Lời mở đầu
Cơ chế thị trường mở ra muôn vàn cơ hội, song cũng chứa đựng đầy rẫy rủi ro đối với mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường các doanh nghiệp đều là chủ thể của sản xuất kinh doanh hàng hoá tồn tại trong một hệ thống kinh tế như một cơ thể sống, vận động trên thị trường lấy thị trường làm môi trường sống của mình. Tuy nhiên từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì đã có nhiều doanh nghiệp tỏ ra k
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thị trường & phương pháp nghiên cứu thị trường của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông thích ứng được với môi trường sống của mình và họ bị đào thải khỏi hệ thống. Sở dĩ như vậy là do họ chưa có sự hiểu biết cần thiết về thị trường, chưa nắm bắt được tình hình thị trường, coi nhẹ công tác nghiên cứu thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường có tốt thì mới tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu thị trường từ đó tạo ra khả năng phát triển doanh nghiệp một cách vững chắc và mạnh mẽ.
Như vậy, công tác nghiên cứu thị trường phát triển thị trường là công tác quan trọng hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để thực hiện công tác phát triển thị trường và nghiên cứu thị trường một cách có hiệu quả nhất. Đề tài “Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp” được nêu ra để góp phần vào việc trả lời câu hỏi đã được nêu trên.
Nội dung cơ bản của đề tài:
Phần I: Lý thuyết chung về thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp trong thời gian qua và một số kiến nghị.
Phần I
Lý thuyết chung về thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp.
I-/ Thị trường, vai trò thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1-/ Khái niệm thị trường:
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá, và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, có nhiều quan niệm của các trường phái kinh tế khác nhau về thị trường.
Theo nghĩa cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá. Theo nghĩa này thị trường được thu hẹp lại ở “cái chợ”, cả ba yếu tố: người mua, người bán và hàng hoá cùng xuất hiện trong cùng một điều kiện không gian, thời gian, địa điểm nhất định.
Khi sản xuất hàng hoá phát triển nó đã làm cho quá trình lưu thông trở nên phức tạp, các quan hệ mua bán trao đổi cũng trở nên đa dạng và phong phú với nhiều hình thái khác nhau. Khái niệm thị trường cổ điển xem ra không còn phù hợp nữa, nó tỏ ra không còn phản ánh được đầy đủ bản chất của thị trường trong điều kiện nền sản xuất xã hội phát triển ở mức độ cao hơn. Do vậy các quan niệm hiện đại hơn về thị trường đã ra đời để thay thế cho những quan niệm cũ không còn phù hợp. Theo quan điểm hiện đại: Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng vì hàng hoá và dịch vụ cũng như quyết định của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá. Đó là mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của các nhà làm Marketing hiện đại thì: Thị trường là tập hợp những người mua hàng có và sẽ có.
Như vậy: Theo quan điểm hiện đại thì thị trường không nhất thiết phải xuất hiện cùng một lúc cả ba yếu tố người mua, người bán và hàng hoá, tuy nhiên thị trường vẫn chịu sự tác động của các yếu tố ấy và thực hiện việc trao đổi hàng hoá thông qua thị trường. Trong quan điểm hiện đại về thị trường thì vai trò của người mua (khách hàng) được đặc biệt đề cao.
2/ Vai trò thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế (tầm vĩ mô) và đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (tầm vi mô).
* Vai trò thị trường thể hiện ở tầm vĩ mô:
Thứ nhất: Thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp tự túc để tạo thành thể thống nhất trong toàn nền kinh tế quốc dân. Qua trao đổi mua bán giữa các vùng sẽ biến kiểu tổ chức khép kín thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất thành kinh tế hành hoá.
Thứ hai: Thị trường có tác dụng thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng.
Nhu cầu của người tiêu dùng rất đa dạng và phong phú, nó luôn có xu hướng ngày càng hoàn thiện, đòi hỏi của người tiêu dùng đối với sản phẩm ngày càng cao. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến quá trình sản xuất của mình. Nhu cầu của người tiêu dùng và sự cạnh tranh mạnh mẽ thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh làm tăng năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngược lại, sản xuất phát triển cũng có tác dụng kích thích tiêu dùng. Khi các sản phẩm luôn được cải tiến đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và sự ra đời của nhiều sản phẩm mới với nhiều tính năng mới sẽ hấp dẫn, thúc đẩy người tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Thứ ba: Qua thị trường, Nhà nước điều tiết và hướng đẫn sản xuất kinh doanh. Để đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn Nhà nước phải luôn theo dõi chặt chẽ sát sao diễn biến thị trường và sử dụng các công cụ của mình để điều tiết hướng dẫn sản xuất kinh doanh.
