Thị trường mua bán nợ và lý thuyết cơ cấu vốn - Chi phí vốn. Phương pháp phân tích định giá khoản nợ xấu để chuyển sang vốn chủ sở hữu

LỜI CẢM ƠN Sau bốn năm theo học chuyên ngành Toán Tài chính tại khoa Toán kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, được sự dạy dỗ chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ của cơ quan thực tập, với sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em sẽ không bao giờ quên và cảm ơn các thầy cô của trường Đại học Kinh tế quốc dân đã dạy bảo và giúp đỡ em trong thời gian học tập tại trường. Đặc biệt, là các thầy cô ở trong bộ môn Toán đã giảng dạy vào tạo điều kiện cho

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thị trường mua bán nợ và lý thuyết cơ cấu vốn - Chi phí vốn. Phương pháp phân tích định giá khoản nợ xấu để chuyển sang vốn chủ sở hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
em tiếp xúc, học hỏi để nâng cao trình độ trong thời gian học tập tại bộ môn. Đặc biệt ,em không bao giờ quên và cho em gửi lời cảm ơn tới cô giáo em thạc sĩ Trần Chung Thuỷ cô đã giũp đỡ em rất nhiều trong học tập cũng như hướng dẫn tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập .Cảm ơn cô đã chỉ bảo tận tình, khích lệ động viên em, giúp em xác định đề tài, chỉnh sửa đề cương .Cô là nguồn động viên lớn cho em học tập tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn anh Vũ Thanh Tùng chuyên viên Phòng pháp chế ,tư vấn và hợp tác đã giúp đỡ em nhiệt tình trong quá trình em thực tập tại cơ quan như tạo điều kiện cho em thực tập ,tìm tài liệu và góp ý cho em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã cổ vũ, động viên và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập cũng như trong quá trình thực hiện và hoàn thiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. MỤC LỤC a - gIỚI THIỆU 4 b - nỘI DUNG 5 CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ 5 1.1 Sự hình thành của thị trường mua bán nợ. 5 1.2 Vai trò của thị trường mua bán nợ trong hệ thống tài chính. 7 1.3 Các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ. 12 1.3.1 Ngân hàng thương mại và công ty xử lý nợ của Ngân hàng thương mại. 12 1.3.2. Công ty mua bán nợ độc lập 13 1.3.3. Các công ty có nhu cầu xử lý nợ 14 1.4. các loại nợ xấu và một số giải pháp của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 14 1.4.1 Nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo 14 1.4.2 Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu hồi nợ. 15 1.4.3 Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại , đang hoạt động 16 1.5. công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.. 16 1.5.1.Giới thiệu. 16 1.5.2. đặc điểm. 18 1.5.3.. Quy trình xử lý nợ của công ty. 21 CHƯƠNG II. LÝ THUYẾT CƠ CẤU VỐN VÀ CHI PHÍ VỐN 35 2.1. Các nguồn tài trợ và khái niệm chi phí vốn. 35 2.1.1. các nguồn tài trợ... 35 2.1.2. chi phí vốn.. 36 2.2. Giá trị công ty trong trường hợp chỉ có thuế thu nhập doanh nghiệp 37 2.2.1. Giá trị có sử dụng đòn bẩy nợ. 37 2.2.2. chi phí trung bình. 38 2.2.3. chi phí vốn cổ phần ks. 39 2.3. giá trị công ty trong trường hợp có thuế thu nhập cá nhân. 39 2.3.1. giả định tất cả các doanh nghiệp đều có tỷ lệ thuế hiệu quả như nhau.. 39 2.3.2. phân tích các mức thuế thu nhập. 41 2.4. các vấn đề rủi ro - sự kết hợp hai mô hình MM và CAPM. 42 2.4.1. chi phí vốn và rủi ro hệ thống 42 2.4.2. chi phí vốn vay có rủi ro... 43 2.4.2.1. tác động của vốn vay có rủi ro trong trường hợp không có chi phí phá sản. 43 2.4.2.2. sử dụng mô hình định giá quyền trọn Black –Scholes. 