Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930
141 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1945
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, các thầy cơ giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tơi trong suốt khố học.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn PSG.TS. Phan Trọng
Thưởng người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học
tập và hồn thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn tới Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên, Trường THPT Trại Cau - Đồng Hỷ - Thái Nguyên đã tạo điều kiện
và nhiệt tình giúp đỡ tơi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và hồn
thành luận văn.
Tơi xin tỏ lịng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình những người
đã động viên, khích lệ tơi để hồn thành tốt luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
HỌC VIÊN CAO HỌC
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
2.1. Về thơ ................................................................................................. 2
2.1.1. Trước cách mạng ......................................................................... 2
2.2.2. Sau cách mạng............................................................................. 4
2.2. Về văn xuơi ........................................................................................ 7
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Đĩng gĩp mới của Luận văn ................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 11
Chương 1. SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45 ............................ 12
1.1. Bối cảnh văn hố, xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 .................... 12
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hố - xã hội ........................... 12
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hướng, nhĩm phái văn học .... 15
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hồn thiện
về thể loại ....................................................................................... 17
1.2. Vị trí vai trị của Thế Lữ trong sự hình thành và phát triển của một số
thể loại văn học mới............................................................................ 20
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ ......................................... 22
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ ................................................................ 25
Chương 2. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ ... 30
2.1. Quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ - Một bước tiến so với quan điểm
nghệ thuật của văn học trung đại ......................................................... 30
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại ...................... 30
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ ................................................ 33
2.2. Những cách tân về hình thức và nội dung nghệ thuật .......................... 39
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo ........................... 39
2.2.1.1. Thiên nhiên............................................................................. 39
2.2.1.2. Tình yêu ................................................................................. 45
2.2.1.3. Cõi tiên ................................................................................... 50
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện) ................................. 59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ ........................................................ 60
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ .............................................................. 67
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ ........... 70
2.2.2.4. Tài hoa trong nghệ thuật diễn tả âm thanh ............................. 74
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ ................................................... 76
2.3. Tiểu kết ............................................................................................. 79
Chương 3. THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐĨNG GĨP VỀ VĂN XUƠI
NGHỆ THUẬT ............................................................ 81
3.1. Thế Lữ với thể loại văn xuơi mới ........................................................ 81
3.2. Truyện trinh thám ................................................................................. 84
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám ........................................................ 84
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam ....................... 85
3.2.2.1. Cốt truyện ............................................................................... 85
3.2.2.2. Nhân vật ................................................................................. 90
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ ... 93
3.3. Truyện kinh dị ................................................................................... 100
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dịng truyện truyền kỳ ........................... 100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ .....101
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện ........................................................... 104
3.3.2.2. Nghệ thuật tả ........................................................................ 108
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ . 116
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 133
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn 1930 - 1945, xã hội Việt Nam cĩ nhiều chuyển biến
sâu sắc. Sự gặp gỡ của văn minh Phương Tây sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi
những tinh hoa văn hố thế giới đã thúc đẩy văn học Việt Nam bứt ra khỏi hệ
hình trung đại trì trệ, để tiến hành cơng cuộc hiện đại hố với sự tăng tốc đặc
biệt. Văn học Việt Nam thay đổi từ diện mạo tới nội dung, hàng loạt những
thể tài, thể loại mới hình thành và phát triển, một đội ngũ đơng đảo các nhà
văn sung sức tung hồnh trên khắp mọi lĩnh vực văn chương. Một trong
những đại diện xuất sắc của đội ngũ này là Thế Lữ.
Thế Lữ thuộc số ít những nghệ sĩ đa tài của nền văn học nghệ thuật trước
cách mạng. Là "khởi điểm của những khởi điểm", ơng khơng chỉ là người mở
đầu cho phong trào Thơ mới, mà cịn là người khai phá nền kịch nĩi Việt Nam,
là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuơi nghệ thuật như tiểu thuyết
trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện khoa học,... ở những lĩnh
vực văn chương này ơng luơn bộc lộ đầy đủ cốt cách của người đi "tiên phong"
với những thể nghiệm mới mẻ trên cả bình diện nội dung lẫn hình thức.
Mặc dù đã cĩ rất nhiều cơng trình, bài viết về sự nghiệp văn chương
của Thế Lữ, chúng tơi vẫn mong muốn tìm hướng tiếp cận mới đối với sáng
tác của ơng ngõ hầu nhìn nhận rõ hơn những điểm sáng mới trong thế giới
nghệ thuật phong phú của nhà văn tài ba này. Đặt sáng tác của ơng trong sự
phát triển nhanh chĩng của văn học Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ XX,
trong sự phát triển đa dạng của thể loại và thể tài văn học, trong sự tìm kiếm
nghệ thuật rốt ráo, so sánh với các sáng tác của các nhà văn, cách tân cùng
thời, chúng tơi muốn tìm hiểu sâu sắc hơn những thành tựu nghệ thuật của
ơng, từ đĩ nhằm khẳng định vị trí, vai trị đĩng gĩp của ơng trong cơng cuộc
hiện đại hố văn học dân tộc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Mặt khác, hiện sáng tác của Thế Lữ, trong đĩ cĩ mảng thơ của ơng, đã
được đưa trở lại giảng dạy trong nhà trường ở cả cấp trung học cơ sở và trung
học phổ thơng. Nên việc đi sâu nghiên cứu văn tài của ơng là hết sức cần
thiết. Đối với người viết luận văn, việc thực hiện đề tài là quá trình học hỏi,
trang bị cho bản thân vốn kiến thức đầy đủ về một tác gia lớn nhằm đáp ứng
tốt hơn cho cơng tác giảng dạy trong nhà trường.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Là sứ giả tiên phong của trào lưu văn học lãng mạn, sáng tác của Thế
Lữ được các nhà biên khảo lịch sử, các nhà nghiên cứu văn học hết sức quan
tâm tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Tuy vậy, mức độ đánh giá về văn
nghiệp của Thế Lữ ở mỗi thể loại văn học, mỗi giai đoạn lịch sử cĩ khác
nhau.
2.1. Về thơ
2.1.1. Trước cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời thơ Thế Lữ đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Vào những năm 1933, 1934, 1935, 1936 các cây bút viết văn, viết phê bình
trong và ngồi nhĩm Tự lực văn đồn như: Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách,
Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều... đã đăng bài nhiệt liệt ủng hộ, cổ vũ
ca ngợi Thế Lữ.
Nhất Linh là người đầu tiên cĩ cơng phát hiện, cĩ bài giới thiệu Thế Lữ
trên báo Phong hố (số 54 - 1933) Nhất Linh khẳng định Thế Lữ là "một
nhân vật mới trong làng thơ mới". Trên báo Phong hố (số 97, 11/5/1937)
Nguyễn Tường Bách nhiệt tình tán dương Thơ mới, lấy thơ Thế Lữ làm mẫu
rồi nhận định "Những bài thơ của ơng Thế Lữ đã tỏ ra rằng Thơ mới đã vượt
ra những khuơn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khá
rộng rãi tốt đẹp hơn nhiều". Khi phân tích một số bài thơ Nguyễn Nhược Pháp
cho rằng: "Đối với sự miêu tả những tình cảm nhẹ nhàng, ơng Thế Lữ đã thực
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
sự chứng tỏ một tài năng lớn". Trên Hà Nội báo (số 14 ngày 8/4/1936) Lê
Tràng Kiều cho rằng hồn thơ, cảm hứng của Thế Lữ "dồi dào" "ơng Nguyễn
Thế Lữ cĩ thể ngồi chung chiếu với ơng Nguyễn Khắc Hiếu mà khơng
ngượng ngùng". Đến bài thơ mới Thế Lữ đăng ở Hà Nội báo (số 24 ngày
7/6/1936) khi so sánh bài Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ với đoạn Nguyễn
Du tả tiếng đàn của nàng Kiều, Lê Tràng Kiều nhận xét "Các tài nghệ của Thế
Lữ về phương diện này quả khơng kém Nguyễn Du là mấy".