Các công cụ của Nhà nước sử dụng là: Luật pháp, các chính sách, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ... Thị trường là nơi quan trọng để đánh giá kiểm tra, kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương chính sách, biện pháp kinh tế của các cơ quan Nhà nước, các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường cần phản ánh các quan hệ xã hội, hành vi giao tiếp của con người, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà kinh doanh.
* Vai trò của thị trường thể hiện ở tầm vi mô.
Thứ nhất: Thị trường đảm bảo sự tồn tại và thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ không phải để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Mục tiêu chủ yếu của các doanh nghiệp đó là lợi nhuận và muốn thực hiện được mục tiêu này thì doanh nghiệp phải tìm cách để thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng để hàng hoá được tiêu thụ trên thị trường. Do đó: Thị trường chính là nơi để các doanh nghiệp thực hiện mục tiêu lợi nhuận và các mục tiêu khác của mình. Nếu các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà không được thị trường chấp nhận hay sản phẩm đó không có thị trường tiêu thụ thì doanh nghiệp không thể thực hiện được mục tiêu của mình và nếu như doanh nghiệp không có các biện pháp để tạo ra thị trường sản phẩm của mình thì nó sẽ ảnh hưởng tới chính sự tồn tại của doanh nghiệp. Sản phẩm không tiêu thụ được trong một thời kỳ dài sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu là doanh nghiệp bị phá sản, biến mất trên thị trường.
Như vậy: Doanh nghiệp phải luôn coi thị trường là điều kiện tồn tại của mình để từ đó có nhận thức và ra quyết định đúng đắn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Thị trường định ra phương hướng kinh doanh cho doanh nghiệp. Thị trường là môi trường của kinh doanh, nó tồn tại khách quan do vậy các doanh nghiệp không có khả năng làm thay đổi thị trường mà ngược lại họ phải tiếp cận nghiên cứu để định ra phương hướng kinh doanh cho mình. Qua hoạt động nghiên cứu thị trường doanh nghiệp tiến hành điều tiết sản xuất, cải tiến sản phẩm sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh trên thị trường về: cung, cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường.
Thứ ba: Thị trường là nơi phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không, có thực hiện được mục tiêu đề ra hay không đều được thể hiện qua sự phản ứng lại của thị trường. Thông qua thị phần của doanh nghiệp trên thị trường người ta có thể nhận thấy được quy mô và trình độ sản xuất của doanh nghiệp. Thông qua mức độ chấp nhận của khách hàng và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường có thể đánh giá được tính đúng đắn của các quyết định sản xuất kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp.
Tóm lại, Thị trường là một phần không thể thiếu của nền kinh tế quốc dân và của các doanh nghiệp.
II-/ Phân loại thị trường.
Theo các tiêu thức khác nhau thì thị trường được phân thành các loại khác nhau. Sở dĩ ta phải phân loại thị trường vì: Muốn thành công trong kinh doanh cần phải hiểu cặn kẽ thị trường, việc phân loại thị trường sẽ giúp doanh nghiệp tìm được thị trường thích hợp với thực hiện mục tiêu của mình trên thị trường đó. Đối với Nhà nước: Việc phân loại thị trường sẽ giúp Nhà nước hiểu và quản lý thị trường tốt hơn.
1-/ Phân loại thị trường căn cứ vào số lượng người mua, người bán trên thị trường:
Theo tiêu thức này thị trường được phân thành: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh độc quyền, thị trường độc quyền.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó số người tham gia vào thị trường tương đối lớn và không ai có ưu thế để cung ứng hay mua một số lượng sản phẩm có thể ảnh hưởng đến giá cả. Người mua và người bán không ai quyết định giá cả và chỉ chấp nhận giá mà thôi.
