Lời mở đầu
Từ nhiều năm nay, cà phê là một trong những mặt hàng nông sản quan trọng được buôn bán rộng rãi trên thị trường thế giới. Theo thống kê của Tổ chức cà phê thế giới (I.C.O) và Trung tâm Thương mại Quốc tế (I.T.C), giá trị xuất khẩu cà phê trên thế giới vượt xa so với cao su, chè, ca cao hay bất kỳ một sản phẩm nông nghiệp nào khác. Trong nhiều năm, kim ngạch ck cà phê đạt trên 10 tỷ USD/năm trong khi kim ngạch xuất khẩu chè và ca cao chỉ đạt 3 - 4 tỷ USD/năm.
ở nước ta, cà phê cà p
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hê là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng ngày càng được khẳng định vị trí của mình trên thị trường cà phê thế giới. Từ một nước sản xuất cà phê nhỏ, năm 2000 Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 trên thể giới về xuất khẩu cà phê. Hàng năm ngành cà phê đưa lại cho đất nước một khối lượng kim ngạch đáng kể và giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống cho hàng trăm ngàn hộ gia đình ở các khu vực miền núi và Tây Nguyên. Những thành tựu đó đã kẳng định vị trí, vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế quốc dân, góp phần vao sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bất kỳ một ngành hàng xuất khẩu nào cũng tự tìm cho mình những thị trường có khả năng tiêu thụ cao. Và ngành cà phê đã tự tìm cho mình một thị trường đầy tiềm năng đó là thị trường Mỹ. Kể từ ngày 3/2/1994 Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam và ngày 6/8/1995, Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đã chính thức khai trương, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết ngày 13/7/200 và được thông qua vào ngày 11/12/2001, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ hai nước nói chung và quan hệ thương mại nói riêng. Không chỉ ngành cà phê mà rất nhiều ngành khác ccũng đã coi thị trường Mỹ là một thị trường không thể không thâm nhập. Nhờ vậy, kim ngạch buôn bán giữa Việt – Mỹ đã có những bước tiến đáng kể, tuy vẫn còn rất nhỏ bé so với tiềm năng và nhu cầu của hai bên.
Đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, thị trường Mỹ với dân số khoảng 270 triệu người, kim ngạch nhập khẩu hàng năm khoản 1100 tỷ USD, GDP/người khoảng 27000 USD với nhu cầu đa dạng, là một thị trường hấp dẫn. Riêng với mặt hàng cà phê Mỹ phải nhập với số lượng lớn, kim ngạch năm khoảng 5 tỷ USD là từ hai mươi nước vì vậy khả năng chiếm lĩnh thị phần của cà phê Việt Nam là không nhỏ.
Hiên nay, ngành cà phê đang phải đương đầu với một thời kỳ ảm đạm bởi giá cà phê tên thị trường giảm sút một cách liên tục, bởi vậy cần phải có những chính sách hỗ trợ cho ngành này phát triển một cách bền vững. Bởi đây là một ngành gắn liền với rất nhiều dự án và chương trình quốc gia.
Người nghiên cứu đã xuất phát từ tình hình thực tế những năm qua trong sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam , sự phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ nên đã quyết định chọn đề tài: “ Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam “ và qua đó thấy được khả năng thâm nhập và mở rộng cả ngành cà phê Việt Nam vào thị trường Mỹ, một thị trường có những quy định nghiêm ngặt trong việc nhập khẩu.
Trong phạm vi bài đề án này, tác giả không có tham vọng đi sâu nghiên cứu, mổ xẻ từng vấn đề cụ thể, chỉ nêu lên khái quat thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào Mỹ, các luật lệ khi hàng vào Mỹ và rút ra những điểm cần lưu ý khi ngành cà phê Việt Nam vào Mỹ.
Đề án này gồm 3 chương, cùng với lời mở đầu và kết luận
Chương I : Một số vấn đề chung.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ.
Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam.
Chương I
Một số vấn đề chung
I – Khái quát về ngành cà phê thế giới và Việt Nam.
1 – Giới thiệu về sản phẩm cà phê.
Cà phê là loại đồ uống đươch ưa thích ở hầu hết các nước trên thế giới, nó là sản phẩm nhiệt đới nhưng lại tiêu thụ nhiều ở các nước ôn đới. Ngày nay cà phê được sử dụng rộng rãi vì trong hạt cà phê nhân sống thông thường có chứa 1-2,5 % chất cofein có tác dụng kích thích thầng kinh, tăng cường hoạt động của tế bào não. Ngoài ra trong hạt cà phê còn có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể như : đường, protein, các sinh tố B (B1,B2,B6,B12 ).
