Thị trường du lịch Việt Nam

Tài liệu Thị trường du lịch Việt Nam: ... Ebook Thị trường du lịch Việt Nam

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường du lịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nước ta hiện nay vẫn đang trong quá trình phát triển đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà Nước đã và đang có những chính sách để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhất là để vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Trong cơ cấu đóng góp cho nền kinh tế, ngành du lịch đang ngày càng phát triền và đóng góp một tỷ trọng đáng kể bởi nước ta có nhiểu tiềm năng cũng như những cơ hội để phát triển ngành này. Du lịch là ngành mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004, con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần. Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch ngày càng rõ nét, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho xã hội: Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành Du lịch trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Huế (Thừa Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Phan Thiết), Bình Châu (Xuyên Mộc – Bà Rịa Vũng Tàu), một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long…); tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài. Ước hiện nay, hoạt động du lịch đã tạo ra việc làm cho trên 234.000 lao động trực tiếp và khoảng 510.000 lao động gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ. Du lịch đã thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, mở rộng giao lưu văn hoá và nâng cao dân trí, phát triển nhân tố con người, đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội: Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích, di sản và nâng cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế... tạo thêm sức hấp dẫn thu hút khách du lịch. Thông qua du lịch các ngành kinh tế xã hội khác phát triển; mở thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, viễn thông, văn hoá nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn. Điểm mấu chốt là thông qua du lịch đã kích cầu có hiệu quả cho các ngành kinh tế khác phát triển. Hoạt động du lịch phát triển đã kéo theo sự mở rộng giao lưu kinh tế văn hoá giữa các vùng, miền và với quốc tế, góp phần giáo dục truyền thống, đào tạo kiến thức và rèn luyện, bồi dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư. Trên đây là sơ qua khái quát về những tác động tích cực của ngành du lịch đến kinh tế - văn hóa, xã hội của nước ta. Để hiểu rõ hơn về tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam, những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức đối với ngành du lịch trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, dưới đây là bài nghiên cứu của nhóm em về “thị trường du lịch Việt Nam” thông qua việc phân tích 6 yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô. NỘI DUNG CHÍNH Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Trong suốt 49 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm, ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của Du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu cách mạng. Giai đoạn đất nước còn tạm thời bị chia cắt, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, từ năm 1960 đến 1975, Du lịch ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, khách Du lịch vào nước ta theo các Nghị định thư. Để thực hiện mục tiêu này, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 26/CP, ngày 09/07/1960, thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương. Quản lý nhà nước về Du lịch thuộc chức năng của Bộ Ngoại thương với một Phòng chuyên trách 4 người; năm 1969 chức năng này chuyển về Phủ Thủ tướng; sau đó chuyển sang Bộ Công an. Trong điều kiện rất khó khăn của chiến tranh và qua nhiều cơ quan quản lý, ngành Du lịch đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi thử thách, từng bước mở rộng nhiều cơ sở Du lịch ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tam Đảo, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An… Ngành Du lịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, phục vụ an toàn, có chất lượng; một lượng lớn khách của Đảng và Nhà nước, các đoàn chuyên gia các nước Xã hội chủ nghĩa anh em vào giúp Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ là xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước; đồng thời đón tiếp, phục vụ, đáp ứng nhu cầu du lịch, tham quan nghỉ mát của cán bộ, bộ đội và nhân dân. