Thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Lời nói đầu Để hoàn thiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì điều kiện tiên quyết là vấn đề về vốn. Xoay quanh đề tài về vốn này đã có rất nhiều cuộc tranh luận bàn cãi, hội thảo v.v... và cũng có rất nhiều những bài viết đề cập đến, dù ở góc độ này hay góc độ khác. Đặc biệt là những bài viết đề cập đến việc tạo ra vốn trung và dài hạn để đầu tư dài hạn của nền kinh tế đất nước. Các doanh nghiệp có thể tiến hành tạo lập vốn bằng hai con đường chính. Thứ nhất, đi vay các ngân hàng thươn

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mại (NHTM) hoặc phát hành trái phiếu Công ty. Thứ hai, phân chia quyền sở hữu của doanh nghiệp bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Với một chiều dài lịch sử hơn 400 năm hình thành và phát triển đến nay thị trường chứng khoán (TTCK) đã phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. ở nước ta, vấn đề xây dựng TTCK đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế. Cho đến nay theo nhận định của các nhà kinh tế, TTCK là một công cụ hữu hiệu để huy động vốn giúp hoàn thiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Song điều quan trọng là TTCK nên ra đời và phát triển ở nước ta sẽ như thế nào vẫn còn chưa có quan điểm thống nhất. Nội dung đề tài gồm hai phần: Phần I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán. Phần II: Thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Nội dung Phần I - những vấn đề Lý luận về thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán xuất hiện từ rất lâu, tại thời điểm do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được phát triển với tốc độ cao nhằm đáp ứng về vốn cho cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. TTCK ra đời và tồn tại là một thực thể khách quan theo sự phát triển của một nền sản xuất hàng hoá. I- Chứng khoán, sự hình thành thị trường chứng khoán và cơ cấu của TTCK. 1. Chứng khoán. 1.1. Khái niệm về chứng khoán. Chứng khoán là một loại giấy chứng nhận đã cho vay hoặc đã đầu tư một số vốn. Chỉ những chứng khoán đã đăng ký được Nhà nước cho phép lưu hành mới được pháp luật thừa nhận vào bảo hộ quyền sở hữu, quyền thu lợi tức và lợi nhuận. Là tài sản hợp pháp, chứng khoán được tự do chuyển nhượng, mua bán, được dùng để thế chấp các khoản vay ngân hàng. 1.2. Phân loại chứng khoán. Có nhiều cách phân loại song cách thông dụng là chia chứng khoán ra làm hai loại: Cổ phiếu và trái phiếu. - Cổ phiếu (chứng khoán vốn): Là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một phần Công ty cổ phẩn. Chứng khoán vốn do các Công ty phát hành. Người sở hữu chứng khoán vốn không phải là chủ nợ của Công ty mà là người sở hữu Công ty và có quyền hưởng thu nhập từ lợi nhuận Công ty. - Trái khoán (chứng khoán nợ vốn): Là chứng khoán xác nhận một khoản nợ của người phát hành đối với người nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán nợ thể hiện sự cam kết của người phát hành thanh toán những khoản tiền lãi và tiền gốc vào những thời điểm nhất định. 2. Sự hình thành thị trường chứng khoán. Một tất yếu là người sở hữu chứng khoán không thể tự do trả lại chứng khoán cho người phát hành để rút vốn về mặt dù họ nhìn thấy đầu tư chỗ khác có lợi hơn hoặc rút vốn ngay cả khi lỡ hẹn lợi tức, cổ tức hấp dẫn. Tức là họ có nhu cầu bán chứng khoán nhưng không có chỗ bán thuận lợi. Trong khi đó lại có nhiều người cần mua chứng khoán ở những Công ty mà họ muốn. Khi đó cung và cầu về chứng khoán xuất hiện dẫn đến việc mua đi bán lại các loại chứng khoán. Việc này lúc đầu diễn ra một cách lộn xộn, vô tổ chức. Sau đó xuất hiện những kẻ tìm sống bằng nghề môi giới giữa người cần mua và người bán chứng khoán. Lúc đầu họ làm cả hai việc: môi giới và đầu cơ chứng khoán. Sau đó hai việc này cũng dần dần được chuyên môn hoá thành hai loại người: một loại người chuyên môi giới chứng khoán, một loại người chuyên về kinh doanh chứng khoán. Hai loại người này giúp cho cung - cầu về chứng khoán gặp nhau, hình thành thị trường chứng khoán. Bước cao nhất trong lịch sử phát triển của TTCK là việc Chính phủ dồn những người môi giới chứng khoán và những người kinh doanh chứng khoán vào một chỗ để tổ chức việc mua bán có trật tự, gọi là sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Như vậy TTCK và SGDCK đã ra đời và những hạn chế của việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán được giải toả. 3. Cơ cấu của thị trường chứng khoán. Nghiên cứu cơ cấu của thị trường chứng khoán là phân tích xem thị trường chứng khoán bao gồm những bộ phận nào, và tìm hiểu mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Có thể xem xét cơ cấu thị trường chứng khoán dưới một số góc độ sau: 3.1. Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch. - Thị trường cổ phiếu: Là thị trường nơi các cổ phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường cổ phiếu gồm có thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường cổ phiếu thứ cấp. - Thị trường trái phiếu: Là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường trái phiếu cũng gồm có thị trường trái phiếu sơ cấp và thị trường trái phiếu thứ cấp. 3.2. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn. - Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán lần đầu được phát hành. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một "kênh" thu hút huy động nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nhà phát hành thực hiện được việc bán các chứng khoán mới cho nhà đầu tư, thu được tiền về tăng thêm một lượng vốn mới. - Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Sự hoạt động của thị trường thứ cấp tạo ra khả năng dễ dàng, thuận tiền chuyển đổi chứng khoán thành tiền. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tiền thu được từ việc bán chứng khoán không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán nhường lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ tương tác gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có hàng hoá để lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. Vì thế, mặc dù sự hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng thêm vốn đầu tư cho nhà kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của thị trường thứ cấp làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và phát triển. II- Những điều kiện cơ bản để thành lập TTCK. Về mặt lý luận để TTCK có thể hoạt động và tồn tại, cần có những điều kiện sau đây: Thứ nhất, TTCK là một loại thị trường mua bán các hàng hoá đặc biệt - các cổ phiếu. Để có thị trường này, trước hết phải có các hàng hoá để mua bán. Các hàng hoá náy phải có một số lượng đủ lớn và được đăng ký qua thị trường. Để có chứng khoán cần có nhiều Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu và xem xét những chứng từ có giá thông thường có thể thay đổi thể thức để tham gia thị trường chứng khoán. Thứ hai, phải có các chủ thể để tham gia vào quá trình mua bán trên thị trường chứng khoán. Đó là người mua, người bán, người môi giới. Chính vì hoạt động của các chủ thể trên hết sức khác nhau, rất phức tạp nên cần phải có những con người thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động của họ. Thứ ba, phải có một hệ thống luật pháp tương đối hoàn chỉnh để định ra các "luật chơi" trong thị trường này. Thứ tư, phải được tổ chức theo những hình thức phù hợp để thực hiện hoạt động mua bán trên TTCK. Thứ năm, phải có những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đảm bảo kỹ thuật thanh toán, giao dịch đồng thời ngăn chặn tệ làm chứng khoán giả. III- Hai mặt của thị trường chứng khoán. Một tất yếu là, mỗi sự vật được sinh ra bao giờ cũng có hai mặt; mặt tích cực và mặt tiêu cực, lại lợi và cái hại. Điều này trong lĩnh vực kinh tế càng bộc lộ rõ hơn cả. Khi nói đến kinh tế thị trường, xét trên góc độ tài chính thường người ta nhắc ngay tới sự có mặt của thị trường chứng khoán, và thường chỉ nhìn thiên về một mặt lợi, còn các khuyết tật của nó dễ bỏ qua. Khi chưa có sự xuất hiện của thị trường chứng khoán mọi hoạt động kinh tế còn đang ở trong giai đoạn bình thường, ít có phá sản, ít đỗ vỡ, nhưng khi có thị trường chứng khoán các hoạt động kinh tế sẽ sôi động hẳn lên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó cũng xuất hiện sự đỗ vỡ, sự phá sản của những người làm ăn kém hiệu quả ngày càng nhiều. Rõ ràng điều kiện ra đời của thị trường chứng khoán, cũng như các thành viên tham gia trên thị trường này đòi hỏi phải ở một trình độ nhất định, ở nước ta khi có TTCK ra đời và ai là những người tham gia trên thị trường này, tự họ cần phải hiểu rõ mặt tích cực cũng như các khuyết tật của nó để xác định xem mình có tồn tại và phát triển được trên thị trường không? Trong bài viết này chúng em hãy bình luận về mặt lợi, mặt hại của thị trường chứng khoán. 