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều giống, chủng loại cà phê, nhưng phổ biến sản xuất có những chủng loại sau :
Cà phê chè ( Arabica):
Loại cà phê chè Arabica có nguồn gốc từ cao nguyên Jimma Etiopia, đay là loại cà phê có phẩm chất thơm ngon, năng suất khá, có giá trị kinh tế cao được chú trọng phát triển sớm nhất và chiếm 70 % lượng cà phê thế giới. Cà phê chè có rất nhiều chủng loại, người ta chia thành các chủng loại sau :
+ Cà phê Arabica dịu dạng Côlômbia, các nước sản xuất nhiều loại này là Côlômbia, Keynia, Tanzania.
+ Cà phê ảabica Brazil, các nước sản xuất gồm Brazil, Etiopia.
+ Cà phê ảabica dịu khác, các nước sản xuất gồm Bôlivia, Costrica, Cuba, ElSanvado, Indonsia, Việt Nam.
Cà phê vối (Canephora):
Loại cà phê này cód nguồn gốc từ hạ lưu sông CôngGô, thích hợp với khí hậu nhiệt đới. Đây là chủng loại dễ trồng, chịu hạn tốt nhưng phẩm chất không cao. Chủng loại được trồng nhiều nhất là cà phê vối Robusta với sản lượng chiếm tỷ lệ trên 25% trên thế giới.
Cà phê mít (Exellsa):
Đây là loại cà phê sinh trưởng khoẻ, ít sâu bệnh, chịu hạn hán nhưng phẩm chất kém, ít hương thơm và có vị chua, diện tích trồng rất thấp.
ở Việt Nam diện tích cà phê vối được trồng phổ biến, rộng rãi nhất chiếm 90%, tiếp đó là cà phê chè chiếm 9%, còn lại là cà phê mít
2 - Nguồn cung cấp cà phê trên thế giới và xu hướng tiêu thụ.
2.1 - Nguồn cung cấp cà phê trên thế giới.
Cây cà phê có nguồn gốc châu Phi, vào thế kỷ XVII, cà phê được đưa sang trồng ở Indonesia, sang thế kỷ XVIII nó được đưa sang trồng ở Tây bán cầu, và được trồng đầu tiên ở Matinique vàSwriname vùng đảo Cabirê. Kể từ đó nó được trồng ở khắp vành đai nhiệt đới,cận nhiệt đới và châu Mỹ- Latin. Sau này dù cà phê được nhân rộng ở châu á châu Phi nhưng Mỹ- Latin vẫn chiếm 2/3 sản lượng sản xuất và xuất khẩu trên thế giới.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 70 nước sản xuất cà phê. Mặc dù cà phê chủ yếu được trồng ở vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới nhưng phần lớn lại được tiêu thụ ở các nước công nghiệp phát triển. Việc phân loại các nước sản xuất cà phê được tiến hành theo 2 cách. Căn cứ vào loại cà phê xuất khẩu người ta chia các nước sản xuất cà phê thành nhóm sản xuất cà phê arabica và nhóm sản xuất cà phê Robusta. Tất nhiên cũng có nước thuộc nhóm sản xuất cà phê arabica lại sản xuất cà phê Robusta và ngược lại. Người ta cũng có thể chia các nước sản xuất cà phê theo khu vực và vùng lãnh thổ như arabica ở vùng Bắc và Trung Mỹ, khu vực châu á Thái Bình Dương.
Theo báo các của Hội đồng quản trị ICO tại văn bản số EB 3770/01 tổng sản lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 114,2 triệu bao so với 106,5 triệu bao niên vụ 1998/1999. Tổng sản lượng 2000/2001 đạt 112,9 triệu bao giảm 1,3 triệu bao so với niên vụ 1999/2000, niên vụ 2001/2002 được dự đoán là 112,4 triệu bao. Như vây, tổng sản lượng cà phê 1999/2000, 2000/2001 đạt mức kỷ lục từ niên vụ 1964/1965 đến nay.
Sản lượng cà phê của khu vực châu á đã tăng lên do mức tăng nhanh của Việt Nam, đạt trung bình khoảng 11,5 triệu bao trong 2 niên vụ 1999/2000 và 2000/2001 so với con số khiêm tốn 4 triệu bao vụ 1995/1996 và 7 triệu bao vụ 1998/1999. Sản lượng cà phê Nam Mỹ cũng tăng lên trong vụ 2000/2001 mặc dù sản lượng của Brazil có phần giảm so với niên vụ trước. Sản lượng Colombia ước tính đạt 12 triệu bao so với 9,3 triệu bao vụ 1999/2000. Một số nước Châu Phi, Mexico, trung Mỹ đều giảm sản lượng so với vụ trước. Tuy vậy, cung vẫn vượt cầu năm thứ 3 liên tiếp. (xem bảng 1 ).
Các loại cà phê Robusta có sức mạnh nhất về sản lượng, với tổng sản lượng niên vụ 1998/1999 đạt 32,6 triệu bao, vụ 1999/2000 đạt 38,7 triệu bao, vụ 2000/2001 tăng lên 40,1 triệu bao. Con số này ảnh hưởng rất lớn bởi cà phê Việt Nam hiện nay đã lớn hơn tổng sản lượng của hai nước sản xuất lớn là Indonesia và Bờ Biển Ngà. Tỷ trọng Robusta trong tổng sản lượng thế giới tăng từ 33,92 % vụ 1999/2000 lên 35,5 % vụ 2000/2001. Robusta trở thành nhóm có sản lượng lớn nhất trong 4 nhóm cà phê.