Khơng phải ngẫu nhiên khi tuyển chọn 46 thi sĩ để đưa vào tập Thi
nhân Việt Nam, Hồi Thanh - Hồi Chân đã trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí
đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hồi Thanh đã tơn
vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ" và ngợi ca "Độ ấy thơ mới vừa ra đời - Thế
Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chĩi khắp cả trời thơ Việt Nam (...) Thế
Lữ đã dựng thành nền Thơ mới ở xứ này (...) Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ".
Năm 1942 trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành những
trang viết về Thế Lữ. "Ơng là thi sĩ cĩ cơng đầu trong việc xây dựng nền thơ
mới. Phan Khơi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý
đến Thơ mới mà thơi, cịn Thế Lữ mới chính là người cho ta tin cậy ở tương
lai của Thơ mới [69 - 309]".
Ngồi những ý kiến đánh giá (với những ý nghĩa bênh vực, cổ vũ cho
Thơ mới trong giai đoạn phơi thai) của các nhà phê bình nghiên cứu, các bạn
đồng nghiệp dành cho Thế Lữ chúng ta cịn thấy xuất hiện trong cơng trình
nghiên cứu Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm. Trong cơng trình
nghiên cứu này, tác giả đã đặt Thế Lữ vào hàng những người cải cách, đề cao
Thế Lữ, cho rằng đĩ là nhà thơ cĩ ngơn từ mới lạ, diễn tả trung thực ý tưởng
và hình ảnh trong thơ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Là "một ngơi sao sáng khắp trời thơ Việt Nam" nhưng danh vọng chĩi
lọi đã bị mờ đi nhanh chĩng. Sau đĩ tác giả Thi nhân Việt Nam cũng phải than
thở về sự lạnh nhạt của cơng chúng đối với Thế Lữ "Tơi thấy xung quanh tơi
người ta lạnh lùng quá. Thế Lữ cơ hồ đã đi theo phần đơng trong Văn đàn bảo
gián [14 - 51]. Bởi vì chỉ mấy năm sau, thơ Thế Lữ khơng cịn đáp ứng thị
hiếu, tâm lý của lớp cơng chúng mới. Cĩ thể nĩi khi Thế Lữ viết lời tựa giới
thiệu "Thơ thơ" của Xuân Diệu thì chính ơng đã viết "chiếu nhường ngơi" cho
nhà thơ trẻ mới nhất trong các nhà thơ mới đĩ.
Thơ mới lãng mạn nĩi chung và thơ Thế Lữ nĩi riêng ngay từ khi mới
ra đời đã gây được luồng dư luận xơn xao một thời. Người khen thì khen hết
sức mà người chê cũng khơng tiếc lời, đặc biệt là những cây bút đứng trên lập
trường quan điểm cách mạng phê phán như Hải Triều, Hồ Xanh... Họ đã chế
giễu nhiều nhà Thơ mới trong đĩ cĩ Thế Lữ. Nhưng rồi cũng như quy luật tất
yếu của lịch sử, phong trào Thơ mới được đơng đảo cơng chúng văn học nhất
là lớp độc giả thanh niên đĩn nhận.
2.2.2. Sau cách mạng
Sau Cách mạng tháng Tám ở miền Bắc đứng trên quan điểm cách mạng,
phong trào Thơ mới được nhìn nhận và đánh giá khác trước. Từ năm 1945 -
1975 Thơ mới cũng như văn học lãng mạn nĩi chung đều bị coi là tiêu cực.
Trong tập Nĩi chuyện thơ kháng chiến năm 1951 Hồi Thanh cho rằng:
"Những vần thơ buồn tủi và bơ vơ ấy là những vần thơ cĩ tội. Nĩ xui con
người ta buơng tay cúi đầu do đĩ làm yếu sức ta và làm lợi dụng cho giặc. Sự
thật khách quan là thế" [103 - 25].
Khơng chỉ tác giả Thi nhân Việt Nam mà nhiều nhà thơ trong phong
trào Thơ mới như Thế Lữ - Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu...
đều nhìn lại một cách nghiêm khắc. Trong bài Những sợi dây trĩi buộc tơi
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
trên con đường phấn đấu đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 47 năm 1953) - Thế
Lữ phủ định hầu như tất cả mọi đĩng gĩp của mình vào nền văn học.
Khoảng năm 1956 - 1957, Thơ mới tuy vẫn bị phê phán nhưng đã được
nhìn lại với con mắt rộng hơn và Thế Lữ vẫn được coi là trường hợp cĩ nhiều
yếu tố tích cực hơn cả. Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Tập 5 tủ sách
ĐHSP - Nxb GD 1962), Nguyễn Trác cũng dành một chương viết về Thế Lữ
và tập Mấy vần thơ.
Tháng 3 - 1963, trong một lần nĩi chuyện, nhà thơ Tố Hữu tâm sự "Tơi
cũng thích nhạc điệu và hơi thở của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy
Cận... trong tâm hồn các anh lúc đĩ tơi tìm thấy những nỗi băn khoăn đau
buồn của những người cùng thế hệ, địi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các
anh chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản [39].
Năm 1966, Phan Cự Đê cho ra đời một chuyên luận cơng phu và tồn
diện về Phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ơng đã phê phán khuynh hướng
thốt ly tiêu cực, đồng thời ghi nhận tấm lịng yêu nước, yêu dân tộc, yêu
cuộc sống của các nhà Thơ mới. Đặc biệt, ơng đề cao Thế Lữ với tinh thần
dân tộc tinh thần yêu nước khá rõ nét qua bài thơ Nhớ rừng.
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 của Nguyễn Hồnh
Khung (Nxb GD 1973), ơng đã dành cả một mục trong chương 3 - Phong trào
Thơ mới để nhìn nhận Thế Lữ như là người tiêu biểu đầy đủ của cái "tơi" Thơ
mới. Ơng đánh giá cao những yếu tố tiến bộ và ngịi bút tài hoa dồi dào của
Thế Lữ.
Ở miền Nam, sau Cách mạng, Thơ mới cũng là đối tượng được các nhà
phê bình nghiên cứu quan tâm. Đã cĩ nhiều bài tiểu luận về tác giả, tác phẩm
về phong trào Thơ mới đăng tải trên các tạp chí Bách khoa nghiên cứu văn
học... Đặc biệt là sự xuất hiện khá nhiều tập hồi ký chuyên khảo, chuyên luận
về thi ca tiền chiến như Lược thảo về thơ của Uyên Thao (Nxb 1967), Thi ca
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Việt, Nxb 1969. Đặc biệt là cuốn Việt Nam
thi nhân tiền chiến (Nxb 1968 - 1969), Nguyễn Tấn Long nhận định: "Thế Lữ
đặt cho Thơ mới một nền mĩng vững chắc, ơng gây được niềm tin mãnh liệt
trong lịng khách yêu thơ, những sáng tác của ơng vừa xuất hiện đã khua
những tiếng vang sâu rộng; tựa như tia lửa loé sáng trong màn đêm, những
hồn thơ cịn đang mị mẫm sợ sệt cái táo bạo của Thơ mới, bỗng nhiên bắt
được mục tiêu tiến bước...".
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, văn học lãng mạng nĩi chung trong đĩ cĩ
Thế Lữ đã được thẩm định lại. Nhiều bài nghiên cứu chuyên luận của các tác
giả Hà Minh Đức, Nguyễn Hồnh Khung, Trần Đình Hượu, Phan Cự Đê, Vũ
Ngọc Phan… đã đánh giá lại trào lưu lãng mạn nĩi chung dưới ánh sáng của
tư duy mới.