43 CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐỊNH GIÁ KHOẢN NỢ XẤU ĐỂ CHUYỂN SANG VỐN CHỦ SỞ HỮU 46 3.1. Phạm vi áp dụng 46 3.2. phương pháp DCF định giá giá trị công ty 46 3.3. Xác định gía trị khoản nợ 48 3.4. Định giá cổ phiếu của công ty và xác định số cổ phiếu tương ứng với khoản nợ 51 C - KẾT LUẬN 56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 58 a - gIỚI THIỆU Mở cửa và hội nhập là xu thế tât yếu mang tính thời đại ,trong điều kiện mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế của các nước ngày càng cao thì hoạt động của ngành tài chính nói chung và của ngân hàng nói riêng càng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng vì thế không thể đứng ngoài cuộc ,thậm chí còn phải đóng vai trò là ngành đi trước , đón đầu .Muốn vậy ,cách tốt nhất để tiếp cận ,tham gia vào quá trình hội nhập là các ngân hàng thương mại và các tổ chưc tín dụng khác phại thực hiện lành mạnh hoá tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của mình .Bên cạnh các giải pháp như cơ cấu lại NHNN ,cơ cấu lại hệ thống NHTM Nhà nước ,tách tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động của NHTM ,chấn chỉnh ,sắp xếp lại các NHTM cổ phần ...thì vấn đề đưa ra giải pháp để xử lý nợ xấu ,nợ tồn đọng là một trong những giải pháp có tính chất quyết định . Vấn đề nợ xấu vẫn là vấn đề nổi cộm và đáng lo ngại ,chất lượng tín dụng giảm sút ,tỷ lệ nợ quá hạn cao ,trong đó có một bộ phận không có khả năng thanh toán làm thất thoát một khối lượng vốn đáng kể ...Năm 2001 , nợ quá hạn trong toàn hệ thống ngân hàng là 10.4% , gấp hơn hai lần so với giới hạn tối đa có thể chấp nhận mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra là 5% .Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại trên điựa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 tuy có giảm so với năm 2000 nhưng vẫn ở mức trên 11% . Ở một số ngân hàng thương mại như Ngân hàng Công thương , Ngân hàng Ngoại thương và phần lớn các ngân hàng thương mại cổ phần ...con số này mặc dù có giảm đáng kể ,nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao.Tình trạng nợ xấu đã dẫn tới những biến động nội bộ các ngân hàng : về cơ cấu tổ chức , về thu nhập ,về sự bất an lo lắng của đại bộ phận cán bộ tín dụng ...Lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng cũng vì vậy mà bị suy giảm và cũng là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh ,hội nhập của các ngân hàng . Đứng trước tình hình đó một mảng kiến thức vô cùng nhỏ mà em xin trình bầy trong công cuộc xử lý nợ xấu đó là “chuyển đổi nợ sang vốn chủ sở hữu “.Do thời gian có hạn cũng như lượng kiến thức hạn hẹp nên chuyên đề sẽ còn nhiều thiếu sót ,em rất mong có được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của các thầy cô , quý đọc giả cùng toàn thể các bạn về nội dung này. b - nỘI DUNG. CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ 1.1. Sự hình thành của thị trường mua bán nợ - nghiệp vụ factoring Trong thời đại ngày nay, kinh doanh ngày một phát triển kéo theo sự đa dạng cũng như mức độ phức tạp của mối quan hệ chủ ngân hàng - người vay nợ. Không một doanh nghiệp nào tránh khỏi những khoản nợ phát sinh, và điều này đã trở thành một yếu tố tất nhiên trong các hoạt động kinh doanh thường nhật của doanh nghiệp. Các công ty có thể vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, nhưng cùng lúc đó, tình trạng nợ khó đòi đã trở thành một vấn đề nhức nhối đối với nhiều doanh nghiệp chủ nợ. Nhiều công ty đang phải đối mặt với mức độ rủi ro tín dụng rất cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Không ít trường hợp, tổn thất do các khoản nợ bị "ngâm" của các công ty liên tục gia tăng, làm suy giảm năng lực cạnh tranh, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản. Nhưng khó khăn nào cũng sẽ có lối thoát. Trong bối cảnh rắc rối này, hoạt động mua bán nợ (factoring) trở thành vị cứu tinh khi nó có thể