Mặt khác, theo Commodity Expert dự đoán sản lượng vụ cà phê 2002/2003 toàn thế giới đạt 124,3 triệu bao tăng 11,9 so với vụ 2001/2002. Sự tăng trưởng này quyết định bởi sự tăng sản lượng của Braxin. Trong khi sản lượng giảm ở nước thứ nhì thế giới là Việt Nam , cùng với việc giảm sản lượng ở ấn độ và một số nước Trung Mỹ… thì sản lượng Braxin tăng từ 33 triệu bao vụ 2001/2002 lên 47,5 triệu bao vụ 2002/2003. Với sản lượng từ 45 – 50 triệu bao cà phê ( 2,7 – 3 triệu tấn) Braxin là một nhân tố quan trọng đẩy giá cà phê xuống thấp. đây là một điểm phải tính toán đến khi hoạch định mục tiêu xuất khẩu cà phê .
Vụ 2001/2002 sản lượng cà phê của Braxin theo F.O.Litch là 34,4 triệu bao trong đó 10,55 triệu bao Robusta, còn lại Arabica chiếm 23,75 triệu bao.
Vụ 2002/2003 sản lượng cà phê Braxin dự kiến sẽ tăng lên tới 45,2 triệu bao trong đó cà phê Robusta tăng 10,8 triệu bao còn Arabica là 34,4 triệu bao. Như vậy có nghĩa là cà phê Braxin tăng nhiều về Arabica còn nhẹ về Robusta.
Bảng 1 : Sản xuất và tiêu thụ cà phê trên thế giới 1990 - 2002
Đơn vị tính: triệu bao (bao = 60Kg )
Năm
Sản xuất
Tiêu thụ
Thừa
Thiếu
1990
94,4
91,2
3,7
1991
96,1
93,2
2,9
1992
96,8
96,1
0,7
1993
89,9
99,4
9,5
1994
91,2
97,6
6,4
1995
86,7
96,3
9,6
1996
97,7
99,9
2,2
1997
97,4
99,6
2,2
1998
105,2
100,0
5,2
1999
106,6
103,2
3,4
2000
114,2
102,2
12,0
2001
114,7
112,9
1,8
2002*
112,4
108,2
4,2
Nguồn: Vicofa.
- Xu hướng tiêu thụ cà phê trên thế giới.
Tổng sản lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 114,2 triệu bao, tăng 10 triệu bao so với dự án ban đầu, trong đó Việt Nam đạt 11,5 triệu bao. Sản lượng niên vụ 2000/2001 đạt 114,7 triệu bao. Như vậy, sản lượng cà phê sản xuất giảm không đáng kể.
Tiêu thụ cà phê trên thế giới trong niên lịch 1999 khoảng 102,2 triệu bao, trong đó có 24,9 triệu bao tiêu thụ tại các nước xuất khẩu và 77,3 triệu bao tại các nước nhập khẩu. Các ước tính sơ bộ cho thấy năm 2000, tiêu thụ cà phê ở các nước nhập khẩu đã giảm xuống từ 79,1 triệu bao xuống 77,3 triệu bao. Riêng Mỹ, tiêu thụ giảm 1,4 triệu bao và Liên minh Châu Âu giảm 1,4 triệu bao. Còn ở Nhật Bản, con số này tăng từ 6,3 triệu bao năm 1999 lên 6,5 triệu bao năm 2000.
Lượng tồn kho đầu năm 2000 khoảng 38,5 triệu bao, trong đó các nước xuất khẩu 29,9 triệu bao, các nước nhập khẩu 6 triệu bao và các cảng tự do 4,6 triệu bao.
Như vậy, tình hình trên cho thấy xu hướng cung vượt xa cầu " làm cho thị trường cà phê thế giới suy sụp, khiến cho các nhà sản xuất không kiểm soát được nữa, còn các nhà nhập khẩu luôn đóng vai trò chủ động trong việc thực thi những chính sách mua hàng tạm thời và tận hưởng các quyền mà họ mới có ".
Theo báo cáo kinh tế của ICO trong kỳ họp ICC lần thứ 82 trong 2 ngày 27-29/09/2000 ở London thì nét chung nhất của thị trường cà phê thế giới là cà phê giảm giá liên tục xuống mức thấp nhất so với giá thập kỷ 1990. Nếu năm 1997 bình quân giá tổng hợp của ICO là 133,91 US cent/lb thì năm 1998 là 108,95 US cent/lb, năm 1999 là 85,72 và bình quân 8 tháng đầu năm 2000 chỉ còn 69,6 US cent/lb. Giá cà phê vối từ 67,53 US cent/lb năm 1999 giảm 33,6 % còn 44,85 US cent/lb. Bình quân 8 tháng đầu năm 2000, giá cà phê Robusta giảm nhiều hơn giá Arabica loại dịu khác và giá cà phê Robusta từ 36,37 US cent/lb năm 1999 tăng lên tới 49,49 US cent/lbtrong 8 tháng đầu năm 2000, tức là tăng 36,1 %.
