Lời mở đầu
Sau nhiều năm thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trên cơ sở ổn định chính trị- xã hội, kinh tế phát triển với tốc độ cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cùng dần đi vào ổn định và nâng cao, nền kinh tế đã có sự tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển, mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đang là mục tiêu hàng đầu của đất nước ta nhằm có tốc độ tăng trư
11 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thị trường chứng khoán Việt Nam và một số vấn đề đặt ra để tiếp tục phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng kinh tế cao. Vì vậy đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn.
Trước những đòi hỏi bức xúc từ nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước khác, chúng ta cần có chính sách huy động vốn tối đa bằng mọi nguồn tài chính với nhiều hình thức như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, mở rộng các quỹ đầu tư và từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Việc thành lập trị trường chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh là một bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự phát triển kinh tế ổn định của Việt Nam.
Chính vì vậy, em chọn đề tài “ Thị trường chứng khoán Việt Nam và một số vấn đề đặt ra để tiếp tục phát triển” làm đề tài cho bài tiểu luận. Đây là một đề tài khó với sự hiểu biết hạn chế của mình về thị trường chứng khoán nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Tài Chính đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận.
1- Khái niệm về thị trường chứng khoán.
Thị trường đã có một lịch sử phát triển lâu dài với các hoạt động nhộn nhịp vào cuối thời trung cổ.
Chứng khoán là một thuật ngữ để chỉ các tờ giấy có giá, tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền mà người sử dụng chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoản lợi tức theo kỳ hạn.
Thị trường chứng khoán là một trong những thị trường vốn quan trọng của nền kinh tế. Vậy Thị trường chứng khoán là gì?
Thị trường chứng khoán là hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán dài hạn ( cổ phiếu, trái phiếu) có tổ chức, theo luật pháp (luật giao dịch chứng khoán). Thị trường chứng khoán là nơi chắp nối quan hệ cung cầu vốn đầu tư dài hạn của nền kinh tế quốc gia và quốc tế, là nơi gặp gỡ, giao dịch của những người cần huy động vốn đầu tư ( người phát hành chứng khoán) cũng như giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với nhau.
Thị trường chứng khoán là kênh bổ sung nguồn vốn dài hạn quan trọng cho Nhà Nước và các doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển, chắp nối tích luỹ với đầu tư, điều hoà vốn đầu tư, cung cấp thông tin kinh tế, cung cấp dịch vụ cho việc mua bán chứng khoán...đóng vai trò quan trong trọng việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
2- Cơ cấu thị trường chứng khoán.
a- Xét về phương diện pháp lý TTCK được chia làm hai loại:
- TTCK chính thức (TTCK tập trung) là thị trường hoạt động theo đúng các quy luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu.
- TTCK phi chính thức (TTCK phi chính thức) là thị trường mua bán chứng khoán ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có trụ sở giao dịch, sàn giao dịch để ngưòi mua bán giao dịch với nhau, không có ban quản lý, không tập trung ở một nơi nhất định. Thị trường chứng khoán không chính thức gồm nhiều công ty chứng khoán rải rác khắp nơi trên đất nước. Trong TTCK phi chính thức, không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán.
b- Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán, TTCK gồm hai bộ phận cấu thành:
- Thị trường sơ cấp: là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Phát hành chứng khoán và lưu thông là giai đoạn động viên các nguồn vốn trong và ngoài nước. Đây là giai đoạn khó khăn và phức tạp nhất nhưng cũng rất quan trọng cho việc xây dựng và phát triển TTCK.
- Thị trường thứ cấp: là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành ở thị trường sơ cấp. Đây là nơi giao dịch mua bán, thanh toán hàng ngày giữa những người kinh doanh chứng khoán với nhau.
c- Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK được chia làm hai loại:
- Thị trường giao ngay: thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó vài ngày theo một quy định.
- Thị trường tương lai: là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định ở tương lai.
3- Các sản phẩm lưu hành trên TTCK.
- Cổ phiếu
- Trái phiếu công ty
- Trái phiếu dài hạn kho bạc
- Trái phiếu đô thị
- Công trái Nhà nước
- Trái phiếu cầm cố
4- Các chủ thể tham gia hoạt động trên TTCK.
