Thế nào là quy tắc thị trường và biện pháp đưa hoạt động của các Doanh nghiệp thương mại ở nước ta theo đúng quy tắc đó

Đề bài: Hiểu thế nào là quy tắc thị trường và biện pháp đưa hoạt động của các doanh nghiệp thương mại hiện nay ở nước ta theo đúng quy tắc đó Bài làm Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp thực hiện ở nước ta trước đổi mới đã không tạo được động lực phát triển và gây nhiều tiêu cực trong xã hội. Cho nên từ Đại hội Đảng VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lí kinh tế theo hướng “xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5808 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thế nào là quy tắc thị trường và biện pháp đưa hoạt động của các Doanh nghiệp thương mại ở nước ta theo đúng quy tắc đó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong đó tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. Do đó các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng muốn tồn tại và phát triển lâu dài tất yếu phải hoạt động phù hợp với những quy tắc của thị trường 1. Khái quát về kinh doanh và quy tắc thị trường Kinh doanh là việc thực hiện một. một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Tiến hành bất kì hoạt động kinh doanh nào đều có nghĩa là tập hợp các phương tiện, con người... và đưa họ vào hoat động để sinh lợi cho doanh nghiệp Mục tiêu của kinh doanh là lợi nhuận. Doanh nghiệp chỉ có thể thu được lợi nhuận khi doanh thu lớn hơn chi phí của doanh nghiệp: P = doanh thu – chi phí Từ công thức trên ta thấy: Doanh nghiệp bán ra nhiều hơn – chi phí = lợi nhuận nhiều hơn Bán được càng nhiều hơn – chi phí càng nhỏ hơn = lợi nhuận càng cao hơn Nhưng vì mỗi doanh nghiệp một lúc thường có rất nhiều nhu cầu và không phải lúc nào cũng thỏa mãn được ngay tất cả nhu cầu đó, nên đòi hỏi phải có sự phân loại các nhu cầu, nghĩa là có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào gần gũi nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Vì vậy việc lựa chọn mục tiêu này thường được biểu diễn dưới dạng “tháp mục tiêu”. Trong đó, những mục tiêu quan trọng và dễ có khả năng thực hiện nhất đối với doanh nghiệp được xếp lên đỉnh tháp và cứ thế tuần tự, cho đến những mục tiêu lâu dài nhất đòi hỏi phải được thực hiện trong những khoảng thời gian lâu dài hơn Đối với doanh nghiệp thương mại thường có 5 mục tiêu cơ bản là: Khách hàng: Trong kinh doanh, khách hàng chính là người trả lương cho cán bộ kinh doanh, là người nuôi sống doanh nghiệp bởi vì nếu sản phẩm của doanh nghiệp không bán được thì doanh nghiệp không có lợi nhuận và không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh. Vì vậy khách hàng là mục tiêu quan trọng nhất đối với doanh nghiệp, doanh nghiệp cần phải thực hiện nguyên tắc tập trung vào khách hàng thì mới có thể tồn tại lâu dài trên thương trường Đổi mới: doanh nghiệp phải luôn đổi mới sản phẩm kinh doanh, dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Điều này xuất phát từ quy luật của kinh tế thị trường: ai có sản phẩm mới, dịch vụ mới tung ra thị trường đầu tiên thì người đó được hưởng lợi nhuận lớn nhất trong kinh doanh. Quy luật này giúp cho doanh nghiệp hình thành chính sách định giá bán của mình: · Đối với nhóm sản phẩm truyền thống, do có nhiều doanh nghiệp khác cùng có sản phẩm như của doanh nghiệp nên doanh nghiệp cần phải có chính sách định giá hướng vào khách hàng nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường · Đối với nhóm sản phẩm mới, do doanh nghiệp giữ độc quyền về sản phẩm hàng hóa đó nên doanh nghiệp sẽ định giá hướng vào lợi nhuận Chất lượng: doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung ứng cho thi trường. Điều này xuất phát từ quy luật của kinh tế thị trường: ai có sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng thì người đó là người chiếm lĩnh thị trường Cạnh tranh: trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh chính là môi trường, đồng thời là mục tiêu của các doanh nghiệp, vì cạnh tranh thực hiện 4 chức năng quan trọng: · Cạnh tranh làm giảm giá thị trường · Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào · Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá bán trên thị trường nhằm giữ chữ tín với khách