Lời mở đầu
Để góp phần tiếp tục thực hiện đường lối Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước, duy trì nhịp độ tăng trưởng Kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho việc đầu tư và phát triền. Việc xây dựng Thị trường Chứng khoán ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế. Điều này đã được khẳng
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thị trường chứng khoán VN - Thực trạng, một số vấn đề về quản lý và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển tất yếu của thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định trong Nghị Quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng : " ...phát triển Thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn, ....chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng Thị trường Chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển Kinh tế - Xã hội của đất nước.... ".
Vào cuối tháng 07 năm nay, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán ( TTGDCK ) đầu tiên của nước ta đã khai trương và đi vào hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự kiện này là hoàn toàn bình thường và tất yếu, song đối với nước ta, nó lại có ý nghĩa trên nhiều mặt. Đặc biệt là trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi nền Kinh tế đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, (có cả những khó khăn chưa từng gặp trong 15 năm đổi mới vừa qua), ý nghĩa đó càng được nhân lên gấp bội.
Với đề tài : "Thị trường Chứng khoán Việt Nam - Thực trạng, Một số vấn đề về Quản lý và các Giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển tất yếu của TTCKVN", Đề án môn học này muốn đưa ra một số vấn đề về hoạt động Quản lý Kiểm soát và các Giải pháp khác nhằm định hướng cho Thị trường Chứng khoán phát triển một cách mạnh mẽ, đúng hướng và phù hợp với các điều kiện của nền Kinh tế Việt Nam .
Trong điều kiện về mặt thời gian, tài liệu tham khảo và khả năng phân tích lý luận còn rất hạn chế, đặc biệt đây là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam, do vậy chắc chắn bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót và khá nhiều vấn đề bất cập, nhưng đây mới chỉ là bài viết sơ bộ. Rất mong sự quan tâm góp ý, chỉ bảo của Thầy giáo và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và hướng dẫn chu đáo của Thầy giáo GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn, trưởng bộ môn Quản lý Xã hội, Khoa Khoa học Quản lý, Đại học Kinh tế Quốc dân .
Chương I :
Tổng quan về Chứng khoán
và Thị trường Chứng khoán
1.1. Chứng khoán :
1.1.1. Khái niệm: Chứng khoán theo cách hiểu thông thường là các loại giấy tờ có giá, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, được phát hành và lưu thông trên Thị trường Chứng khoán. Như vậy, Chứng khoán chính là các loại chứng từ (dưới hình thức giấy tờ hoặc được ghi trên Hệ thống bảng điện tử) hoặc các bút toán ghi sổ, xác nhận quyền lợi hợp pháp của người sở hữu Chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành Chứng khoán.
1.1.2. Các loại Chứng khoán :
Chứng khoán bao gồm nhiều loại khác nhau như : Cổ phiếu, Trái phiếu, Chứng chỉ Quỹ đầu tư, và các loại Chứng khoán khác.... Trong đó Cổ phiếu và Trái phiếu là 2 loại Chứng khoán quan trọng và phổ biến nhất.
1.1.2.1. Cổ phiếu : Là một loại Chứng từ do các Công ty hay các tổ chức tài chính Cổ phần phát hành có xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người mua cổ phiếu đối với tài sản của Công ty hay Tổ chức phát hành đó. Cổ phiếu không có kỳ hạn, mà nó tồn tại cùng với sự tồn tại của Công ty hay Tổ chức phát hành ra nó. Cổ phiếu có hai loại : Cổ phiếu thường và Cổ phiếu ưu đãi :
- Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lý và kiểm soát của công ty. Loại cổ phiếu này được bán cho tất cả mọi người. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu Hội đồng Quản trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của Công ty . Khi công ty phá sản, hoặc giải thể, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được chia số tiền còn lại sau khi đã thanh toán các khoản nợ và cổ phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu ưu đãi dành cho những người có công sáng lập. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi được hưởng lợi tức cố định không phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty mà theo tỷ lệ phần trăm ghi trên cổ phiếu. Những cổ đông này không được tham gia biểu quyết tại Đại hội đồng .