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, hoạt động Du lịch dần trải rộng ra các miền Tổ quốc. Ngành Du lịch bước vào xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ lao động, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, ngành Du lịch hoạt động trong điều kiện đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, phải tập trung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và phá thế bao vây cấm vận của Mỹ; đồng thời lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc và Tây Nam. Từ năm 1975 đến 1990, hoà vào khí thế chung của đất nước đã được thống nhất, ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quản, bảo toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định đến Nha Trang, Lâm Đông, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ… từng bước thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch . Trong giai đoạn này, ngành Du lịch đã phấn đấu vượt qua những khó khăn, thử thách mới, tổ chức đón tiếp và phục vụ khách du lịch quốc tế từ các nước Xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác trên thế giới đến Việt Nam. Du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu hai miền Nam - Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua du lịch, thế giới hiểu rõ thêm quan điểm, nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sau chiến tranh muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Về mặt kinh tế - xã hội, ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, ngành Du lịch đã khởi sắc, vươn lên đổi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 đã khẳng định “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nuớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, thể chế hoá bằng văn bản quy phạm phát luật, tạo môi trường cho du lịch phát triển, nâng cao hiệu lực quản lý. Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hoá – Thông tin, rồi vào Bộ Thương mại, tháng 11 năm 1992 Tổng cục Du lịch được thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch đã nhanh chóng củng cố, ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, khắc phục khó khăn, vươn lên về mọi mặt để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Trong quá trình cải cách hành chính, đến nay bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch , 2 sở Du lịch – Thương mại, 46 sở Thương mại - Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch . 45 năm hình thành và phát triển, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp phối hợp, giúp đỡ, nhân dân hưởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bước tiến vào thế kỷ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. II. Thực trạng thị trường du lịch ở Việt Nam 2.1. Đánh giá chung về thị trường du lịch Việt Nam hiện nay Hiện nay, Việt Nam nổi lên là một điểm đến mới, hấp dẫn đối với du lịch, hội nghị, hội thảo, triển lãm, khen thưởng tại khu vực Châu Á. Đây là phân khúc thị trường có tiềm năng rất lớn mà Việt Nam có thể khai thác và đẩy mạnh phát triển. Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn định với tốc độ trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thị phần du lịch của Việt Nam trong khu vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm 2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn vào GDP. 2.2. Kết quả đạt được của du lịch Việt Nam 2.2.1. Thành tích Du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch quốc tế; thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới; ký 29 Hiệp định hợp tác du lịch song phương với những nước là thị trường du lịch trọng điểm và đầu mối giao lưu quốc tế và Hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; đã có quan hệ bạn hàng với trên 1.000 hãng, trong đó có nhiều hãng lớn, của hơn 60 nước và vùng lãnh thổ du lịch. Nước ta là thành viên của Tổ chức Du lịch thế giới, của Hiệp hội Du lịch Châu á-Thái Bình Dương, của Hiệp hội Du lịch Đông Nam á. Báo cáo ước tính trong năm 2008 tác động trực tiếp của ngành du lịch đã đem về 3,5 tỉ USD, chiếm 4,3% tổng GDP cả nước. Ngành công nghiệp không khói cũng góp phần tạo ra 1,5 triệu việc làm ở VN. Hiện nay Việt Nam đã khai thác và hoàn thành được nhiều khu du lịch hấp dẫn thu hút 1 lượng đông khách du lịch. Nói đến du lịch Việt Nam là chúng ta nghĩ ngay đến những khu du lịch nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh tuyệt vời như là vịnh Hạ Long (được unessco bình chọn là kì quan thiên nhiên thế giới), biển Nha Trang, Cát bà, Sầm Sơn, Vũng Tàu, phố cổ Hội An,…. Các điểm đến: Du lịch sinh thái như:vịnh Hạ Long, Phong Nha Kẻ Bàng, Đà Lạt… Du lịch văn hoá như: phố cổ Hội An,cung đình Huế, phố cổ Hà Nội…. Du lịch nghỉ mát như: các bãi biển Nha Trang, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn… Ví dụ như miền trung là 1 điểm đên yêu thich của du khách khi đến với Việt Nam. Xét trên quan điểm du lịch 5S lấy từ năm chữ cái đầu tiên trong các từ tiếng Anh: Sea (biển), Sun (ánh nắng chói chang), Smile (sự thân thiện của người dân bản địa), Sand (những bãi biển đẹp) và Stomach (thức ăn ngon), dường như du lịch miền Trung đều đáp ứng được với những bãi biển đẹp đầy nắng gió chạy dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận, những món ăn mang đặc trưng hương vị biển và những con người miền Trung hiền hòa mến khách. 2.2.2. Những yếu kém còn tồn tại Cuối năm 2008 khách quốc tế đến Việt Nam giảm làm cho tốc độ tăng trưởng của tổng lượng khách trong năm thấp hơn nhiều so với năm 2007. Với tình hình kinh tế hiện nay, ngành du lịch sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn trong thời gian tới. Cả năm 2008, ngành du lịch chỉ đạt khoảng từ 4,3 cho đến 4,35 triệu lượt, tức đạt tốc độ tăng trưởng từ 3,5% cho đến 4% so với năm trước, thấp hơn nhiều so với con số trên 16% của năm 2007 so với năm 2006. VN xếp thứ 89/133 quốc gia và vùng lãnh thổ về mức độ cạnh tranh du lịch, theo báo cáo về “Mức độ cạnh tranh du lịch 2009” do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) phát hành ngày 4-3. Tuy đã tăng hạng so với báo cáo năm trước (96/130) nhưng trong khu vực Đông Nam Á, VN vẫn không tạo được bước đột phá về tính cạnh tranh. Trong tám quốc gia Đông Nam Á được WEF khảo sát (không có Lào và Myanmar), VN chỉ đứng trên Campuchia về mức độ cạnh tranh. Xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn nhỏ. Tốc độ tăng trưởng việc làm trong ngành vẫn tiếp tục ở mức thấp hơn so với mức tăng trung bình của khu vực. Năng lực của các công ty du lịch Việt Nam không tương xứng với tiềm năng. Nhìn chung, các ngành hỗ trợ du lịch vẫn chưa phát triển cùng nhịp với sự phát triển của ngành du lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, phương tiện vận tải lạc hậu, đường vận chuyển hàng không vẫn chưa được phát triển đúng mức. Công nghệ thông tin chưa được ứng dụng nhiều; ứng dụng thương mại điện tử trong điều hành các tour du lịch và giao dịch giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch chưa được nhiều, hoạt động xúc tiến du lịch ở nước ngoài còn yếu về số lượng và hiệu quả. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao vẫn chưa phát triển và các dịch vụ ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu. Sản phẩm dịch vụ du lịch chưa phong phú, đa dạng. Ta có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp và có bãi biển được xếp hạng tầm quốc tế, nhưng trên phạm vi cả nước, chưa có được một khu du lịch tầm cỡ và có tên tuổi như Pataya, Phuket (Thái Lan), Sentosa (Singapore), Bali (Inđônesia), hay Genting, Langkawi (Malaysia). Đặc điểm này đã ảnh hưởng đến việc thu hút được sự chú ý của khách du lịch, không kéo dài được thời gian nghỉ ngơi của khách tại Việt Nam, không tạo cơ hội để tăng chi tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam. III. Các yếu tố môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến ngành du lịch 3.1. Dân số 3.1.1. Tình hình dân số Việt Nam Với quy mô gần 86,2 triệu người, Việt Nam là nước đông dân thứ 12 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh, Nigeria, Nhật Bản, Mexico, Philippines. Mật độ dân số của Việt Nam đạt 260 người/km2, cao gấp trên 5 lần và đứng thứ 41 trong 208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; cao gấp hơn 2 lần và đứng thứ 8/11 nước ở Đông Nam Á, cao gấp đôi và đứng thứ 16/50 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á. Việt Nam có tỷ lệ tăng tự nhiên hiện ở mức 1,2%, cao thứ 8 ở Đông Nam Á, cao thứ 32 ở châu Á và đứng thứ 114 trên thế giới. Đó là kết quả tích cực của công tác kế hoạch hóa dân số từ khá sớm. Tuổi thọ bình quân đạt 72 tuổi (nam 70 tuổi, nữ 73 tuổi), đứng thứ 4 ở Đông Nam Á, đứng thứ 20 ở châu Á và đứng thứ 83 trên thế giới. Tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam nếu năm 1930 là 7,4%, đến năm 1951 là 10,0%, từ năm 1976 đã vượt qua mốc 20% và đến năm 2008 mới đạt 27,9%, đứng thứ 8 và thấp hơn tỷ lệ 39% ở khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 41 và thấp hơn tỷ lệ 41% ở châu Á và đứng thứ 177 và thấp hơn tỷ lệ 49% trên thế giới. Tỷ lệ nữ trong dân số tuy vẫn cao hơn tỷ lệ nam nhưng đã giảm dần, từ 52% so với 48% (năm 1976) xuống còn 50,9% so với 49,1% (năm 2008) và chủ yếu ở lứa tuổi cao, còn ở lứa tuổi trẻ (nhất là từ 20 trở xuống) tỷ lệ nữ ít hơn tỷ lệ nam, tín hiệu mất cân bằng giới tính giống như hiện nay ở Trung Quốc. BiÓu ®å vÒ d©n sè trung b×nh của ViÖt Nam tõ n¨m 1921-2008. Bảng cơ cấu dân số (%) theo giới tính và nhóm tuổi (n¨m 2008) Nhóm tuổi Nam Nữ Tổng số Tỷ số giới tính 0-4 7,8 7,1 7,5 106,9 5-9 8,6 7,8 8,2 106,6 10-14 11,1 10,2 10,6 105,6 15-19 11,3 10,3 10,8 106,5 20-24 8,9 8,7 8,8 99,7 25-29 7,8 7,8 7,8 97,2 30-34 7,8 7,7 7,7 97,9 35-39 7,7 7,5 7,6 98,6 40-44 7,3 7,3 7,3 97,2 45-49 6,4 6,4 6,4 96,3 50-54 4,4 5,2 4,8 82,5 55-59 3,1 3,5 3,3 84,0 60-64 2,0 2,4 2,2 79,0 65+ 5,8 8,3 7,0 67,3 Tổng số 100,0 100,0 100,0 96,6 3.1.2. Thu NhËp cña ng­êi d©n viÖt nam theo GDP GDP b×nh qu©n ®Çu ng­êi tÝnh b»ng USD theo tØ gi¸ hèi ®o¸i ®· t¨ng kh¸ (tõ 289 USD n¨m 1995 lªn 402 USD n¨m 2000, lªn 639 USD n¨m 2005, lªn 1024 USD n¨m 2008) nhưng cßn thÊp so víi møc b×nh qu©n cña c¸c n­íc khi b×nh qu©n cña c¶ thÕ giíi kho¶ng trªn 7500USD, cña Ch©u ¸ kho¶ng gÇn 3000USD, cña §«ng Nam ¸ kho¶ng gÇn 2000USD. Thu nhËp cña ng­êi d©n VN ngµy mét t¨ng; do đó, ngoµi nhu cÇu vËt chÊt, hä cßn muèn tho¶ m·n nhu cÇu vÒ mÆt tinh thÇn. Đã lµ vui ch¬i,gi¶i trÝ,®i du lÞch trong n­íc vµ n­íc ngoµi cµng nhiÒu ®· gãp phÇn lµm cho ngµnh du lÞch ViÖt Nam ph¸t triÓn m¹nh mÏ. 3.1.3. Nhu cÇu ®i du lÞch cña ng­êi d©n ViÖt Nam Ngµy nay ng­êi d©n viÖt nam thÝch ®i du lÞch rÊt nhiÒu. Hä cã thÓ ®i theo tour cïng b¹n bÌ, gia ®×nh, c¬ quan, ®oµn thÓ. Với môc ®Ých vui ch¬i, gi¶i trÝ, th­ gi·n sau nh÷ng ngµy lµm viÖc, häc tËp c¨ng th¼ng, mÖt mái. BÊt k× ë mét ®é tuæi nµo ®Òu cã mét së thÝch ®i du lÞch kh¸c nhau, tõ trÎ em, häc sinh, sinh viªn, ng­êi cã gia ®×nh, ch­a cã gia ®×nh, ng­êi trung niªn ®Õn những ng­êi gia ®ều cã nhu cÇu ®i du lÞch. Theo khảo sát mặc dù người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu nhưng kết quả khảo sát cho thấy đến 54,02% người được phỏng vấn cho biết họ vẫn đi du lịch thường xuyên, 36,26% trả lời “thỉnh thoảng có đi”. Kết quả này cao hơn nhiều so với kết quả điều tra của năm 2007. 