hàng · Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về kinh tế trong lịch sử thông qua cơ chế đào thải, sắp xếp lại trật tự trên thị trường Các chức năng trên của cạnh tranh cũng chính là vai trò của nó trong việc thúc đẩy kinh doanh thương mại phát triển Để thực hiện được các mục tiêu của mình thì doanh nghiệp bao giờ cũng phải thực hiện đồng thời 2 giải pháp: Mở rộng thị trường và tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp Doanh nghiệp phải hiểu rõ các chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh để tìm cách giảm và cắt bỏ những chi phí không cần thiết Có thể thấy đặc điểm chung của 2 giải pháp này đó là: 2 giải pháp này chung cho mọi loại hình doanh nghiệp 2 giải pháp này chung cho mọi nơi, mọi quốc gia Chính vì đặc điểm trên mà trong nền kinh tế thị trường người ta gọi 2 giải pháp trên là quy tắc của thị trường, doanh nghiệp nào muốn làm ăn lâu dài đều phải theo đúng quy tắc đó 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam những năm gần đây 2.1. Những thành tựu đã đạt được Thị trường trong nước - Các doanh nghiệp thương mại có vai trò to lớn trong việc giúp cho hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, nâng cao về chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2005 ước đạt 440 ngàn tỷ đồng, gấp gần 710 lần năm 1985. - Về thành phần các doanh nghiệp tham gia, từ chỗ chỉ có hai thành phần cơ bản là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (năm 1985), đến nay ngoài 2 thành phần trên còn có sự tham gia của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có sự tham gia của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với tỷ trọng gần 90% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đã từng bước vươn lên, thích ứng với cơ chế mới, hiệu quả kinh doanh được nâng cao, giữ được vai trò nòng cốt ở những mặt hàng trọng yếu, ở những khâu và lĩnh vực then chốt, chi phối 70- 75% khâu bán buôn, chiếm 20 - 21% tổng mức lưu chuyển bán lẻ. - Với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm các nhu cầu trong nước. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục được mở rộng trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh. Tổ chức và phương thức kinh doanh, phương thức mua bán ngày càng đổi mới, phong phú và linh hoạt hơn. Thị trường quốc tế - Các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước tiếp cận và mở rộng thị phần các sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện đầu tư, phát triển chiều sâu theo hướng chuyên môn hoá, tận dụng các lợi thế so sánh, thúc đẩy quá trình tham gia vào sự phân công lao động quốc tế của Việt Nam. - Giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp góp phần làm cân bằng cán cân thương mại của Việt Nam, giảm nhập siêu, cơ cấu thị trường cân đối, hạn chế những rủi ro trong thương mại quốc tế, ổn định mức tăng trưởng ngoại thương, góp phần giữ mức tăng trưởng ổn định cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 nước, ký Hiệp định thương mại với 86 nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2002 lên đến 36,4 tỷ USD, gấp 29,3 lần năm 1976, gấp 14,2 lần năm 1985 và gấp gần 7,1 lần năm 1990; trong đó xuất khẩu đạt 16,7 tỷ USD, gấp 117,6 lần năm 1976, gấp 23,9 lần năm 1985 và gấp trên 6,9 lần năm 1990. Xuất khẩu đã chiếm 46,3% GDP, vào loại cao trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu đạt 210 USD/người, vượt qua mức bình quân của một nước kém phát triển. - Sự phát triển năng động của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã tạo dựng được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam. Quá trình này đã góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam theo hướng chủ động hội nhập và đi vào chiều sâu của hội nhập kinh tế quốc tế - Cùng với sự phát triển sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp đã tích cực tham gia phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm, ổn định sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 2.2. Những mặt hạn chế Hiện nay nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn quan trọng thực hiện những bước chuyển lớn, tạo tiền đề cho quá trình mở cửa sâu rộng thị trường dịch vụ phân phối (vì sau 3 