Giá thị trường kỳ hạn ở London chủ yếu là cà phê Robusta năm 2000 giảm 31,7 % so với năm 1999, trong khi đó giá ở NewYork chủ yếu là cà phê Arabica giảm 4,3%
- Nhu cầu và xu hướng tiêu thụ cà phê ở Mỹ.
Theo kết quả khảo sát gần đây cho thấy 79 % số thanh niên Mỹ uống cà phê. Số người uống cà phê hàng ngày ở Mỹ là 54 % hay 110 triệu người, số người uống cà phê không thường xuyên là 51 triệu người, tăng 1 triệu và 3 triệu người tương ứng so với năm 1999. Theo số liệu khảo sát thì ở khu vực uống cà phê không thường xuyên được tăng thêm 13 triệu người trong vòng bốn năm qua.
Tiêu thụ cà phê đặc biệt đang tăng dần với tỷ lệ cao. Tiêu thụ loại cà phê đặc biệt trong đối tượng uống cà phê hàng ngày tăng khoảng 9 % năm 2000 so với gần 3% năm 1995. Trong khi đó tiêu thụ cà phê đặc biệt của những người uống cà phê không thường xuyên tăng 53% trong năm 2000 so với 35% năm 1997.
Giá trị bán lẻ cà phê ở Mỹ đạt 13 tỷ USD trong năm 1993 nay tang lên đến 18,5 tỷ USD vì khu vực uống cà phê không thường xuyên đang mở rộng và thị trường cà phê đặc biệt đang ngày càng có ưu thế.
Tiêu thụ cà phê theo đầu người ở Mỹ dự kiến vẫn ở mức 3,1 cốc/ngày nhưng khác ở chỗ trong lượng mỗi cốc cà phê tăng lên 9 ounce trong năm 2000 (1 ounce = 28,35 gam ).
Dù cuộc khảo sát lần này có kết quả khả quan nhưng trước chiều hướng tiêu thụ cà phê không chỉ giảm mạnh ở Mỹ mà còn ở Châu Âu, nơi mọi lứa tuổi đều uống cà phê ít đi. Theo NCA, cách tốt nhất để thu hút lớp trẻ là : phải quan tâm tới xu hướng ẩm thực của thanh niên; đóng gói sao cho cà phê có thể dễ mang xách hơn và đễ có mặt ở mọi nơi ; dùng máy bán tự động; quảng cáo chân thực để người dân nhận ra vị thế của cà phê trong cuộc sống, thay thế lối bán truyền thống cũ cứng nhắc, đưa cà phê đến với đời sống thanh niên bằng việcgiới thiệu sản phẩm hữu ích trong giới sinh viên, nhân viên trẻ và gia đình trẻ.
Thực tế, trong số đồ uống ngọt, đồ uống có vị cà phê đang được giới trẻ quan tâm. Đó chính là cái đích và mục tiêu cần khai thác để mở rộng thị trường tiêu thụ cà phê không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới.
2.3 - Nhận xết chung về xu hướng của thị trường cà phê thế giới.
Nhìn chung bức tranh toàn cảnh của thị trường cà phê thế giới có thể nói là khá ảm đạm với một nét đặc trưng nhất là sự khủng hoảng dư thừa ( bảng 3) . Khủng hoảng sản xuất dư thừa đã tác động mạnh đến giá cả trên thị trường. Giá cà phê xuống thấp liên tục dẫn đến thu nhập của người trồng cà phê suy giảm. Đặc biệt kim ngạch do xuất khẩu cà phê đưa đến xuống thấp rõ rệt, điều đó làm cho không ít quốc gia gặp khó khăn nhất là những quốc gia có nguồn kim ngạch xuất khẩu chủ yếu dựa vào cà phê. Một năm trở lại đây, giá cà phê liên tục biến động bất thường làm cho các nhà xuất khẩu lao đao, không thể dự báo được thị trường gây ra sự thua thiệt rat lớn.