1.1.2.2. Trái phiếu : Là một loại Chứng từ có khả năng chuyển đổi do Chính phủ ở cấp trung ương, Chính quyền ở cấp địa phương hoặc các tổ chức có tư cách pháp nhân phát hành nhằm xác nhận quyền chủ nợ của người có trái phiếu trong việc tiếp nhận vốn gốc và lãi suất được ghi trên trái phiếu, lời hứa của nhà phát hành, các cam kết khác, cũng như việc hoàn trả toàn bộ vốn gốc khi đến ngày đáo hạn. Trái phiếu thường được phát hành khi cần huy động vốn dài hạn. Trái phiếu cũng có hai loại chủ yếu, đó là :
- Trái phiếu Công ty : Là loại Trái phiếu do các Công ty được phép phát hành, lãi suất của nó phụ thuộc vào tình hình tài chính của Công ty và lợi nhuận bình quân chung của nền Kinh tế và thường là từ 5 - 7% / năm, được trả theo định kỳ hai hoặc bốn lần trong một năm.
- Trái phiếu Chính phủ và Trái phiếu Chính quyền địa phương: Là loại Trái phiếu được phát hành để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách, hoặc để thực hiện một dự án của Nhà nước phục vụ cho các lợi ích công cộng.
1.1.2.3. Ngoài ra, Kỳ phiếu cũng là một loại Chứng khoán ghi số tiền Nhà nước vay để bù đắp vào chỗ thiếu hụt tạm thời của ngân sách, vì thế Kỳ phiếu cũng được coi là công trái ngắn hạn và lãi suất của Kỳ phiếu được ấn định ngay từ khi phát hành.
1.2. Thị trường Chứng khoán :
1.2.1. Khái niệm: Thị trường Chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các loại hàng hoá tài chính (như Cổ phiếu, Trái phiếu, kỳ phiếu, và các khoản vay Ngân hang có kỳ hạn trên một năm ....) nhằm mục đích kiếm lời.
1.2.2. Các loại Thị trường Chứng khoán :
Có 02 loại Thị trường Chứng khoán :
1.2.2.1. Thị trường Chứng khoán Sơ cấp: Là Thị trường phát hành các loại Chứng khoán . Nhà phát hành ( đối với Trái phiếu chủ yếu là Chính phủ ) hoặc các Doanh nghiệp muốn huy động vốn phải phát hành Chứng khoán ra Thị trường Chứng khoán Sơ cấp.
1.2.2.2. Thị trường Chứng khoán Thứ cấp : Là Thị trường mà các Chứng khoán được Mua bán lại các Chứng khoán đã được bán ở Thị trường Sơ cấp. Trên Thị trường Thứ cấp, lợi nhuận thu được từ việc bán Chứng khoán thuộc về Nhà đầu tư và những người buôn bán chứ không thuộc về các Nhà phát hành Chứng khoán .
Thị trường Chứng khoán Thứ cấp lại bao gồm:
* Sở Giao dịch Chứng khoán : là cơ quan đại diện cho Thị trường Giao dịch Chứng khoán tập trung, nơi các công ty môi giới Chứng khoán mua bán và Giao dịch theo phương thức đấu giá. Các Chứng khoán niêm yết và Giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán phải là các Chứng khoán của các công ty lớn có Chất lượng cao.
* Thị trường Chứng khoán Phi tập trung ( viết tắt là Thị trường OTC ): là nơi đại diện cho một Thị trường thương lượng, nơi mà một người bán thương lượng với một người mua. Các Chứng khoán giao dịch tại Thị trường OTC thường là các Chứng khoán của các Công ty vừa và nhỏ, không đủ các tiêu chuẩn niêm yết tại các Sở Giao dịch Chứng khoán .