Những năm 1984 - 1987 liên tiếp cĩ nhiều bài viết về Thế Lữ. Trong
Từ điển văn học tập 1 Nguyễn Hồnh Khung khẳng định "Ngịi bút của Thế
Lữ khá dồi dào, già dặn, tạo nên được những bức tranh đẹp, thi vị (...) Thế Lữ
đã đĩng gĩp quan trọng vào việc hiện đại hố thơ ca Việt Nam, khẳng định
biểu hiện giá trị sinh động của Thơ mới.
Năm 1987 trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thơng, Lê
Bảo viết "Nếu trước đĩ ít lâu, Tản Đà dạo khúc nhạc đầu với "Non nước nặng
một lời thề vẫn cịn sáo nhị thì Thế Lữ đã đem đến cho sân khấu âm nhạc một
giọng kèn đồng".
Năm 1989, Hà Minh Đức khi viết khải luận Phong trào thơ mới Việt
Nam thời kỳ 30 - 45 đã nhận xét: "Thế Lữ, người mở đầu cho phong trào Thơ
mới, ơng hồng của chủ nghĩa lãng mạn đã kết hợp được trong thơ tình cảm
chân thực và mở rộng với chất lãng mạn, thanh cao".
Vào dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới đã cĩ rất nhiều bài nghiên
cứu về văn nghiệp của Thế Lữ. Đáng chú ý phải kể đến cuốn sách Nhìn lại
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
một cuộc cách mạng trong thi ca của Hà Minh Đức (năm 1993) đã chọn hai
bài thơ Nhớ rừng và Cây đàn muơn điệu của Thế Lữ xếp đầu danh sách.
Năm 1997 cĩ bài Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng
Thưởng (Tạp chí Văn học số tháng 7) và các bài của Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Xuân Sanh (báo Văn nghệ) nhân kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh
Thế Lữ.
Năm 2000 Nxb KHXH đã cơng bố tập 25 trong hệ thống trọn bộ 42 tập
của Tổng tập văn học Việt Nam. Cuốn sách được in nhiều nhà thơ trong đĩ
tập Mấy vần thơ tập mới của Thế Lữ được in lại tồn bộ. Năm 2002 cĩ tiểu
luận Thế Lữ - người mở đầu một trào lưu thơ ca của Hà Minh Đức. Tác giả đã
cĩ cái nhìn bao quát sâu sắc làm nổi bật hồn thơ Thế Lữ.
Năm 2005, Phạm Đình Ân cho ra đời cuốn Thế Lữ - tác gia tác phẩm.
Cuốn sách đã cĩ cái nhìn tổng quát về tồn bộ văn nghệ và những bài viết về
Thế Lữ.
Ngồi những bài nghiên cứu nĩi trên đã cĩ rất nhiều những luận văn
thạc sĩ nghiên cứu về thơ Thế Lữ, song những luận văn này chỉ mới đề cập
thơ Thế Lữ ở những khía cạnh nhất định, chưa nghiên cứu sâu về những đĩng
gĩp của Thế Lữ trong cơng cuộc hiện đại hố văn học. Ở luận văn này, chúng
tơi sẽ làm rõ vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học giai đoạn 1930 - 1945.
2.2. Về văn xuơi
2.2.1. Như trên đã nĩi, Thế Lữ thuộc vào số ít những nghệ sĩ đa tài của
nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Ơng khơng chỉ là người mở đầu cho
phong trào Thơ mới mà cịn là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuơi
nghệ thuật như truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng... song
hoạt động nghiên cứu về sự nghiệp văn xuơi của Thế Lữ vẫn chưa được sự
chú ý của nhiều bạn đọc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Người đầu tiên nghiên cứu văn xuơi của Thế Lữ là Vũ Ngọc Phan.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết "về thơ, người ta thấy rõ các
thi cốt, các chân tài của Thế Lữ. Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh thám ơng
chưa thành cơng, nhưng về những truyện ghê sợ, ơng đã chứng tỏ là một tiểu
thuyết gia cĩ biệt tài". Cũng trong cuốn sách này ơng cho rằng: "Vàng và Máu
của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia cĩ biệt tài. Nghệ
thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ ở đây đã lên tới trình độ cao" [26 - 27 - 28].
Tác giả Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam Văn học giản ước tân biên
đã dành 11 trang nĩi về những truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám
của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ
mới cịn cĩ một Thế Lữ văn xuơi đặc sắc.
2.2.2. Từ giữa những năm 1980 đến nay, trong khơng khí đổi mới
mạnh mẽ của xã hội, nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đồn, nhiều tập thơ
lãng mạn được xuất bản với số lượng lớn. Song văn xuơi của Thế Lữ nĩi
chung cũng như các truyện kinh dị, truyện trinh thám của Thế Lữ vẫn được
đánh giá rất cao.
Báo văn nghệ số 23 ra ngày 3/6/89 đăng bài Thương tiếc nhà thơ Thế
Lữ, tác giả Tế Hanh viết: "Ở nơi anh cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ
ràng, trong thơ, trong truyện, trong báo chí, trong sân khấu" [26 - 383].
Nguyễn Hồnh Khung trong Lời giới thiệu bộ sách 8 tập Văn xuơi lãng
mạn Việt Nam 1930 - 1945 viết: "Ngơi sao rực rỡ nhất của phong trào Thơ
mới thời kỳ đầu, cũng là cây bút văn xuơi đặc sắc, dồi dào, đề tài và bút phát
khá đa dạng. Ơng được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị (...) rồi loại
truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và nhất là truyện trinh thám, ơng là một
trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta...".[37-423]
Năm 1991, trong cuốn Thế Lữ - cuộc đời trong nghệ thuật tác giả Hồi
Việt cĩ bài: Thế Lữ như tơi viết trong bài viết của mình ơng đánh giá rất cao
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
những truyện quái dị của Thế Lữ so với các nhà văn cùng thời. Ơng khẳng
định: "Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng
ơng lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa học” [26-412; 413].
Tiếp đến trên tạp chí Văn học số 7 năm 1997, Phan Trọng Thưởng cĩ bài
Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong. Tác giả đã khẳng định: "Với loại truyện li
kỳ rùng rợn Thế Lữ đã đạt đỉnh cao của loại truyện này" chỉ sau khi tập Mấy
vần thơ ra đời được ít lâu Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh vực văn xuơi với hai sở
trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám như Vàng và Máu
(Đời nay-1937), Bên đường thiên lơi (1936); Mai Hương và Lê Phong (1937)...
Với Vàng và Máu, ơng cĩ thể được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của
loại truyện này [76-13]. Cũng trong bài viết này Phan Trọng Thưởng đã khẳng
định cơng lao to lớn của Thế Lữ trong việc mở ra khuynh hướng mới cho văn
chương nhĩm Tự lực văn đồn: "Cùng với Lan Khai và một vài tác giả khác
chuyên viết về loại truyện đường rừng, bí hiểm văn xuơi Thế Lữ mở ra một
khuynh hướng mới của văn chương Tự lực văn đồn [76-13].
Năm 2003 trên Tạp chí Văn học số 8, Phạm Đình Ân cĩ bài viết Thế Lữ
trong Tự lực văn đồn. Trong bài viết này bên cạnh việc khẳng định vị trí, vai
trị và đĩng gĩp của Thế Lữ với nhĩm Tự lực văn đồn tác giả cịn khẳng định
"Văn xuơi nghệ thuật của Thế Lữ cũng cĩ một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn cho thấy
một khía cạnh đáng lưu ý ở tài năng Thế Lữ [2-68].