Những số liệu ở trên nói lên lý do giá xuất khẩu cà phê hiện nay ở mức thấp nhất kể từ năm 1990 lại đây và dưới kỷ lục của thời kỳ khủng hoảng năm 1930. Đúng như ông Jorge Cardenas – Chủ tịch Hội nghị cà phê thế giới đã phát biểu trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Cà phê Quốc tế họp ở Luân đôn ngày 17/5/2001 là “ Chúng ta đang trải qua một trong những thời điểm gây ấn tượng nhất trong lịch sử cà phê 100 năm qua”, và hơn 20 triệu nông dân, chủ vườn cà phê ở các châu lục á, Phi , Mỹ La tinh, đangh phải vật lộn để sống còn trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, nhiều người trở nên nghèo đói với mức sống thấp dưới 1 USD/ngày. Tuy nhiên giá bán cuối cùng đến tay người tiêu dùng chỉ giảm chút ít nó khác xa với sự tụt giá xuất khẩu vào những năm 1980 khi Hiệp định cà phê quốc tế còn hiệu lực. Chi phí tiêu dùng cà phê hàng năm vào khoảng 30 tỷ USD, trong đó các nước xuất khẩu thu được 9 –10 tỷ hàng năm tức là vào khoảng 30 – 33%. Theo số liệu gần đây nhất lượng tiêu thụ cuối cùng vào khoảng 55 tỷ USD hàng năm và các nước sản xuất cà phê chỉ nhận được dưới 8 tỷ USD tức là vào khoảng 15%. Tình hình giá cả như thế đã gây nên phản tác dụng đối với quá trình phát triển cà phê.
Trước tình hình đó các nước sản xuất cà phê đã có nhiều phản ứng khác nhau, đưa ra những chủ trương nhằm giảm bớt thiệt hại. Từ chương trình giữ lại cà phê của ACPC, cho đến kế hoạch loại bỏ 5% sản lượng cà phê thuộc diện chất lượng xấu kếm ra khỏi thi trường của các nước Trung Mỹ…. Xem ra triển vọng mà các chủ trương này mang lại không mấy sáng sủa. Kế hoạch giữ lại cà phê của ACPC đã thất bại. Và tình hình này vẫn có thể tiếp diễn sang các vụ cà phê tiếp theo.
– Khái quát về tình hình cà phê Việt Nam.
Cách đây 25 năm, một phần tư thế kỷ, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra với những bước khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn hai tỉnh Đăklăc và Gia lai Kontum ở Tây nguyên. Vào thời gian này cả nước chỉ có không đầy 20 nghìn hécta phát triển kém, năng suất thấp, với sản lượng chỉ khoảng 4000 – 5000 tấn.Đến nay cả nước đã có khoảng 500.000 ha cà phê hầu hết sinh trưởng khỏe, năng suất cao , tổng sản lượng dật tới 80 vạn tấn. Những con số đó vượt xa tất cả mọi suy nghĩ, mọi mục tiêu chiến lược của ngành. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nữa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến năm 1992 giá cà phê thế giới tụt xuống mức thấp nhất do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung ra cà phê tồn kho từ những năm trước, do Tổ chức cà phê quốc tế còn áp dụng chế độ hạn ngạch ra bán. Sau năm 1992 giá cà phê lại phục hồi và đần dần đạt tới đỉnh cao vào năm 1994, 1995. Lúc này mọi người từ nông dân, gia đình, cán bộ công nhân viên ở Tây nguyên và cả nững người ở các tỉnh khác đổ xô đi tìm mua đất, mua vườn làm cà phê, dẫn đến sự tăng nhanh sản lượng cà phê qua từng năm. Điều này không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta cho nên đến hôm nay chúng ta phải trả cái giá đó quá đắt, với những tổn thất nặng nề.
3.1 – Về sản xuất.
- Năm 2001 cà phê Robusta ở những vùng canh tác đã ổn định năng suất cao. ở những vùng mới trồng sau này do điều kiện đất đai, nguồn nước tưới, giao thông không thuận lợi nên sinh trưởng kém, năng suất thấp. Do khí hậu ở nước ta như mưa nhiều ở miền Nam và sương muối ở miền Bắc nê gây cho năng suất thấp cả cà phê chè và cà phê vối.
- Năm 2002, thì diện tích Robusta suy giảm, chăm sóc kém, sản lượng giảm sút rõ rệt so với vụ trước và dự báo vụ tới cũng kém. Tuy nhiên diện tích Arabica cũ đã phục hồi, triển vọng tốt còn diện tích mới trồng tăng chậm.
- Tình hình chế biến bước đầu được cải thiện, nhiêu fdoanh nghiệp đã lắp đặt dây chuyền chế biến hiện đại (như công nghệ chế biến cà phê ướt) mà nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng.
3.2 – Tình hình xuất khẩu.
Vụ cà phê 2000/2001 chúng ta đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay về sản lượng cà phê xuất khẩu và cũng đạt mức thấp nhất từ trước đến nay về dơn giá. Tình hình đó đã gây nên xáo động trong toàn ngành, buộc người ta phải tìm lối thoát cho cả trước mắt và mai sau. Có những vấn đề thay đổi coi như tận gốc rễ như vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Có nhũng vấn đề trước mắt như làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm… Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta, toàn ngành cà phê Việt Nam phải đổi mới, thật sự đổi mới để tồn tại.
Trong vụ cà phê 2000/2001 vừa qua cả nước xuất khẩu 874.676 tấn, kim ngạch đạt 381.907.947 USD. Như vậy luọng xuất khẩu tăng 33,8% so với vụ trước nhưng kim ngạch lại giảm 29%. Kết quả xuất khẩu cà phê được cập nhật mới nhất thông qua bảng 2 dưới đây.
