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng. Lao động được trao đổi trên thị trường không phải là lao động trừu tượng. Vì giá cả sức lao động do cường độ lao động, mức độ khẩn trương của lao động và yêu cầu trình độ lao động quyết định. Trong khi đó lao động trừu tượng lại là sự hao phí sức lực nói chung không kể đến bất cứ hình thức cụ thể nào của lao động. Do đó nó không nói lên được sự khác nhau của lao động trí tuệ và lao động cơ bắp, lao động phức tạp và lao động giản đơn. Khi bàn về thị trường sức lao động phải xét đến đối tượng được đưa ra làm hàng hoá chính là lao động cụ thể, lao động thể hiện thành việc làm . Thị trường sức lao động là cơ chế dung hoà những lợi ích của người bán và người mua. Giống như mọi loại hàng hoá khác người bán phải bán được sức lao động với mức giá phù hợp và người mua cũng phải mua được sức lao động đúng với nhu cầu của mình. Một thị trường lao động tốt là thị trường mà ở đó số lượng và chất lượng cung lao động về cơ bản tương ứng với nhau. Theo Elliontt Robert trong hệ thống các thị trường thì thị trường sức lao động là thị trường lớn nhất vì lao động là hoạt động có ích và là nguồn gốc của đại bộ phận của cải trong xã hội. Thu nhập do lao động tạo ra là bộ phận lớn nhất trong tổng thu nhập của đại bộ phận của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặt khác chi phí thời gian tham gia hoạt động kinh tế và tham gia vào thị trường sức lao động cũng chiếm phần lớn nhất thời gian của con người. Quyết định tham gia vào thị trường sức lao động hay không cũng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống hiện tại và tương lai của mỗi cá nhân. Khi bắt đầu tham gia vào thị trường sức lao động thì cá nhân đó phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, phải giải quyết nhiều mối quan hệ đan xen tồn tại và mâu thuẫn với nhau. 2. 2. Đặc điểm của thị trường sức lao động. a) Hàng hoá trao đổi trên thị trường sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt. Đặc điểm quan trọng nhất của thị trường sức lao động chính là đối tượng trao đổi của thị trường. Không giống như những loại thị trường khác, hàng hoá được trao đổi ở đây là một hàng hoá đặc biệt đó là hàng hoá sức lao động. Nó đặc biệt vì khác với những hàng hoá thông thường khác người mua sức lao động không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng. Sức lao động không tách riêng khỏi người cung cấp. Đối với loại hàng hoá bình thường quyền của người bán đối với hàng hoá của mình sẽ kết thúc sau khi thanh toán. Trái lại, người lao độg có toàn quyền quyết định chất lượng và hiệu quả sử dụng sức lao động của mình. Quá trình trao đổi phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản nhất của cơ chế thị trường nhưng nó chỉ kết thúc sau khi đã chấm dứt hợp đồng lao động và ngưòi lao động lại đem sức lao động của mình thực hiện một quá trình trao đổi mới. Mặc dù giá cả sức lao động sau khi thoả thuận đã được thanh toán nhưng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với hàng hoá đã trao đổi vẫn được giữ nguyên và thực hiện. Sở dĩ đối tượng trao đổi trên thị trường là sức lao động chứ không phải là lao động bởi vì nếu hàng hoá là người lao động sẽ vi phạm những nguyên tắc cơ bản về dan chủ, nhân quyền của một xã hội tiến bộ. Chỉ có trong xã hội chiếm nô người lao động mới bị coi là hàng hoá, bị đem ra mua bán như bất kỳ một loại hàng hoá nào khác. Người mua loại hàng hoá này được quyền chiếm hữu thể xác và sức lao động của người lao động đó, người lao động không có quyền sở hữu đối với bản thân và sức lao động của mình. Cũng như không có quyền thoả thuận về giá cả tiền công với chủ sử dụng lao động. Nhưng trong trường hợp người lao động là chủ thể sở hữu của sức lao động thì cái được đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường không phải là bản thân ngưòi lao động mà chỉ là giá trị sử dụng của sức lao động mà họ có. Khi việc trao đổi đã hoàn tất bên mua có quyền sở hữu chỉ đối với sức lao động của người lao động trong phạm vi điều kiện đã thoả thuận. Trong cơ chế thị trường ngày nay người lao động chỉ bán sức lao động và luôn giữ lại quyền sở hữu đối với loại hàng hoá đã bán ra. Trở lại với câu hỏi : Tại sao người lao động phải bán sức lao động sẽ thấy được tính chất đặc biệt của loại hàng hoá đem ra trao đổi. Giả sử có một người có sức lao động nhưng không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất thì bản thân anh ta vẫn phải duy trì cuộc sống của mình. Những chi phí về điều kiện vật chất và tinh thần để tồn tại vẫn phải được bảo đảm. Sức lao động chỉ có trong cơ thể sống do nó gắn liền với người lao động nên nó sẽ tự biến mất khi các điều kiện sống không được cung cấp đầy đủ. Tuy nhiên nếu anh ta đem bán sức lao động của mình thì ngoài việc tái sản xuất sức lao động đó thì cón có thể bảo đảm cho cuộc sống của cá nhân và của cả gia đình. Như vậy một trong những điểm khác biệt của hàng hoá sức lao động là ở chỗ dù nó được đem ra thị trường để trao đổi hoặc đã được trao đổi hay chưa thì nó vẫn đòi hỏi phải được cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định. Chi phí này là đương nhiên có và không thể thiếu đói với mỗi người. b) Tính đa dạng của thị trường sức lao động. Trên thực tế có rất nhiều dạng thị trường sức lao động khác nhau tuỳ theo các tiêu chí được lựa chọn để phân loại. Xét từ góc độ pháp lý có thị trường hợp pháp và thị trường bất hợp pháp. Còn dưới góc độ quản lý thì có thị trường tự do và có thị trường có tổ chức. Dưới góc độ hình thức tổ chức có thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Tuy nhiên có hai tiêu chí thường được sử dụng để phân loại thi trường đó là trình độ kỹ năng và phạm vi địa lý. Xét từ góc độ kỹ năng thị trường lao động được phân ra thành thị trường lao động giản đơn làm việc cơ bắp và thị trường lao động được đào tạo. Xét từ góc độ địa lý thị trường sức lao động được phân chia thành thị trường lao động địa phương và thị trường lao động quốc gia. c) Hàng hoá sức lao động trên thị trường không đồng nhất. Hàng hoá thông thường khi được đem ra trao đổi thường phải được chuẩn hoá ở mức cao về hình thức, chất lượng và giá cả. Tuy vậy hàng hoá sức lao động lại nằm ngoài những nguyên tắc ấy. Mỗi người lao động có khả năng bẩm sinh và một năng lực hoạt động, nghiên cứu, kỹ năng rất khác nhau do quá trình tiếp thu từ hệ thống giáo dục đào tạo không thể giống nhau. Nếu xét cả về động lực làm việc thì trên thị trường sức lao động cũng tồn tại nhiều động lực khiến người lao động nỗ lực hết mình. Có người lao động vì mục tiêu phấn đấu để thành đạt và cũng có người lao động chỉ để duy trì sự tồn tại của bản thân và gia đình. Chính vì thế sức lao động của những người đem ra trao đổi trên thị trường cũng không đồng nhất với nhau về kỹ năng, chuyên môn, khả năng thích ứng và làm việc. d) Trong các đàm phán trên thị trường sức lao động người lao động yếu thế hơn người sử dụng sức lao động . Thực tế cho thấy trong các quan hệ giao dịch trên thị trường sức lao động cán cân luôn nghiêng về phía người có nhu cầu sử dụng sức lao động. Điều này cũng dễ hiểu vì người có nhu cầu sử dụng sức lao động thường chỉ tuyển dụng những lao động hội tụ đầy đủ những điều kiện như tay nghề, trình độ nghiệp vụ, thậm chí là giới tính và tuổi tác. Trong khi đó người có nhu cầu bán sức lao động lại rất nhiều. Tình trạng mất cân bằng giữa cung và cầu về lao động đã làm cho người lao động phải chấp nhận những điều kiện đôi khi chỉ có lợi cho người sử dụng sức lao động. e) Thị trường sức lao động luôn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Trong thị trường sức lao động giá cả không phải là yếu tố chi phối duy nhất đến cung-cầu lao động. Mức độ can thiệp của chính phủ trong thị trường sức lao động và chính sự nỗ lực của các tổ chức, của người lao động và người chủ sử dụng lao động đã tham gia một cách tích cực vào điều chỉnh các mối tương quan về cung-cầu lao động trên thị trường. 2. 