1.3. Thị trường Tài chính và mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán:
1.3.1. Thị trường Tài Chính:
Hệ thống Tài chính là sự tập hợp các loại thị trường, các tổ chức, pháp luật và sử dụng các kỹ thuật, qua đó các cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác được mua bán giao dịch, xác định lãi suất của thị trường, tạo ra và chuyển giao các dịch vụ tài chính. Hệ thống tài chính quyết định giá cả của các loại tín dụng và quy mô sẵn có của các khoản tín dụng để thanh toán cho hàng ngàn loại hàng hoá và dịch vụ mà chúng ta mua hàng ngày. Nhiệm vụ chính của Thị trường Tài chính là luân chuyển các nguồn vốn từ những người có tiến tiết kiệm tới những người cần sử dụng vốn để đầu tư vào Sản xuất Kinh doanh. Với mục đích tạo ra các nguồn vốn sẵn có để cho vay, hệ thống tài chính cung cấp các phương thức mà nhờ đó nền Kinh tế hiện đại tăng trưởng và phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân.
Thị trường Tài chính được phân ra thành các loại Thị trườngnhư sau:
- Thị trường tiền tệ với Thị trường Vốn.
- Thị trường Mở với Thị trường thương lượng.
- Thị trường Sơ cấp với Thị trường Thứ cấp....
Trên Thị trường Tài chính, các hình thức tài trợ vốn có thể phân ra thành hai loại:
- Tài trợ trực tiếp: là việc người đi vay và người cho vay trực tiếp gặp nhau, trao đổi tiền vốn để lấy các tài sản tài chính.
- Tài trợ gián tiếp: là việc tài trợ thông qua người trung gian. Người trung gian nhận tiền gửi của người cho vay và sử dụng nguồn tiền này để cho vay lại tới người có nhu cầu về vốn.
1.3.2. Mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán :
Thị trường Chứng khoán nằm trong Thị trường Vốn dài hạn, hoạt động thông qua cơ chế tài trợ trực tiếp. Như vậy, thông qua các cơ chế cụ thể của Thị trường để các nhà đầu tư và người đi vay gặp được nhau rồi thoả thuận về việc vay vốn trên Thị trường. Hàng hoá của Thị trường Chứng khoán chính là các loại cổ phiếu, trái phiếu do các Công ty, chính phủ và các cơ quan của chính phủ, chính quyền địa phương phát hành. Thị trường Vốn là nơi các Doanh nghiệp, cá nhân đi vay thông qua các trung gian tài chính như các Ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi, thị trường liên ngân hàng.... để có được các nguồn vốn dài hạn, còn Thị trường Chứng khoán là nơi mà người đi vay và người cho vay gặp nhau trên Thị trường thông qua một cơ chế, quy trình điều chỉnh, trực tiếp thương lượng mua bán các loại Chứng khoán trong nền Kinh tế .
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán :
Thị trường Chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV tại những Thành phố Trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các Quán Cà phê để trao đổi việc Mua bán, trao đổi và thương lượng về các loại vật phẩm Hàng hóa, ngoại tệ và giá nông sản, khoáng sản, động sản .... lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng lên dần thành một khu chợ riêng. Cuối Thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành "Thị trường" với việc họ thống nhất các quy ước được sửa đổi thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung đối vơí các thành viên tham gia Thị trường.
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của Gia đình Vanber ở Bruges (Vương quốc Bỉ) , nơi mà các thương gia từ nhiều nước, trong đó ;phần lớn là người Italya thường gặp gỡ để mua các kỳ phiếu nước ngoài và trao đổi các thông tin về kinh doanh. Tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da bằng Tiếng Pháp là "BOURSE", nghĩa là " Mậu dịch Thị trường ", hay còn gọi là " Sở Giao dịch ", sau đó dần dần phát triển sang các nước như Anh, Pháp, Đức, Hà lan, Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ. "Mậu dịch Thị trường" được chia thành 3 loại: Mậu dịch Thị trường về hàng hoá, mậu dịch Thị trường về ngoại tệ, và mậu dịch Thị trường giá khoáng - động sản. Mậu dịch Thị trường Khoáng - Động sản dần dần tách ra thành Thị trường Chứng khoán và các giao dịch hợp đồng cho tương lai được tách ra thành Thị trường Kỳ hạn.