Thị trường cạnh tranh độc quyền: là thị trường bao gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ dễ gia nhập và cũng dễ rút lui, mỗi doanh nghiệp sản xuất ra một loại hàng hoá có sự khác nhau.
Thị trường độc quyền: Là thị trường mà ở đó chỉ có một người bán một loại sản phẩm hay dịch vụ đặc thù mà những người bán khác không có hoặc không thể làm được. Họ được quyền định giá sản phẩm.
2-/ Phân loại thị trường căn cứ vào tính chất công dụng của hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thị trường hàng tư liệu sản xuất và thị trường hàng tư liệu tiêu dùng.
Thị trường hàng tư liệu sản xuất là tập hợp những cá nhân và tổ chức mua hàng và dịch vụ để sử dụng vào việc sản xuất ra những thứ hàng hoá khác, dịch vụ khác để bán, cho thuê cho người tiêu dùng khác.
Trên thị trường hàng tư liệu sản xuất, số lượng người mua ít hơn thị trường hàng tư liệu tiêu dùng, tần suất xuất hiện trên thị trường ít hơn nhưng khối lượng mua sắm của họ rất lớn với các phương thức thanh toán hiện đại.
Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng: là những cá nhân và hộ gia đình mua hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng cho cá nhân. Khối lượng hàng mua trên thị trường này không nhiều trong mỗi lần nhưng nó có một tập hợp khách hàng cực lớn với tính chất tiêu dùng thường xuyên. Việc mua hàng của khách hàng này trên thị trường chịu ảnh hưởng của nhân tố tâm lý cá nhân, văn hoá, phong tục tập quán, mức thu nhập...
3-/ Phân loại thị trường theo phạm vi địa lý:
Theo tiêu thức này thị trường được chia thành: Thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới.
Thị trường trong nước: Dung lượng thị trường không lớn, cạnh tranh không cao. Các doanh nghiệp trong nước hiểu rõ về thị trường này.
Thị trường khu vực: Có dung lượng thị trường là khá lớn, có một số nét tương đồng với thị trường trong nước.
Thị trường thế giới: Đây là một thị trường rất rộng lớn, cạnh tranh rất gay gắt. Có những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thâm nhập và phát triển thị trường của doanh nghiệp như: chính trị, văn hoá, luật pháp... đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu rất kỹ lưỡng loại thị trường này.
4-/ Phân loại thị trường theo mức độ quản lý của Nhà nước:
Theo tiêu thức này thị trường được chia thành: thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức.
Thị trường có tổ chức: là thị trường mà Nhà nước có thể kiểm soát được.
Thị trường không có tổ chức: là loại thị trường mà Nhà nước không thể kiểm soát được.
Như vậy: Từ các cách phân loại thị trường theo các tiêu thức nêu ở trên, các doanh nghiệp có thể lựa chọn cách thức ứng xử phù hợp với từng thị trường.
III-/ Các bộ phận cấu thành thị trường:
Có khá nhiều quan niệm khác nhau về thị trường như đã nói ở trên. Nhưng chỉ xem xét ở khía cạnh nào thị trường cũng có 4 yếu tố cấu thành là: cung, cầu, giá cả, cạnh tranh. Sau đây ta sẽ đi xem xét từng bộ phận và mối quan hệ của chúng với nhau:
1-/ Cung:
Số lượng cung của một hàng hoá là khối lượng mà người bán sẵn sàng bán trong một chu kỳ nào đó (ngày, tháng hoặc trong một năm). Số lượng cung phụ thuộc vào giá cả hàng hoá và phụ thuộc vào các yếu tố khác, trước hết là giá cả các yếu tố đầu vào và kỹ thuật sản xuất hiện có.
Số lượng cung thường tăng hay giảm theo giá cả của hàng hoá, nếu xét trong một chu kỳ đủ dài. Giá bán một loại hàng hoá nào đó càng cao thì lượng cung của hàng hoá đó càng lớn vì khi đó nhà sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại, khi giá hạ người sản xuất sẽ sản xuất cầm chừng, giảm bớt số lượng, thậm chí chuyển sang sản xuất hàng hoá khác.
Số lượng cung của thị trường là tổng lượng cung của từng doanh nghiệp.