Nhìn chung, nhiều năm qua văn xuơi của Thế Lữ được học tập và
nghiên cứu rất đơn giản và dè dặt. Trong phạm vi nhà trường, học sinh khơng
được tiếp cận với các tác phẩm văn xuơi, ít được biết đến Thế Lữ ở phương
diện nhà phê bình văn học, nhà dịch thuật, nhà nghệ sĩ đa tài, nhà đạo diễn sân
khấu. Song ở luận văn này, chúng tơi muốn nghiên cứu một khía cạnh nhỏ
trong mảng văn xuơi của Thế Lữ đặc biệt là trong truyện trinh thám và truyện
kinh dị để khẳng định Thế Lữ - tác giả tiên phong của thể loại truyện này.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài trên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách cụ thể những
sáng tác của Thế Lữ giai đoạn 1930 -1945 ở hai lĩnh vực Thơ và Văn xuơi
(khơng khảo sát nghiên cứu hoạt động sân khấu, báo chí, lý luận, phê bình
văn học). Đặc biệt, luận văn này sẽ làm rõ hơn vị trí tiên phong của Thế Lữ
đối với một số thể loại văn học trong chặng đường văn học 1930 - 1945 nĩi
riêng và nền văn học nước nhà nĩi chung. Đúng như nhận định của PGS. TS
Phan Trọng Thưởng: Thế Lữ - Nghệ sĩ hai lần tiên phong và đánh giá của Lê
Đình Kỵ trong lời giới thiệu Tuyển tập Thế Lữ: "Cho đến nay trong lịch sử
văn học Việt Nam khơng cĩ một tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong hai loại sáng tác khá độc đáo này" [2b - 55, 56].
4. ĐĨNG GĨP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Từ các thành tựu nghệ thuật tiêu biểu trên các lĩnh vực Thơ và văn
xuơi, luận văn này nghiên cứu đánh giá vị trí của Thế Lữ với tiến trình văn
học Việt Nam thời kỳ 30 - 45 một cách cĩ hệ thống theo quan điểm nghiên
cứu mới nhất.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trong quá trình thực hiện đề tài chúng
tơi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Nhằm nghiên cứu tác giả, tác phẩm dưới gĩc
nhìn của lịch sử văn học để làm nổi bật vị trí, vai trị của Thế Lữ trong tiến
trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trong quá trình triển khai luận văn
chúng tơi sử dụng phương pháp thẩm mĩ truyền thống và phương pháp thống
kê khi tiếp cận tác phẩm.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
- Phương pháp so sánh: Với quan điểm lịch sử trên đây luận văn sẽ cố
gắng so sánh Thế Lữ trên cả bình diện lịch đại và đồng đại để gĩp phần làm
sáng tỏ vai trị "mở đường", "tiên phong" của Thế Lữ đối với văn học Việt
Nam giai đoạn 30 - 45 ở một số thể loại.
6. CẤU TRƯC LUẬN VĂN
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự xuất hiện của Thế Lữ trong bối cảnh văn học Việt Nam
thời kỳ 30 - 45
Chương 2: Những phẩm chất cách tân trong thơ Thế Lữ
Chương 3: Thế Lữ với những đĩng gĩp về văn xuơi nghệ thuật
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Chương 1
SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45
1.1. BỐI CẢNH VĂN HỐ, XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hố - xã hội
Hiện thực đời sống xã hội khơng chỉ là đối tượng phản ánh một nền văn
học nhất định mà cịn là nhân tố làm nảy sinh chính nền văn học ấy. Theo mối
quan hệ biện chứng này thì vào đầu thế kỷ XX, xã hội nước ta đã xuất hiện
đầy đủ tiền đề cho một nền văn học hiện đại ra đời.
Đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ này, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt
Nam hai cuộc khai thác thuộc địa lớn nhằm bù đắp những thiệt hại kinh tế ở
chính quốc do cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất gây ra. Xã hội Việt Nam do
đĩ cũng biến đổi theo. Các đơ thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Việc buơn bán bắt đầu sơi động ở các thành phố
lớn. Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã cĩ qui mơ hồn chỉnh.
Một tầng lớp tiểu tư sản được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất đến đầu thập kỷ 30 đã phát triển đơng đảo và chiếm một tỷ lệ khơng nhỏ
trong dân số các đơ thị. Theo thống kê niên giám của Đơng Dương năm 1932
- 1933, số trí thức tân học bao gồm học sinh, sinh viên và viên chức đã lên tới
35 vạn người.
Hầu hết các tầng lớp và giai cấp trên đều sống ở các đơ thị. Một lối
sống tư sản hố được gọi là "văn minh thành thị" lan tràn trong giai cấp tư sản
và tiểu tư sản lớp trên. Lối sống đơ thị hố được thể hiện rõ trong cách ăn mặc
của thanh niên nam nữ. Cuối thập kỷ 30 người ta thấy xuất hiện nhiều thiếu
nữ Hà Thành mặt đánh phấn, mơi đỏ chĩt, áo màu, giày cao gĩt, chơi ping
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
pơng, tennis. Nam thanh niên thành thị giàu sang cũng đua nhau ăn mặc
khơng kém thiếu nữ.
Cĩ thể nĩi, những đổi mới trong sinh hoạt của các tầng lớp trên đây sẽ
dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cảm xúc trong chính bản thân những con người
này. Gĩp phần vào sự thay đổi đĩ cịn do sự tiếp xúc với văn hố phương Tây
mà đặc biệt là với văn học lãng mạn Pháp.
Năm 1915, thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc phải bãi bỏ
thi Hương ở Bắc Kỳ. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng ở Huế đã kết thúc chế
độ khoa thi cử phong kiến. Từ đây, trong các trường học, học sinh bắt đầu say
sưa với văn hố Pháp mà đặc biệt là văn học lãng mạn Pháp. Người ta bắt đầu
ca ngợi thơ lãng mạn của Huygơ, Lamartine, Musset,... Nhiều người rất thích
bài thơ "Le Lac" (Cái hồ) của Lamartine, mê nhân vật Atala trong tác phẩm
cùng tên của Chateaubriand.
Sự tiếp xúc văn hố trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư
sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung
động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khơng giống các cụ ngày xưa
nữa. Điều này đã được Lưu Trọng Lư nêu lên cơng khai trong buổi diễn thuyết
ở nhà Học Hội Quy Nhơn hồi tháng 6 năm 1934: "Các cụ ta ưa những màu đỏ
chĩt ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cơ gái xinh xắn, ngây
thơ, các cụ coi như làm một điều tội lỗi ta thì cho là mát mẻ như đứng trước
một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hơn nhân, nhưng đối
với ta thì trăm hình muơn trạng, cái tình say đắm, cái tình thống qua, cái tình
gần gũi, cái tình xa xơi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu..." [5-21].
Sự tiếp xúc với văn hố phương Tây và lối sống đơ thị hố cũng làm
cho ý thức cá nhân nảy nở và phát triển rất nhanh lấn át ý thức cộng đồng xưa
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
cũ. Những con người trong xã hội ngày càng muốn khẳng định cái tơi cá nhân
của mình trong gia đình và cả ngồi xã hội, điều này được biểu hiện rất rõ
trong văn học. Vì vậy, một quan niệm mới về văn chương cũng đồng thời
xuất hiện.
Đến thế kỷ XX, với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đơng đảo và lối
sống đơ thị hố, với ảnh hưởng của văn hố phương Tây... ý thức cá nhân mới
nảy sinh và phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp thị dân mà trước hết là ở bộ
phận trí thức tân học. Họ cĩ quan điểm hồn tồn khác với thế hệ trước về cái
đẹp, về đạo đức, nhân sinh và đặc biệt là về văn hố nghệ thuật. Họ cho rằng
những quy phạm chặt chẽ của thi pháp cổ đã trở thành vật cản trên chặng
đường tự do dân chủ h._.ố nền văn học nước nhà. Họ lên tiếng chống lại sự trĩi
buộc trái tự nhiên của thi pháp cổ mang tính phi ngã đã một thời là mẫu mực
cho các sáng tác văn chương nghệ thuật. Họ địi hỏi một sự cách tân để thoả
mãn nhu cầu thẩm mỹ mới và để kích thích cá tính sáng tạo trong lĩnh vực
nghệ thuật văn chương.