1. Mặt tích cực (mặt thứ nhất) của thị trường chứng khoán. - Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải được huy động từ mọi tầng lớp nhân dân và thường từ các nguồn rất phân tán nên cần phaỉ có những tổ chức nhất định để thu hút nguồn vốn này. Vai trò của ngân hàng là thu hút vốn, bảo vệ sự an toàn tiền gửi của cá nhân cũng như của các đơn vị tổ chức kinh tế xã hội và trong quá trình đó ngân hàng có thể sử dụng một tỷ lệ nhất định của tiền gửi để cho vay hay đầu tư vào các loại chứng khoán có tính thanh toán cao. Ngân hàng hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng phải đảm bảo thanh toán của khách hàng, cho nên phải có sự cân nhắc giữa lợi nhuận và thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng thương mại có chỗ dựa vững chắc là ngân hàng trung ương (người cho vay sau cùng) để đảm bảo thanh toán cho các ngân hàng. Đây là mối quan hệ truyền thống trong hệ thống ngân hàng để huy động vốn và cấp tín dụng cho cá nhân hay đơn vị có nhu cầu. Với sự ra đời của TTCK, một hệ thống thứ hai khuyết khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng cũng như của những định chế có khả năng huy động hay thu hút nguồn vốn trên của dân chúng như quĩ hưu bổng, Công ty bảo hiểm. Hoạt động của TTCK là thu hút nguồn vốn lớn cho cả khu vực tư nhân cũng như từ các đơn vị ,tổ chức xã hội và cũng chính nhờ có TTCK và hoạt động của nó mà đầu tư được mở rộng, và độ thanh toán cao hơn. TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại cổ phiếu, chứng khoán cũng như khả năng sinh lời của từng loại trong tương lai. Thị trường chứng khoán thu thập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết như thành tích trong tương lai của đơn vị đó, cũng như sự đối chiếu với các loại chứng khoán khác. Nếu không có thị trường chứng khoán mỗi cá nhân phải tự tìm các nguồn thông tin cần thiết và sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều này sẽ hạn chế hoạt động của thị trường, hạn chế sự lưu chuyển nguồn vốn và tăng mức rủi ro, làm cho sự phân bổ tài nguyên trong đầu tư kém hiệu quả. Trong một hệ thống không có TTCK, sự hình thành và kinh doanh chứng khoán sẽ rất tốn kém, thậm chí không có hiệu quả. Người phát hành có thể phải đi rao bán, từng khách hàng và như vậy sẽ rất hạn chế và không thể đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách thuận tiện. - TTCK, nơi tiện lợi huy động vốn. Nhìn lại quá trình phát triển của TTCK, ta có thể thấy ngay rằng đây là nơi thuận tiện huy động nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của khách hàng. Chẳng hạn, đối với thị trường lâu đời như New York, London... số vốn huy động từ thị trường này rất lớn, cả từ 1000 tỷ USD trở lên. Trước đây, các đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động , có nghĩa là phải đi vay với lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào các ngân hàng. Ngày nay, tại hầu hết các nước, các đơn vị kinh tế cũng như Nhà nước đã huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Nhờ có TTCK mà các nhà trung gian, các nhà môi giới, các nhà bảo lãnh, cổ phiếu của một đơn vị kinh tế có thể phát hành bán rộng rãi cho dân chúng nguồn vốn huy động. Do đó, đảm bảo được sử dụng rộng rãi và lâu dài. Càng làm ăn có hiệu quả, cổ phiếu càng có giá tự do thu được cổ tức cao. Đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả như đi vay ngân hàng và cũng không phải bận tâm vì giá trị cổ phần lên xuống. Chính phủ Trung ương hay địa phương cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các loại chứng khoán như công trái hay tín phiếu kho bạc. Chính phủ cũng có thể sử dụng tập đoàn bảo lãnh phát hành hay thông qua ngân hàng Trung ương. Các loại công trái của Chính phủ là một công cụ phổ biến để huy động nguồn vốn cần thiết dùng