Nhận thức được vai trò của Thị trường Chứng khoán đối với sự phát triển Kinh tế, một số nước đã thiết lập một nơi giao dịch chính thức được gọi là Sở Giao dich Chứng khoán. Sở Giao dịch Chứng khoán Pháp thành lập năm 1724 tại Paris, Sở Giao dịch Chứng khoán Anh thành lập năm 1802, Sở Giao dịch Chứng khoán Mỹ thành lập năm 1878.....
Ngày nay, theo sự phát triển của Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ, các phương thức Giao dịch ở các Sở Giao dịch Chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại Hiệu quả và Chất lượng cho Giao dịch, các Sở Giao dịch Chứng khoán đã dần dần sử dụng máy Vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ Giao dịch thủ công kết hợp với máy Vi tính sang sử dụng hoàn toàn Hệ thống Giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia.
Lịch sử phát triển các Thị trường Chứng khoán trên Thế giới đã trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên lúc xuống, vào những năm 1875 - 1913 : Thị trường Chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự Tăng trưởng của nền Kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ năm đen tối", tức là ngày 29 - 10 - 1929 đã làm cho Thị trường Chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản rơi vào tình trạng khủng hoảng và mất lòng tin. Cho mãi tới khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, các Thị trường Chứng khoán cũng phục hồi dần dần và phát triển mạnh. Rồi cho đến năm 1987 một lần nữa Thị trường Chứng khoán Thế giới lại bị điên đảo với "ngày thứ hai khủng khiếp" do Hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của Giao dịch , gây nên sự sụt giá Chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin của khách hàng rồi phản ứng dây chuyền mà các hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929 .
Gần đây, Thị trường Chứng khoán Thế giới đã lại có thêm một cuộc khủng hoảng nhẹ vào tháng 11 năm 1997 do cuộc Khủng hoảng Tài chính Tiền tệ Châu á và Hồng Kông làm tăng lãi suất khiến cho Thị trường Chứng khoán ở tất cả các nước đã bị giảm giá trong vòng từ 1 - 2 ngày.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở Giao dịch Chứng khoán phân tán khắp ở tất cả các Châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam á được hình thành và phát triển vào những năm 1960 - 1970, và ở các nước Đông Âu ( Balan, Hungary, Séc, Nga,) và Châu á ( Trung Quốc ) vào những năm 1980 - đầu những năm 1990.
Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán trên Thế giới cho thấy giai đoạn đầu Thị trường phát triển một cách tự phát, với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Dần dần về sau mới có sự tham gia của Công chúng đầu tư. Khi phát triển đến một mức độ nhất định, Thị trường lại phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan Quản lý Nhà nước và hình thành Hệ thống Pháp lý để điều chỉnh hoạt động của Thị trường . Kinh nghiệm cho thấy rằng các Thị trường Chứng khoán sau khi thiết lập muốn có hoạt động Hiệu quả, ổn định và nhanh chóng phát triển vững chắc phải có sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt về Hàng hóa, Luật pháp, Con người, Bộ máy Quản lý và nhất là sự giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt của Nhà nước . Song cũng có một số Thị trường Chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như Thị trường Chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài (do thiếu Hàng hóa và do không được quan tâm đúng mức), Thị trường Chứng khoán ở Philipin lại kém Hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và Quản lý thống nhất hoạt động của Hai sở Giao dịch Chứng khoán ( tại Makita và Manila ), Thị trường Chứng khoán Balan, Hungary lại gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp.
Cho tới nay, Thị trường Chứng khoán phát triển ở mực có thể nói là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống Kinh tế của những nước theo Cơ chế Thị trường và nhất là đối với các nước Đang phát triển do cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền Kinh tế Quôc dân .