giải quyết được tình trạng bế tắc về nợ nần, giúp công ty chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Đối với các công ty hoạt động thường xuyên phát sinh nợ dài ngày, giải pháp mua, bán nợ là không thể thiếu. Tại Mỹ và châu Âu, các công ty kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành từ khá sớm và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công ty. Họ tạo ra một thị trường nợ rất sôi động có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp chuyên môn hoá cho cả chủ nợ lẫn khách nợ. Không chỉ có vậy, hoạt động mua bán nợ còn trợ giúp cho những công ty mới thành lập khỏi e ngại khi tiếp cận với các nguồn vốn vay phục vụ hoạt động kinh doanh ban đầu. Vậy hoạt động mua bán nợ (factoring) là gì? Từ “factor” bắt nguồn từ “factare” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”. Công cụ tài chính này xuất hiện từ thế kỷ 18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới thời vua Hammurabi và là một phần của những giao dịch mua bán vải vóc trên con đường tơ lụa năm xưa. Khái niệm factoring phát triển liên tục và ngày nay đã trở nên quen thuộc trong kinh doanh, thương mại, tài chính ngân hàng hay xuất nhập khẩu. Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan Lones), “Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả”. Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “factoring là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ” Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng: “Factoring là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư trên các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng”. Qua các khái niệm về factoring trên đây, chúng ta có thể hiểu factoring là việc chuyển nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang công ty mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước thời hạn toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ gánh chịu. Từ đó hình thành một quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài chính), người bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hoá hay nhận dịch vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ factoring có thể "biến hoá" thành một số dịch vụ phụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài. 1.2. Vai trò của thị trường mua bán nợ (nghiệp vụ factoring) trong hệ thống tài chính Sở dĩ nghiệp vụ mua bán nợ được nhiều công ty trên thế giới áp dụng bởi lẽ thông qua nghiệp vụ này, hoạt động tài chính trong kinh doanh được đa dạng hơn do có nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn. Cụ thể với nghiệp vụ factoring, trên thị trường sẽ có nhiều loại hình dịch vụ mới: Tránh rủi ro tài chính Một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng phá sản ở phần lớn các công ty là việc bị chiếm dụng vốn do khách hàng không thanh toán các khoản nợ. Do đó, việc quản lý rủi ro các khoản nợ không có khả năng thanh toán của khách hàng trong tín dụng thương mại là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các công ty. Và rủi ro này công ty có thể tránh được khi bán các khoản nợ của mình cho một công ty chuyên biệt chuyên mua các khoản nợ - đó là các công ty mua nợ. Chính các công ty này với nghiệp vụ kinh doanh chuyên nghiệp của mình có thể mua lại các khoản nợ, bù lại họ sẽ được hưởng lợi nhuận từ việc mua các khoản nợ thấp hơn giá trị thực của các khoản nợ đó. Trợ giúp quản lý tài chính Với đặc thù là công ty tài chính chuyên biệt, các công ty mua bán nợ đã mang lại một giải pháp toàn diện cho việc quản lý tài khoản vãng lai cho nhiều công ty khách hàng: một mặt, đơn giản hoá hoạt động kế toán của công ty, mặt khác, bảo đảm thu nợ và xác định các khoản thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận định phân tích một