3. Tính chất của thị trường sức lao động Sức lao động là một hàng hoá mà giá trị sử dụng sinh ra giá trị trao đổi nên tiêu dùng có nghĩa là thực hiện lao động một cách sáng tạo ra giá trị. Việc trao đổi hàng hoá tự nó không đưa đến những quan hệ tuỳ thuộc ngoài những quan hệ thuộc phát sinh từ bản chất của trao đổi. Đối với thị trường sức lao động quan hệ mua bán muốn tồn tại mãi thì người sở hữu sức lao động chỉ được quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định vì nếu bán hết sức lao động thì tức là anh ta tự bán mình, từ chỗ là người bán hàng hoá cuối cùng trở thành hàng hoá. Ngoài những đặc điểm của thị trường sức lao động thì loại thị trường này còn tồn tại những tính chất đặc trưng của nó: Tính tự do: Thị trường sức lao động luôn là một thị trường mang tính chất tự do vì cả người mua và người bán không ai hành động vì ép buộc. Họ trao đổi với nhau đơn giản bởi cả hai đều tìm thấy trên thị trường cái cần thiết và phù hợp vơí nhu cầu của mình. Người bán sức lao động do họ cần duy trì sự tồn tại của mình và người mua sức lao động lại cần nó cho mục đích sản xuất kinh doanh. Tính bình đẳng: Sự trao đổi trên thị trường sức lao động diễn ra theo nguyên tắc vật ngang giá. Sau khi giá cả sức lao động được thoả thuận thì giá trị sức lao động được xem như đúng bằng giá cả tiền lương mà người chủ sử dụng lao động trả cho công nhân. Mỗi bên tham gia trao đổi đều có quyền nói lên tiềng nói chủ quan của mình. Khi hợp đồng lao động được ký kết thì cả hai bên đều có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ những điều khoản mà hợp đồng quy định. Quyền sở hữu: Trên thị trường mỗi người chỉ sử dụng cái thuộc về mình. Quyền sở hữu sức lao động chỉ thuộc về bản thân người mang nó, còn quyền sử dụng cũng chỉ thuộc về người chủ sử dụng lao động. Người công nhân không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với những hàng hoá mà sức lao động của họ tạo ra. Bentham: Tính chất Bentham của thị trường sức lao động thể hiện ở chỗ trong thị trường, đối với mỗi người thì chỉ là việc của cá nhân mình. Mỗi bên tham gia đều có những quyền và nghĩa vụ khác nhau để đIều hoà các mối quan hệ đang tồn taị trên thị trường mà họ tham gia. Việc người công nhân là sản xuất ra vật chất hàng hoá mang giá trị và giá trị sử dụng. Còn việc của người chủ sử dụng lao động là quản lý quá trình sử dụng sức lao động của người công nhân trên dây chuyền sản xuất. Mỗi người đều hoạt động dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng riêng có và có thể nói họ được đào tạo chỉ để làm tốt phần việc của mình. Người công nhân nếu không qua đào tạo không thể trở thành người quản lý và ngược lại người quản lý cũng không thể trực tiếp tham gia lao động. Như vậy thị trường sức lao động là một thị trường trao đổi hàng hoá ho hảo nhất và nó mang những đặc trưng rất cơ bản. Không có một thị trường nào tồn tại tự do, bình đẳng, quyền sở hữu được xác định rõ ràng và mang tính Bentham như thị trường hàng hoá sức lao động. 2. 4. Phân loại thị trường sức lao động Một trong những đặc điểm của thị trường sức lao động là tính đa dạng. Xét theo những góc độ khác nhau thì có những loại thị trường lao động khác nhau: 2.4.1. Theo khả năng cạnh tranh trên thị trường: Thị trường lao động cạnh tranh hoàn hảo : Là thị trường mà ở đó cung về lao động đáp ứng vừa đủ cầu về lao động, không có thất nghiệp, mọi cá nhân đều có khả năng tìm cho mình những việc làm phù hợp với nhu cầu và trình độ của bản thân. Thị trường lao động bị phân mảng : Trong thị trường này cung và cầu lao động bị chia cắt. Thị trường sức lao động bị phân mảng thành các thị trường riêng về ngành nghề, trình độ đào tạo và giới tính. Mỗi thị trường đều có đường cầu và đường cung riêng biệt với những cơ chế vận động khác nhau. Ngoài thất nghiệp hữu hình còn tồn tại thất nghiệp theo cơ cấu . 2.4.2.Theo mức độ tương hỗ giữa cung-cầu lao động Theo cách phân loại này có thị trường dư thừa lao động. Thị trường này nảy sinh khi tốc độ của cung lớn hơn rất nhiều so với tốc dộ tăng của cầu lao động. Trong thị trường dư thừa lao động, cung lao động gần như một đường nằm ngang, nó không có những biến động lớn còn cầu lao động rất yếu và kết quả là tiền công đặt tại một điểm rất thấp. Không tồn tại phản ứng giữa mức cầu và giá công lao động vì giá cả sức lao động lúc này không còn bị chi phối bởi nhu cầu sử dụng sức lao động của người mua sức lao động đó. 2.4.3. Theo mức độ can thiệp của nhà nước trong hệ thống thị trường Dưới bất kỳ một chế độ xã hội nào sự can thiệp của nhà nước thông qua hệ thồng các chính sách vĩ mô cũng đều có tác động lớn đến sự ổn định và phát triển của thị trường, đặc biệt là thị trường sức lao động. Có thể chia thị trường sức lao động ra làm ba loại nh._.ư sau: -Hệ thống thị trường sức lao động tự do: Việc trao đổi, mua bán sứclao động do hai bên tham gia tự quyết định các quyết định về tiền lương, việc làm do người lao động tự chịu trách nhiệm. Hiệu quả kinh tế được bảo đảm thông qua việc phân bố và sử dụng nguồn lực hợp lý nhưng hiệu quả sử dụng không cao. - Hệ thống thị trường kế hoạch hoá tập trung: Nhà nước giữ vai trò trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các mối quan hệ lao động xã hội với mục tiêu bảo đảm việc làm cho mọi thành viên trong xã hội. Tuy vậy vai trò của người lao động và người sử dụng lao động rất thấp, các lực lượng tham gia thị trường sức lao động không được tham gia vào bất kỳ sự điều chỉnh nào của thị trường dẫn đến nguồn nhân lực sử dụng kém hiệu quả. - Hệ thống thị trường sức lao động hỗn hợp: Loại thị trường này hoạt động dựa vào cơ chế của thị trường sức lao động tự do và sự quản lý của nhà nước thông qua kế hoạch hoá tập trung. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều được trực tiếp tham gia vào đIều chỉnh lao động-việc làm. Do vậy hệ thống thị trường này ở mỗi nước rất khác nhau…Rõ ràng lao động vừa là đầu vào của sản xuất vừa quyết định mức thu nhập để mua hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra. Vì vậy các kết quả của thị trường sức lao động đồng thời chi phối đường cầu lao động của doanh nghiệp và đường cầu hàng hoá của nền kinh tế. Đó chính là những chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, giá cả, việc làm… 3.Các mối quan hệ qua lại của các yếu tố thị trường sức lao động. 3. 1. Các yếu tố của thị trường sức lao động Các yếu tố của thị trường sức lao động bao gồm : Cung lao động, cầu lao độngvà giá cả sức lao động, cạnh tranh trên thị trường sức lao động. Trong đó tổng cung lao động và tổng cầu lao động là hai yếu tố cơ bản. Tổng cung lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân và một bộ phận tuy chưa có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc. Cung lao động lại phụ thuộc vào quy mô, tốc độ, độ dài thời gian làm việc của người lao động và khả năng thoả mãn nhu cầu về mức sống của các tầng lớp dân cư. Số lượng và chất lượng của cung lao động sẽ phụ thuộc vào trình độ dân trí theo các lứa tuổi cũng như hệ thống giáo dục đào tạo-đào tạo nghề ở mọi thời kỳ. Những địa phương có dân số trẻ sẽ cung cấp nguồn lao động lớn và tiềm năng tăng trong tương lai. Tuy nhiên cơ cấu trẻ cũng kéo theo một loạt vấn đề về giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động đông đảo. Theo quy luật để chuyển từ mô hình dân số trẻ sang mô hình dân số ổn định phải trải qua hàng trăm năm cùng với những điều kiện phát triển kinh tế xã hội nhất định. Ngày nay bùng nổ dân số là vấn đề toàn cầu cấp bách vì không những phải giải quyết sức ép của dân số đến kinh tế xã hội và môi trường mà còn phải giải quyết tình trạng thiếu việc làm, nhân khẩu thừa tương đối. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động là một chỉ báo nhạy cảm trước hết về vấn đề giới và giới tính. Phụ nữ thường tham gia lao động với mức độ thấp hơn, ngoài ra còn bị gián đoạn vì công việc gia đình. Thanh niên là đối tượng có khả năng tham gia thị trường sức lao động nhiều nhất nhưng nhiều người trong số họ lại đang tham gia học tập và đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng hoặc dạy nghề hoặc đang trong quá trình tích luỹ kiến thức cho công việc. Do đó mức độ tham gia lao động của lực lượng này còn hạn chế. Về tổng cầu lao động: Tổng cầu lao động là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định thường được xây dựng qua các chỉ tiêu việc làm, bao gồm cả số lượng, chất lượng cầu trên thị trường sức lao động phụ thuộc vào một số yếu tố sau: + Các yếu tố vĩ mô tác động đến cầu lao động bao gồm khả năng phát triển kinh tế của đất nước, cơ cấu ngành nghề và sự phân bố ngành nghề giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng lãnh thổ, trình độ công nghệ máy móc thiết bị được sử dụng, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát và các chính sách can thiệp của nhà nước. + Các yếu tố vĩ mô tác động tới cầu lao động: giới tính, lứa tuổi, dân tộc, đẳng cấp trong xã hội. Chính sự chênh lệch giữa cung và cầu lao động dẫn đến tình trạng thiếu việc làm cũng như chất lượng việc làm. Theo công thức tính số lao động dư thừa: Sl = Ls – Ld Trong đó : Sl : là số lao động dư thừa Ls : là tổng số cung lao động Ld : là tổng số cầu lao động =>Ta thấy cung và cầu lao động ảnh hưởng rất lớn tới thị trường lao động. Bên cạnh đó giá cả sức lao động và cạnh tranh trên thị trường sức lao động cũng có tác động không nhỏ đến những biến động của thị trường lao động. Giá cả sức lao động là biểu hiện tiền tệ của giá trị hàng hoá sức lao động và giá trị hàng hoá sức lao động là do giá trị tư liệu sinh hoạt mà sức lao động cần có để sản xuất, duy trì và phát triển quyết định: Giá cả sức lao động biểu hiện thành tiền công của người làm thuê. Theo quan điểm của Cac Mac thì “Giá cả sức lao động sẽ do chi phí sản xuất quyết định, do thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tức là sức lao động quyết định”. Lý thuyết kinh tế thị trường chỉ ra rằng tiền lương được quy định bởi cung và cầu lao động trên thị trường. Sự cân bằng thị trường sức lao động quy định mức lương cơ bản mà tại đó số lượng lao động được cung cấp bằng số lượng lao động được yêu cầu. Cạnh tranh trên thị trường sức lao động diễn ra nhằm giành lợi thế giữa các chủ thể của thị trường lao động, chủ yếu là giữa người làm thuê với người làm thuê, giữa chủ thuê với chủ thuê và giữa người làm thuê với chủ thuê. Cạnh tranh giữa những người lao động với nhau chủ yếu nhằm giành những vị trí công việc tốt nhất với mức thù lao nhiều hơn và cơ hội thăng tiến. Còn cạnh tranh giữa những người chủ sử dụng lao động lại với mục đích để có được sức lao động tốt