1.5. Vai trò và chức năng của Thị trường Chứng khoán trong Nền Kinh tế Quốc dân:
Thị trường Chứng khoán là một thể chế tài chính bậc cao, hoạt động của nó thông qua các công cụ là cổ phiếu, trái phiếu, và với nhiều loại hình khác nhau phù hợp với tâm lý muôn vẻ của dân chúng, qua đó cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và chính phủ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế. Bài học kinh nghiệm của các tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới cho thấy : không thể triển khai các dự án tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ, mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng vào những mục tiêu trung hạn và dài hạn.
Có thể nói, cùng với hệ thống huyết mạch của ngành ngân hàng, Thị trường Chứng khoán đóng vai trò là "bà đỡ" thứ hai cho các dự án kinh doanh tiến bộ đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. ĐIều này đã được thử nghiệm và được khẳng địnhở hầu hết các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua.
1.5.1. Các Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán :
1.5.1. Ưu điểm của Thị trường Chứng khoán :
1.5.1.1.Thị trường Chứng khoán là một thể chế tài chính hữu hiệu, nhằm tạo ra các công cụ để khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho phát triển kinh tế :
Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu Nhà nước hay sở hữu Tư nhân, khi cần vốn đầu tư cũng cần phải thực hiện thông qua hai giải pháp: 1) Giải pháp Nội lực : tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ từ nội bộ thông qua lợi nhuận đạt được do làm ăn có hiệu quả; 2) Giải pháp Ngoại lực : tức là huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, thông qua các hình thức tài trợ tín dụng từ phía các ngân hàng (nguồn vốn ngắn hạn) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn (vốn dài hạn). Các hình thức huy động Ngoại lực muốn có hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng (đầu tư gián tiếp qua ngân hàng) và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp). Thị trường Chứng khoán ra đời, đã tạo ra những công cụ mới, tinh tế và đa dạng trong các phương cách đầu tư của đông đảo công chúng có tâm lý và suy nghĩ khác nhau. Với một hệ thống đa dạng các loại chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng lựa chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền, .... có thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của những người đầu tư trực tiếp (cổ phiếu, trái phiếu), hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian (quỹ đầu tư) để lựa chọn những nơi đầu tư có hiệu quả.
1.5.1.2. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước phát hành Trái phiếu, Chính phủ huy động vốn phục vụ cho các Chương trình phát triển Kinh tế :
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển Kinh tế . Nền Kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước càng lớn mạnhthì khả năng thực hiện thành công các chiến lược kinh tế - xã hội càng dễ dàng. Tuy nhiên, nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của mỗi quốc gia và các khoản thu nhập từ khai thác tài nguyên. Trong thực tế, các khoản thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi, lúc đó ngân sách Nhà nước thường sử dụng các giải pháp vay tạm thời từ dân chúng thông qua việc phát hành các loại trái phiếu ngắn và dài hạn. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia, việc Nhà nước vay của dân thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán là biện pháp thường xuyên và mang tính kỹ thuật tiên tiến. Việc Thị trường Chứng khoán ra đời, bản thân nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ dàng mua bán) của các chứng khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư cho các nhà đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Như vậy, chính trái phiếu đã tạo ra thị trường và đến lượt nó thị trường chứng khoán lại tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, làm cho việc phát hành các trái phiếu của chính phủ được tiến hành một cách thường xuyên. Vì thế, nó được xem như một công cụ đắc lực trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn .
1.5.1.3. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò quan trọng, đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án Sản xuất - Kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có TTCK thì không phá huy được tính hiệu quả của nó. Khi tham gia vào thị trường vốn trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thông qua tỷ lệ nắm giữ các Chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Vì vậy, việc kiểm soát tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào các lĩnh vực đầu tư trong nước qua các giai đoạn phát triển khác nhau là việc hoàn toàn có thể thực hiện được trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán, chuyền nhượng chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc đăng ký, lưu ký chứng khoán thông qua các tổ chức lưu ký. Điều này cho phép Nhà nước có thể kiểm soát được các tổ chức, cá nhân nước ngoài góp vốn và các tỷ lệ nắm giữ trong từng doanh nghiệp, cũng như trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
1.5.1.4. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế:
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên Thị trường Chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người nắm giữ Chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (đây là tính linh hoạt của chứng khoán). Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới. Điều này làm cho vốn của các nhà đầu tư luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án khác nhau (lưu động hoá tư bản).