- Người phát hành chứng khoán
- Người trung gian
- Những người điều hoà
- Những người đầu tư
II- Thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trải qua gần 10 năm tìm tòi và học hỏi, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vai trò của TTCK trong sự phát triển nền kinh tế, nhất là tron giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây cũng là một nhu cầu cấp bách và là động lực cho các doanh nghiệp lớn nhỏ ở nước ta có cơ hội đẩy mạnh hoạt động của mình trên thị trường thế giới. Vì vậy Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt Nam đã khai trương hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu đó. TTCK có vai trò rất lớn khi mà nền kinh tế đã đạt được một trình độ phát triển khá cao và ổn định, nền kinh tế thị trường đã vận hành một cách đồng bộ và có quy mô lớn. Do đó khi TTCK đầu tiên ra đời, chúng ta cần phải xác định làm cách nào để nó có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả. Qua thời gian đầu, TTCK của Việt Nam cũng đã đạt được những thành quả nhất định nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn và tồn tại trong quá trình hoạt động.
1- Thời cơ và thuận lợi.
Trước hết, chúng ta có hệ thống chính trị ổn định, là một môi trường đầu tư an toàn của các doanh nghiệp nước ngoài. Nền kinh tế xã hội của đất nước phát triển với nhịp độ khá cao, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân là 6 đến 7%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ giúp giải toả tình trạng ách tắc thị trường lâu nay, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư, uy tín của Đảng và Nhà nước ta được nâng cao và ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Như vậy, TTCK sẽ dễ dàng thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của mọi người, các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Cùng với việc áp dụng luật doanh nghiệp là quá trình bỏ hàng loạt những giấy phép con mà chính những thứ này đã là sự cản trở cho một môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh. Số lượng các doanh nghiệp mới đăng ký đã tăng vọt, cả các doanh nghiệp nước ngoài cũng đã bớt phần lo ngại khi đầu tư vào nước ta. Đây là một môi trường thuận lợi, nó thúc đẩy tính năng động đầu tư và sự quan tâm mạnh mẽ hơn đến hoạt động của TTCK.
Chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trường vốn. Chính phủ cũng đã thành lập Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp với chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.Trong giai đoan 2001-2010, Nhà nuớc dự kiến cổ phần hoá và sắp xếp lại 2.500 doanh nghiệp trong đó 75% là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp, tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp thực sự làm chủ và tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
* Thời kỳ thí điểm: từ năm 1992 đến 1996.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thuộc Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, tập thể công nhân viên chức tự nguyện tham gia thí điểm cổ phần hoá và qua 5 năm thi điểm đã chuyển được 5 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
* Thời kỳ mở rộng thí điểm từ 1996 đến năm 1998
Việc thực hiện cổ phần hoá đã có chuyển biến rõ rệt kể từ khi có nghị định 44/1998/NĐ-CP. Riêng nửa cuối năm 1998 đã cổ phần hoá và đa dạng hóa sở hữu được 90 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được chuyển đổi lên 120. Tính đến ngày 31/12/1999 đã chuyển thêm 250 doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Nửa cuối năm 2000 và từ đầu năm 2001 cả nước đã chuyển được 733 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Việc xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư mua bán chứng khoán một cách thuận tiện, được pháp luật bảo vệ và từng bước thu hẹp thị trường tự do hiện nay. Sự thành công của nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển TTCK Việt nam.
Chế độ kế toán doanh nghiệp mới sửa đổi và ban hành đựoc áp dụng thực hiện hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán Nhà nước và phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng là 1 yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển TTCK.
Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những thành quả tốt hơn. Cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, yếu tố này đã tác động tích cực đến việc hình thành TTCK ở nước ta.
Đối với lĩnh vực tài chính- ngân hàng, đã ra đời và phát triển khá nhiều các ngân hàng thương mại, các tổ chức bảo hiểm và các định chế tài chính khác nhau. Từ đây đã tạo nên sự cạnh tranh thúc đẩy tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ đồng thời lãi suất cho vay ngày càng giảm. Đây là điều kiện quan trọng đối với sự phát triển thị trường tài chính nói chung và tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển TTCK nói riêng.