Cĩ thể nĩi, lối sống đơ thị hố và sự tiếp xúc văn hố phương Tây của
một số tầng lớp dân chúng Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ này là tiền
đề quan trọng cho xu hướng hiện đại hố đời sống xã hội, trong đĩ cĩ văn
học. Ngồi ra, gĩp phần khơng nhỏ vào sự đổi mới của xã hội nĩi chung và
văn nghệ nĩi riêng cịn phải kể đến vai trị của báo chí.
Từ năm 1913, báo chí bắt đầu đổi mới và cĩ khuynh hướng, chương
trình rõ rệt hơn, hình thức báo chí cũng được cải tiến. Báo chí thời nay được
xuất bản bằng các thứ tiếng Tàu, Pháp, Quốc Ngữ và đơi khi cả chữ Nơm nữa.
Về sau, những trí thức tân học của ta đã cổ động cho chữ quốc ngữ và dùng
nĩ làm phương tiện phổ biến. Văn hố, khoa học tiến bộ gĩp phần thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên. Chính báo chí đã hoạt động sơi nổi khiến chính
quyền thực dân và Chính phủ Nam triều phải bãi bỏ chế độ thi cử lỗi thời làm
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
cho nền Hán học ở Việt Nam sụp đổ hồn tồn. Báo chí cũng là diễn đàn để
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trao đổi ý kiến đánh giá tác phẩm, phổ
biến lý luận kinh nghiệm sáng tác. Đặc biệt, báo chí cịn gĩp phần đấu tranh
cho sự thắng lợi của văn hố tiến bộ, cho sự tồn thắng của chữ quốc ngữ, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới văn học.
Tham gia vào cơng cuộc đổi mới cĩ một số tri thức Hán học chịu ảnh
hưởng của sinh hoạt đơ thị tư sản và văn hố phương Tây thơng qua Tân Thư
Trung Quốc như Tàn Đà, Nguyễn Bá Học, Hồng Ngọc Phách, Phan Khơi,...
nhưng chủ yếu vẫn là tầng lớp tri thức tân học. Những cây bút này đã tạo nên
trên văn đàn cơng khai ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ hai trào lưu
văn học là văn học hiện thực và văn học lãng mạn chủ nghĩa. Hai trào lưu này
đều đấu tranh thốt khỏi hệ thống thi pháp cổ trung đại và đã thực sự đĩng
gĩp cĩ hiệu quả vào tiến trình hiện đại hố nền văn học Việt Nam.
Thế Lữ cũng thuộc kiểu tri thức nghệ sĩ mới tiểu tư sản ở một thuộc địa
nửa phong kiến trong số những văn nghệ sĩ, những nhà hoạt động khoa học xã
hội - nhân văn nĩi trên. Ơng xuất hiện từ năm 1932 và trưởng thành trong 13
năm (1932 - 1945) cĩ một vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình hiện đại
hố văn học nước nhà trước Cách mạng tháng Tám.
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hƣớng, nhĩm phái văn học
Thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
hết sức gay gắt. Từ đĩ dẫn đến những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
và ý thức hệ, sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và
phương pháp sáng tác khác nhau.
Năm 1930 là năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đĩ cũng
là năm xuất hiện phong trào Xơ Viết Nghệ Tĩnh, mở đầu cho dịng văn học vơ
sản và các khuynh hướng lãng mạn, hiện thực phê phán đã phát triển thành
dịng độc lập.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Từ 1923 đến 1931 Nguyễn Cơng Hoan đã khẳng định phương pháp
hiện thực phê phán trong thể loại truyện ngắn (Răng con chĩ của nhà tư sản,
Oẳn tà roằn, Thật là phúc, Ngựa người và người ngựa...).
Trong hai năm 1930 - 1931 Ngơ Tất Tố viết những tiểu phẩm văn học
nổi tiếng trên các báo phổ thơng, Đơng Phương với các biệt hiệu Thiết Khẩu
Nhi; Thục Điểu,... Năm 1931 cũng là năm tác phẩm đầu tay của Vũ Trọng
Phụng ra đời (Khơng một tiếng vang).
Năm 1932 đánh dấu một bước phát triển đột biến của dịng văn học
lãng mạn: Báo Phong hố; Văn xuơi Tự lực văn đồn; Phong trào Thơ mới...
Từ 1930 - 1935 cũng nổ ra hàng loạt cuộc tranh luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận
về Nho giáo giữa Phan Khơi, Trần Trọng Kim và Tản Đà; cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề Thơ mới. Báo Phong Hố cho đăng hàng loạt phĩng sự
dài chủ trương bỏ cũ theo mới. Tất cả những cuộc tranh luận đĩ phản ánh
cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến, đại gia đình phong kiến với chủ nghĩa
cá nhân tư sản, cuộc đấu tranh của tình cảm cá nhân, ý thức cá nhân chống lại
những khuơn khổ gị bĩ, lối suy nghĩ và ngơn ngữ khuơn sáo của thơ ca một
lớp nhà nho đã lỗi thời, đã tàn tạ. Tự Lực Văn Đồn đề xướng phong trào Âu
hố, đề cập đến cuộc xung đột giữa mới và cũ, lên án gia đình phong kiến,
bênh vực tình yêu lứa đơi, bênh vực chủ nghĩa cá nhân tư sản.
Văn học lãng lạn thời kỳ 30 - 45 gần như chiếm địa vị độc tơn trên thi
đàn văn học cơng khai. Bắt đầu với nhĩm Tự Lực Văn Đồn và Phong trào
Thơ mới. Ngồi nhĩm Phong hố, Ngày nay cịn phải kể đến các nhĩm Hà
Nội báo (Huy Thơng, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), Tiểu
thuyết thứ bảy (Thâm Tâm, Trần Huyền Trân; Lai Ba, Ngọc Giao, Thanh
Châu), Tao Đàn (Nguyễn Tuân, Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh), Xuân Thu Nhã
Tập (Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đồn Phú Tứ...). Ngồi làng văn
đất Hà Thành cịn phải kể đến các nhĩm Sơng Thương (Bàng Bá Lân, Anh
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Thơ), nhĩm Huế (Nam Trân, Nguyễn Đình Thư), nhĩm Bình Định (Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,...).
Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi thành lập trường phái và cĩ
những tuyên ngơn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên ở thời kỳ này chúng ta cũng
thấy được quan điểm thẩm mĩ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ (Cây đàn
muơn điệu), Xuân Diệu (Cảm xúc, lời thơ, Gửi hương), những bài phát biểu
của Lưu Trọng Lư trong cuộc tranh luận về nghệ thuật (1935 - 1936) và cuối
cùng người ta đã nghe thấy âm thanh của chủ nghĩa "nghệ thuật vị nghệ thuật"
từ những bản nhạc dạo đầu của Cây đàn muơn điệu của Thế Lữ.
Như vậy, văn học thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ nở rộ và phát triển các
khuynh hướng, nhĩm phái văn học cùng với khuynh hướng văn học hiện thực
phê phán, văn học lãng mạn, đặc biệt là phong trào thơ mới đã gĩp phần rất
quan trọng trong việc đưa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện đại.
Một trong những người cĩ cơng đầu tiên phải kể đến là Thế Lữ - người cĩ vai
trị mở đường cho Thơ mới nĩi riêng và cho cả giai đoạn văn học 1930 - 1945
nĩi chung.