Sự thay đổi của số lượng cung một hàng hoá tuỳ thuộc vào sự biến đổi giá cả của hàng hoá đó, trong khi các yếu tố khác không đổi tạo nên một hàm gọi là hàm cung: Qx = Fpx
Hàm cung là quy luật cung ứng trên thị trường thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa số lượng cung và giá cả về một hàng hoá nhất định trên một thị trường xác định và trong một thời điểm nhất định.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến cung:
Ngoài yếu tố giá cả đã trình bày ở trên cung còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
1, Năng lực sản xuất: Năng lực sản xuất một loại hàng hoá nào đó tăng lên, làm cho trong cùng một thời gian lượng hàng cung ứng cho thị trường tăng lên, nếu như các yếu tố khác không đổi. Năng lực sản xuất tăng lên là do từng xí nghiệp mở rộng quy mô sản xuất hoặc do một số doanh nghiệp mới triển khai sản xuất.
2, Công nghệ sản xuất: Công nghệ sản xuất gồm kỹ thuật và các phương pháp sản xuất một loại hàng hoá dịch vụ nào đó. Cải tiến công nghệ làm cho chi phí sản xuất thấp hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn, người sản xuất mở rộng sản xuất.
3, Giá cả các yếu tố đầu vào:
Nếu giá cả các yếu tố đầu vào như: máy móc, thiết bị, lao động, nguyên vật liệu giảm xuống, ở mỗi mức giá cho trước nhà sản xuất thu được nhiều lợi nhuận hơn trên mỗi sản phẩm do vậy nhà sản xuất sẽ sản xuất và cung ứng cho thị trường nhiều hơn tức là cung sẽ tăng lên.
4, Dự kiến giá trong tương lai:
Nếu trong tương lai giá hàng tăng lên việc cung ứng hàng đó ra thị trường hiện tại có thể bị giảm. Ngược lại: nếu dự kiến giá giảm trong tương lai, việc cung ứng sẽ tăng lên tạm thưòi. Đây là do sự tăng giảm dự trữ ở khâu lưu thông.
Còn nhiều nhân tố khác v.v...
2-/ Cầu:
Nhu cầu (hay còn gọi là cầu) là một phạm trù dùng để mô phỏng hành vi của người mua và người mua tiềm năng đối với một mặt hàng nào đó. Số lượng cầu của một hàng hoá là khối lượng hàng hoá người mua muốn mua và có khả năng mua trong một thời gian nhất định và ở một mức giá nhất định.
Quy luật về cầu là: Số lượng cầu sẽ tăng nếu giá giảm và ngược lại trong điều kiện các nhân tố khác không đổi. Quy luật về cầu được giải thích bằng chi phí cơ hội hoặc chi phí lựa chọn.
Nhu cầu thị trường là một danh sách giá cả và số lượng tương ứng mà người tiêu dùng sẵn sàng mua và có khả năng thanh toán ở mỗi mức giá trong danh sách nếu coi yếu tố thu nhập, giá cả của các hàng hoá có liên quan, thị hiếu và mục tiêu mua sắm vẫn giữ nguyên.
Sự thay đổi của lượng cầu tuỳ thuộc vào sự biến đổi của giá cả (nếu các yếu tố khác giữ nguyên tạo nên một hàm số gọi là hàm cầu.
Qx = a - bp
Qx: Lượng cầu ứng với giá p.
p: Giá hàng hoá.
a, b: Các hệ số.
Mức độ thay đổi của số lượng cầu theo sự biến đổi của giá cả hàng hoá gọi là độ co giãn của cầu. Để tính toán độ co giãn cầu người ta sử dụng hệ số co giãn (E).
E =
Nếu số lượng cầu tăng nhanh hơn tốc độ giảm giá thì cầu có độ co giãn cao và ngược lại. Nếu chúng bằng nhau thì gọi là sự co giãn đồng nhất.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu:
Ngoài yếu tố giá cả của các yếu tố: Số lượng người tiêu thụ, giá cả của hàng hoá có liên quan, thu nhập của người tiêu dùng, sở thích và dự kiến giá cả trong tương lai:
1, Số lượng người tiêu thụ:
Số lượng người tiêu thụ trên thị trường càng lớn thì ở mỗi mức giá số lượng cầu càng lớn.