Hệ thống thông tin liên lạc truyền thông ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh là điều kiện hỗ trợ quan trọng đảm bảo cung cấp thông tin một cách kịp thời, chính xác và toàn diện góp phần trực tiếp vào việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Đó cũng chính là nguyên nhân thúc đẩy sớm cho ra đời cơ sở dữ liệu chứng khoán Việt nam, đáp ứng nhu cầu bức thiết về thông tin cho tất cả các đối tượng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trên TTCK cũng như những ai quan tâm đến TTCK. Trong đó có Internet được đánh giá là một kênh truyền tin rất hiệu quả, giúp các nhà đầu tư nhanh chóng tiếp cận được với nguồn thông tin và điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nhà đầu tư. Với trình độ và năng lực của ngành tin học Việt nam cho đến nay đã đủ khả năng để tham gia vào việc xây dựng các chương trình của hệ thống giao dịch điện tử của TTCK.
Ngoài ra, một yếu tố rất thuận lợi cho chúng ta khi Việt nam là một nước phát triển sau nên có thể học hỏi được những kinh nghiệm của những nước đi trước.
Bên cạnh những nỗ lực ban đầu, hoạt động thực tế của TTCK không thể không thấy rằng mặc dù những điều kiện cơ bản, tối thiểu cần thiết cho sự ra đời của TTCK đã được tạo ra nhưng vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại.
2- Khó khăn và thách thức.
Trước hết khi nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá của thị trường đó. Hàng hoá của TTCK Việt nam vẫn còn rất nghèo nàn cả về số lượng và chủng loại, những công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu tại trung tâm giao dịch chứng khoán còn ít. Theo Hội thảo báo cáo kết quả dự án:” Điều tra, đánh giá các điều kiện tổ chức và vận hành TTCK Việt nam” cho thấy hiện nay chỉ có 12 công ty cổ phần niêm yết chứng khoán( trong thời điểm điều tra chỉ có 5 công ty). Về các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ hiện nay chỉ có 8 công ty chứng khoán. Tính đến đầu tháng 11/2000, TTCK Việt Nam đạt tổng giá trị khoảng hơn 40 tỷ VND = 1/10 của 1 ngày giao dịch tại sở giao dịch Jakarta, đến ngày 31/12/2001, trên thị trường có 30 loại chứng khoán được niêm yết giao dịch trong đó có 12 loại cổ phiếu, 2 loại trái phiếu doanh nghiệp nhà nước và 16 loại trái phiếu chính phủ.
Chỉ trong vòng 21 tháng đi vào hoạt động, TTCK Việt nam đã chứng kiến 4 lần cầu có sự co giãn mang tính độ biến. Suốt 6 tháng đầu năm 2001, cầu thực tế luôn luôn tăng và vượt xa cung thực tế, nhưng từ cuối tháng 6 đến tháng 10/2001 thì cầu thực tế lại bị suy giảm và luôn bé hơn cung thực tế. Từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 12/2001 cầu thực tế lại đổi chiều và vượt cung thực tế. Từ giữa tháng 12/2001 đến nay, cầu thực tế lại có sự suy giảm kéo dài.
Thị giá cổ phiếu đã tăng mạnh tới mức không thể kiểm soát được. Tiếp diễn xu hướng của những phiên cuối tháng 4/2002, vào những ngày đầu tháng 5, giá các cổ phiếu vẫn không ngừng tăng, tuy nhiên biên độ hẹp, nhưng khối lượng giao dịch qua các phiên khá cao. Vào những phiên giữa tháng, nhịp độ tăng chững lại và giảm dần nhưng chỉ đến 2 phiên giao dịch cuối tháng, thị trường lại có dấu hiệu đảo chiều khi hầu hết các cổ phiếu đều tăng vả biểu đồ chỉ số VN Index lại đi lên khá đột ngột. Những cổ phiếu tăng giá gồm: REE, TRI, GIL, BT^, AGF. Tăng mạnh nhất là cổ phiếu GIL, tăng 3000 đồng/cổ phiếu tương đương 7,2% với thị giá 44.800đồng/cổ phiếu và là cổ phiếu có giá cao nhất trên thị trường vào phiên cuối tháng 5/2002. Tiếp đến là cổ phiếu AGF tăng 2000/cổ phiếu tương đương 6,6%...
Quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước- lực lượng kinh tế lớn nhất có vai trò tiềm năng và tạo sức khuyến khích tham gia thị trường mạnh nhất diễn ra còn chậm, số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được còn thấp xa so với cả yêu cầu và mục tiêu của Chính phủ đặt ra. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh vẫn đang đứng ngoài cuộc, chưa sẵn sàng đổi mới theo hướng này. Các doanh nghiệp còn ngại tiết lộ thông tin, chưa có sự chuẩn bị đầy đủ để tahm gia TTCK, doanh nghiệp không có dự án tốt để huy động vốn, doanh nghiệp thiếu chiến lược phát triển lâu dài và ổn định. Đồng thời vẫn chưa thấy rõ lợi ích của TTCK.
Nguyên nhân sâu xa của việc chậm cổ phần hoá còn là tâm lý, lo ngại sự rủi ro của TTCK. Một phần cũng do quy mô thi trường còn quá nhỏ bé, đội ngũ quản lý, điều hành TTCk còn quá non trẻ, thiếu cả số lượng và chất lượng, kinh nghiệm lẫn kiến thức nghiệp vụ. Hạn chế về công tác quản lý và tổ chức thị trường cũng là sự lo ngại cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Mặt khác, tình hình thông tin cho hoạt động kinh doanh chứng khoán còn hạn chế. Hầu như công chúng đặt mua cổ phiếu theo tin đồn. Các bản báo cáo về tài chính của những công ty phát hành chuẩn bị rất sơ sài và không cập nhật. Quan trọng hơn nữa là các nhà quản lý và hoạch định chính sách như thiếu hàng hóa, thiếu các chính sách khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khung pháp lý phức tạp, lãi suất không hấp dẫn đối với người đầu tư vào thị trường trái phiếu, chưa có thị trường giao dịch các loại cổ phiếu vừa và nhỏ, thiếu các tổ chức định mức tín nhiệm, các tổ chức kế toán- kiểm toán còn yếu...
Không những chính sách thuế của Chính phủ không nhằm mục tiêu phát triển kinh tế thị trường như mức thuế đánh trên giao dịch chứng khoán quá cao hay đánh trên thu nhập cổ tức quá cổ đông. Cách đánh thuế như vậy là không khuyến khích được phát hành và lưu hành chứng khoán.
Cuối cùng,đến nay chúng ta vẫn chưa từng trải qua 1 lần thực hành nào để trắc nghiệm tính đồng bộ, mưc độ phối hợp và hiệu quả của các điều kiện đó.
Thực trạng TTCK đã cho thấy rõ nguyên nhân làm cho TTCK Việt nam không hoạt động và phát triển như mong muốn và phần nào làm giảm lòng tin đối với công chúng đầu tư. Do đó chúng ta phải đặt ra một số vấn đề cho phát triển TTCK Việt nam.
III- Một số vấn đề đặt ra để tiếp tục phát triển.
Điều trước tiên là cần định vị rõ vai trò của hệ thống TTCK trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Những dự báo, các cân đối vĩ mô tổng thể khái quát hiện nay chưa đủ để hình thành cơ sở phác hoạ chiến lược phát triển hệ thống tài chính nói chung và phát triển hệ thống TTCK nói riêng. Trong khi đó, sự phát triển lâu dài, bền vững của TTCK chỉ có được khi có 1 lực lượng chủ thể- các doanh nghiệp cùng với công chúng nhập cuộc thực sự. Như vậy, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để tạo nhiều hàng hoá chất lượng cho TTCK đặc biệt là cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nứơc có quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả và gắn việc cổ phần hoá với phát hành chứng khoán ra công chúng.
Hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động của TTCK vì hoạt động của TTCk có liên quan đến sự thành bại của nền kinh tế. Do đó việc quản lý và kiểm soát TTCK là việc cần thiết của các Chính phủ quốc gia. Cần hoàn chỉnh luật chứng khoán, các luật kinh tế và ngày càng mở rộng quan hệ với thê giới. Ban hành những chính sách, cơ chế ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực chứng khoán ngày càng nhiều như miễn thuế, trả chậm thuế. Không nên áp đặt một mức thuế đánh vào thu nhập từ mua bán cổ phiếu, miễn giảm với các cổ đông mua cổ phiếu không nhằm mục đích kinh doanh, hỗ trợ vốn cho các công ty chứng khoán...
Tăng cường công tác thông tin, đào tạo và phổ biến kiến thức để cho công chúng hiểu sâu về TTCK và đầu tư chứng khoán, xử lý mọi hành vi gian lận, mua bán nội gián nhằm gây rối và lũng đoạn thị trường làm mất lòng tin của công chúng đầu tư.
Cuối cùng, cần thiết xây dựng TTCK phi tập trung(OTC). Hoạt động của nó sẽ tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán chưa được niêm yết, tạo nên một sân chơi hợp pháp cho các nhà đầu tư, góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và qua đó sẽ hạn chế được những hoạt động chứng khoán ngoài tầm quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên để một TTCK phi tập trung ra đời hoạt động thật tốt thì chúng ta cần phải chuẩn bị thật tốt và chu đáo, bên cạnh đó là việc thực hiện đồng bộ các biện pháp khác để cải thiện được những mất cân đối hiện nay của thị trường tập trung.
Kết luận
Chưa đầy 3 năm kể từ ngày thành lập đến nay là quãng thời gian không dài so với lộ trình 15 đã qua của sự nghiệp đổi mới. Quãng đường còn ngắn hơn nếu đem so sánh với lôgic hình thành thị trường chứng khoán trong lịch sử phát triển lâu dài của các thể chế kinh tế thị trường mà trong đó thị trường chứng khoán là thể chế thuộc nấc thang cao nhất.
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. Đích lớn nhất và cuối cung của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán tại các quốc gia là phục vụ cho chiến lược kinh tế một cách hữu hiệu nhất. Thị trường chứng khoán là một thể chế tất yếu, không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường, thông qua thị trường chứng khoán các luồng vốn trong và ngoài nước được tập trung sử dụng cho các sự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế... nhưng thị trường chứng khoán cũng có mặt trái của nó, ,cũng nảy sinh những vấn đề tiêu cực, những tác động nguy hiểm lôi kéo và phá hỏng nền kinh tế khi nó không được vận hành theo đúng nguyên tắc thị trường.
Vì vậy, chúng ta cần phải khắc phục được mặt trái của thị trường chứng khoán cũng như việc vận dụng được những điểm lợi của nó bằng những chính sách đúng đắn thì thị trường chứng khoán sẽ phát triển không ngừng, phát triển bền vững, đưa nền kinh tế bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức.
Mục lục
Lời nói đầu
Phần nội dung
I- Cơ sở lý luận.
1- Khái niệm về thị trường chứng khoán.
2- Cơ cấu thị trường chứng khoán.
a-Xét về phương diện pháp lý:
- TTCK chính thức
- TTCK phi chính thức
b- Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán:
- Thị trường sơ cấp
- Thị trường thứ cấp
c- Căn cứ vào phương thức giao dịch:
- Thị trường giao ngay
- Thị trường tương lai
3- Các sản phẩm lưu hành trên TTCK.
4- Các chủ thể tham gia hoạt động trên TTCK.
II- Thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam.
1- Thời cơ và thuận lợi.
2- Khó khăn và thách thức.
III- Một số vấn đề đặt ra để tiếp tục phát triển.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình tài chính tiền tệ- Trường ĐH QL&KD Hà Nội.
2- Tạp chí Chứng khoán Việt Nam.
Cam đoan của sinh viên
Em xin cam đoan bài tiểu luận này là do em tự tìm hiểu và tham khảo mốt số tài liệu khác và không sao chép của bất kỳ ai. Nếu vi phạm, em xin chịu mọi hình thức kỷ luật của Trường và Khoa đã qui định.
Sinh viên thực hiện
Lê Tuấn Tú
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34653.doc