cách toàn diện cũng như xác định những bất thường, từ đó đưa ra khuyến cáo cho khách hàng. Khi đó, công việc của công ty mua nợ là theo dõi các khoản kỳ hạn thanh toán, kiểm tra các quy định thanh toán, nhắc nhở qua điện thoại, điện tín và cuối cùng là quản lý các khoản nợ khó đòi. Với hệ thống kỹ thuật hiện đại, các công ty mua nợ sẽ thực hiện việc nhắc nhở các khoản nợ qua các thư nhắc nhở tự động, hoặc hệ thống nhắc nhở tự động qua điện thoại. Nhờ thế, công ty đã rút ngắn dần những khoản nợ chậm trả và tạo thói quen cho người mua hàng thanh toán đúng hạn. Tạo vốn trong kinh doanh Điều này có nghĩa là công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức thì khi chuyển quyền sở hữu các hoá đơn. Những khoản tài trợ này là khoản không thể truy đòi. Bởi lẽ khoản tiền công ty mua nợ chuyển cho khách hàng không phải là các khoản ứng trước đơn thuần mà là khoản bán hết món nợ đó cho công ty mua nợ và khách hàng không phải hoàn lại cho công ty mua nợ nếu người mua không có khả năng thanh toán. Thông qua hình thức này, nhiều công ty không những giải phóng được các khoản nợ khó đòi mà còn có thêm nguốn vốn tái đầu tư cũng như sử dụng vốn có hiệu quả hơn từ việc bán các hoá đơn. Ngoài những lợi ích phong phú mà factoring đem lại, có rất, rất nhiều lý do để các doanh nghiệp quan tâm đến dịch vụ này: tận dụng khả năng chuyên môn của các công ty factoring để đem lại lợi ích cho mình, hay sẽ có nhiều sự lựa chọn phương pháp thanh toán sớm hơn cho các nhà cung cấp hàng hoá (đặc biệt là trong xuất nhập khẩu, từ đó nhanh chóng có nguồn vốn tái đầu tư để không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh mới. Kể từ khi các công ty mua bán nợ có những đánh giá chuẩn xác về mức độ rủi ro tín dụng, đồng thời sẵn sàng mua lại các khoản nợ với giá chiết khấu không cao (khoảng 10% đến 20% khoản nợ), rất nhiều công ty đã để mắt tới dịch vụ này. Không những vậy, có nhiều khách hàng còn sẵn sàng trả phí để nhờ các công ty factoring điều tra và cung cấp thông tin nhằm đảm bảo quản lý tín dụng một cách hiệu quả nhất, từ đó tăng vòng luân chuyển vốn cũng như hạn chế rủi ro tài chính. Điều cốt lõi của nghiệp vụ factoring là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán nợ của nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào công việc kinh doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm đến mọi diễn tiến xung quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với factoring, những khoản tiền mặt “nóng” sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, factoring không chỉ là sự lựa chọn cho những khoản nợ khó đòi, việc sử dụng dịch vụ này còn có thể đẩy nhanh những khoản thanh toán từ khách hàng mua hàng trả chậm. Dịch vụ của các công ty factoring không giống nhau mà có thể có những khác biệt về điều khoản, điều kiện mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, con số nợ nần, khả năng thu hồi nợ… Factoring và các ngân hàng Nhiều ngân hàng đã vận dụng factoring như một trong những hoạt động kinh doanh chính của mình. Với dịch vụ factoring, các ngân hàng lớn trên thế giới nhận thấy có thể mở rộng mối liên hệ với khách hàng của họ trong một số ngành công nghiệp. Hơn nữa, họ có thể tiến hành dịch vụ cho các ngân hàng đại lý có các khách hàng cần đến các dịch vụ factoring. Hiện nay, có không ít các ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay chi phí sản xuất hàng hoá hoặc thu mua hàng và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho vay như thế đưa đến việc doanh nghiệp sẽ ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Do vậy, việc cho vay chi phí sản xuất và cho vay luân chuyển hàng hoá sẽ khiến ngân hàng thương mại chịu rủi ro cùng doanh nghiệp: một khi hàng hoá không