Qua bảng dưới ta cung thấy một cách rõ ràng là giá cà phê Việt Nam tụt rốc một cách nhanh chóng. Từ 530 USD/tấn trong tháng 10 năm 2000 thì sau một năm là vao táng 11 năm 2001 giá chỉ còn là 316,3 USD/tấn đâu là giá thấp nhất trong vòng 3 năm gần đây. Việc giá giảm làm kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam giảm một cách rõ rệt từ 40 - 50% (so sáng từng qúy của 2 niên vụ).
Qua đó ta thấy rằng, giá cà phê thế giới nói chung và giá cà phê Việt Nam nói riêng đang ở tình trạng khủng hoảng. điều này yêu cầu ngành cà phê cần phải có những sách lược đẻ điều tiết tình hình cà phê trong nước trước làn sóng phá cà phê ở Tây Nguyên và một số tỉnh khác. và cần phải có chiến lược chuyển đổi giống cà phê từ Robusta sang Arabica một cách hợp lý.
Bảng 2: Kết quả xuất khẩu cà phê niên vụ 2001/2002 so với 2000/2001
(Thống kê theo chứng chỉ xuất xứ)
Niên vụ 2001/2002
Niên vụ 2000/2001
So sánh (%)
Tháng
Số lượng
(tấn)
Trị giá (USD)
Giá b/q
USD/tấn
Số lượng
(tấn)
Trị giá (USD)
Giá b/q
USD/tấn
Số
Lương
Trị
giá
Giá
B/q
10
43.969
14.581.006
331,6
43.357
22.977.782
530,0
1,4
-36,5
-37,4
11
61.642
19.496.680
316,3
70.711
34.986.877
494,8
-12,8
-44,3
-36,1
12
87.695
27.899.993
318,1
109.520
47.938.366
437,7
-19,9
-41,8
-27,3
Quý IV
193.306
61.977.679
320,6
223.588
105.903.025
473,7
-13,5
-41,5
-32,3
1
93.994
30.872.508
328,5
74.347
32.603.020
438,5
26,4
-5,3
-25,1
2
72.327
23.182.154
320,5
95.800
43.378.240
452,8
-24,5
-46,6
-29,2
3
72.280
25.686.798
355,4
89.783
40.797.395
454,4
-19,5
-37,0
-21,8
Quý I
238.601
79.741.460
334,2
259.930
116.778.655
449,3
-8,2
-31,7
-25,6
4
43.128
16.959.288
393,2
91.479
39.344.283
430,1
-52,9
-56,9
-8,6
5
46.346
19.339.351
417,3
84.811
35.917.459
423,5
-45,4
-46,2
-1,5
6
35.125
15.029.270
427,9
63.204
26.210.699
414,7
-44,4
-42,7
3,2
Quý II
124.599
51.327.909
411,9
239.494
101.473.608
423,7
-48,0
-49,4
-2,8
7
-
-
-
55.899
22.197.493
397,1
-
-
-
8
-
-
-
46.958
17.792.386
378,9
-
-
-
9
-
-
-
48.807
17.765.748
364,0
-
-
-
Quý III
-
-
-
151.664
57.753.651
380,8
-
-
-
Cả vụ
-
-
-
874.676
381.883.542
436,6
-
-
-
Nguồn Vicofa
II . Vị trí, vai trò hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành cà phêViệt Nam.
– Về vị trí cà phê Việt Nam.
- Cà phê là một trong những cây công nghiệp mũi nhọn, hết sức quan trọng ở nước ta, can đánh giá đúng vị trí của nó để có cơ chế và định hướng phái triển trong 2 kế hoạch 5 năm ( 1996- 2000 và 2001- 2005).
- Nước ta có nhiều vùng sinh thái rất thích hợp cho phát triển cây cà phê gồm các tỉnh : Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các tỉnh miền Trung và miền núi phía Bắc. Quỹ đất qui hoạch cho phát triển cây cà phê còn lớn và không bị tranh chấp bởi các cây trồng khác. Đất trồng cà phê chủ yếu là các vùng miền núi, dân tộc ít người, nếu được qui hoạch và phát triển tốt sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển xoá dần tình trạng đói nghèo của đồng bào dân tộc.
- Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản hàng hoá xuất khẩu chủ yếu, đưa lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Năm1995, kim ngạch xuất khẩu cà phê có thể đạt 400 đến 450triệu USD, tương đương với xuất khẩu gạo. Hiện nay, sản xuất và xuất khẩu cà phê nước ta đứng thứ 1 Châu á và là đứng thứ 2 trong số 70 nước xuất khẩu cà phê trên thế giới, đã có thị trường xuất khẩu ổn định với hơn 60 nước và khu vực .