2, Giá cả của những hàng hoá có liên quan:
Hàng hoá có liên quan gồm hàng thay thế và hàng bổ sung. Sự tác động của chúng do sự thay đổi giá cả đến nhu cầu của một loại hàng hoá có liên quan trái ngược nhau. Nếu tăng (hoặc giảm) giá những hàng hoá thay thế thì kéo theo làm tăng (hay giảm) số lượng cầu hàng hoá đang xét (ứng với mức giá cho trước). Sở dĩ như vậy là do khi tăng giá một mặt hàng thì người tiêu dùng chuyển sang sử dụng một mặt hàng khác thay thế làm cho nhu cầu tăng lên.
3, Thu nhập của người tiêu thụ:
Sự thay đổi thu nhập của người tiêu thụ làm thay đổi nhu cầu của họ, tuy nhiên còn tuỳ thuộc ở chỗ hàng hoá đang xét là hàng bình thường hay hàng cấp thấp. Nếu là hàng cao cấp, thu nhập tăng làm tăng nhu cầu và ngược lại. Đối với hàng hoá cấp thấp, thu nhập tăng lại làm giảm nhu cầu.
4, Sở thích của người tiêu thụ:
Sở thích hay thị hiếu của người tiêu thụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhu cầu, khi sở thích thay đổi kéo theo nhu cầu thay đổi. Thị hiếu của người tiêu dùng đan hướng vào một lại, kiếu hàng hoá nào đó thì nhu cầu về nó sẽ rất cao.
3-/ Giá cả:
Giá cả là một bộ phận không thể thiếu của thị trường. Giá cả đóng vai trò quyết định trong việc mua hay không mua hàng của người tiêu thụ.
Giá cả có thể hiểu là số tiền mà người bán dự tính sẽ nhận được ở người mua thông qua trao đổi trên thị trường một hàng hoá dịch vụ nào đó họ có.
Giá cả và thị trường có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Thị trường không những chi phối đến sự cấu tạo và mức độ hình thành giá cả mà ngay giá cả cũng gây nên sự biến động gất gao cả về hình thức và cường độ đối với thị trường. Đối với các doanh nghiệp giá cả được xem như những tín hiệu đáng tin cậy, phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả các doanh nghiệp có thể rất bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.
Đối với sản xuất giá cả giữ một vịt rí đặc biệt, bởi lẽ thông qua giá cả mà thị trường tác động tới quá trình sản xuất. Trên thị trường tuy người sản xuất và tiêu dùng đối lập nhau trong việc thực hiện các chức năng riêng biệt của mình, nhưng trong quan hệ trao đổi mua bán họ vừa có quan hệ hợp tác vào đấu tranh với nhau về giá, để cuối cùng các bên đều đi đến chấp nhận hình thành nên một mức giá nào đó gọi là giá thị trường.
Khi xem xét giá cả phải thấy được các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả của doanh nghiệp: Đó là các nhân tố kiểm soát được và những nhân tố khách quan không kiểm soạt được.
1, Những nhân tố kiểm soát được:
* Chi phí sản xuất sản phẩm:
Giá bản sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với chi phí sản xuất sản phẩm, vì nó được hình thành trên cơ sở của chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm những chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất: chi phí nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, chi phí nhân công... Tuy nhiên việc bán ra khối lượng nhiều hay ít sản phẩm lại có ảnh hưởng trở lại đối với chi phí sản xuất bình quân trên đơn vị sản phẩm.
* Chi phí bán hàng và chi phí phân phối:
Đây là những chi phí cho dịch vụ bán hàng, nhu chi phí vận tải, chi phí về dịch vụ bảo hành, chi phí về phân phối bán hàng.
* Chi phí xúc tiến bán hàng:
Gồm các chi phí quảng cáo, triển lãm sản phẩm, xúc tiến bán hàng.
2, Những nhân tố khách quan không kiểm soát được.
* Quan hệ cung cầu trên thị trường:
Đây là nhân tố tồn tại độc lập, không chịu tác động chủ quan của các doanh nghiệp. Sự thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường sẽ dẫn đến sự biến động về giá cả. Nếu cầu tăng, cung giảm thì giá cả sẽ tăng.