tiêu thụ được, khoản nợ sẽ rất khó thu hồi. Trong khi đó, sử dụng dịch vụ factoring, các ngân hàng thương mại cung ứng vốn cho doanh nghiệp tiếp tục chu kỳ sản xuất sau, nhưng ngân hàng thương mại ấy thu nợ bằng tiền hàng hoá bán chịu của chu kỳ sản xuất trước nên mức độ rủi ro ít hơn. Nhờ vậy, dịch vụ factoring còn giúp doanh nghiệp không lâm vào cảnh nợ nần dây dưa, khó đòi. Bên cạnh việc các ngân hàng mở dịch vụ chiết khấu thương phiếu đối với hàng hoá tiêu thụ thì dịch vụ factoring khiến việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại cho các công ty trên thị trường được đơn giản hơn và an toàn hơn. Đồng thời, việc này còn khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hoặc thu mua hàng hoá bằng vốn tự có của mình. Vốn tín dụng của chi nhánh ngân hàng thương mại chỉ là vốn bổ sung khi doanh nghiệp bán hàng trả chậm. Factoring và xuất khẩu Có một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày càng trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải tìm mọi cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu là điều kiện thanh toán. Nếu như một doanh nghiệp có thể xuất khẩu với phương thức thanh toán ghi sổ nợ (open account), thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ ký thêm được nhiều hợp đồng. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu với hình thức này thì rủi ro thanh toán sẽ tăng lên. Vì vậy, doanh nghiệp chỉ dám chấp nhận phương thức này với những khách hàng uy tín, lâu năm của mình mà thôi. Ngay cả khi được đảm bảo về rủi ro thanh toán, doanh nghiệp vẫn bị khách hàng chiếm dụng vốn trong suốt thời gian chờ đợi. Thiếu luồng tiền mặt mà lại không thể dễ dàng tiếp cận với vốn từ các nguồn truyền thống (như tín dụng ngân hàng), doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn để duy trì sản xuất. Trong tình thế đó, factoring đã xuất hiện như một vị cứu tinh. Factoring được đánh giá là một dịch vụ tài chính mới, chỉ với thủ tục rất đơn giản, có thể giúp doanh nghiệp vừa xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện thanh toán ghi sổ, lại vừa thu được tiền mặt ngay sau khi xuất hàng đi. Với giới kinh doanh xuất nhập khẩu thì factoring được hiểu là dịch vụ mua bán các khoản phải thu của khách hàng (purchase/sale of account receivables). Định nghĩa này xuất phát từ thuật ngữ kế toán: khi xuất hàng bán cho khách hàng nhưng bên bán chưa nhận được tiền hàng thì khoản tiền này được ghi vào tài khoản phải thu của khách hàng. Factoring là dịch vụ mua các khoản tiền nằm trong tài khoản nói trên. Cơ chế của factoring trong xuất nhập khẩu rất dễ hiểu. Nhà xuất khẩu ký hợp đồng dịch vụ với công ty factoring. Khi hàng được giao đi cho khách hàng, nhà xuất khẩu gửi hoá đơn tới công ty factoring. Công ty factoring sẽ ứng trước cho nhà xuất khẩu khoảng 80% giá trị của hoá đơn. Công ty factoring sẽ thu tiền hàng từ nhà nhập khẩu. Sau khi thu được 100% tiền hàng, công ty factoring sẽ thanh toán nốt 20% còn lại cho nhà xuất khẩu. Với ý nghĩa là factoring nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại factoring: factoring truy đòi và factoring miễn truy đòi. Đối với factoring truy đòi, công ty factoring có quyền đòi lại khoản tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu không thanh toán. Với factoring miễn truy đòi, nếu nhà nhập khẩu mất khả năng chi trả, công ty factoring có trách nhiệm thanh toán 100% giá trị hoá đơn cho nhà xuất khẩu. Dịch vụ factoring trong xuất nhập khẩu đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Các nước trong khu vực cũng đã phát triển factoring như Trung quốc, Indonesia, Än độ, Nhật bản, Malaysia, Hàn quốc, Singapore, Sri Lanka, Đài loan và Thái lan. Thật không công bằng cho các nhà xuất khẩu Việt nam khi các