cho chi tiêu và đầu tư của Chính phủ thay vì phải sử dụng biện pháp phát hành tiền dễ dẫn đến lạm phát. Dân chúng thường thích các loại công trái quốc gia vì được lãi suất ổn định và đảm bảo thu hồi vốn khi đến hạn. Công trái phù hợp với những nhà đầu tư không thích mạo hiểm, không chấp nhận mức rủi ro cao như cổ phiếu của các đơn vị kinh tế. - TTCK, đảm bảo tính thanh khoản. Thị trường sơ cấp đảm nhiệm việc phát hành cổ phiếu, chứng khoán mới, thị trường thứ cấp là nơi mua bán các loại cổ phiếu hay chứng khoán đã phát hành. Thị trường thứ cấp hoạt động nhộn nhịp ở bất kỳ TTCK nào và mỗi ngày có hàng triệu cổ phiếu chứng khoán đổi chủ. Mua bán cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho đơn vị kinh tế mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối cới cổ phiếu hay chứng khoán. Thị trường thứ cấp có vai trò quan trọng là bảo đảm tính thanh khoản của các loại công cụ tài chính,có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán có thể thông qua các nhà trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đối với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đảm bảo này mà các cá nhân hay các tổ chức kinh tế, xã hội sẵn sàng mua cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Nếu không có phương tiện này người ta sẽ rất e dè trong việc sử dụng những nguồn tiết kiệm hoặc dự trữ phòng khi bất trắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến hai điều tiên quyết để biến thành cổ phần hay chứng khoán. Một là, phương tiện dễ dàng và phi thực hiện thấp: nếu mất nhiêù và phí cao, cổ phiếu hay chứng khoán có tính thanh khoản thấp. Hai là, nguồn vốn chính phải được bảo vệ, không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá trị. Mọi biến động trên thị trường đều tạo ảnh hưởng trên giá trị của cổ phiếu hay chứng khoán, do đó đôi khi người muốn bán không đảm bảo được vốn chính (mệnh giá) của cổ phiếu. Chứng khoán có thời gian thu hồi càng lâu, tính thanh khoản càng thấp. - Tạo thói quen về đầu tư. Chúng ta biết rằng nguồn tiền nhàn rỗi còn tiềm tàng trong dân chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm tàng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa hiểu đầy đủ về hùn vốn. Chúng ta đã thấy thực tế nhiều Công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem phần vốn của mình như là một loại tiền gửi và đòi hỏi đơn vị phải đảm bảo một lãi suất tương đương lãi suất tiền gửi cho phần hùn vốn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao. TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, người dân sẽ sử dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên, các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để các nhà đầu tư nắm được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này, nếu không có TTCK, sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất trữ không sinh lợi, và cũng chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế . TTCK chẳng những khuyến khích đầu tư mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào hoạt động của thị trường. - Hỗ trợ định giá cổ phần trong chương trình cổ phần hoá. Vấn đề then chốt ở đây là các đơn vị kinh tế muốn tham gia TTCK cần phải được đánh giá khá chính xác về tình hình hoạt động của đơn vị thể hiện qua bảng cân đối tài sản và tài khoản lỗ lãi. Muốn làm được điều này, đơn vị phải cung cấp đầy đủ thông tin để bộ phận chuyên môn của thị trường thẩm định lại tất cả các loại tài sản, các khoản nợ và đánh giá hoạt động trong từng năm. Mức độ lỗ, lãi của đơn vị là thước đo giá trị cổ phần và người ta cũng quan tâm đến triển vọng của đơn vị trong tương lai. Sự thành bại của một đơn vị còn lệ thuộc vào trình độ quản trị của đơn vị. Do đó, trong kinh tế thị trường không có sự khoan nhượng trong việc thay đổi cấp lãnh đạo của đơn vị. Quyền lợi của cổ đông phải đặt lên trên hết. Nếu không, đơnvị sẽ khó tồn tại. Quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao và sẽ làm tăng giá trị cổ phần. Ngược lại, đơn vị sẽ lâm vào tình trạng suy sụp có thể đi đến phá sản. - Điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Sự tồn tại và phát triển của TTCK hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tham gia