- Vai trò của ngành cà phê trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Kể từ sau 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, việc phát triển cà phê đã trở thành một chủ trương lớn của Nhà nước và được nhân dân các vung khác nhau đều đồng tình hưởng ứng. Từ đó đến nay ngành cà phê Việt Nam ngày càng đi lên thể hiện rõ là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động, tạo ra lượng hàng hóa xuất khẩu ngày càng lớn, đem lai kim ngạch xuất khẩu ngày càng nhiều, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
- So với đầu năm 1990, cả nước có 100 ngàn ha cà phê hầu hết mới trồng, sản lượng không đầy 100 ngàn tấn. Đến nay diện tích cà phê cả nước đã là 500 ngàn ha, sản lượng đạt xấp xỉ 800 ngàn tấn, tức là tăng đến 10 lần. Vị thế của ngành cà phê đầu thập kỷ 90 chưa có gì nổi trội, chỉ đứng thứ 20 trong tổng số 70 nước sản xuất cà phê trên thế giới. Nhưng từ đó đến nay sản lượng tăng nhanh hàng năm và nhanh chóng vượt qua Cốt ĐiVoa, Uganda, Indonesia để đứng vị trí thứ 3 thế giới. Đến năm 2000 Việt Nam vượt qua Côlômbia đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu cà phê, chỉ sau Brazil và đứng đầu thế giới về cà phê Robusta. Có thể nói khó có một ngành nông nghiệp nào trong cả nướcvà trong cả nước có một tốc độ tăng trưởng cao đến thế.
- Là một mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng cây cà phê được coi là một cây chủ lực trong cơ cấu cây trồng ở nhiều tỉnh trung du, miền núi và cao nguyên. Ngành cà phê còn tham gia có hiệu quả cao vào các chương trình kinh tế - xã hội lớn của đất nướcnhư chương trình định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số, chương trình xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động và chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Cà phê sản xuất ra phần lớn là để xuất khẩu. Thị trường cà phê Việt Nam phân bổ trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục khác nhau. Hàng năm Việt Nam có những thị trường lớn tiêu thụ trên 200.000 bao và các thị trường lớn này chiếm 89 % tổng số cà phê đã sản xuất.
Nhìn trên biểu đồ ta thấy rằng cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có tính chất quan trọng, kim ngạch nó mang lại chỉ đứng sau thủy sản và gạo. hàng năm xuất khẩu cà phê mang lại cho đất nước gần nửa tỷ USD, đây là một thành quả không nhỏ. Đó là sự phần đầu của toàn ngành cũng như từng đơn vị trong ngành để đạt được thành quả đó.
Qua biểu đồ cho ta thấy mặc dù kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2001 thấp hơn năm 2000, nhưng đây không phải là do giảm số lượng mà là do giá cà phê trên thế giới giảm một cách liên tục. Điều này gây ra tình trạng kim ngach xuất khẩu cà phê có phần giảm sút, nhưng đây chỉ là mang tính thời kỳ.
Bảng 3: Mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2001
Thứ
tự
Mặt hàng
chủ yếu
Thực hiện
năm 2000
ước thực hiện
năm 2001
Năm 2001 so với
năm 2000
Sản lượng
(1000 tấn)
Trị giá
(Tr. USD)
Sản lượng
(1000 tấn)
Trị giá
(Tr. USD)
Sản lượng
(1000 tấn)
Trị giá
(Tr. USD)
1
Thủy sản
1478
1800
121,8
2
Gạo
3476
667
3550
588
102,1
88,1
3
Cà phê
733
501
911
385
124,3
76,8
4
Rau quả
213
305
143,2
5
Cao su
273
166
300
164
109,9
98,9
6
Hạt tiêu
37
146
56
90
152,2
61,4
7
Hạt điều nhân
34.2
167
41
144
119,9
85,9
8
Chè các loại
55
69
58
66
104,7
95,2
9
Đậu phộng nhân
76
41
80
39
105,7
96,1
Tổng
4684.2
3448
4996
3581
Nguồn: Bộ Thương mại
Qua đó ta thấy rằng cà phê là một nặt hàng nông sản quan trọng trong tông rkim ngạch xuất khẩu của Việt Nam . Hàng năm cà phê mang lại cho đất nước giá trị lớn mà còn giúp Chính phủ thực hiện tố các chương trình quốc gia về xã hội, môi trường, xoá đói giảm nghèo, …
Chương II
Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ
I – Một số điểm cần lưu ý khi suất khẩu sang thị trường Mỹ.
1- Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ.
Thương mại là một ngành kinh tế có tính chất tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, do đó cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạch định chính sách thương mại, rat phức tạp. Toàn bộ các hoạt động thương mại do một hệ thống tổng hợp các đạo luật cơ bản, các quy chế, thể lệ, điều tiết. Các đạo luật cơ bản do Quốc hội Mỹ – mà chủ yếu là Hạ Nghị viện thuộc ngành lập pháp – ban hành. Dựa theo các đạo luật này, ngành hành pháp ban hành các sắc lệnh, nghị định và toà án ra quyết định thi để hành luật đã ban bố. Tất cả các văn kiện pháp lý này, cùng với các Công ước quốc tế mà Mỹ tham gia và được Quốc hội phê chuẩn, đã và đang chi phối toàn bộ mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Mỹ nói chung, trong đó có các chính sách trong việc nhập khẩu.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ gồm:
Quốc hội:
Các cơ quan hành pháp:
Các ủy ban Nhà nước chuyên trách.