đối thủ cạnh tranh của họ ở các nước khác đang được hưỏng lợi thế từ dịch vụ này. Chỉ những năm gần đây, dịch vụ factoring mới bắt đầu được đưa vào phục vụ các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam. “Thương trường như chiến trường”, để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, các doanh nghiệp ngoài nỗ lực tự thân còn rất cần đến sự trợ giúp nhiều mặt của các ngân hàng cũng như các công ty đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều đó đòi hỏi các công ty tài chính phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán thương mại. Nếu không, các doanh nghiệp khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn sản xuất, kinh doanh do vốn bị chiếm dụng, các nhà xuất khẩu khó tránh khỏi rủi ro trong thanh toán, kéo theo gây tâm lý lo lắng, bất ổn cho doanh nghiệp nói riêng, cũng như kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung.. Để đạt mục tiêu đó, các công ty tài chính không có con đường nào khác là phải nhanh chóng áp dụng nhiều nghiệp vụ tài chính mới mà các công ty, tập đoàn trên thế giới đã áp dụng thành công. Và nghiệp vụ factoring là một trong số đó 1.3. Các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ. 1.3.1 Ngân hàng thương mại và công ty xử lý nợ AMC của Ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong hơn một thập kỷ đổi mới kinh tế vừa qua .Tuy nhiên trong quá trình phát triển , các NHTM đang bộc lộ một số yếu kém đó là : rủi ro cao về tài sản , khả năng sinh lời thấp , hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào tín dụng ,hệ thống thông tin quản lý yếu .Từ những yếu kém nêu trên .Vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã được Chính phủ xác định là vấn đề rất quan trọng. Các vấn đề chính cần phải giải quyết cho hệ thống ngân hàng nói chung và các NHTMQD nói riêng trong quá trình tái cơ cấu là :xoá sạch các khoản cho vay không sinh lời khỏi bảng tổng kết tài sản ; tái cơ cấu về tài chính và thể chế ; tái cấp vốn cho các NHTMQD. Để thực hiện các nội dung chính trong tái cơ cấu nêu trên ,một trong những cơ chế xử lý nợ ,tài sản tồn đọng đã được thiết lập là thành lập các AMC trực thuộc NHTM. AMC trực thuộc NHTM hoạt động trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản đảm bảo đảm nợ tồn đọng trên hai phương diện: - Làm dịch vụ uỷ thác về quản lý và xử lý nợ ,tài sản đảm bảo nợ tồn đọng cho chính NHTM thành lập công ty. - Kinh doanh mua bán nợ tồn đọng ,tài sản đảm bảo nợ tồn đọng với các TCTD và các AMC của NHTM khác. Cụ thể AMC * tiếp nhận ,quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm nợ vay liên quan đến các khoản nợ để xử lý ,thu hồi vốn nhanh nhất cho NHTM .* Hoàn thiện hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ theo quy định của pháp luật trình Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM của Chính phủ xem xét ,trình thủ tướng Chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng. * Chủ động bán các tài sản bảo đảm nợ vay thuộc quyền định đoạt của NHTM theo giá thị trường bằng các hình thức :* Tự bán công khai trên thị trường ; bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản , bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước .* Cơ cấu lại nợ tồn đọng bằng các biện pháp , giãn nợ , miễn giảm lãi suất , đầu tư thêm , chuyển đổi nợ thành vốn góp .* Xử lý tài sản đảm bảo nợ vay bằng các biện pháp thích hợp : cải tạo , sửa chữa ,nâng cấp tài sản để bán , cho thuê ,khai thác kinh doanh ,góp vốn liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ .* Mua bán nợ tồn đọng của tổ chức tín dụng khác ,của các AMC khác theo quy định của pháp luật .