hơn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và giá rẻ. Cũng giống như vậy, cạnh tranh giữa người sử dụng lao động và người lao động là để người lao động có việc làm, cơ hội thăng tiến và thu nhập cao còn đối với chủ sử dụng lao động thì số tiền chi trả cho người lao động sẽ nhỏ nhất. Thông thường các chính sách vĩ mô của nhà nước đều nhằm mục đích tạo ra một thị trường sức lao động cạnh tranh hoàn hảo mà ở đó thiết lập được mức lương cơ bản và duy trì mức lương cơ bản đó. Tuy vậy người sử dụng lao động có thể cho rằng mức lương ấy quá cao và người lao động thì phàn nàn vì mức lương quá thấp. Tuy nhiên đó lại là mức lương duy nhất làm cơ bản thị trường. Dù muốn hay không thì nó vẫn tồn tại vì nếu trên thị trường tồn tại một mức lương khác tất yếu sẽ gây ra khủng hoảng về lao động. 3.2.Mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố thị trường sức lao động Giữa các yếu tố thị trường sức lao động có mối quan hệ qua lại không những tác động đến quy mô và chất lượng của thị trường sức lao động mà còn không ngừng tác động lẫn nhau. Sự vận động của cung và cầu lao động sẽ chi phối số lượng người tham gia vào thị trường lao động và mức tiền công. Nếu mức cung cao hơn mức cầu xảy ra tình trạng nhân khẩu thừa tương đối, giá cả hàng hoá sức lao động sẽ thấp hơn giá trị. Ngược lại khi cung lao động không đáp ứng được cầu thì giá cả sức lao động sẽ tăng lên. Có thể nói đây là một trong những quy luật chủ yếu của thị trường sức lao động. Như vậy cung lao động, cầu lao động và giá cả sức lao động luôn tồn tại những quan hệ tác động qua lại với nhau trên thị trường sức lao động. Chúng có thể có tác động tích cực và cũng có thể có tác động tiêu cực đối với sự ổn định của thị trường. Nhưng cạnh tranh trên thị trường sức lao động lại khác. Nó thường có những ảnh hưởng tốt đến sự ổn định và phát triển của thị trường. Vì cạnh tranh vừa kích thích người lao động nâng cao tay nghề, bồi dưỡng các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết vừa thúc đẩy người sử dụng lao động cải tiến quản lý kinh doanh, đổi mới công nghệ và điều chỉnh số lượng và cơ cấu nhu cầu lao động. Mỗi nhà nước luôn cố gắng điều chỉnh hệ thồng chính sách để có được một thị trường sức lao động hoàn hảo trong đó các yếu tố của nó hoạt động cân bằng tuyệt đối. Nhưng thực tế không thể có một thị trường hoàn hảo như vậy. Nếu sự cạnh tranh vượt quá giới hạn an toàn thì chính nó lại phá vỡ sự cân bằng đang dần thiết lập. Hiện nay một mâu thuẫn đang cần được giải quyết đó là cung và cầu lao động ở các nước có trình độ phát triển kinh tế chênh lệch nhau đang có những biến động lớn. ở những nước phát triển, nhu cầu về lao động rất lớn nhưng dân số, lao động lại không tăng trong khi đó ở những nước kém phát triển lượng cầu lao động hạn chế, việc làm được tạo ra hàng năm không nhiều nhưng cung lao động lại tăng lên không ngừng do áp lực của dân số đông và lao động dồi dào. Nhìn chung: Thị trường sức lao động tồn tại và phát triển là một quy luật phổ biến , nó cũng giống như thừa nhận quy luật giá trị của nền kinh tế thị trường. Thị trường sức lao động luôn có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như tiến bộ xã hội. Chương II. Thực trạng thị trường sức lao động Việt Nam những năm gần đây I. Thị trường sức lao động Việt Nam và những đặc thù cơ bản 1. Sự hình thành và phát triển của thị trường sức lao động ở Việt Nam Đến cuối thời kỳ phong kiến khi sức lao động trở thành hàng hoá thì thị trường sức lao động sơ khai ra đời. Nhưng thực chất điều đó chỉ xảy ra khi nền sản xuất đạt được trình độ nhất định. ở Việt Nam thị trường sức lao động chỉ thực sự hình thành sau khi đất nước ta hoàn toàn độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vào những năm 80 cũng giống như trào lưu ở các nước xãhội chủ nghĩa Đông Âu, Việt Nam cũng thực hiện một nền kinh tế hàng hoá tập trung. Nhà nước được xem như một nhà máy khổng lồ chi phối và điều chỉnh mọi quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Các mối quan hệ lao động cũng không nằm ngoài quy luật điều chỉnh ấy. Người lao động được tuyển dụng vào biên chế, cơ chế quản lý lao động chặt chẽ với những quy định về giờ làm việc, tiêu chuẩn, định mức lao động và tiền lương thồng nhất. Sức lao động không được công nhận là hàng hoá nên không ai có quyền mua đi bán lại. Giá trị sức lao động hầu như tương đương trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nó. Thực tiễn cho thấy thời kỳ này sản xuất rất trì trệ, người lao động không được khuyến khích để phát triển khả năng trình độ nghiệp vụ của mình. Chính sự tập trung kế hoạch hoá ở mức độ cao đã là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thay đổi chế độ chính trị xã hội ở các nước Đông Âu. Tuy nhiên Việt Nam đã tránh được sự xáo trộn xã hội đó. Một phần là do sự tập trung kinh tế vào tay nhà nước chưa cao. Ngoài lực lượng lao động hoạt động sản xuất trong các khu vực kinh tế quốc doanh còn tồn tại một bộ phận lớn lao động nông nghiệp, lao động trong hộ gia đình bán tự cung tự cấp. Nhờ có sự điều chỉnh kịp thời của Đảng và Nhà nước, toàn dân bắt tay thực hiện công cuộc đổi mới đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vào những năm 90 của thế kỷ XX nền kinh tế nước ta đã dần ổn định và bắt đầu phát triển, xã hội đã có những biến đổi to lớn. Trước hết sự biến đổi xảy ra ngay trong lĩnh vực lao động. Một loạt các xí nghiệp quốc doanh đã được đổi mới cơ chế hoạt động, số lao động dôi dư vì thế đã tăng lên, nền kinh tế nước ta mất cân đối nghiêm trọng, giải quyết vấn đề việc làm cũng gặp nhiều khó khăn. Số lao động được đào tạo tại thời điểm bấy giờ rất thấp, chất lượng đào tạo không cao trong khi đó yêu cầu mới của thời đại là một lực lượng sản xuất để xây dựng một nền sản xuất với công nghệ hiện đại. Trước thực trạng này không thể sử dụng số lao động chưa qua đào tạo cơ bản để xây dựng nền kinh tế. Theo tổng đIều tra năm 1989 khoảng hơn 30 triệu người trong độ tuổi lao động và tỷ lệ người thất nghiệp là khoảng 6%. Hơn 3, 1 triệu người làm việc trong khu vực nhà nước, gồm 61% làm việc tại các xí nghiệp quốc doanh và 39% làm việc trong khối hành chính sự nghiệp. Qua các số liệu cho thấy số lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp nước ta là rất lớn. Vì vậy khi chuyển sang cơ chế thị trường, đại bộ phận dân cư không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi cải cách ở khu vực công cộng. Sau một loạt những nghiên cứu về thực trạng và khả năng duy trì thị trường sức lao động ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đầu những năm 90 của thế kỷ XX nhà nước đã tiến hành giảm biên chế; với ước tính là 25% lao động trong các xí nghiệp quốc doanh và 20% lao động trong khối hành chính sự nghiệp là lao động dôi dư. Quyết định số 111/HĐBT ngày 12/04/1991 của Hội đồng bộ trưởng đã đặt mục tiêu tinh giảm 20% biên chế lao động trong khối hành chính sự nghiệp. Trên thực tế chỉ giảm được 6-8% nhưng đó là kết quả nỗ lực của Đảng và chính phủ trong việc điều chỉnh lạ những mối quan hệ trong thị trường sức lao động. Đa phần lao động được cắt giảm làm việc trong ngành y tế và giáo dục có thu nhập thấp, họ phải tìm cơ may ở những khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài quyết định số 111/HĐBT Nhà nước còn ban hành quyết định 176 (năm1989) nói về sự cần thiết sắp xếp lại các xí nghiệp quóc doanh và số công nhân dôi dư. Nhờ quyết định này mà các xí nghiệp quốc doanh đã tự chủ hơn, họ có quyền sa thải công nhân trong trường hợp chất lượng tay nghề của công nhân không đáp ứng đựơc nhu cầu sản xuất và số lượng công nhân Gây nên tình trạng quá tải và khó khăn trong công tác quản lý, điều hành lao động. Đại bộ phận công nhân bị sa thải thời kỳ này là công nhân hợp đồng nằm ngoài biên chế. Nhờ vậy đã kích thích người lao động cạnh tranh nhau trong các lĩnh vực sản xuất, mọi người đều cố gắng hoàn thành và vượt mức những định mức lao động của mình nhằm xây dựng và giữ một chỗ đứng chắc chắn trong công việc. Năm 1990 nhà nước ban hành luật công ty với chủ trương phát triển nền kinh tế nhièu thành phần, kinh tế ngoài quốc doanh được đầu tư đã thu hút được một lượng lớn lao động. Trong thời kỳ 1988-1991 số việc làm trong khu vực tư nhân và hợp tác xã đã tăng trung bình khoảng 3,5%; số lao động tư nhân và thương mại tăng tới 22% . Tuy vậy khu vực ngoài quốc doanh vẫn không thể tạo đủ công ăn việc làm cho số lao động dôi dư và số lực lượng vũ trang xuất ngũ. Thành phần kinh tế tư nhân thời kỳ này tương đối phát triển, mức thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân luôn giữ mức cao hơn lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trong những năm đầu tiên của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, sự hình thành và phát triển thị trường sức lao động không tránh khỏi những hạn chế. Các vụ tranh chấp giữa các liên doanh và công nhân về tiền thêm giờ, tiền thưởng, các chế độ bảo hiểm an ninh xã hội xảy ra một cách thường xuyên. Sự khác biệt về cơ chế kinh tế chủ nghĩa xã hội và cơ chế tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa người lao động và người chủ sử dụng lao động trong các đơn vị liên doanh ngày càng cao. Sự khác biệt còn xảy ra trong thu nhập giữa người lao động ở miền Bắc và người lao động ở miền Nam mặc dù công nhân ở miền Bắc được đào tạo cơ bản và nhiều thời gian hơn ở miền Nam. Do đó không thể giải thích được sự khác nhau về tiền lương giữa hai miền nếu dựa vào thời gian cũng như chất lượng đào tạo. Từ những năm đầu thập kỷ 90 khi nền kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu trao đổi hàng hoá phát triển mạnh thì thị trường sức lao động mới thực sự phát triển ở Việt Nam và cơ chế hoạt động của nó cũng bắt đầu tuân theo những quy luật vốn có của thị trường. Sức lao động chính thức được xem là một thương phẩm được tự do mua bán và trao đổi. Để có được một thị trường sức lao động như hiện nay phải nhờ vào các chính sách hỗ trợ của nhà nước thông qua các luật, nghị định, nghị quyết về lao động và quyền của chủ sở hữu lao động. Trong thời gian này thị trường sức lao động Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống các thị trường thống nhất tuy thách thức và những vấn đề cấp bách cần giải quyết còn nhiều. 