thị trường của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, sự tham gia này phải có điều kiện và chỉ khi nào các điều kiện này được thoả mãn đầy đủ, đơn vị mới có khả năng yết giá trên thị trường để tiến hành mua bán. TTCK có quyền tạm ngừng mua bán một loại cổ phiếu nào đó, nếu có vi phạm sẽ có thể đưa đến thiệt hại cho nhà đầu tư và chỉ cũng cho phép yết giá trở lại khi mọi điều kiện cần thiết được đáp ứng đầy đủ. Như vậy, vai trò quản lý của TTCK là bảm đảm sự an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đưa ra mua bán. Vai trò điều tiết của TTCK còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lĩnh vực được khuyến khích cũng như thúc đẩy chương trình cổ phần hoá của Nhà nước bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác. 2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trường chứng khoán. - Yếu tố đầu cơ. Trong TTCK đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng là giá sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố đầu tư dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Sự việc này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng kết cấu với nhau để mua hay bán ra một số cổ phiếu nào đó của một đơn vị kinh tế. Sự kết cấu này sẽ tạo sự khan hiếm hay thừa làm cho giá cổ phiếu có thểlên hay xuống đột ngột. - Mua bán nội gián. Một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin nội bộ trong một đơn vị kinh tế để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó được phổ biến rộng rãi. Mua bán nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại vì người có nguồn thông tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu tư bên ngoài để kiếm lời v ề cho riêng mình hay tránh lỗ và dĩ nhiên là đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau. Mua bán nội gián được xem như là vi phạm quyền lợi chung, vì lợi dụng nguồn thông tin từ bên trong, người mua bán thu được lợi nhuận hay tránh được lỗ và hậu quả sẽ do người không có được nguồn thông tin đó gánh chịu. Và, nhều nước đã có luật cấm về việc mua bán này. - Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán. Luật về TTCK cũng cần phải quan tâm đến việc hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu bên ngoài TTCK. Nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không thể nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của đơn vị. Hầu hết các TTCK đều quy định là mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua thị trường. Nếu không quy định như vậy thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhượng có thể xảy ra, có khả năng tạo ảnh hưởng xấu đối với đơn vị kinh tế có liên quan. - Phao tin đồn nhảm về hoạt động của một đơn vị kinh tế. Điều này cũng gây hậu quả xấu cho đơn vị, có thể đưa đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu nào đó để khống chế Công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. Đây cũng là điều cấm trong các luật chi phối hoạt động của TTCK. - Liên tục mua cổ phiếu của một đơn vị kinh tế nào đó ở giá cao và bán ra cùng loại cổ phiếu đó ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu để đầu cơ. Hoạt động của TTCK có những yếu tố đầu cơ, nhưng cũng có những yếu tố đầu cơ bị cấm như mua bán liên tục một loại cổ phiếu nào đó nhằm làm cho giá trị của cổ phiếu tăng hay giảm để đầu cơ. Người đầu cơ mau cổ phiếu với giá cao để đẩy giá lên và đến một lúc nào đó họ bắt đầu bán ra để kiếm lời. Hiện tượng này tuy không phổ biến nhưng cũng thường xảy ra và việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Người ta cũng có thể giả vờ mua bán cổ phiếu nhưng không thực sự chuyển quyền sở hữu với mục đích là đẩy giá lên hoặc xuống. Bộ phận qql TTCK cũng cần phải theo dõi. Trên thực tế không cho phép sử dụng tín dụng ngân hàng để mua bán cổ phiếu, nhất là đối với các thương vụ mang tính chất đầu cơ. Sự sụp đổ của một Công ty, trong trường hợp này sẽ có ảnh hưởng đến ngân hàng cho vay và uy tín của ngân hàng cũng sẽ chịu ảnh hưởng. - Biến động về tình hình chung của nền kinh tế. TTCK là một công cụ để huy động vốn và cũng là nơi để hiện kim hoá cổ phiếu khi có yêu cầu. Trong tình hình kinh tế phát triển, những người đầu cơ đưa giá lên giúp cho