* Thực hiện các hoạt động khác theo uỷ quyền của NHTM. 1.3.2. Công ty mua bán nợ độc lập (AMC độc lập) AMCs độc lập thuộc sở hữu nhà nước có thực lực lớn có thể mua hay nhận xử lý nợ từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau, tạo ra lợi thế kinh tế do quy mô lớn (tập trung các kỹ năng tái cơ cấu tài chính và nguồn lực khan hiếm vào một tổ chức), dễ dàng chứng khoán hoá các khoản nợ do AMC độc lập có danh mục tài sản lớn và đa dạng hơn. AMC độc lập có ưu điểm là: - tránh được các mối quan hệ không lành mạnh giữa ngân hàng với doanh nghiệp vay nợ - cho phép ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh nòng cốt của mình. - có thể áp dụng các thông lệ thống nhất để xử lý nợ cho các doanh nghiệp tương tự nhau ( ví dụ như trong cùng một ngành) Ngoài ra nó cũng có một số nhược điểm: - Vấn đề AI với AMC thuộc ngân hàng - AMC có thể làm mất đi kỷ cương trả nợ và làm cho giá trị tài sản giảm nhiều hơn nữa nếu hoạt động không hiệu quả - AMC cho dù độc lập cũng khó tránh khỏi áp lực chính trị ,nhất là nếu cơ quan đó quản lý một tỷ lệ lớn tài sản của hệ thống ngân hàng. 1.3.3. Các công ty có nhu cầu xử lý nợ. Hiện nay trên thị trường Việt nam thị trường mua bán nợ mới manh nha hình thành , đó cũng là kết quả tất yếu của nền kinh tế thị trường với các thành phần kinh tế đa dạng .Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những rủi ro tiềm tàng xảy ra đối với mình , việc kinh doanh không thuận lợi sẽ dẫn tới nợ lần không trả đúng hạn ,hoặc mất khả năng trả nợ sẽ đi tới phá sản. Để giảm thiểu tối đa thiệt hại các công ty tìm đến dịch vụ xử lý nợ với hy vọng giải quyết tình trạng theo một hướng tốt nhất. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng đa dạng và phong phú sẽ tạo ra một khối lượng lớn nhu cầu xử lý nợ , nó sẽ vừa là động lực vừa là mục đích hướng tới của thị trường mua bán nợ tồn tại và phát triển . 1.4. các loại nợ xấu và một số giải pháp của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 1.4.1 Nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo. + Các ngân hàng thương mại ,công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại được chủ động xử lý các tài sản bảo đảm nợ vay(tài sản thế chấp ,cầm cố , tài sản gán nợ ; tài sản Toà án giao cho ngân hàng )kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất ,tài sản bao gồm đất ,tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường Bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá Bán cho công ty mua bán nợ của Nhà nước + Đối với những tài sản bảo đảm nợ thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết nhưng chưa giao cho ngân hàng : các ngân hàng thương mại tập hợp trình Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính ngân hàng thương mại đề nghị Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan thi hàng án nhanh chóng giao các ngân hàng thương mại để xử lý thu hồi vốn. + Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và hiện không có tranh chấp :các ngân hàng thương mại xim xét đề nghị Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan chức năng Nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện thủ tục pháp lý để các ngân hàng thương mại ,Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại bán nhanh tài sản. + Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa bán được :các ngân hàng thương mại ,công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại áp dụng các biện pháp như :cải tạo ,sửa chữa ,nâng cấp tài sản để bán ,cho thuê ,khai thác kinh doanh,góp vốn ,liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ. + Đối với những tài sản các ngân hàng thương mại để lại sử dụng thì phải có nguồn vốn tương ứng theo quy định của pháp Luật hiện hành. + Giá bán các tài sản bảo đảm nợ vay có thể cao hoặc thấp hợn giát trị nợ tồn đọng (gốc và lãi) .Trường hợp bán tài