* Sự cạnht ranh trên thị trường:
Cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp sẽ làm cho giá cả giảm xuống.
* Sự điều tiết của Nhà nước:
Để đảm bảo tính chất hợp lý của giá cả và tình hình ổn định về kinh tế chính trị, Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường bằng việc định giá một số loại sản phẩm. Đối với những doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng này thì buộc phải tuân thủ đúng theo giá đã quy định. Đối với những mặt hàng Nhà nước không qua định. Đối với những mặt hàng Nhà nước không quy định giá các xí nghiệp được quyền quyết định nhưng phải theo đúng luật định.
4-/ Cạnh tranh:
Cạnh tranh là bất khả kháng, là linh hồn sống của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là động lực để phát triển kinh doanh. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua không đích giữa các nhà sản xuất kinh doanh. Nếu ai cảm thấy đích sẽ trở thành cầu nối để đối thủ đằng sau vượt lên.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại cả ba trạng thái cạnh ranh: Cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa những người mua và người bán. Cụ thể là:
Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Người bán buôn muốn bán đắt, ngược lại người mua lại muốn mua rẻ. Sự cạnh tranh này diễn ra trong quá trình mặc cả để hình thành giá cả và phương thức thanh toán trên thị trường.
Cạnh tranh giữa những người mua là nhằm độc quyền chiếm quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một lại hàng hoá dịch vụ. Hiện tượng này chỉ xuất hiện khi hàng hoá khan hiếm, cạnh tranh giữa các người mua làm tăng giá cả hàng hoá, người bán loại hàng này sẽ đựoc lợi .
Cạnh tranh giữa những người bán, tức là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng cung ứng một thứ hàng hoá hay dịch vụ, làm cho giá cả hàng hoá giảm, và khi ấy người mua sẽ được lợi. Đây là loại cạnh tranh gay gắt nhất trên thị trường. Đối với loại cạnh tranh này có hai hình thức cạnh tranh là: cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Đó là 2 hình thức cạnh tranh dựa trên cơ sở mức chi phí bình quân thấp nhất của các doanh nghiệp.
Đồng thời với cạnh tranh về giá các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau bằng chất lượng sản phẩm, bằng các hình thức dịch vụ, bằng các phương thức thanh toán.... Khi đó doanh nghiệp nào không đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Mọi doanh nghiệp phải chịu sức ép không ngừng hoàn thiện giá trị sử dụng, mở rộng điểm bán, tăng cường các hình thức dịch vụ... Do vậy cạnh tranh kinh tế là phương thức vận động để phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm mục tiêu lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp qua đó lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội cũng được đảm bảo hơn.
5-/ Mối quan hệ cung - cầu và giá cả:
Các bộ phận cấu thành thị trường: Cung - cầu, giá cả và cạnh tranh không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất: thị trường.
Trên thị trường mỗi hàng hoá đều có một hàm cung và một hàm cầu tuân theo quy luật cung và quy luật cầu. Kết hợp quy luật về cung và quy luật với cầu thì ta đang quy luật cung cầu. Theo quy luật cung cầu thì một hàng hoá sẽ được bán theo giá vừa phối hợp với cung lại phù hợp với cầu tức là ở đó cung và cầu gặp nhau.
Tại mức giá thấp hơn mức gia cân bằng cầu sẽ lớn hơn cung khi đó giá cả sẽ tự tăng lên để đạt đến điểm cân bằng. Ngược lại khi giá cả ở mức trên giá cân bằng cung sẽ lớn hơn cầu khi đó có sự dư thứa hàng hoá . Người bán muốn bán được hàng phải giảm giá cho đến khi đạt mức giá cân bằng.
Với cầu co giãn: Một sự giảm nhỏ trong giá thì sẽ đạt được một lượng bán lớn, người bán sẽ chấp nhận hạ một chút ít giá để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng.
IV-/ Nội dung, phương pháp nghiên cứu thị trường.
Để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng từ đó giành được thắng lợi trong cạnh tranh, đạt được mục tiêu của doanh nghiệp thì trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường.
1-/ Nội dung nghiên cứu thị trường
a - Nghiên cứu khái quát thị trường:
Nghiên cứu khái quát thị trường là nghiên cứu tổng cầu hàng hoá, tổng cung hàng hoá, giá cả thị trường của hàng hoá, chính sách của chính phủ về loại hàng hoá đó.
Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá là nghiên cứu tổng khối lượng hàng hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng với giá cả thị trường trong một khoảng thời gian. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy mô của thị trường. Nghiên cứu quy mô thị trường phải nằm được số lượng người hoặc đơn vị tiêu dùng. Nghiên cứu tổng cầu và cơ cấu hàng hoá cũng cần nghiên cứu trên mỗi địa bàn, đặc biệt thị trường trọng điểm.
Nghiên cứu tổng cung hàng hoá là nghiên cứu để xác định xem khả năng sản xuất trong một thời gian. Các đơn vị sản xuất có khả năng cung ứng cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng khả năng nhập khẩu bao nhiêu, khả năng dự trữ (tồn kho) xã hội bao nhiêu. Giá cả bán hàng của doanh nghiệp sản xuất, giá hàng nhập khẩu.
Nghiên cứu giá cả thị trường, đó là sự nghiên cứu cái yếu tố hình thành giá, các nhân tố tác động và dự án những diễn biến của giá cả thị trường.
Nghiên cứu chính sách của chính phủ về loại hàng kinh doanh: cho phép kinh doanh tự do, kinh doanh có điều kiện khuyến khích hay hạn chế kinh doanh. Đó là chính sách thuế, giá các loại dịch vụ cơ bản quan như cước vận tải, giá thuế đất lãi suất tiền vay ngân hàng...
b - Nghiên cứu chi tiết thị trường:
Nghiên cứu chi tiết thị trường thực chất là nghiên cứu đối tượng mua, bán loại hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh; cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải trả lớn được các câu hỏi: Ai mua hàng ? Mua bao nhiêu ? cơ cấu của loại hàng; mua hàng làm gì ? Đối thủ cạnh tranh là ai ?.
Nghiên cứu chi tiết thị trường phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng về loại hàng mã doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng, nhu cầu về loại hàng phụ thuộc vào sở tích, thu nhập, lứa tuổi nghề nghiệp trình độ văn hoá, tập quản... Nhu cầu đối với hàng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào công n ghệ định mức sử dụng nguyên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất mặt hàng cảu doanh nghiệp sản xuất... Nghiên cứu thị trường hàng tư liệu sản xuất phải nghiên cứu lĩnh vực tiêu dùng sản xuất. Đó là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp....Khi nghiên cứu chi tiết thị trường doanh nghiệp phải xác định tỷ trọng thị trường doanh nghiệp đặt được (thị phần cảu doanh nghiệp và thị phần cảu các doanh nghiệp khác cùng ngành, so sánh các mặt sản phẩm của mình, các hình thức dịch vụ của của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh để có biện pháp đổi mới thu hút khách hàng mua hàng của mình.
2-/ Phương pháp nghiên cứu thị trường:
Để nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp người ta thường dùng hai phương pháp là : phương pháp nghiên cứu tại bản và phương pháp nghiên cứu hiện trường.
a - Phương pháp nghiên cứu tại bản:
Phương pháp những tại bản hay còn gọi là phương pháp nghiên cứu văn phòng là phương pháp phổ thông nhất của mọi cán bộ nghiên cứu thị trường. Đây là phương pháp nghiên cứu thị trường bằng các nguồn thông tin thứ cấp bao gồm:
- Các nguồn thông tin trong nước về thị trường cần nghiên cứu: Niêm giám thông kê Việt Nam, các bản tin về thị trường giá cả, tạp chí thương mại, sách báo thương mại, các báo cáo của bộ thương mại, báo cáo tổng kết đánh giá của chính phủ, cán Bộ, ngành có liên quan.
- Các nguồn thông tin tư liệu quốc tế cần nc: Trung tâm thương mại quốc tế, tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), thống kê của Liên Hợp Quốc (UNSO).
Ngoài ra nghiên cứu tại bản có thể tìm tài liệu ở ngoài doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp chiếm thị trường phần lớn; cũng có thể đã có nghiên cứu các tài liệu ở trong doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đã có những tài liệu có liên quan đến việc mua, bán mặt hàng cần nghiên cứu và doanh nghiệp đang chiếm một thị phần đáng kể. Hiện nay nghiên cứu tài bản có một nguồn thông thị trường cực kỳ lớn và phong phú đó là nguồn thông tin từ mạng Internet.