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hồn thiện
về thể loại
Cùng với sự chuyển biến của tình hình xã hội, văn học thời kỳ từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945, đặc biệt từ đầu những năm 30 trở đi, đã phát triển
nhanh chĩng đạt nhiều thành tựu to lớn. Chỉ trong vịng hơn một thập niên,
các khu vực các dịng văn học đều vận động, phát triển với nhịp độ khẩn
trương, mau lẹ. Điều đĩ thể hiện ở sự phát triển về số lượng tác giả và tác
phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể loại văn học và độ kết tinh ở những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tiểu thuyết từ trước năm 1930 cịn ít ỏi và cĩ phần đơn giản, thậm chí
một số chỉ là phỏng tác. Đến những năm 30, thể loại này trở nên phong phú
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
và thật sự đổi mới, nhất là ở cách dựng truyện, tổ chức kết cấu và xây dựng
tính cách nhân vật. Nhĩm Tự lực văn đồn với những tác phẩm thành cơng
của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.
Tiếp đĩ là những tiểu thuyết cĩ giá trị của Vũ Trọng Phụng. Ngơ Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao... đã đưa thể loại này lên đến đỉnh cao.
Truyện ngắn thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh chĩng. Chưa
bào giờ truyện ngắn Việt Nam lại phong phú, đặc sắc như thế: truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Cơng Hoan; truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Zếnh, truyện ngắn phong tục của Tơ Hồi, Bùi Hiển, Kim
Lân; truyện ngắn cĩ khả năng tạo nên bầu khơng khí Vang bĩng một thời của
Nguyễn Tuân; truyện ngắn viết về đời tư, về cái hằng ngày, dựng lên được cả
thế giới "sống mịn", mang tư tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng lớn với
nhiều trang phân tích tâm lý đạt tới trình độ bậc thầy của Nam Cao... Chỉ sau
hơn một thập niên, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc,
trong đĩ một số truyện ngắn cĩ thể coi là kiệt tác.
Phĩng sự và tuỳ bút cũng phát triển mạnh được kết tinh trong những
sáng tác của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngơ Tất Tố, Nguyễn Tuân. Về bút
ký, tuỳ bút phải kể đến Xuân Diệu và đặc biệt là Nguyễn Tuân - một cây bút
tài hoa, độc đáo với nhiều tác phẩm đặc sắc.
Trong lĩnh vực thơ ca, phong trào Thơ mới đã đem lại sự đổi thay sâu
sắc với đội ngũ thi sĩ đơng đảo, đa dạng, phong phú về phong cách nghệ thuật.
Hồi Thanh khẳng định trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ cĩ một
thời đại phong phú như thế: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một
lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thơng, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu" (Thi nhân Việt Nam).
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Thơ ca cũng là thể loại chủ lực và cĩ giá trị nhất của bộ phận văn học
cách mạng. Đáng chú ý hơn cả là sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Xuân Thuỷ, Sĩng Hồng,... trong đĩ tiêu biểu nhất là những tập thơ sáng tác
trong tù như Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Từ Ấy của Tố Hữu. Đây là
hai thành tựu xuất sắc đưa thơ ca cách mạng lên tầm cao mới.
Ở chặng này, kịch nĩi tiếp tục phát triển, được nhiều thành tựu vượt
trội hơn so với trước đây. Gây được tiếng vang là những vở kịch của Vi
Huyền Đắc, Đồn Phú Tứ, nhất là những vở kịch khai thác đề tài lịch sử
của Nguyễn Huy Tưởng.
Cùng với sáng tác, nghiên cứu lý luận phê bình văn học cũng phát triển,
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Cĩ giá trị hơn cả là những cơng
trình như Thi nhân Việt Nam của Hồi Thanh - Hồi Chân. Nhà văn hiện đại
của Vũ Ngọc Phan, Văn học Khải Luận của Đặng Thai Mai... đã gĩp phần
thúc đẩy nền văn học phát triển.
Dường như bất cứ thể loại nào, văn học cũng phát triển ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Chính vì phát triển với tốc độ vũ bão như vậy nên khơng cĩ
cây bút nào giữ được vai trị tiên phong trong suốt chặng đường dài. Đĩ là
cuộc chạy tiếp sức đầy căng thẳng, quyết liệt và cũng thật ngoạn mục tạo một
nhịp độ khẩn trương, nhanh chĩng chưa từng thấy trong lịch sử văn học dân
tộc. Vì vậy, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thật cĩ lí khi khẳng định
"Ở nước ta một năm cĩ thể kể như ba mươi năm của người".
Hồ chung trong sự phát triển mạnh mẽ đĩ chúng ta phải kể đến vai trị
của Thế Lữ trong sự phát triển và hồn thiện một số thể loại gĩp phần làm cho
văn học giai đoạn này thực sự cĩ một diện mạo mới, đa dạng, phong phú
mang tính hiện đại.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẾ LỮ TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC MỚI
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, bút hiệu Lê Ta, sinh ngày 06 tháng
10 năm 1907 tại ấp Thái Hà - Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ. Thuở
nhỏ ở Lạng Sơn sau đĩ về Hải Phịng học sơ học và thành chung. Năm 1929
học song năm thứ ba bậc thành chung thì về Hà Nội thi đỗ dự thinh vào
trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đơng Dương, học được một năm thì bỏ.
Cĩ thể nĩi, Nguyễn Thế Lữ thuộc vào một số ít những nghệ sĩ đa tài
của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Thế Lữ là "khởi điểm của
những khởi điểm".
Khi sống ở Hải Phịng, lúc chỉ mới mười tám, đơi mươi Thế Lữ đã viết
truyện, làm thơ. Khi nền văn học nước nhà bước vào thời kỳ hiện đại hố văn
học, Thế Lữ bắt đầu được mời làm báo Phong hố, sau đĩ ra nhập Tự lực văn
đồn là người sáng lập văn phái này. Ơng là nhà báo, người biên tập nịng cốt,
mẫn cán của hai tờ Phong hố và Ngày nay.
Về văn xuơi nghệ thuật, Thế Lữ cũng cĩ những đĩng gĩp đáng kể ở thể
loại truyện trinh thám, truyện huyễn tưởng như là mở đầu một thể tài mới,
một cách viết mới.
Trong khi các tiểu thuyết gia văn học hiện thực phê phán như Ngơ Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... đang trực tiếp dùng ngịi bút của mình để
phơi bầy sự xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè nặng
lên tâm hồn và thể xác của những người dân lương thiện, trong khi các tác giả
văn xuơi Tự lực văn đồn đang tập trung miêu tả những câu chuyện tình
ngang trái do lề thĩi phong kiến cổ hủ gây ra thì Thế Lữ cho ra đời một loạt
sáng tác khác hẳn: ơng viết truyện trinh thám và các "truyện lạ" theo kiểu
Etga Pơ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Hàng loạt sáng tác của Thế Lữ như "Vàng và máu" (1934), "Bên đường
thiên lơi" (1937), "Lê Phong phĩng viên" (1937), "Mai Hương và Lê Phong"
(1937), "Địn hẹn" (1939), "Gĩi thuốc lá" (1940), "Trại Bồ Tùng Linh" (1941)
đã gây được tiếng vang lớn. Những sáng tác này cho thấy Thế Lữ là một nhà
văn cĩ tài quan sát, cĩ ĩc phân tích sắc bén, cĩ trí tưởng tượng dồi dào.
Cĩ thể nĩi, so với những tác phẩm văn xuơi truyền thống và tiểu thuyết
cùng thời, tiểu thuyết của Thế Lữ đã gây được một ấn tượng đặc biệt trong
lịng người đọc. Với tiểu thuyết của Thế Lữ, nghệ thuật văn xuơi dường như
bước sang một trang mới từ cách xây dựng hình tượng, đổi mới hệ thống cốt
truyện đến đổi mới về hình thức. Bởi thế, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã
viết "Về tiểu thuyết, tuy truyện trinh thám ơng chưa thành cơng nhưng về
truyện ghê sợ ơng đã tỏ ra một tiểu thuyết gia cĩ biệt tài" [26 - 1953].