sản với giá thấp hơn giá trị nợ tồn đọng , phần chênh lệch được xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro của ngân hàng thương mại và tiếp tục theo đòi ,thu hồi nợ.Trường hợp bán tài sản với giá cao hơn giá trị nợ tồn đọng thì phần chênh lệch được xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.4.2 Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu hồi nợ. Các ngân hàng thương mại Nhà nước , Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại Nhà nước phải thực hiện việc phân loại nợ thành nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và nợ tồn đọng không còn đối tượng để thu nợ, báo cáo Ngân hàng nhà nước Việt Nam để trình Ban chỉ đạo cơ cấu ngân hàng thương mại xim xét trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xử lý. 1.4.3 Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại, đang hoạt động ngân hàng thương mại Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại thực hiện một số biện pháp sau: + Bán lại nợ để thu hồi vốn theo Quy chế mua bán nợ thông thường; + Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp và được chuyển nhượng phần vốn góp này ; trường hợp này ,ngân hàng thương mại phải dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ tương ứng với phần nợ đã chuyển thành vốn góp theo quy định của pháp luật ; + Đánh giá lại khoản nợ tồn đọng đối với các doanh nghiệp Nhà nước để xác định giá trị thực còn lại của khoản nợ. Phần giá trị thực còn của khoản nợ được xử lý theo phương thức : chuyển thành phần vốn Nhà nước cấp bổ sung cho doanh nghiệp đồng thời Nhà nước cấp bù vốn cho ngân hàng thương mại Nhà nước tương ứng với số nợ tồn đọng ;hoặc xác định số nợ doanh nghiệp còn phải tiếp tục trả ngân hàng , đồng thời Nhà nước cấp bù vốn cho các ngân hàng thương mại Nhà nước phần chênh lệch do đánh giá lại ; + Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp , được cơ cấu lại nợ bằng hình thức thích hợp như giãn nợ ,miễn giảm lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư thêm. 1.5. công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. 1.5.1.Giới thiệu. Ngày 6/2, tại Hà Nội, Bộ Tài chính đã tổ chức lễ ra mắt Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, tên giao dịch quốc tế viết tắt là DATC (Debt and Assets Trading Company), với vốn điều lệ là 2.000 tỷ đồng được hình thành từ nguồn ngân sách cấp và từ nguồn hợp pháp khác Tên gọi: - Tên tiếng Việt: Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (viết tắt là Công ty mua, bán nợ và tài sản) - Tên giao dịch quốc tế: Debt and Assets trading Company. - Tên viết tắt: DATC Công ty mua, bán nợ và tài sản có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố. Địa chỉ: Số 4, ngõ Hàng chuối 1, phố Hàng chuối, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Số điện thoại: 04- 9722037, 04- 9722038, 04- 9722039 Telex: Fax: 04- 9722040 DATC ra đời nhằm tạo ra công cụ mới thích hợp với nền kinh tế thị trường để giúp các doanh nghiệp xử lý nợ và tài sản tồn đọng, lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy nhanh hơn quá trình sắp xếp, cổ phấn hóa, giao, khoán, bán và cho thuê doanh nghiệp. DATC có nhiệm vụ mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp (bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ) bằng các hình thức: thỏa thuận trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định của các cấp có thẩm quyền; tiếp nhận để xử lý các khoản nợ và tài sản đã được loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước; xử lý các khoản nợ và tài sản đã mua; tư vấn, môi giới xử lý nợ và tài sản tồn đọng; được sử dụng vốn để đầu tư bằng các hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh và ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28975.doc