2. Các đặc thù của thị trường sức lao động ở Việt Nam Việt Nam là một nước đang phát triển, thị trường sức lao động đang dần được hình thành nên thị trường sức lao động nước ta cũng mang những nét đặc thù cơ bản. Ngoài việc làm được trả công với những mối quan hệ nảy sinh trong quá trình mua bán sức lao động còn có những việc làm không đuợc trả công. Tức là lao động của những người tự khai thác sức lao động của mình mà không cần có bất cứ sự trao đổi nào trên thị trường. Những người lao động như vậy được gọi là người tự làm việc. Tuy không trực tiếp tham gia trao đổi nhưng họ vẫn được xem như một bộ phận của thị trường sức lao động hiện nay. Việt Nam là một nước nông nghiệp do vậy trong khu vực nông thôn, lao động tự làm việc khá lớn. Họ tham gia sản xuất theo hộ gia đình, kinh doanh với quy mô nhỏ. Trong khu vực công nghiệp cùng với sự phát triển kinh tế thì tỷ lệ người tự làm việc có xu hướng giảm đi. Mỗi người đều cố gắng tìm kiếm cơ hội việc làm cho mình trong một nền kinh tế từng bước vững mạnh. khả năng tổng cầu lao động ngày càng cao, việc làm tạo ra tuy tốc độ gia tăng không cao nhưng cũng tạo ra được mội trường cạnh tranh phù hợp để người lao động tự tìm kiếm việc làm trở thành người lao động được trả công. Bên cạnh đó một trong những đặc thù của thị trường sức lao động ở Việt Nam còn là sự hiện diện của thị trường phi chính thức trong khu vực thành thị. Do sự dư thừa lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn với đa số lao động không có tay nghề cũng như dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá đã dẫn đến luồng di dân nông thôn lên đô thị. Kết quả là lực lượng lao động thành thị tăng rất nhanh trong khi việc làm chính thức lại giảm do tác động của hiện đại hoá sản xuất. Những người lao động di chuyển ra thành thị bắt buộc phải tìm kiếm công việc tự do. Hiện nay ở các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội, số lượng lao động tự do này rất lớn. Họ làm đủ thứ nghề để kiếm sống , có những nghề chính đáng và cả những nghề bất hợp pháp. Thu nhập của họ rất thấp, chỉ đủ để duy trì một cuộc sống lay lắt và tái sản xuất sức lao động với mức độ tối thiểu. Những chợ lao động tự do kiểu chợ đen dang dần hình thành với quy mô ngày càng lớn hơn bên cạnh những hội chợ việc làm chính thức. Chính bộ phận lao động này là nguồn gốc cho sự mất ổn định của toàn xã hội. Nó gây nên sự xáo trộn xã hội và biến động giá cả sức lao động trong những thị trường chính thức. Điều này cũng dễ hiểu vì bộ phận lao động phi chính thức không được quản lý số lượng cụ thể không thể kiểm soát được do nó luôn có sự dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác. nguyên nhân thứ hai làm cho lao động phi chính thức ngày càng tăng còn do ảnh hưởng của hệ thống các chính sách tiền lương, lao động việc làm, bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội kém linh hoạt trong khu vực kinh tế chính thức cũng như trình độ tay nghề thấp của lao động nông thôn. Một bộ phận trong khu vực lao động không chính thức còn những doanh nghiệp nhỏ không đăng ký nên các doanh nghiệp này khó tiếp cận với các công nghệ mới, hạn hẹp về tài chính và nghiên cứu thị trường. Vì vậy bộ phận lao động làm việc trong khu vực kinh tế không chính thức không có khả năng phát triển nếu không nói là nó ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của nền kinh tế. Do không chịu sự điều tiết của các chính sách thị trường lao động nên lao động không chính thưc khó kiểm soát và đào tạo. Thị trường sức lao động hiện nay đang bị chia cắt Hiện nay đang có sự chênh lệch rất lớnvề mức độ tiền lương và điều kiên lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn, chính thức và phi chính thức. Một phần nguyên nhân là do sự phát triển không đều giữa các vùng, miền ở nước ta. ở các khu đô thị, khu công nghiệp đời sống nhân dân ở mức độ khá cao trong khi đó ở nông thôn phương tiện sinh hoạt của nhân dân còn rất lạc hậu. Thị trường bị phận ra theo nghề nghiệp, ngành, độ tuổi và giới tính. Mỗi thị trường hiện đang có những cơ chế vận động khác nhau, khả năng chuyển đổi việc làm giữa các thị trường rất khó khăn. Xét về cầu lao động có rất nhiều yếu tố gây nên sự chia cắt của thị trường, việc tập trung đầu tư hoặc độc quyền một số ngành công nghệ cao làm cho nhiều lao động không có cơ hội tìm việc làm trong khu vực này. Sự cách biệt về trình độ chuyên môn và tay nghề khá lớn nên giá cả sức lao động cũng tồn tại khoảng cách chênh lệch đời sống của người lao động vì vậy không được giữ ở mức cân bằng và đồng đều giữa các vùng, miền, các ngành nghề kinh tế. Các đặc thù của thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện đang được nhà nước điều chỉnh bằng các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm thay đổi một số đặc thù thể hiện sự yếu kém của nền kinh tế. Trong những nước kinh tế phát triển thông thường không tồn tại thị trường lao động không chính thuức, không có người tự làm việc và thị trường lao động không bị chia cắt, phân mảng, rất thông thoáng và dễ di động. Sự chênh lệch về tiền lương giữa các khu vực có xu hướng giảm tối đa. Ngoài những đặc thù cơ bản phổ biến ở các nước đang phát triển, thị trường sức lao động ở Việt Nam cũng mang một số đặc trưng riêng. Điểm nổi bật nhất đó là giá cả sức lao động còn quá thấp so với nhu cầu cuộc sống của các tầng lớp dân cư. Mức lương chênh lệch rõ rệt khi so sánh khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tư nhân, khu vực thành thị và nông thôn. Nếu xét tiền lương theo nghị định26CP của chính phủ thì công nhân viên chức nhà nước khi mới tuyển dụng chỉ vào khoảng 400.000-500.000 đồng. Với mức lương khiêm tốn như thế thiết nghĩ trong cơ chế thị trường ngày nay là không thể đảm bảo một cuộc sống đầy đủ cho người lao động. Trong thời gian gần đây chúng ta đã tạo được những quan hệ liên doanh liên kết khá nhiều. Các công ty nước ngoài, các tập đoàn tư bản sở dĩ tìm đến Việt Nam và xem Việt Nam là một mọi trường đầu tư thuận lợi một phần vì thị trường sức lao động phong phú, đa dạng với giá tiền lương rất thấp so với tại đất nước họ. ở đây nói đến giá tiền lương không phải là chỉ nói đến thị trường lao động kém đồng đều, nó thể hiện sự bất cập trong chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước mà còn là một điều kiện tạo môi trường đấu tư, thu hút vốn từ bên ngoài của các doanh nghiệp liên doanh. Đặc thù cơ bản mà hầu như tất cả các nước đang phát triển đều có thị trường nước ta còn mang một số đặc điểm riêng. ở các nước khác thị trường sức lao động được hình thành thường song song với các loại thị trường khác như thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ và thị trường tiền tệ. Nhưng ở Việt Nam thị trường sức lao động được hình thành khá chậm chạp trong thế giằng co của nhiều quan điểm cũ và mới. Bộ luật lao động đã khẳng định: “Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm” và “người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Như vậy quyền tự do đi tìm việc làm và lựa chọn người làm việc cho mình đã được pháp luật công nhận. Nghĩa là thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay đã chính thức được thừa nhận. Tuy nhiên hệ thống thể chế thị trường còn nhiều sơ hở, bất cập, chồng chéo và chưa đồng bộ. Đến năm 2003 hệ thống các văn bản hướng dẫn bộ luật lao động chỉ gồm hai pháp lệnh, trên 30 nghị định và gần 100 thông tư. Nhưng 198 Điều của bộ luật vẫn chưa được hướng dẫn hết. Không những thế đôi khi còn có sự thiếu nhất quán giữa các văn bản cùng hướng dẫn thi hành một quy định của luật. Chính vì hệ thống luật lao động chưa đầy đủ nên tính tự phát của thị trường còn cao. Thiếu sự kiểm tra giám sát, hỗ trợ của nhà nước. Để có được một thị trường hoàn hảo hiển nhiên phải thừa nhận sức lao động là hàng hoá và như vậy phải có người làm thuê, người chủ sử dụng lao động. Nhưng hiện nay xã hội ta vẫn chưa chấp nhận những khái niệm đó. Tất nhiên trong chế độ XHCN không thể tồn tại bất kỳ hình thức sở hữu và kinh doanh TBCN nào dù chúng chỉ tồn tại dưới dạng mầm mống. Nhưng vì người lao động chỉ bán sức lao động của mình nên việc mua bán không thể coi là một quá trình trao đổi tư bản mà có sự chiếm đoạt quyền sở hữu cũng như quyền sử dụng. Trong thời đại ngày nay khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh thì người quản lý và trả công cho công nhân sẽ là ông