thị trường thu hút nguồn vốn lớn. Ngược lại, trong trường hợp có suy thoái, đầu tư giảm, mua bán trên thị trường cũng có chiều hướng giảm và những người đầu cơ đưa giá xuống, có thể làm cho thị trường biến động bất thường, có khả năng dẫn đến khủng hoảng. Trong trường hợp này, vai trò của Nhà nước rất quan trọng, phải bơm tiền vào nền kinh tế để tránh mọi sự biến động lớn trong chỉ số cổ phiếu. Rõ ràng hiểu cả hai mặt tích cực cũng như các khuyết tật của thị trường chứng khoán là một điều cần thiết cho bất cứ thành viên nào tham gia trên thị trường chứng khoán. Từ những lý luận chung về TTCK ở trên, chúng ta tiến tới thực trạng và những giải pháp để phát triển TTCk ở Việt Nam hiện nay. Phần II thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. I- Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. 1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành TTCK ở Việt Nam. a. Những thuận lợi. Năm 1996 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ bản quan trọng, tạo tiền đề tiến tới một thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước. Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một thị trường hàng hoá thống nhất trong phạm vi cả nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá và nới lỏng kiểm soát hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các miền trong cả nước. Lãi suất tín dụng và tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan cung - cầu vốn trên thị trường và có tác dụng chống lạm phát. Qui luật cung - cầu và qui luật giá trị đang được phát huy tác dụng vốn có của nó. Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng loạt các tổ chức tín dụng: Ngân hàng cổ phần, Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng bên cạnh hệ thống Ngân hàng quốc doanh đang ngày càng được hoàn thiện, cùng với sự có mặt của các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ. Yếu tố này là hết sức quan trọng trong việc hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam. Nền kinh tế đã thay đối sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị. ở nông thôn, các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng. Chính sách này đã tạo cơ sở vững chắc và động lực mới cho kinh tế nông thôn. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực dịch vụ và có xu thế phát triển rộng trong các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn của nhiều hình thức sở hữu ở trong nước và nước ngoài đã xuất hiện ngày càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số Công ty, doanh nghiệp và Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Đất nước đã bước đầu chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tạo cơ sở cần thiết cho các doanh nghiệp, các Công ty trong quá trình tham gia thị trường vốn tại Việt Nam. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản tạo tiền đề thành công cho thị trường chứng khoán. Chúng ta đã có luật Công ty, luật Doanh nghiệp tư nhân và luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và tạo môi trường pháp lý nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài với số lượng ngày càng lớn. Cùng với chính sách mở cửa của Chính phủ, hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước có những thành quả đáng kể. Một hệ thống kinh tế mở hoà nhập với thế giới bên ngoài đang là một yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích luỹ của mình. Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút kinh nghiệm bổ sung những kiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước. Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra rời một thị trường chứng khoán ở nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh ngân hàng (điều 32và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân hàng phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng 8/1992, Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ "Để chuẩn bị việc cho ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam mà hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề , các nội dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm triển khai và các bước triển khai". b. Những khó khăn. Nền kinh tế chưa thật sự ổn định; hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Ngân sách còn thâm hụt lớn, lưu thông tiền tệ chưa thông suốt. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở... Chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối... Về môi trường pháp lý: hệ thống pháp luật của chúng ta những năm qua tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu,chưa đồng bộ và kém hiệu lực. Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán như: Luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được sửa đổi, bổ sung... Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin. Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán. Quá trình sắp xếp, chấn chỉnh lại khu vực kinh tế quốc doanh còn chậma, hiệu quả thấp. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới được đổi mới bước đầu, chưa phát huy được năng lực sản xuất tiềm tàng vốn có của nó. Quá trình tư nhân hoá (cổ phần hoá doanh nghiệp) là một cuộc đổi mới về chiều sâu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường nhưng triển khai rất chậm và hiệu quả rất thấp do thiếu vốn trong nước và sự không rõ ràng trong cơ cấu sở hữu. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc hình thành và hoạt động của thị trường vốn bởi quá trình tư nhân hoá sẽ cho ra đời những doanh nghiệp, Công ty có đủ điều kiện và tư cách tham gia trong thị trường chứng khoán. Một yếu tố quan trọng để thành công trong thị trường chứng khoán phải kể đến là lòng tin của dân chúng - điều này ở đất nước chúng ta còn hết sức khó khăn bởi dân chúng chưa quen với hoạt động kinh tế thị trường, và còn bị ám ảnh bởi sư âm của sự đổ vỡ của các trung tâm tín dụng trước đây và sự thiếu ổn định của nền kinh tế đất nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý của chúng ta còn thiếu những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán. Chúng ta chưa có một hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó công tác kiểm toán đối với chúng ta còn mới mẻ, số lườn các Công ty kiểm toán còn ít. Điều đó gây khó khăn cho việc đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp. 2. Sự cần thiết phải phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là một trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn tiết kiệm cho đầu tư của toàn xã hội. Về mặt lịch sử, đã có một hình thức thu nhận và phân phối các nguồn vốn ra đời trước TTCK,đó là hệ thống ngân hàng với các dịch vụ giao lưu vốn. Tuy rằng, việc huy động và giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng chứa đựng nhiều hạn chế mà tự nó không thể khắc phục được. Cụ thể là: - Giá cả của vốn (lãi suất) cũng như các quan hệ tín dụng trong quá trình giao lưu qua hệ thống ngân hàng đều do ngân hàng độc quyền quyết định. - Giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng làm tách rời người có vốn và người sử dụng vốn. Ngân hàng có thể khắc phục, bằng cách tham gia TTCK vì thế quan trọng hơn. Những ưu thế của thị trường chứng khoán. - Thứ nhất, việc giao lưu vốn thông qua mua bán chứng khoán sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình huy động và cung cấp vốn, phá thế độc quyền của các tổ chức tín dụng, tài chính. - Thứ hai, TTCK làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư tạo cho người có vốn những cơ hội và khả năng rộng rãi thành đạt trong kinh doanh thông qua việc mua bán chứng khoán thay đổi chủ sở hữu vốn ở các Công ty tạo ra cách thức kinh doanh mới. - Thứ ba, TTCK là nơi tạo điều kiện để các cổ đông có thể rút khỏi Công ty, bằng cách bán các cổ phiếu của mình cho người khác trên TTCK. - Thứ tư, TTCK là hình thức xã hội hoá đầu tư cao và tiện lợi cho mọi người, mặt khác thông qua thị giá cổ phiếu thực hiện kiểm soát xã hội các hoạt động của các Công ty và của nền kinh tế, thúc đẩy các Công ty cổ phần phát triển và cạnh tranh, đồng thời cứu vãn sự sụp đổ của nhiều Công ty. Thực tế ở Việt Nam, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, vậy mà hiện nay lại đang tồn tại một nghịch lý là: Các tổ chức kinh tế thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng trong dân cư và cả trong một số xí nghiệp, ngân hàng thương mại vốn kh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35002.doc
Tài liệu liên quan