Với sự xuất hiện của thị trường chứng khoán, khoảng cách giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư được xoá bỏ.. Khi mua cổ phiếu thì thực chất người tiết kiệm đã trở thành một nhà đầu tư bởi vì khi mua cổ phiếu thì họ đã có những lựa chọn để đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhất. Đứng trước hàng loạt các biến đổi thường xuyên của nền kinh tế trong đó một số ngành phát đạt và làm ăn có lãi, trong khi các ngành khác làm ăn thua lỗ. Những nhà đầu tư này phải đưa ra các quyết định về việc họ có nên duy trì đầu tư trong lĩnh vực cũ hay di chuyển sang lĩnh vực mới . Chính vì thế, thị trường chứng khoán giúp các nhà đầu tư di chuyển vốn từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác một cách dễ dàng.
1.5.1.5. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước :
Xu hướng quốc tê hiện nay là giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động Kinh tế bằng cách giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước trong các Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh mà Nhà nước xét thấy không cần thiết và không ảnh hưởng đến tình hình chính trị cũng như an ninh quốc gia. Việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là hai tác nhân có mối quan hệ biện chứng với nhau làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Giá cả cổ phiếu của doanh nghiệp được hình thành một cách khách quan trên cơ sở định giá trị tài sản khi thực hiện cổ phần hoá, phản ánh giá trị hiện tại đích thực của doanh nghiệp. Quá trình phát triển của doanh nghiệp sẽ làm cho thị giá của chứng khoán tăng lên hay giảm xuống theo sự biến động của doanh nghiệp trong quá trình SX-KD và được định giá chính thức theo giá chứng khoán trên thị trường.
1.5.1.6. Thị trường Chứng khoán kích thích các Doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và quan tâm tới vấn đề hiệu quả:
Các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoán của mình tại sở giao dịch phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này được xem xét trên hai khía cạnh khác nhau, đó là các tiêu chuẩn về mặt định tính và các tiêu chuẩn về mặt định lượng. Mỗi một Thị trường đều có những tiêu chuẩn định tính và định lượng khác nhau, nhưng nhìn chung lại đều xem xét đến các vấn đề : tổng tài sản hiện có của tổ chức niêm yết; tỷ lệ nợ trên tổng số vốn khả dụng; số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, cơ cấu HĐQT, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng được xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ pháp luật, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và được các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chứng khoán của họ. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Sở giao dịch, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, ngoài ra còn chịu sự chi phối của các công ty kiểm toán độc lập và các công ty đánh giá xếp hạng. Cơ chế hoạt động của công ty cổ phần cho phép chủ sỡ hữu chứng khoán có quyền tham gia điều hành và quản lý công ty. Thông qua việc nắm giữ chứng khoán, nhà đầu tư có quyền biểu quyết, và có thể sẽ tham gia vào HĐQT hoặc ban giám đốc điều hành công ty, khi đó sẽ chịu trách nhiệm về kết qủa kinh doanh, cũng như các xu hướng phát triển của công ty. Chính điều này đã cho phép cơ cấu điều hành của công ty luôn luôn thay đổi, nhằm tìm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và phát huy tính năng động sáng tạo của công ty đó.
1.5.1.7. Thị trường Chứng khoán là một trong những công cụ để các quốc gia hội nhập với nền Kinh tế Thế giới:
Thị trường chứng khoán là con đường quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Một doanh nghiệp cần vốn có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vừa có thể phát hành trên thị trường chứng khoán trong nước hoặc ngoài nước. Một doanh nghiệp tư nhân có vốn dư thừa không chỉ có thể mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trong nước mà còn có thể thông qua thị trường chứng khoán quốc tế để mua cổ phiếu, trái phiếu nước ngoài, tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng hình thành mối quan hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh sự vận dụng và chu chuyển tiền vốn giữa các nước, thực hiện việc vạy mượn lâu dài trên thị trường quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước hội nhập vào Nền Kinh tế Thế giới.