chủ. Do đó khái niệm ông chủ và người làm thuê phải được thừa nhận. Không những thế tính linh hoạt của thị trường thể hiện qua khả năng dịch chuyển lao động còn rất kém. Nguyên nhân chủ yếu là do thể chế pháp luật liên quan còn cứng nhắc chưa phù hợp với tình hình mới. Người lao động Việt Nam cũng đầy sáng tạo, muốn thử khả năng của mình thông qua việc chuyển đổi vị trí, nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động kinh tế. Dù việc chuyển dịch đó phải có sự quản lý của nhà nước nhưng cho đến nay do quy định của pháp luật mà sự chuyển dịch xảy ra còn rất phức tạp. Khi tìm được một cương vị công tác tốt hơn thiết nghĩ người lao động nên được khuyến khích để phát triển khả năng của mình nhưng những chính sách về bảo hiểm, trả lương, sa thải cộng với quan niệm của xã hội đã khiến người lao động không có cơ hội thăng tiến và phát triển hơn. Thị trường mất cân đối cung cầu. Thị trường sức lao động Việt Nam có một đặc trưng nổi bật là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu về lao động, việc làm cả về tổng thể và cơ cấu. Về tổng thể, mức tăng cung lao động thường xuyên lớn hơn mức tăng cầu việc làm. Về cơ cấu, nguồn cung tuy lớn nhưng không mạnh, số lao động giản đơn thì thừa trong khi số lao động lành nghề thì thiếu. Sự mất cân đối gây nên tình trạng thất nghiệp cao ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn. Một đặc điểm quan trọng khác của thị trường còn là quy mô và mức độ tham gia thị trường còn thấp. Hiện nay thị trường chỉ hoạt động mạnh ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các khu công nghiệp mới. Chỉ ở những nơi mà nền kinh tế thực sự phát triển, cạnh tranh cao thì thị trường mới hoạt động theo đúng cơ chế. Mức độ sôi động của thị trường có độ chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa tư nhân và nhà nước. Dễ dàng nhận thấy trong khu vực kinh tế tư nhân sự chuyển dịch cơ cấu, giá cả sức lao động luôn có những biến động lớn và nó lớn hơn nhiều so với khu vực kinh tế quốc doanh. Không thể nói thực trạng này xảy ra là do những cơ chế thông thoáng có tính chất mở mà một phần quan trọng còn do những chính sách cứng rắn kém hấp dẫn trong các doanh nghiệp nhà nước. Những nguyên tắc được xây dựng khó thay đổi đôi khi không thể mang lại khả năng tự hoàn thiện của người lao động. Trong số 33,89 triệu người lao động ở nông thôn hầu hết đều là lao động tự do, số người làm công ăn lương chuyên nghiệp chỉ chiếm 4,29%. Trong tổng số trên 8 triệu lao động ở thành thị, khoảng hơn một triệu lao động đang làm việc cho các cơ quan hành chính hầu như không bị phụ thuộc vào sự biến động của cung cầu trên thị trường. Bộ phận lao động này chủ yếu nằm trong khu vực y tế, giáo dục và các cơ quan hành chính khác. Ngoài ra có khoảng 2 triệu lao động trong doanh nghiệp nhà nước cũng ít chịu tác động trực tiếp của những biến động này, đó là chưa kể những lao động đặc thù thuộc lực lượng vũ trang. Tỷ lệ lực lượng lao động tham gia tích cực vào thị trường lao động ở thành thị cũng chỉ đạt mức xấp xỉ 40% và ước tính chỉ có khoảng 15-20% tổng lực lượng lao động của nước ta tham gia tích cực vào thị trường. Như vậy có nghĩa là mức độ tham gia vào thị trường còn rất thấp. Những biến động trên thị trường còn ít ảnh hưởng đến việc làm và cuộc sống vật chất của người lao động. Tuy nhiên, thị trường sức lao động Việt Nam là một thị trường mới đang được hình thành và hứa hẹn những chuyển đổi mạnh trong tương lai. Hiện tại lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp còn chiếm khoảng 60% trong ``tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Trong công ``nghiệp và xây dựng chiếm gần 17%, dịch vụ chiếm trên 23%. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chắc chắn sẽ được thay đổi theo hướng lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm, lao động trong ngành dịch vụ và công nghiệp ngày càng tăng. Hiện có xu hướng người lao động tham gia vào thị trường ngày càng đông mà không được trang bị đầy đủ các năng lực cần thiết. Với những chính sách giáo dục đào tạo và chính sách về việc làm tích cực của Đảng và Nhà nước chất lượng lao động đang ngày một nâng cao. Trong khoảng 5 năm tới hầu hết lao động sẽ được qua đào tạo từ PTTH đến ĐH-CĐ và giáo dục hướng nghiệp. Mặt khác do quá trình CNH-HĐH được đẩy mạnh cùng với quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế, khu vực kinh tế dịch vụ sẽ có những bước chuyển mới. Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mở cửa, du lịch Việt Nam đang được đầu tư một cách toàn diện, nó sẽ góp phần thúc đẩy một bộ phận lớn lao động nông nghiệp, lao động dôi dư chuyển sang kinh doanh dịch vụ. Tiến tới khu vực kinh tế này sẽ là một tiềm năng, một thế mạnh trong nền kinh tế quốc dân. Đối mặt với những mặt trái của nó nhà nước cũng cần phải có những chính sách để hạn chế những tác động xấu của quá trình biến đổi cơ cấu chuyển dịch lao động trong các khu vực kinh tế trong thời gian tới. II. Các yếu tố ảnh hưởng dến thị trường sức lao động Việt Nam 1. Quyền sử dụng đất đai trong nông nghiệp Theo Axmit sức sản xuất của lao động chỉ bắt đầu phát triển với quy mô thực sự rộng lớn từ khi lao động biến thành lao động làm thuê và từ khi những đIều kiện lao đông dối lập lao động một mặt dưới hình thái sở hữu ruộng đất và mặt khác dưới hình thái tư bản. Sở dĩ nói như vậy vì một trong những điều kiện để có thể lao động biến thành hàng hoá đấy là người lao động mất hết tư liệu sản xuất phải bán sức lao động của mình. Trong những xã hội mà thị trường sức lao động bắt đầu xuất hiện dưới những hình thức sơ khai nhất thì những người lao động hầu hết là những người không có quyền sở hữu đất đai. Họ không thể tự sản xuất ra các nông phẩm cần thiết cho cuộc sốngcủa bản thân và gia đình cũng như phát triển kinh tế gia đình một cách ổn định.ở nước ta , một đất nước có đến 70% diện tích đất nông nghiệp thì lực lượng lao động nông thôn giữ một vai trò rát lớn đối với sự biến động chung của thị trường sức lao động.Tuy nhiên trong thời điểm hiện nay khi đề cập đến những nhân tố ảnh hưởng tới thị trường sức lao động không thể nói đến quyền sở._.ghĩa là chuyển giao quyền sử dụng đất là một chính sách tích cực nếu xét ở tàm vĩ mô, mang tính chiến lược lâu dài cần được thúc đẩy. Nhưng để không gây nên sự xốa trộn xã hội thì trong thời gian tới chuyển giao quyền sử dụg đất phải có một khoảng thời gian để người lao động sắp xếp và tìm kiếm một cơ hội việc làm mới. Những kế hoạch của nhà nước phải được chuẩn bị công phu và phải có thông tin đày đủ nhất đối với người lao động. Dù sau chuyển giao ngưòi lao động được đền bù một khoản tiền không nhỏ nhưng đó chưa thực sự lag cái họ càn để ổn định cuộc sống. Nhà nước nên có những dự án phát triển kinh tế nông thôn như xây dựng một số công trình mang tính chất cộng đồng và khả năng kinh tế. Cũng như tạo điều kiện hỗ trợ vốn cho các hộ gia đình thiết lập những mối quan hệ sản xuất mới và một số công xưởng sản xuất với quy mô nhỏ. Vậy mô hình tăng trưởng kinh tế mà chúng ta có thể lựa chọn là gì ? Nền kinh tế nước ta vốn bắt đầu từ một nền sản xuất hàng hoá với quy mô nhỏ với những nghành nghề truyền thống đầy tiềm năng. Nhưng hiện nay dưới tác động của cơ chế thị trường nhiều ngành truyền thống đã bị xem nhẹ , hao mòn dần thậm chí mất hẳn . Những nghệ nhân không còn nhiều cũng như những người lao động trẻ trong lĩnh vực này là rất ít. Mỗi địa phương có một đặc thù riêng, đặc thù đó thường gắn với những ngành nghề truyền thống nhất định. Nước ta cũng vậy , Việt Nam khác với những nước khác ở chỗ chúng ta có những sản phẩm đặc biệt được tạo ra từ bàn tay khéo léo của người lao động . Tại sao chúng ta không phát huy tiềm năng , thế manh của mình ? Cần phải nói thêm rằng lực lượng lao động phải rất lớn mới có thể đảm bảo cho sản xuất những ngành nghề truyền thống đó. Nhà nước có thể đầu tư hơn để khôi phục và phát triển khu vực sản xuất này Từ đó chắc chắn sẽ tạo hơn được nhiều việc làm hơn nữa, tạo điều kiện cho sự chuyển dicvhj cơ cấu lao động trên thị trường sức lao động ngày nay. Những chính sách đặc thù có thể áp dụng được để khuyến khích khu vực này phát triển như nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng bằng cách thốa gỡ dần các hàng rào thuế quan , giản thuế đối với những cá nhân tham gai đầu tư phát triển rộng ngành nghề , có những chính sách đào tạo nghề và chính sách điều tiết thị trường sức lao động. Bên cạnh phát triển khu vực truyền thống Việt Nam còn phải chú trọng phát triển một nền sản xuất hiện đại dựa vào những tiềm năng về dầu mỏ , khoáng chất và các tài nguyên rừng, tài nguyên thuỷ hải sản khác. Bằng cách kết hợp giữa sản xuất truyền thống và sản xuất hiện đại chúng ta sẽ kiến tạo được một môi trường kinh tế bền vững , linh hoạt. Nhờ vậy mà nâng cao được khả năng điều tiết , di chuyển cơ cấu lao động trong tổng thể chung của nền kinh tế . Thực hiện được điều đó thì tăng trưởng kinh tế sẽ gắn với tăng trưởng việc làm góp phần giải quyết được vấn đề lao động đang cấp bách. b) Các giải pháp phát triển kinh tế nhiều thành phần Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một yêu cầu khách quan để phù hợp với một cơ chế thị trường đang trong tiến trình mở cửa và hội nhập. Các thành phần kinh tế tư nhân cần được khuyến khích phát triển vì nó đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết thị trường. Giá cả sức lao động trong khu vực kinh tế này cũng có nhiều biến động đáng quan tâm và nó luôn có những biến động của nó rát khó lường. Không nên duy trì những quan niệm lỗi thời đối với khu vực phi chính quy. Nhà nước phai đưa ra những chính sách để cải thiện các mối quan hệ xã hội giữa các khu vực và thốa gỡ những rào cản đối với sự phát triển tự do theo định hướng của kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này nếuđược hỗ trợ hoạt động và có sự phối hợp của kinh tế nhà nước thì sẽ tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các khu vực kinh tế tạo cơ hội việc làm cho người laođộng. Kinh nghiệm các nước cho thấy việc áp dụng các chương trình trợ giúp cho những người lao động tự tạo công ăn việc làm cho mình hoặc tự thành lập các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ luôn mang lại những tiện ích căn bản . Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa hội nhập , xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần , đa dạng hoá các phương pháp sản xuất kinh doanhcó thể học tập kinh nghiệm của những nứơc đã đi trước để áp dụng vào thực tế khách quan trong nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cũng là một kiếu mở rộng hình thức sở hữu vì vậy cần tỉnh tốa để giữ vững định hướng phát triển kinh tế ổn định chế độ xã hội. Khi tiến hành những giải pháp phải thận trọng tránh những thành phần cơ hội , lợi dụng kinh tế tư nhân với ý đồ nhen nhóm tư tưởng tư bản hoá vào nội bộ quần chúng. Để người lao động có điều kiện tự lập doanh nghiệp và đứng ra quản lý mọi quá trình sản xuất kinh doanh cần thiết phải có những chính sách hỗ trợ của nhà nước mở rộng và nới lỏng các quy định về thành lập doanh nghiệp. Nhà nước là cơ quan quản lý cao nhất đối với mọi hoạt động của đời sống chính trị xã hội. Bởi vậy những can thiệp của nhà nước sẽ góp phần đáng kể vào quá trình điều tiết thị trường . Ví dụ xúc tiến thành lập các trung tâm hỗ trợ kinh doanh để thực hiện các hoạt động đào tạo, tư vấn, truyền đạt kinh nghiệm, đảm bảo và cập nhật thông tin. Hoặc tạo dựng một môi trường kinh doanh có cơ chế cạnh tranh thực sự hoàn hảo trong đó những ưu đãi đối với các khu vực, các thành phần kinh tế được giữ ở mức cân bằng. Những ách tắc trong thủ tục, pháp lý gây nên những khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên được hạn chế và dần huỷ bỏ . Việc đảm bảo thực hiện đúng, đủ các nội dung cơ bản của luật doanh nghiệp sẽ là những bước đi thiết thực nhất thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. c)Tiến hành cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm phát triển và thu hút việc làm.Nhìn chung khu vực kinh tế nhà nước là một thị trường sức lao động có tiềm năng lớn .Mặc dù tiền lương chính thức của khu vực này không cao nhưng do tính chất ổn định của công việc và mức độ bảo đảm cao về phúc lơị xã hội cũng như những quan niệm truyền thống về việc làm nên nó vẫn có sức hấp dẫn đối với ngưòi lao động. Vì những lý do đó nên thị trường sức lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước mang một số đặc trưng cơ bản như : + Có quá nhiều lao động : Đây là một thực tế đang tồn tại trong hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước ở tất cả các nước chứ không riêng gì ở Việt Nam. Các doanh nghiệp này thường được bảo hộ về cạnh tranh , bảo hộ về ngân sách cộng thêm những vấn đề chính trị xã hội dẫn đến tuyển dụng lao động quá mức cần thiết. Hiện nay trong nhiều doanh nghiệp lao động dư thừa không bố trí được việc làm chiếm một số lượng lớn mà chủ yếu là lao động do quá khứ để lại , trình độ thấp kém. Nhưng do bảo hộ việc làm vĩnh viễn nên vẫn phải xếp cho họ những vị trí công tác mà thường là các công việc hành chính. Có nhiều nơi: Văn thư chỉ cần 3-5 người nhưng số lượng này lại lên đến vài chục. Vấn đề này không phải là mới nhưng đến nay vẫn chưa có một chính sách hoàn hảo để giải quyết bộ phận lao động bất đắc dĩ này. + Tiền lương có xu hướng bình quân hơn , trả lương cao cho lao động có chuyên môn không cao và thấp hơn khu vực ngoài quốc doanh đối với lao động có chuyên môn trình độ cao. Xuất phát từ đặc điểm này nên xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân – môi trường mà người lao động tìm thấy sự đãi ngộ thích đáng mà khả năng phát triển của mình . + Hợp đồng lao động có sự ràng buộc quá chặt chẽ . Hợp đồng này được ký kết giữa người lao động và người sử dụng sức lao động. Hiện nay các điều kiện ràng buộc của nó gây khó khăn cho việc sắp xếp lao động, tuyển dụng hay sa thải lao động đối với các chủ doanh nghiệp. Ví dụ theo quy định của pháp luật tuổi lao động của nữ kết thúc ở tuổi 55 và ở nam là 60 . Khi lao động đã được biên chế thì doanh nghiệp buộc phải bố trí công việc cho đến khi họ đủ tuổi nghỉ hưu nếu cả hai bên không vi phạm hợp đồng đã kí kết. Người lao động cũng bị hạn chế. Họ không có điều kiện chuyển đổi linh hoạt vị trí công việc và thử sức ở nhữn môt trường mới .Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất thấp chính vì thị trường sức lao động trong kinh tế nhà nước đã gây nên xu hướng người lao động không muốn có sự xáo trộn trong công việc của mình. Đứng trước những thực tế về thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước buộc chúng ta phải có những cách nhìn đúng đắn hơn về tình hình lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế quốc doanh, khu vực này vẫn là then chốt, quyết định giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Tương lai sẽ hình thành mối quan hệ biện chứng giữa các khu vực kinh tế cơ bản . Nếu chiến lược việc làm dựa vào sự phát triển của khu vực tư nhân thì tăng trưởng kinh tế phải dựa vào nhà nước. Hai khu vực kinh tế này không tồn tại mâu thuẫn. Để giải quyết tốt mối quan hệ này phải thực hiện một số giải pháp như sau : *Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước , giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Một biện pháp để kích thích khả năng hoạt động của người lao động rất hiệu quả đã được thực hiện đó là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ nguồn vốn 100 % thuộc về nhà nước sau cổ phần người lao động đã có sự đóng góp đáng kể vào vốn hoạt động với khoảng 40-50 % tổng số vốn. Vai trò chủ thể của người lao động được khẳng định, họ ý thức hơn về vai trò của mình trong tổng thể cơ cấu nói chung. Mỗi công nhân trở thành một mắt xích trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , giảm dần các bảo hộ và ưu đãi đối với khu vực này để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Các chính sách về tuyển dụng , biên chế , tiền lương phải cụ thể hơn tạo điều kiện tự chủ cho người sử dụng lao động có điều kiện sử dụng những lao động tốt nhất. Chế độ khoán sản phẩm đến nay vẫn được duy trì nhưng nên đặt ra những điểm khoán đúng với khả năng hiện có của doanh nghiệp. Có thể tăng mức khoán để kích thích doanh nghiệp sản xúat kinh doanh. * Giảm biên chế trong các doanh nghiệp nhà nước , mở rộng quy mô sản xuất, di chuyển một bộ phận lao động dôi dư sang các khu vực kinh tế khác. Bên cạnh đó cũng nên có những chế độ khen thưởng đối với người lao động giỏi, lao động có tay nghề cao. Thực hiện những chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những người lao động này sẽ chống lai hiện tượng chảy máu chất xám giữa các khu vực kinh tế. d)Phát triển kinh tế phi nông nghiệp và chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp hoá đất nước không thể thành công nếu không tạo được sự chuyển đổi mạnh trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn mới không chỉ đơn thuần là tạo việc làm mà phải gắn giải quyết việc làm với chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Muốn vậy phải có những quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp và các giải pháp đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực. Tuy nhiên giải quyết vấn đề này phải đảm bảo được tính ổn định , thường xuyên, hiệu quả và chất lượng việc làm. Lao động nông thôn có thể tìm thấy cơ hội việc làm tại đia phương mình và phát triển khả năng một cách phù hợp. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động phải tuân theo phương châm : “ly nông bất ly hương ”. Nghĩa là người lao động di chuyển sang khu vực kinh tế mới với những với những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như : tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chứ không phải là di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Trong chiến lược páht triển kinh tế cơ cấu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm từ 62 % đến 50 % vào năm 2010. Để thực hiện điều này cần thực hiện một số giải pháp sau : *Bổ sung và tăng cường mức độ đầu tư của nhà nước để nhanh chóng thiết lập quan hệ sản xuất mới. Nhà nước sớm có những hỗ trợ cho việc xây dựng các khu trang trại bằng nguồn ngân sách và các phương tiện sản xúat tiên tiến. Việc quay trở lại mô hình HTX nông nghiệp sẽ thu hút được nhiều lao động nông nghiệp nhưng phải tránh những sai lầm như mô hình HTX mà chúng ta đã xây dựng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Người lao động phải có tính tự chủ, sáng tạo và độc lập trong mô hình lao động tập thể.Trong cơ chế thị trường hiện nay thiết nghĩ các HTX cổ phần nên được mở rộng hơn về quy mô cũng như chất lượng.Việc chuyên môn hoá trong từng bộ phận của quá trình sản xuất sẽ tiết kiệm được chi phí và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Vậy thu nhập sẽ được phân phối như thế nào ? Vì đây cũng là một dạng của các doanh nghiệp cổ phần nên phân phối thu nhập của nó cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như : mức độ đóng góp, số lượng cổ phiếu và kết quả thực hiện những công việc đảm nhân. Tuy nhiên do những đặc thù riêng có của sản xuất nông nghiệp nên phân phối thu nhập cũng có những sự linh hoạt cần thiết và nhất là phải có những biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả công việc của mỗi cá nhân. * Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn Trước hết phải tập trung xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông nghiệp và giao thông nông thôn. Về cơ bản thì các quan hệ sản xuất được thiết lậptừ chính lực lượng, tư liệu sản xuất và các kết cấu vật chất cần thiết. Như vậy để hiện đại hốa nông thôn thì phải có một hệ thống các công trình thuỷ lợi, đường giao thông cũng như các công trình phúc lợi xã hội khác. Với hình thức tín dụng nông thôn Nhà nước đã huy động được một nguồn vốn khá lớn và tái đầu tư nó vào hoạt động phát triển khu vực kinh tế nông thôn kèm theo những mức lãi suất phù hợp với khả năng tín dụng của người lao động. Công nghiệp hóa nông thôn còn kéo theo việc thiết lập một số cơ sở sản xuất, khu chế suất hiện đại dựa trên những tiềm lực vốn có của địa phương. Hoạt động này thực sự khó khăn nhưng khi tất cả đã đi vào một guồng máy với chu kỳ đặc trưng thì hàng năm nó sẽ tạo ra rất nhiều việc làm thu hút nhiều lao động. Nông thôn Việt Nam hôm nay đã có nhiều biến chuyển tích cực. Quá trình đô thị hoá nông thôn diễn ra với tốc độ khá nhanh. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng mức độ linh hoạt của thi trường sức lao động ở nông thôn nói riêng và thị trường sức lao động cả nước nói chung. Bên cạnh những giải pháp đã nêu trên chúng ta có thể phát triển và khôi phục các nghành nghề truyền thống của nông thôn như đã phân tích. Nhìn chung phát triển nông nghiệp nông thôn là một trong những giải pháp quan trọng để điều tiết cầu lao động trên thị trường. Nhờ các biện pháp phát triển nông thôn mà năng suất lao động được nâng caovà thu nhập của người lao động được cải thiện. Các quan hệ sản xuất mới được xác lập như chế độ thầu khoán sẽ tạo ra điều kiện tăng quy mô của lao động làm công ăn lương, giảm quy mô của lao động tự làm. Nông thôn phát triển sẽ giảm áp lực di cư từ nông thôn ra thành thị , giảm quy mô cuả thị trường sức lao động phi chính thức đang tồn tại trong các vùng đô thị. Không những thế công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn cũng tăng nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật của khu vực nông thôn, cải thiện chất lượng sức lao động hiện có. Nông thôn Việt Nam là một thị trường sức lao động tiềm năng cũng đồng thời là một thách thức đối với đối với khả năng tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Nó đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp thực tế và có tính hiệu quả để điều tiết và giữ cân bằng cho thị trường sức lao động đang có nhiều biến động. e)Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động Quan điểm mới coi xuất khẩu lao động là một ngành kinh tế mũi nhọn trong những năm tới. Vì vậy cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động, ban hành , sửa đổi, bổ sung những cơ chế chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường.Tăng cường trách nhiệm của các bộ, các ngành, địa phương trong việc xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia. Hiện nay các chủ lao động nước ngoài có những yêu cầu khác trước. Đó là lao động có trình độ cao, lịch thiệp trong giao tiếp, công việc và có trình độ ngoại ngữ đủ để giao tiếp, có sức khoẻ và hiểu biết quan hệ chủ – thợ. Để đáp ứng những nhu cầu của lao động nước ngoài cần phải tổ chức giốa dục, đào tạo lao động cho xuất khẩu. Thể chế và biện pháp đào tạo phải tuân thủ những nguyên tắc riêng. Người lao động phải được đào tạo bài bản trong những môi trường dành riêng cho thị trường sức lao động xuất khẩu- tạo môi trường giao tiếp mới cùng những quan điểm mới của lao động xuất khẩu. Xuất khẩu lao động nên đẩy mạnh theo hình thức xen ghép tức là lao động nước ta sang làm việc chung với lao động các nước khác trong cùng dây chuyền sản xuất hoặc cùng công việc mà do chủ sử dụng lao động nước ngoài điều hành và trả lương. Hình thức “xen ghép” này sẽ tạo điều kiện cho lao động nước ta tiếp thu một cách nhanh nhất những công nghệ sản xuất hiện đạivà học hỏi được những kinh nghiệm về cách làm việc của lao động các nước trên thế giới. Thời gian qua chúng ta mới tiến hành XKLĐ theo kiểu tự nhiên mà chưa có một cơ chế đầu tư của nhà nước theo một cơ chế bài bản. Không những thế, hệ thống các cơ chế , chính sách về XKLĐ của ta còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp nhất là các văn bản pháp luật , quy chế điều tiết hoạt động này còn rất thiếu gây khó khăn cho các bên thực thi XKLĐ.Thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều hiện tượng tiêu cực như : lừa đảo , chiếm đoạt vốn của người lao động khi tham gia vào thị trường xuất khẩu. Do vậy người dân nhiều khi mất đi niềm tin vào công tác XKLĐ được tiến hành ở địa phương. Nhà nước nên có những cơ chế bảo hộ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu. Việc thành lập các trung tâm tư vấn, các công ty chuyên trách có sự tham gia , điều hành của nhà nước là cần thiết. Hiện đang có rất nhiều thị trường triển vọng , hứa hẹn nhiều tiềm năng như : Nhật Bản, Hy Lạp, Singapore và Đài Loan. ở các thị trường này giá và tiền lương rất cao cùng với những điêù kiện hợp đồng rất thông thoáng và yêu cầu trình độ của ngưòi tham gia thị trường không quá khó đối với lao động Việt Nam. Nhà nước cập nhật hệ thống thông tin về thị trường sức lao động xuất khẩu để mỗi cá nhân có điều kiện nắm bắt những thông tin mới nhất và tìm được những việc làm phù hợp với khả năng của mình. Đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng phải có những chế độ bảo hiểm xã hội nhất định. Cần phải phân biệt các khái niệm : lao động đi xuất khẩu và lao động Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách thiết thực cải thiện các mối quan hệ đang đan xen tồn tại trong thị trường sức lao động dành cho xuất khẩu.Việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia đấu thầu và thắng thầu, ký kết hợp đồng XKLĐ & chuyên gia cũng là hướng đi tốt cần được quan tâm. 2/ Nhóm các giải pháp thúc đẩy trên thị trường sức lao động Trên thị trường sức lao động ngày nay các giao dịch chưa linh hoạt, quá trình giao dịch diễn ra còn rất cứng nhắc, người lao động chưa thực sự là chủ thể trong các diễn đàn giao dịch đó. Để cải thiện thực trạng trên cần thực hiện những giải pháp cơ bản như: - Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm Các chính sách có tầm vĩ mô của Nhà nước luôn mang lại những kết quả tích cực đối với mọi mối quan hệ trong xã hội. Các trung tâm giới thiệu việc làm là cần thiết nhưng phải hoạt động trong một tổng thể chung của hệ thống kinh tế và dưới sự giám sát của các cơ quan pháp luật Nhà nước. Cho đến nay hệ thống này mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn , các khu công nghiệp phát triển. Còn nhìn chung ở các cấp xã, huyện thì hình thức các trung tâm giới thiệu việc làm rất hạn chế, không có hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu quả. Bởi vậy trong thời gian tới phải mở rộng hệ thống dịch vụ này để đưa số lao động ở nông thôn vào dòng luân chuyển việc làm của xã hội. Hơn nữa việc thành lập các tổ chức việc làm cần được khuyến khích mở rộng đối với mọi thành phần và khu vực kinh tế để các dòng luân chuyển hoạt động có hiệu quả hơn. Về thực chất thì trung tâm giới thiệu việc làm là một tổ chức môi giới nối kết giữa người lao động và người sử dụng lao động. Vì vậy các mối quan hệ giữa trung tâm, người lao động, các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước phải được cải thiện để các cá nhân , tổ chức tham gia lĩnh vực này hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ giao dịch của mình. Hiệu quả của dịch vụ phải được tính toán trên cơ sở so sánh chi phí và kết quả không phân biệt khu vực tư nhân và Nhà nước. Trong hệ thống chính sách của Nhà nước cũng nên có những khoản trợ cấp hoặc ưu đãi đối với những lao động quá khó khăn đang tìm kiếm cơ hội ở các trung tâm giới thiệu , tư vấn việc làm. Thời gian tới các hình thức giao dịch trên thị trường cũng nên được đa dạng hoá cả về chức năng và công cụ. Các chợ lao động nên được xúc tiến thành lập và có sự quy hoạch, quản lý của Nhà nước. Trong các chợ đấy nên có sự phân chia nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính để các giao dịch có thể diến ra nhanh chóng hơn. Chợ lao động khác với hội chợ việc làm. Nếu hội chợ việc làm chỉ có thể mở được ở một số tỉnh thành có nền kinh tế phát triển và đối tượng tham gia chủ yếu là lao động có tay nghề, trình độ kỹ thuật. Thì chợ lao động có thể hoạt động quanh năm , theo tháng , theo quý và đối tượng tham gia của nó sẽ được mở rộng ra đối với cả những lao động chưa qua đào tạo, lao động chưa có việc làm , lao động thủ công… Hiện nay hình thức chợ lao động trên mạng cũng đã được thiết lập. Tại T.P Hồ Chí Minh một chợ lao động đã, đang trong quá trình hình thành. Dự kiến trong giữa năm 2004 chợ sẽ chính thức đi vào hoạt động. Hình thức này nên chăng cần khuyến khích và mở rộng hơn. Nó sẽ đáp ứng được nhu cầu tìm việc làm của người lao động có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật ở mức độ cao. Nếu hình thức giao dịch này hoạt động tốt thì nó sẽ tiết kiệm được rát nhiều thời gian cho các bên tham gia tuyển dụng. + Đối với các doanh nghiệp XKLĐ phải có sự sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện có, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp mới. Hoạt động của các doanh nghiệp này phải được kiểm tra đánh giá hàng năm theo những tiêu chí quy định. Theo đó là những chính sách khen thưởng đối với các cá nhân , tổ chức có đóng góp quan trọng cho công cuộc XKLĐ ở nước ta. Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động không những bằng cách phát triển các doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu mà còn phải thành lập một số trung tâm, doanh nghiệp làm nhiệm vụ phân tích, tìm kiếm thị trường tiềm năng. Việc chiếm lĩnh thị trường sẽ do các đơn vị này đảm trách thông qua các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài. Những doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất khẩu sẽ có những hợp đồng chuyển giao cụ thể - đó chính là nguồn thu của các đơn vị tư vấn , tìm kiếm thị trường. + Phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động Hiện nay các kênh thông tin thị trường sức lao động ở nước ta đã hình thành nhưng còn rát non yếu, kênh chưa cập nhật được những biến động mới nhất của thị trường. Thông tin thị trường đặc biệt quan trọng bởi nó tạo mở những khả năng và những môi trường đầu tư có hiệu quả hơn. Công việc điều tra, khảo sát , tập hợp, xử lý và lưu trữ thông tin phải được tiến hành thường xuyên nhằm cung cấp đầy đủ, nhanh chóngvà thuận tiện các thông tin về người tìm việc, việc tìm người, về các yêu cầu nghề nghiệp kỹ năng cho các bên tham gia thị trường. Đến nay mới chỉ có tạp chí thông tin thị trường sức lao động là hoạt động mạnh nhất trong lĩnh vực này. Nhưng bản thân sự tồn tại của nó cũng ít người biêt đến. Thiết nghĩ ngoài việc cung cấp thông tin trên các kênh thông tin như báo, tạp chí còn phải đẩy mạnh hoạt động của nó trên các phương tiện truyền thông khác để công tác tuyên truyền giốa dục phục vụ thị trường được tốt hơn. + Khuyến khích các hình thức giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động Việc giao dịch trực tiếp này sẽ tiết kiệm được những chi phí không cần thiết, rút ngẵn được thời gian các bên tham gia giao dịch và nâng cao khả năng người sử dụng lao động tìm kiếm được đúng những lao động theo yêu cầu và mục đích sản xuất của mình. 3. Nhóm các giải pháp liên quan đến hệ thống chính sách của Nhà nước Cùng với việc hội nhập AFTA , thực hiện CEPT cũng như trong tiến trình gia nhập APEC và WTO thị trường sức lao động Việt Nam sẽ chịu những tác động lớn. Do đó việc tiếp tục thoá gỡ các rào cản, tự do hoá thị trường sức lao động cũng như nâng cao định hướng xã hội của thị trườngtrong thời kỳ 2001-2010 là vấn đề cấp bách. Đối với hệ thống các điều luật cần tiếp tục cụ thể hoá và công bằng hơn lợi ích của các bên tham gia lao động. Hệ thống trả công lao động theo xu hướng thị trường cũng là vấn đề cần xem xét. Chế độ lương hiện hành có nhiều điều bất hợp lý, không khuyến khích được lao động có tay nghề tham gia tích cực vào quá trình sản xuất. Cải cách chế độ tiền lương cần chú ý đến tính đúng, tính đủ mức độ đóng góp, công tr ạng của người lao động.Việc trả lương được tiến hành theo nguyên tắc: công việc và điều kiện lao động giống nhau, tiền lương như nhau. Trong cơ chế ngày nay đánh thuế thu nhập cũng là một việc làm cần thiết. Nó sẽ điều hoà và phân phối mức thu nhập một cách hợp lý hơn. nhưng đánh thuế thu nhập phải được tiến hành dựa trên một pháp chế chặt chẽ tránh tình trạng thuế thu nhập gây khó khăn cho người lao động có thu nhập thấp. Thuế này sẽ được tái đầu tư vào các hệ thống an sinh xã hội, bảo trợ xã hội cho toàn dân. Bên cạnh cải cách về giá, tiền lương cũng phải đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội. Cho đến nay hệ thống bảo hiểm xã hội nước ta vẫn thực hiện hai chức năng là chức năngbảo hiểm và phân phối thu nhập. Nhưng bây giờ cần phải tách biệt hai chức năng này làm cho việc thực hiện mỗi chức năng rõ ràng hơn. Bảo hiểm xã hội nên tập trung thực hiện chức năng bảo hiểm của mình. Chế độ thu, chi bảo hiểm nên được cải tiến tạo điều kiện để người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia bảo hiểm sao cho cả khu vực kinh tế tư nhân cũng được tham gia bảo hiểm và được hưởng chế độ hưu trí như lao động trong kinh tế quốc doanh. Chính sách trợ cấp cho người thất nghiệp cũng cần sớm được ban hành.Nhưng nó phải có sự quản lý, giám sát của Nhà nước tránh những hiện tượng khai man, cửa quyền , xâm phạm bất chính đến nguồn ngân sách quốc gia. Ngoài ra còn phải nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường sức lao động. Trước hết để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp này phải thực sự coi lao động là hàng hoá và phải thừa nhận mọi đặc tính vốn có của nó. Tham gia thị trường là người lao động và người sử dụng lao động, họ là những chủ thể của các quá trình trao đổi và những trao đổi đấy cũng phải tuân theo những điều kiện pháp lý cụ thể. Nội dung cơ bản là bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việcvà nơi cư trú cho người lao động thông qua việc tháo gỡ các rào cản về hộ khẩu và những quy định hành chính về nơi cư trú. Ngay cả sự hoạt động trong các cơ quan quản lý lao động của Nhà nước cũng phải có sự sắp xếp biên chế lại để hoạt động của các cơ quan này có hiệu quả hơn. Nếu chúng thực hiện được những giải pháp đã nêu trên thì chắc chắn trong thời gian tới thị trường sức lao động Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi tích cực hơn. Vẫn biết có thể do những nguyên nhân chủ quan và khách quan của người viết mà những giải pháp đưa ra còn thiếu tính thực tế nhưng hy vọng chúng cũng góp phần gợi mở nhiều hướng đi tốt hơn. Việc phát triển thị trường sức lao động Việt Nam là sự nghiệp chungcủa toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Kết luận Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề lao động việc làm đang rất khó khăn cần thiết phải được giải quyết bằng các chính sách có tầm vĩ mô của Nhà nước. Thực tế cho thấy thị trường sức lao động nước ta là một thị trường tiềm năng, có nhiều thế mạnh nhưng vì việc thực hiện các giải pháp còn nhiều hạn chế nên thị trường chưa có sự bình ổn và phát triển đúng hướng. Thời gian gần đây mọi cấp, mọi ngành đã có sự cố gắng đáng kể trong việc điều tiết thị trường. Như hạn chế các chợ lao động ngoài quy hoạch, tổ chức nhiều hơn các hội chợ việc làm, cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, đẩy mạnh xuất khẩu lao động…Nhưng do nhiều nguyên nhân nên tình hình sức lao động Việt Nam vẫn chưa có những đột phá mang tính chiến lược. Việc điều hành loại thị trường này không phải chỉ là nhiệm vụ của một cấp, một ngành mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của mọi người, mọi nhà và mọi tầng lớp nhân dân. Những kết quả mà các chính sách mang lại cũng không thể thu được ngay sau khi chính sách được thực hiện, đó phải là một quá trình chuyển đổi lâu dài và khó khăn. Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân chắc chắn trong thời gian tới thị trường sức lao động Việt Nam sẽ có những biến chuyển tích cực hơn. Cần phải nhấn mạnh lại rằng: một đất nước chỉ thực sự phát triển khi thị trường sức lao động đạt được trạng thái cân bằng, ổn định và phát triển có định hướng. Đối với Việt Nam là một nước Xã hội chủ nghĩa khi phát triển thị trường sức lao động cũng cần phải chú ý đến những vấn đề về chính trị, tư tưởng. Thị trường sức lao động chỉ phát triển khi sức lao động được coi là hàng hóa và xã hội phải chấp nhận những khái niệm về người làm thuê và ông chủ… Đó không phải là những khái niệm chỉ tồn tại trong lòng xã hội Tư bản chủ nghĩa. Vì vậy phải xác định đường lối và mục tiêu đúng đắn, xây dựng một thị trường sức lao động vững mạnh trong sự phát triển chung của nền kinh tế, văn hóa Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./. mục lục Tài liệu tham khảo Th.S Nguyễn Thị Lan Hương: Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển. NXB Lao động- Xã hội, 2003. PGS. TS Phạm Quang Thọ: Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp. NXB Lao động – Xã hội, 2003. Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. NXB Khoa học và kỹ thuật, 2003. Giáo trình Kinh tế chính trị ( Dùng cho khối nghành kinh tế ). NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,2001. C. Marx & Ph. Angghen toàn tập – Tập 26, phần 1. NXB Sự thật 1969. C.Marx: Tư bản quyển 1, tập 1. NXB Sự thật, Hà Nội1963. Tạp chí Lao động và xã hội : Số 215, số 230, số 231+ 232. Tạp chí Thông tin thị trường lao động: Số 6/2003, số 1/2003. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia, 2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33888.doc
Tài liệu liên quan