61,67% người được phỏng vấn trả lời họ và gia đình đều có kế hoạch để dành tiền đi du lịch hằng năm. Con số chi tiêu cho những chuyến đi chơi cũng hào phóng hơn dù đang thời buổi kinh tế khó khăn. 57,43% cho biết họ có thể chi tiêu 5-10 triệu đồng cho mỗi chuyến đi;  20,24% sẵn sàng chi trên 10 triệu đồng và 22,32% chọn câu trả lời chi từ 1-5 triệu đồng cho mỗi chuyến đi. Trong gần 1.000 người tiêu dùng (NTD) được khảo sát, hơn 69% cho biết họ chọn đi tour trọn gói của các công ty, chỉ  21,9% chọn đi  tour dạng mở (tức là chỉ đặt khách sạn, vé máy bay, và tự đi chơi, tự chọn điểm tham quan theo ý thích). Mục đích du lịch để xả stress là ý kiến được nhiều người đồng tình nhất (chiếm 38,3% ), đi du lịch phải chú trọng khám phá văn hóa, lịch sử (chiếm 31,7%), mục đích khám phá ẩm thực, mua sắm (chiếm 30%).   51% NTD trả lời khi chọn mua tour, uy tín công ty du lịch làm tour là điều quan trọng nhất khi chọn lựa. Trong khi đó yếu tố “giá rẻ, có nhiều khuyến mãi hấp dẫn” chỉ chiếm có 15,7%; 15,49% tập trung vào yếu tố hướng dẫn viên công ty phải chuyên nghiệp; 12,5% quan tâm đến vấn đề bảo hiểm du lịch. Trong khi đó, yếu tố chọn tour qua quảng cáo chỉ chiếm 5,28%.  “NTD thường tìm thông tin du lịch ở đâu?” - câu hỏi khảo sát này cũng có một kết quả khá thú vị: 40,39% trên báo đài, 33,68% trên mạng; 20,25% qua người thân, bạn bè, trong khi chỉ có 5,68% tin vào các tờ rơi quảng cáo. Một vấn đề các nhà kinh doanh tour cũng nên lưu ý, trong câu hỏi “Điều gì làm bạn khó chịu khi đi du lịch?”, yếu tố thu thêm nhiều khoản phụ phí chiếm tỉ lệ đồng tình cao nhất  (23,27%), kế tiếp là “bị cắt xén điểm tham quan” (chiếm 22,1%), món ăn không phù hợp (17,64%), hướng dẫn viên thiếu chuyên nghiệp (13,86%). Cã nhiÒu b¹n trÎ thÝch “®i du lÞch ng¾n ngµy”bëi nhiÒu lý do kh¸c nhau: - Không thể vắng mặt khỏi nhà quá lâu. - Không thích tay xách nách mang hành lý cồng kềnh.Mỗi người một ba-lô gọn nhẹ đeo trên lưng, có thể đi dép lê, mặc quần lửng sáng leo lên xe rồi chiều về cũng y như thế, đó là ưu điểm của những chuyến du lịch một ngày. - Đi để học hỏi và rèn luyện sức khỏe Trong thời buổi mà các chuyên gia sức khỏe liên tục cảnh báo thói quen “ngồi đâu ngồi ỳ một chỗ” của con người sẽ dẫn đến nhiều hậu quả xấu - trong đó dễ thấy nhất là mỡ bụng và bệnh vặt - đã khiến nhiều người lâu nay ít dịch chuyển trở nên tích cực đi lại hơn rất nhiều. 3.2. Kinh tế 3.2.1. Toàn cảnh nền kinh tế Việt Nam Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế Việt Nam và gây ảnh hưởng nặng nề tới tất cả các chủ thể trong nền kinh tế từ các doanh nghiệp, người lao động và gia đình của họ khiến tình trạng của nền kinh tế xấu đi trông thấy. <!-- /* Font Definitions */ @font-face {font-family:"Cambria Math"; panose-1:2 4 5 3 5 4 6 3 2 4; mso-font-charset:0; mso-generic-font-family:roman; mso-font-pitch:variable; mso-font-signature:-1610611985 1107304683 0 0 159 0;} @font-face {font-family:Calibri; panose-1:2 15 5 2 2 2 4 3 2 4; mso-font-charset:0; mso-generic-font-family:swiss; mso-font-pitch:variable; mso-font-signature:-1610611985 1073750139 0 0 159 0;} /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-unhide:no; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; margin-top:0in; margin-right:0in; margin-bottom:10.0pt; margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:"Times New Roman";} p.pbody, li.pbody, div.pbody {mso-style-name:pbody; mso-style-unhide:no; mso-margin-top-alt:auto; margin-right:0in; mso-margin-bottom-alt:auto; margin-left:0in; mso-pagination:widow-orphan; font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman","serif"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} .MsoChpDefault {mso-style-type:export-only; mso-default-props:yes; font-size:10.0pt; mso-ansi-font-size:10.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-hansi-font-family:Calibri;} @page Section1 {size:595.0pt 842.0pt; margin:1.0in 1.0in 1.0in 1.0in; mso-header-margin:.5in; mso-footer-margin:0in; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} --> Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh. Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo đà chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó chính phủ Việt Nam đã thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách như thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%), siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp bách. Các chính sách này đã tỏ ra hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuối năm, thâm hụt thương mại giảm bớt qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổn định hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ. Tuy nhiên chưa kịp hoàn hồn, ngay sau đó Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với những thử thách cam go hơn đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ những tháng cuối năm 2008. Cuộc khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam khi nhu cầu hàng hóa của toàn cầu suy giảm nghiêm trọng. Điều này dẫn tới sự sụt giảm xuất khẩu cũng như đầu tư của Việt Nam tạo ra nguy cơ suy thoái kinh tế và đe dọa làm mất cân bằng cán cân thương mại một lần nữa. Quan sát các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2007 và 2008 có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã yếu đi rõ rệt và dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết. Bảng các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam năm 2007&2008: Đơn vị: % Năm 2007 2008 Tăng trưởng GDP 8.5 6.2 Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân 9.6 3.9 Tăng trưởng chi tiêu công 8.9 8.0 Tăng trưởng đầu tư 23.0 14.0 Tăng trưởng xuất khẩu 15.2 10.6 Tăng tưởng nhập khẩu 21.3 15.1 Chỉ số giá tiêu dùng 12.6 23.0 3.2.2. Tác động của kinh tế đến du lịch Năm 2008, hoạt động du lịch trên toàn cầu gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính. Sự sụt giảm của ngành du lịch được nhận thấy rõ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Một số quốc gia du lịch hàng đầu trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Singapore giảm sút rõ rệt. Trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, ngành du lịch Việt Nam cũng đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Trong 6 tháng đầu năm 2008, lượng khách quốc tế đến Việt Nam vẫn tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cộng dồn 11 tháng năm 2008, lượng khách quốc tế chỉ tăng 1,1% so với 11 tháng năm 2007, đạt 3.877.745 lượt. Nhiều thị trường có lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trong nhiều năm qua, sang năm 2008 bị giảm sút như: Hàn Quốc giảm 4,5%, Nhật Bản giảm 5,9%, Đài Loan giảm 2,1%. Tuy nhiên, một số thị trường vẫn tăng trưởng như: Trung Quốc tăng 14,7%, Mỹ tăng 1,7%, Úc tăng 3,8%, Malaysia tăng 13,5%, Singapore tăng 14,3%. Tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong cả năm 2008 đạt khoảng 4,2 triệu lượt; khách du lịch nội địa ước đạt 20 triệu lượt; thu nhập xã hội từ du lịch năm 2008 ước đạt 60.000 tỷ đồng.Trong tháng 12/2008 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 375.995 lượt. Tổng cộng trong cả năm 2008 lượng khách quốc tế ước đạt 4.253.740 lượt, tăng 0,6% so với năm 2007. "Du lịch Việt Nam không thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu khi năm nay, khách quốc tế đến chỉ bằng năm ngoái. Dự kiến, mức tăng là 0% trong 6 tháng đầu năm 2009, thậm chí còn tăng trưởng âm", Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh nhận định. Suy thoái kinh tế thế giới khiến du khách giảm chi tiêu, cộng với tỷ giá ngoại tệ trong nước thay đổi liên tục khiến giá tour tăng, gây khó khăn cho nhiều đoàn khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam.. Giá cả hàng hóa tăng cao, giá xăng tăng trong giai đoạn vừa qua làm cho lượng khách du lịch trong nước và quốc tế giảm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2009, khách quốc tế đến nước ta ướt tính đạt 688,8 nghìn lượt người, giảm 10,3% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng chỉ đạt 403,4 nghìn lượt người, giảm 14,6%; đến vì công việc 107,7 nghìn lượt người, giảm 20,1%; thăm thân nhân đạt 129,3 nghìn lượt người, tăng 2,4%. Du