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các hạn chế về sở hữu vốn đối với đối tác nước ngoài sẽ từng bước được bãi bỏ). Thương mại nội địa ngày càng phải gắn kết chặt chẽ với sản xuất, mở rộng thị trường để thúc đẩy tiêu dùng phát triển và để tồn tại không còn cách nào khác, các doanh nghiệp trong nước sẽ buộc khắc phục những hạn chế sau để hội nhập - Công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. - Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa đặc thù như hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng - Mạng lưới phân phối còn hạn chế do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu và nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương thức này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường - Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa chú trọng vào đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới nhằm nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. - Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ - Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng còn ít. - Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp. 3. Các biện pháp đưa hoạt động của các doanh nghiệp thương mại hiện nay ở nước ta theo đúng quy tắc thị trường 3.1. Về phía Nhà nước Nhà nước quản lý các doanh nghiệp thương mại bằng các chính sách thương mại. Chính sách thương mại của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Chính sách phát triển thương mại nội địa: Hiện nay hệ thống phân phối nội địa của Việt Nam có quy mô không lớn cho nên chưa đáp ứng được tốc độ phát triển. Vì vậy, phải tập trung vào phát triển thị trường nội địa tương xứng với quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Để làm được điều này, thứ nhất, Nhà nước phải nhanh chóng đổi mới tư duy phát triển thương mại trong nước. Đồng thời, từng bước xây dựng một thể chế phù hợp với hoàn cảnh của mình và tập quán buôn bán quốc tế cũng như các cam kết song - đa phương với các nước trên thế giới. Thứ hai, phải khắc phục hạ tầng thương mại yếu kém, tạo ra không gian tổ chức lưu thông hàng hóa một cách hoàn hảo từ sản xuất - lưu thông - tiêu dùng. Mấy năm gần đây, Chính phủ rất quan tâm nhưng thực tế, hạ tầng thương mại vẫn còn manh mún và chưa đi vào chiều sâu của hạ tầng để không gian lưu thông hàng hóa thực sự tạo điều kiện cho các đối tác thương mại hoạt động thuận lợi. Thứ ba, tính cạnh tranh hóa và tự do thương mại trên thị trường nội địa phát triển chưa thực sự khách quan. Nhiều khi còn bị tác động bởi quản lý hành chính, làm méo mó sự vận động của quy luật thị trường, làm cho sản phẩm thương mại và dịch vụ không phản ánh đúng sự phát triển. Vì thế, Chính phủ phải nhanh chóng tạo ra cơ chế, chế tài, quy chế để hoạt động thương mại đi đúng và đạt được những tiêu chuẩn của xu thế quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng sức cạnh tranh doanh nghiệp và các sản phẩm Việt Nam ngay trên thị trường nội địa. Thứ tư, trong chiến lược phát triển của mình, phải kiểm tra, kiểm soát thị trường bằng những biện pháp mà chúng ta đã cam kết như chống gian lận thương mại, chống vi phạm sở hữu Chính sách phát triển thương mại quốc tế: Tạo lập môi trường cạnh tranh năng động, thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh của các doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung vào việc tạo ra một môi trường canh tranh năng động, qua đó buộc các doanh nghiệp phải chú ý hơn đến các vấn đề giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành, tự tìm kiếm lợi thế so sánh động trong một môi trường động. Theo hướng đó, cần có chính sách để khuyến khích mạnh sự hình thành và phát triển các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định nhanh. Cuối cùng cần cố gắng bảo đảm cho tín hiệu thị trường không bị lệch lạc, giảm can thiệp sâu và giảm sự hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp. Như vậy các biện pháp cần thực hiện là: + Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và thương nhân đều bình đẳng trong quyền xuất nhập khẩu hàng hoá như thương nhân Việt Nam (không còn bất kỳ sự phân biệt nào với doanh nghiệp FDI). + Tập trung nguồn lực để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận nguồn vốn, sử