1.5.1.8. Thị trường chứng khoán hoạt động công bằng và hiệu quả cũng thúc đầy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp :
Thị trường chứng khoán là nơi hội tụ các loại cổ phiếu, trái phiếu của các công ty, trong đó giá cổ phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tại một thời điểm nào đó. Đồng thời nếu so sánh với giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác cùng lĩnh vực đầu tư thì có thể giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty này cao hơn hoặc thấp hơn so với các công ty khác. Điều này thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu, trái phiếu thấp hơn phải xem xét lại các hoạt động của mình để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường .
1.5.1.9. Thị trường chứng khoán cũng là một Phong Vũ Biểu của nền KTQD:
Các chỉ số chứng khoán được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau nhằm cung cấp các thông tin về tình trạng tốt hay xấu của nền KTQD. Chỉ số chứng khoán nếu tăng đồng nghĩa với tình trạng của nền kinh tế đang có dấu hiệu khả quan, bởi vì tình trạng sản xuất của các công ty, các hãng, các doanh nghiệp (có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng khoán) đang làm ăn phát đạt thì dẫn tới có nhiều người muốn mua cổ phiếu của tổ chức đó, làm cho giá cả của các loại cổ phiếu trái phiếu được đẩy lên dẫn tới chỉ số chứng khoán tăng lên.
Như vậy, có thể xem Chỉ số của thị trường chứng khoán như là một phong vữ biểu phản ánh tương đối tình trạng của nền kinh tế quốc dân .
1.5.2. Nhược điểm của thị trường chứng khoán :
Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hếtcác quốc gia có nền kinh tê thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng đến các hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta thường ví thị trường chứng khoán như con dao hai lưỡi, nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết được.
1.5.2.1. Thị trường chứng khoán luôn chức đựng các yếu tố đầu cơ :
Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng là giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó sẽ thu được lợi nhuận. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời cùng mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. Ngày nay, tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường xảy ra hiện tượng có nhiều cá nhân hay nhóm người chuyên buôn bán chứng khoán, họ coi việc đầu cơ chứng khoán như là một nghề.
1.5.2.2. Các hiện tượng giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán:
Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt được những thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông tin mật mà không hoặc chưa được phép công bố và sử dụng cac thông tin đó cho giao dịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính thì được gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì những phần tử có được các thông tin nội gián sẽ có nhiều lợi thế trong việc đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình (vi phạm nguyên tắc) .
Luật pháp về thị trường chứng khoán mặc dù đã có các điều khoản nghiêm cấm hành vi giao dịch nội gián, nhưng trên thực tế rất khó kiểm soát hành động này, bởi vì trong điều kiện hiện nay, công nghệ thông tin đã phát triển khá mạnh, các hành vị giao dịch cũng như cung cấp các thông tin nội bộ rất tinh vi. Vì vậy, các cơ quan quản lý và giám sát thị trường chỉ căn cứ vào các tình trạng có những thay đổi bất thường (giá lên xuống quá nhanh, hoặc tình trạng đổ xô vào mua-bán một loại chứng khoán nào đó), qua đó phát hiện và kiểm tra các hành vi nói trên, để điều tra ra hành vi giao dịch nội gián.
1.5.2.3. Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc sai sự thật về hoạt động của Doanh nghiệp:
Việc tung tin sai sự thật về các hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo ra sự hỗn độn của thị trường, gây nên tình trạng bán ồ ạt hàng loạt một loại chứng khoán nào đó với giá quá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp để nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty. Việc tung tin sai sự thật để gây thất thiệt cho các nhà đầu tư chân chínhthường được gắn liền với các hành vi khác như đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường.
1.5.2.4. Dế huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây nên khủng hoảng thị trường:
Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư (inve._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34981.doc