Trong lĩnh vực sân khấu: ngay từ khi gia nhập Tự lực văn đồn, Thế Lữ
đã quan tâm tới nghệ thuật biểu diễn kịch. Từ 1935 - 1937 vừa làm biên tập,
viết báo, sáng tác và cơng bố các tác phẩm văn chương. Ơng thành lập nhĩm
kịch Thế Lữ ở Hải Phịng, tham gia ban kịch Tinh hoa, ban kịch Anh Vũ bằng
nhiều cơng việc như quản lý đồn kịch, chỉ đạo nghệ thuật diễn, sắm vai và
viết kịch bản. Thế Lữ cịn là một dịch giả dịch những tài liệu về sân khấu và
kịch bản kịch nĩi, kịch thơ. Nĩi về vai trị của Thế Lữ trong lĩnh vực này
Phan Trọng Thưởng trong bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong đã khẳng
định "Thế Lữ là người đầu tiên đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nĩi ở nước ta
trở thành chuyên nghiệp và cĩ cơng xây dựng nĩ trở thành một nghệ thuật sân
khấu hồn chỉnh".
Nhưng cĩ lẽ khơng ở đâu, cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại
được bộc lộ đầy đủ như ở Thơ mới. Để thấy rõ được cơng lao đĩng gĩp của
Thế Lữ dưới đây chúng tơi sẽ dựng lại bước khởi đầu của Thơ mới để thấy rõ
được vai trị tiên phong của người nghệ sĩ đa tài Thế Lữ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và Thơ cũ
Phong trào thơ mới (1932 - 1945) là một cuộc vận động đổi mới thơ ca
rộng lớn, mang tầm vĩc một cuộc cách mạng trong thơ ca tiếng Việt. Nĩ đã
chuyển đổi hệ thống thi pháp thơ ca từ thơ pháp trữ tình điệu ngâm sang thơ
trữ tình điệu nĩi, đưa thơ ca tiếng Việt sang phạm trù thơ hiện đại. Phong trào
này được mở đầu bằng cuộc tranh luận sơi nổi giữa Thơ mới và Thơ cũ.
Cuộc tranh luận kết thúc khi thắng lợi hồn tồn thuộc về Thơ mới. Để
giành phần thắng cho Thơ mới, cơng đầu phải kể đến những người đi tiên
phong trong việc đề xướng Thơ mới phê phán thơ cũ.
Năm 1917 trên tờ An Nam tạp chí (số 5 - tháng 11) Phạm Quỳnh lần
đầu tiên lên tiếng thở than về tình trạng thơ ca đương thời. Ơng cho rằng: thơ
Đường luật là thứ thơ phiền phức, luật lệ ràng buộc khắc nghiệt khơng khác
luật hình. Đến năm 1927, Phan Khơi trên Đơng pháp thời báo đã táo bạo cơng
kích thơ cũ, cho thơ cũ là thứ thơ trĩi buộc, hãm đà, thơ tục. Sang năm 1929,
tờ Trung Bắc tân văn lần đầu tiên đăng một bài thơ dịch khơng niêm luật,
khơng hạn chế số câu - đĩ là bài Con ve và con kiến do Nguyễn Văn Vĩnh
dịch thơ La Phơng Ten. Cũng trong năm này Trịnh Đình Rư viết một loạt bài
đăng trên Phụ nữ Tân Văn mạnh mẽ cơng kích thơ Đường luật "bĩ buộc
người ta theo khuơn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào"
[22,6] và ơng đề nghị sáng tác thơ theo thể lục bát và song thất lục bát hồn
tồn dân tộc.
Song đến thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX, vấn đề cải cách thi ca đã trở
thành một nhu cầu bức xúc của văn học dân tộc. Ngày 10/3/1932 báo Phụ nữ
Tân văn xuất bản ở Sài Gịn đăng bài: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ cùng bài thơ Tình già của Phan Khơi.
Trong bài báo này Phan Khơi nhận thấy truyền thống của thơ ca cổ điển
hàng ngàn năm với di sản đồ sộ và những áng thơ tuyệt bút của người xưa
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
cùng với những quy định chặt chẽ về thi pháp đang là gánh nặng của thi sĩ
đương thời. Những nguồn cảm hứng thi ca quen thuộc được nĩi quá nhiều đã
nhàm chán. Những cảm xúc vui buồn của con người thời nay muốn nĩi ra lại
bị khuơn phép thơ xưa cản trở. Phan Khơi cho rằng: thơ cốt chơn, mà thơ cũ
vì cơng thức quá nhiều nên mất chơn. Theo luật Đường thi, người làm thơ cĩ
thể trực tiếp biểu đạt được tình cảm, cảm xúc cĩ thật cùng mình, vì vậy nhà
thơ xa lạ với đời sống tình cảm của con người. Những biểu tượng, hình ảnh
mĩ lệ hố nhiều thành cơng thức sáo mịn mất đi sức truyền cảm. Bởi vậy
Phan Khơi đề xướng một lối thơ mới "đem ý thật trong thâm khảm mà nĩi ra
bằng những câu cĩ vần và khơng phải bĩ buộc bởi niêm luật" [54.53].
Về hình thức lối thơ mới, Phan Khơi cho rằng vẫn phải cĩ vần nhưng
những niêm luật bĩ buộc thì phải bỏ hết câu thơ tự do thì mới đủ sức diễn tả
những cảm xúc thơ ca mới của con người thời nay. Để minh hoạ cho ý tưởng
trên Phan Khơi cho in kèm bài Tình Già - bài thơ mà sau này nhiều người cho
là khơng cĩ gì là mới mẻ, nhưng lúc bấy giờ nĩ như một luồng giĩ lạ.
Để diễn đạt tâm sự vơi đầy trong bài thơ, Phan Khơi khơng chỉ phá bỏ
niêm luật, câu thơ được nới rộng ra thoải mái: câu dài 16 - 17 chữ, câu ngắn
cũng 10 chữ, ý tình kín khuất của nhân vật trữ tình được giãi bầy một cách rõ
ràng, dễ hiểu, chân thật. Nguyên tắc mạch kỵ lộ của Đường thi trở nên xa lạ.
Do ý tưởng táo bạo của Phan Khơi trong bài báo và sự mới lạ của bài
thơ Tình già, đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn (10/3/1932) được coi là sự đột
khởi trên thi đàn Văn học Việt Nam; Với bài thơ này, Thơ mới đã cĩ một
tuyên ngơn thứ nhất, một hình hài đầu tiên. Cánh cửa đã mở, dù là mở hé đã
cho người ta thấy một chân trời khác của thơ ca.
Sự ra đời của bài Tình già tạo ra hai luồng dư luận trái ngược nhau.
Những người cĩ tư tưởng tiến bộ thì lạc quan cho đĩ là dấu hiệu hình thành
nền học thuật mới. Ngược lại những người hồi nghi bảo thủ cho rằng đĩ là
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
thứ "quái thai của thời đại, nếu để nĩ sống sẽ là điều sỉ nhục cho nền học
thuật nước nhà" [21.99]. Những người ủng hộ Phan Khơi sớm nhất, nhiệt tình
nhất là thanh niên tân học. Trong số những người trẻ tuổi đĩ là nổi lên hàng
đầu là tên tuổi của Nguyễn Thị Kiêm ở Nam Bộ và Thế Lữ ở đất Bắc.
Nguyễn Thị Kiêm biệt hiệu là Nguyễn Thị Manh Manh hay ký bút
danh là Manh Manh. Khi Phan Khơi hơ hào lối Thơ mới người Nữ sĩ này lập
tức hưởng ứng rất nhiệt tình. Sau những bài thơ của Phan Khơi, của Lưu
Trọng Lư là hai bài thơ Canh tàn, Viếng phịng vắng ký tên Nguyễn Thị
Manh Manh. Với hai bài thơ này Nguyễn Thị Kiêm khơng chỉ phá thể, phủ
nhận khuơn phép xưa mà cịn gieo tư tưởng lãng mạn, bộc lộ khao khát yêu
đương của tuổi trẻ. Ở những bài tiếp theo như Hai cơ thiếu nữ, Bức thư gửi
cho tất cả những ai ưa và ghét lối Thơ mới, nữ sĩ đã thả sức thể nghiệm: chất
tự sự, lời đối thoại, ngữ điệu nĩi, chất tư duy luân lý... tràn vào thơ.