dụng đất đai cho nhà xưởng,... nhằm khuyến khích tính năng động của khu vực này. + Giảm dần tiến tới xoá bỏ trợ cấp và trợ giá trong uất khẩu Nhà nước cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp nhằm chuyển dich cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực, thu hút nhà đầu tư vào lĩnh vực chế biến hàng xuất khẩu, tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước – hiệp hội ngành hàng – doanh nghiệp Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển mạnh xúc tiến thương mại, thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực chủ động mở rộng thị trường, đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, giữ vững thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xuất khẩu, tạo dựng môi trường và khung khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, bảo đảm sự ổn định, minh bạch và nhất quán của chính sách thương mại 3.2. Về phía các doanh nghiệp Các biện pháp mở rộng thị trường và tăng doanh thu bán hàng Khi sản phẩm, dịch vụ đã có chỗ đứng tại một thị trường thì một điều tất yếu là doanh nghiệp cần tiến hành mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào quá trình trên. Tuy nhiên điều này đòi hỏi các doanh nghiệp luôn chủ động, cẩn thận để có những kế hoạch hợp lý. Bí quyết để doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả trong kinh doanh, mở rộng thành công thị trường của mình đó là: - Nắm thông tin theo thời gian thực tế. Thông tin thị trường luôn là yếu tố quan trọng. Doanh nghiệp cần nắm bắt kịp thời và chính xác. Từ đó đưa ra các quyết định nhanh nhạy cần thiết, không để mất thời cơ - Hoà trộn quyết định, chiến thuật, kế hoạch. Đây là vấn đề then chốt để bảo đảm công tác điều hành doanh nghệp khi mở rộng thị trường được tiến hành nhanh nhạy.Nhìn bề ngoài dường như phải rất nhiều thời gian mới "hoà" được các quyết định với các chiến thuật. Tâm trạng lo ngại là một điều cản trở chủ yếu trong việc giải quyết nhanh nhạy. Khi thông tin nghèo nàn và sự được - mất lại khá lớn thì nỗi lo âu làm tê liệt khả năng lựa chọn. Các nghiên cứu về tâm lý cho thấy, phương sách tốt nhất để có thể đạt hiệu quả trong khi đầu óc căng thẳng, là lựa chọn cách ứng xử tích cực. Tức là đề ra các bước hành động cụ thể để cơ cấu lại tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Thái độ tích cực làm tăng thêm ý thức về thẩm quyền và quyền hành. Từ đó tạo thêm các quan hệ tin cậy cần thiết cho việc ra quyết định. Những người ra quyết định nhanh nhạy nhờ vậy có thể lựa chọn kịp thời và dễ dàng vượt qua các tình thế khó khăn. Ngược lại, những người quyết định chậm thường xử lý mỗi quyết định như một sự kiện tách rời, không liên kết với các lựa chọn cũng như chiến thuật đã đưa vào vận hành. Một chiến lược quá chậm chạp cũng đem lại hậu quả như một chiến lược tồi. Vì vậy, tính nhanh nhạy giữ một vị trí hàng đầu trong cuộc đua tranh. - Cái mới mở ra thị trường mới. Lịch sử luôn đi lên, nhu cầu tiêu dùng của con người luôn biến đổi theo chiều hướng tiện lợi hơn, thẩm mỹ hơn và nhân văn hơn. Doanh nghiệp cần tìm đúng mặt hàng phù hợp với thị trường mới. Việc mở rộng thị trường giúp doanh nghiệp tăng doanh thu bán hàng nhưng đồng thời doanh nghiệp cũng cần phải có định hướng trong việc lập nên những kế hoạch, chiến lược nhằm mục tiêu tăng doanh số bán hàng, thu lợi nhuận cao hơn: - Nhiệm vụ trước tiên là đào tạo nhân viên, giúp nhân viên hiểu rõ giá trị của hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đang cung cấp tới khách hàng. - Luôn phát triển, mở rộng danh sách khách hàng tiềm năng, đồng thời có chiến lược biến họ thành khách hàng thường xuyên, lâu dài của công ty. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải thực hiện nguyên tắc tập trung vào khách hàng: Nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng Đảm bảo rằng mục tiêu của doanh nghiệp có thể liên kết đến nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng Truyền đạt nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng đến các nhân viên của công ty Quản lý quan hệ với khách hàng một cách có hệ thống Đảm bảo phương pháp cân bằng giữa việc làm hài lòng khách hàng và các bên khác (ví dụ như các cổ đông, nhân viên, người cung cấp, các nhà tài chính, cộng đồng địa phương nơi bạn đặt địa điểm kinh đoanh, và xã hội nói chung) - Có chính sách mua hàng hấp dẫn, bao gồm chính sách giá cả, chính sách bảo hành cũng như những giá trị gia tăng khác nhằm thu hút và giữ chân khách hàng. - Chứng tỏ với khách hàng rằng họ chính là tài sản vô giá của doanh nghiệp, để khách hàng cảm nhận được nỗ lực của công ty trong việc đem lại những sản phẩm chất lượng và dịch vụ khách hàng được cải thiện từng ngày. Các biện pháp nhằm cắt giảm chi phí Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh luôn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm cách cắt giảm chi phí, từ đó hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp cần có cái nhìn tổng thể trong việc cắt giảm chi phí để có biện pháp cắt giảm thích hợp mà không làm giảm hiệu quả hoạt động. Những chi phí có hiệu quả luôn là giải pháp tốt để doanh nghiệp nâng cao vị thế cạnh tranh của mình. Các biện pháp doanh nghiệp cần thực hiện đó là: - Tăng chi phí tốt, giảm chi phí xấu   Doanh nghiệp cần phân tích qui trình tạo nên giá trị gia tăng để biết đâu là chi phí tốt, đâu là chi phí xấu. Theo đó, chi phí tốt là loại chi phí mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, đáp ứng được nguyện vọng của khách hàng - chi phí góp phần quan trọng tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, chi phí xấu là chi phí có thể loại bỏ mà không làm giảm lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, những chi phí phát sinh do những lỗi lầm trong hệ thống quản lý gây ra, hay những quyết định sai lầm trong quản lý và sản xuất. Tất nhiên, sau khi nhận dạng ra các lọai chi phí, cần cắt giảm chi phí xấu và giữ hoặc tăng chi phí tốt.   Một ví dụ điển hình trong cách cắt giảm chi phí này chính là Công ty CP Vật Tư - Xăng Dầu (COMECO). Khi thấy giá cả thực phẩm vừa tăng, ảnh hưởng đến đời sống cán bộ nhân viên, thì ngay lập tức, COMECO quyết định nâng mức trợ cấp ăn trưa từ 8000 đồng lên 12000 đồng và tăng 20% lương cho cán bộ nhân viên. Từ đó, mọi cán bộ nhân viên an tâm, làm việc hết sức mình và năng suất tiếp tục tăng. Đây là một lọai chi phí tốt.   - Cắt giảm đúng trọng tâm   Doanh nghiệp cần phân tích kết cấu về chi phí để biết được tỉ trọng của từng lọai chi phí. Những loại chi phí chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí của một quy trình sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ nên được ưu tiên xem xét trước. Bởi vì, một tỉ lệ nhỏ tiết kiệm được từ những chi phí này cũng tạo ra một giá trị đủ lớn cho doanh nghiệp.   Điển hình cho trường hợp này là Công ty CP Thủy sản Minh Phú. Dựa vào phân phân tích kết cấu chi phí, Minh Phú đã tập trung vào việc cắt giảm chi phí ở phần chi phí cho nguyên vật liệu bằng cách tập trung đầu tư vào yếu tố kỹ thuật, công nghệ, quan tâm đến phương pháp tạo ra con giống tốt thích ứng với điều kiện môi trường ở Việt Nam. Ngoài ra, tìm cách khắc phục và lai tạo những con giống kháng được bệnh... Tất cả những vấn đề này góp phần giảm chi phí sản xuất, nguyên vật liệu. Con giống ít mắt bệnh hơn, đảm bảo được chất lượng hơn. Cho đến nay, Minh Phú đã chứng minh được những thành công của mình khi là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành thủy sản Việt Nam và là nhà cung cấp tôm sú đứng thứ năm của thế giới. - Có tầm nhìn hướng về tương lai   Tăng năng suất, tăng sản lượng tiêu thụ là giải pháp cắt giảm chi phí hiệu quả. Một số doanh nghiệp Việt Nam cắt giảm chi phí với một tầm nhìn ngắn hạn. Đôi khi, họ chỉ giải quyết những vấn đề xảy ra trong vòng 3 tháng, 6 tháng mà trong tương lai xa hơn họ không lưu tâm. Trên thực tế, có những vấn đề đúng ở thời điểm này thì lại trở thành sai lầm trong thời điểm khác. Đôi khi, có những chi phí tại thời điểm hiện tại có thể là chi phí xấu, nhưng trong tương lai đó là chi phí tốt Kết luận: Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại lâu dài trên thương trường đều phải có những chiến lược, biện pháp phát triển phù hợp quy tắc thị trường. Đó là vấn đề cấp thiết đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì các doanh nghiệp Việt Nam phải bứt phá nhanh để hội nhập ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22816.doc
Tài liệu liên quan