Bàng việc tiếp nối máy tính vào mạng Internet nhà nghiên cứu thị trường có thể tìm được thông tin về thị trường ỏ khắp nói trên thế giới qua các Trang web của các doanh nghiệp, của các phòng thương mại, tổ chức thương mại các nước... Qua nguồn thông tin này doanh nghiệp có thể biết được số lượng hàng hoá, giá cả, cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới. Thông tin ở trên mạng Internet thường xuyên được thay đổi cấp nhật trên các doanh nghiệp, các tổ chức do vậy nó có ít độ trễ so với thực tế. Các cán bộ nghiên cứu thị trường, cần triệt để khai thác nguồn tài nguyên thông tin quá giá này.
Nghiên cứu tại bàn cho phép ta nhìn được khái quát thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Đây là phương pháp tương đối dễ làm có thể nhanh ít tốn chi phí nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn, biết cách thu nhập tài liệu, đánh giá và sử dụng các tài liệu được thu nhập một cách đầy đủ và tin cậy. Tuy nhiên phương pháp này còn hạn chế là dựa vào tài liệu đã xuất bản nên thời gian đã qua, Bài lệch so với thực tế và mức độ tin cậy có hạn.
b - Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường:
Đây là phương pháp trực tiếp cử cán bộ đến tận nơi để nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua các phương pháp là quan sát, thực nghiệm, thăm dò dư luận.
* Quan sát: Là một trong những phương pháp thu thập số liệu sơ cấp có thể áp dụng khi người nghiên cứu trên hành quan sát trực tiếp người và hoàn cảnh, khuyết điểm của phương pháp quan sát là chỉ thấy được sự mô tả bên ngoài, tốn nhiều công sức và thời gian.
Thực hiện: nghiên cứu thực hiện đòi hỏi phải tuyển chọn các nhóm đối tượng có thể so sánh được với nhau, tạo ra cho các nhóm đó hoàn cảnh khác nhau, kiểm tra những thành phần biến động và xác định mức độ quan trọng của các đặc điểm được quan sát. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm ra mối quan hệ nhân quả bằng cách sàng lọc những bài giải thích mâu thuẫn nhau về các kết quả quan sát được.
* Thăm dò dư luận: là phương pháp nắm giữa quan sát và thực nghiệm. Quan sát phù hợp nhất với những nghiên cứu thăm dò, thực nghiệm thì phù hợp nhất với việc tìm kiếm những mối liên hệ nhân quả, trong khi đó thăm dò dư luận lại thuận tiện nhất khi tiến hành nghiên cứu mô tả. Các công ty tiến hành thăm dò dư luận để có được những thông tin về tư thức, chính kiến và sở thích của con người, về mức độ thoả mãn của họ.... Cũng như để đo độ bền vững của địa vị của mình dưới con mắt của công chúng.
Khi nghiên cứu thị trường tại hiện trường các cán bộ nghiên cứu thường sử dụng hai công cụ nghiên cứu chủ yếu là phiếu điều tra và các thiết bị cơ học.
Phiếu điều tra, theo nghĩa rộng, là một loạt các câu hỏi mà người được hỏi vẫn trả lời. Phiếu điều tra là một dụng cụ rất mềm dẻo theo nghĩa là có thể đưa ra những câu hỏi bằng rất nhiều các phương thức khác nhau. Phiếu điều tra đòi hỏi phải soạn thảo kỹ, thử và sửa những thiếu sót đã phát hiện thấy chưa khi đem sử dụng nó rộng rãi.
Tuy nhiên điều tra là một công cụ nghiên cứu phổ biến nhất, các thiết bị cơ học cũng được sử dụng trong nghiên cứu thị trường.
* Các phương thức liên hệ với công chúng: Làm thế nào để tiếp xúc với các thành viên của mẫu nghiên cứu? Qua điện thoại, bưu điện hay phỏng vấn trực tiếp.
1. Phỏng vấn qua điện thoại: là phương pháp tốt nhất để thu thập thông tin nhanh nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0609.doc