A – Quốc hội là cơ quan phê chuẩn mọi chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.
Đứng về mặt thương mại, Quốc hội được Hiến pháp giao quyền điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, định và thu các loại thuế.
Như vậy mọi Hiệp định thương mại, áp dụng các loạI thuế khoá, hoặc chính sách hạn chế nhập khẩu đều phảI dựu trên và giới hạn trong phạI vi luật pháp và quyền hạn mà quốc hội cho phép.
B – Các cơ quan hành pháp tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* Vai trò và bộ máy điều hành của Tổng thống trong việc hoạch định chính sách kinh btế thương mạI:
Tổng thống Mỹ là người đạI diện tối cao của ngành hành pháp . Tổng thống có quyền yêu cầu tham nghị lần thứ 2 đối với những luật mà Quốc hội ban hành hi được đa số phiếu tán thành của ĐạI biểu. Sau đó, Tổng thống có nhiệm vụ tổ chức thi hành các luật này.
* Hoạch định chính sách thương mạI là một quá trình phối hợp liên bộ:
Bộ thương mạI là cơ quan đầu não, quản lý toàn bộ mạng lưới kinh tế.
Bộ Nông nghiệp có vai trò hoạch định chính sách thương mạI Mỹ đảm bảolợi ích của ngành Nông nghiệp quốc gia.
Bộ NgoạI giao có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng thống trong việc hoạch định và thi hành chính sách ngoạI giao và có vai trò quan trọng, chủ yếu trong việc nghiên cứu phân tích đánh giá tình hình nhằm đưa ra những kiến nghị về mặt chính sách ở những lĩnh vực tác động tới lợi ích của Mỹ ở nước ngoài. Đặc biệt là trong các vấn đề thương mạI, đầu tư, dịch vụ vì những vấn đề này có ảnh hưởng trực tiếp quan hệ đối ngoại.
Bộ Ngân khố: quản lý chính sách kinh tế và tàI chính, chính sách thuế, quản lý nợ của Nhà nước, phát hành tiền, Bộ Ngân khố phụ trách cơ quan HảI quan Mỹ.
C – Các ủy ban Nhà nước chuyên trách tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* ủy ban thương mại quốc tế:
Cố vấn về đàm phán thương mạI, chế độ ưu đãI thuế quan phổ cập (GSP), nới rộng nhập khẩu phục vụcông nghiệp trong nước, buôn bán với thế giới.
ĐIũu tra phương hạI gây ra do tình trạng trợ cấp, bán phá giá hàng hoá, những bất hợp lý trong nhập khẩu.
* Các ủy ban cố vấn thuộc khu vực tư nhân:
Luật Thương mạI Mỹ 1974 còn quy định một cơ chế tập hợp ý kiến đóng góp, cố vấn của giới tư nhân cho các vấn đề thương mạI quốc tế. Quốc hoịi mở rộng quyền hạn cho ủy ban này, cho phếp họ được cố vấn về những lĩnh vực cần được ưu tiên, về phương hướng của chính sách thương mạI Mỹ. Mặc dù thành viên của ủy ban này không phảI là thành viên Chính phủ, nhưng tiếng nói của họ rat có trọng lượng.
2 – Luật pháp, thể lệ chính sách thương mạI Mỹ trong nhập khẩu.
2.1 – Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Mỹ.
A – Những quy định cơ bản.
Dù là Mỹột nước có chủ trương tự do hóa thương mạI, nước Mỹ cũng có chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong nước. Các quy định của họ không khác của ta nhiều về đạI thể, nhưng nội dung thì chi tiết hơn nhiều.
Quy định của Chính phủ.
HảI quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của Luật thuế quan (Tariffs Act) và những luật lệ khác của các bộ để đIũu chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa. Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi pham. Quyền sở hữu trí tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu. Từ năm 1994, hảI quan Mỹ hoạt động theo một luật goi là Luật tối tân hóa ngành hảI quan (Customs Modernization Act – gọi tắt là CMA hay ModAct) thiên nhiều về tự động hóa và chú trọng và việc hậu kiểm sau khi đã cho nhập hàng. Họ cho nộp hồ sơ qua các phương tiện đIửn tử, thúc đẩy việc tuân thủ và chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nhập khẩu và hảI quan trong việc định giá và phân loạI hàng hóa. Khi chủ trương sự hợp tác và đơn giản hóa thủ tục như thế, Luật CMA đặt ra mức chế tàI nặng hơn trước và ngăn chặn việ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV013.doc