lịch là một trong những ngành mũi nhọn của kinh tế Việt Nam. Như vậy để cải thiện tình hình hiện nay chính phủ cần có những biện pháp đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng, tăng trưởng trong giai đoạn tới. 3.3. Điều kiện tự nhiên Việt Nam được tự nhiên ưu ái một vị trí địa lý thuận lợi và thiên nhiên tươi đẹp với nhiều khu thắng cảnh nổi tiếng. Vị trí cửa ngõ của bán đảo Đông Dương tạo thuận lợi cho du khách quốc tế du lịch vào Việt Nam bằng bất cứ hình thức nào, kể cả đường bộ, đường thủy và đường không 3.3.1. Địa hình a. Phần đất liền * Bốn vùng núi chính: - Vùng núi Đông Bắc (còn gọi là Việt Bắc) kéo dài từ thung lũng sông Hồng đến vịnh Bắc Bộ. Tại đây có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn), hang Pắc Bó, thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), núi Yên Tử, đỉnh núi Tây Côn Lĩnh (Hà Giang) với độ cao 2.431m, cao nhất vùng Đông Bắc. - Vùng núi Tây Bắc kéo dài từ biên giới phía bắc (giáp Trung Quốc) tới phía tây tỉnh Thanh Hoá. Đây là vùng núi cao hùng vĩ có Sa Pa (Lào Cai) ở độ cao 1.500m so với mặt biển - nơi nghỉ mát lý tưởng, tập trung đông các tộc người H'Mông, Dao, Kinh, Tày, Giáy, Hoa, Xá Phó... Vùng núi Tây Bắc còn có đỉnh núi Phan Si Păng, cao 3.143m, cao nhất Đông Dương. - Vùng núi Trường Sơn Bắc từ phía tây tỉnh Thanh Hóa đến vùng núi Quảng Nam - Đà Nẵng, có vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản văn hóa thế giới (Quảng Bình) và những đường đèo nổi tiếng như đèo Ngang, đèo Hải Vân... - Vùng núi Trường Sơn Nam nằm ở phía tây các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau những khối núi đồ sộ là một vùng đất rộng lớn được gọi là Tây Nguyên (cao nguyên phía tây). Vùng đất đầy huyền thoại này còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn về thực vật, động vật, nhất là nền văn hóa đặc sắc của các bộ tộc ít người. Thành phố Đà Lạt - nơi nghỉ mát lý tưởng được hình thành từ cuối thế kỷ 19. * Hai đồng bằng lớn: - Đồng bằng sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ): rộng khoảng 15.000km² được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn là sông Hồng và sông Thái Bình. Đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ và cũng là nơi hình thành nền văn minh lúa nước. - Đồng Bằng sông Cửu Long (đồng bằng Nam Bộ): rộng trên 40.000km², là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi. Đây là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam. * Sông ngòi: Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn con sông lớn, nhỏ. Dọc bờ biển, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông, do đó, hệ thống giao thông đường thủy khá thuận lợi. Hai hệ thống sông quan trọng là sông Hồng ở miền Bắc và sông Mê Kông (còn gọi là sông Cửu Long) ở miền Nam. b. Vùng biển Việt Nam có 3.260km bờ biển, nếu có dịp đi dọc theo bờ biển Việt Nam du khách sẽ được đắm mình trong làn nước xanh của những bãi biển đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Lăng Cô, Non Nước, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên... Có nơi núi ăn lan ra biển tạo nên một vẻ đẹp kỳ vĩ như: Vịnh Hạ Long, đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Việt Nam có nhiều hải cảng lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn,... Giữa vùng biển Việt Nam còn có hệ thống đảo và quần đảo gồm hàng ngàn đảo lớn nhỏ nằm rải rác từ Bắc đến Nam, trong đó có hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa. 3.3.2. Khí hậu Việt Nam nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22ºC đến 27ºC. Hàng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm². Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Trên nền nhiệt độ chung đó, khí hậu của các tỉnh phía bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Việt Nam chịu sự tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Châu Á. So với các nước này, Việt Nam nhiệt độ về mùa đông lạnh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31653.doc
Tài liệu liên quan