Nguyễn Thị Kiêm đã "rất cĩ ý thức và hăng hái tạo ra Thơ mới" (chữ
dùng của Nguyễn Tấn Long) [21.179] bằng cách sáng tạo những bài thơ phá
thể, phá cách: bỏ niêm, luật đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, mở rộng biên độ câu
thơ. Hướng thể nghiệm này đã tạo những viên gạch đầu tiên để dựng lên tồ
lâu đài Thơ mới.
Để bảo vệ Thơ mới, Nguyễn Thị Kiệm đã dũng cảm mở mặt trận khẩu
chiến đấu tranh với phái ủng hộ thơ cũ. Ngày 26/7/1933 nữ sĩ đã đăng diễn
thuyết tại Hội khuyến học Sài Gịn, chỉ ra hạn chế của luật thơ Đường "Khuơn
khổ luật phép phiền phức, nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một
phạm vi co hẹp lúng túng, cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy
trăm bài khác, cịn ý tưởng thì dường như đã cĩ nhiều người phát minh ra trước
rồi" Nữ sĩ cũng chỉ rõ Thơ mới là gì và tại sao Thơ mới phải ra đời "Muốn cho
tình tứ khơng vì khuơn khổ mà bị "đẹt" mất thì cần một lối thơ khác, lề lối
nguyên tắc rộng hơn. Thơ này khác với thơ xưa nên gọi là Thơ mới" [54, 100].
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Đến tháng 1/1935 Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết, tranh luận tay đơi
với ơng Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gịn. Sự năng nổ, táo bạo
của Nguyễn Thị Kiêm đã cổ vũ khích lệ những người trẻ tuổi ra sức sáng tác
và lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới. Theo gương nữ sĩ, nhiều người đã viết
báo, diễn thuyết cổ vũ cho Thơ mới, tạo ra một phong trào rầm rộ từ Nam đến
Bắc, lơi cuốn hầu hết các tờ báo và tạp chí đương thời vào cuộc, tạo ra một
bầu khơng khí học thuật tích cực để các thanh niên trẻ mạnh dạn thể hiện tài
năng của mình trong lĩnh vực thơ ca.
Sau những tuyên ngơn và thể nghiệm đầu tiên, Thơ mới đã dành được
sự quan tâm của cơng luận. Các báo và tạp chí như Phụ nữ Tân Văn; Phong
hố; Văn hố tạp chí; An Nam tạp chí, Văn học tuần san, Hà Nội báo đều bị
cuốn vào cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ. Thơ mới cần mạnh mẽ hơn, táo
bạo hơn nhưng quan trọng phải thuyết phục được cơng chúng về luận thuyết
và sáng tác. Phan Khơi sau khi trình chánh Thơ mới chỉ lặng lẽ rút lui nhường
trận tuyến cho thế hệ trẻ - Nguyễn Thị Kiêm hăng hái tranh biện nhưng thơ lại
chưa mấy thuyết phục. Hồ Văn Hảo chỉ lặng lẽ sáng tác. Ở chặng đầu gian
nan này, Thơ mới rất cần một vị chủ tướng dũng cảm và tài năng vừa để đối
phĩ với sự phản ứng quyết liệt của phái cựu học vừa tiếp tục giương cao ngọn
cờ Thơ mới. Trách nhiệm nặng nề ấy đã được nhận lãnh bởi một thi sĩ trẻ tâm
huyết, đa tài: Thế Lữ.
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ
Thế Lữ (1907 - 1989) sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ tại
Hà Nội. Ơng đã sớm theo đuổi nghề văn, nghề báo và trở thành cây bút chủ
chốt của nhĩm Tự lực văn đồn. Sau bài tuyên ngơn chấn động của Phan
Khơi - Thế Lữ là một trong những người hưởng ứng sớm nhất và cĩ cơng đầu
đưa Thơ mới đến sự tồn thắng.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Như chúng ta đã biết, Thơ mới vừa ra đời đã vấp phải sự bài xích của
phái cựu học. Phản đối Thơ mới cũng khơng kém những người ủng hộ. Sau
khi bài Tình già ra mắt, hăng hái như Phan Khơi và liều lĩnh như Lưu Trọng
Lư cũng chỉ dám rụt rè hy vọng vào phong trào Thơ mới, dẫu thất bại thì đĩ là
tiếng chuơng cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc triền miên trong cõi chết. Sau Tình
già nhiều sáng tác lần lượt ra đời với ý tưởng trình tránh một lối thơ làm
khuơn mẫu cho Thơ mới: Trên đường đời, Vắng khách thơ (Lưu Trọng Lư),
Viếng Phịng thơ, Canh tàn, Mộng du (Nguyễn Thị Kiêm), Tự tình với trăng,
Con nhà thất nghiệp (Hồ Văn Hảo)... Nhưng tất cả những ý tưởng, những
khát vọng đĩ chưa khẳng định được sự thắng thế của Thơ mới mà "Thơ mới
vẫn ở thời kỳ phơi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu" [23, 59].
Chỉ đến khi Thế Lữ xuất hiện trên thi đàn, Thơ mới mới tạm chấm dứt
một cuộc khủng hoảng về thực tiễn sáng tác. Thế Lữ "khơng bàn về Thơ mới,
khơng bênh vực Thơ mới, khơng diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảng khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ" (Thi nhân Việt Nam [34, 58]). Hồi Thanh đã coi sự lặng lẽ
đĩ của Thế Lữ là sự bênh vực "khơng kèn khơng trống" nhưng lại hữu hiệu và
"vững vàng" nhất cho Thơ mới.
Nếu Phan Khơi, Lưu Trọng Lư là những người khai chiến với Thơ cũ
thì Thế Lữ là người giành thắng lợi đầu tiên cho Thơ mới. Thế Lữ phá thế
cuộc giằng co dai dẳng và bế tắc. Thắng lợi đĩ biểu hiện trên cả bình diện lý
thuyết và những sáng tác cụ thể.
Năm 1935 nhân bài phê bình tập thơ Những bơng hoa cuối mùa của
Thế Lữ đã lên tiếng bài xích thơ cũ, cho đĩ là thứ thơ bạc nhược, là sản phẩm
nhợt nhạt, vơ hình của một nền thơ đã mất hết sinh khí "Cái tài của các ơng là
cái tài xào nấu lại những mĩn ăn cũ. Các ơng lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm
của người khác làm của mình. Trong thơ các ơng đầy dãy cảnh tuyết mai,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
thơng, cúc, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta
nhắc đến, nghe quen tai quá" [17, 11].
Và để trả lời những người buộc tội Thơ mới bất chấp mọi luật lệ, Thế
Lữ viết: "Các luật hẹp hịi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những
người khúm núm thi thố các tiểu xảo của mình" (Phong Hố số 148 tháng 5-
1935) Thế Lữ gọi những bài thơ ấy là lối thơ quen tai, nhàm chán như những
lời chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
Khơng chỉ cĩ vậy, Thế Lữ tìm một hình thức mới để thể hiện một nội
dung cảm hứng mới. Thế Lữ đường hồng sử dụng điển tích, thi liệu, văn liệu
cũ mà vẫn tự tin: Đấy là Thơ mới. Cảm quan mới, thi hứng mới đã chi phối
thi liệu cũ. Đến Thế Lữ, người ta bớt đi sự câu nệ và tiểu tiết. Làng Thơ mới
nhận ra rằng: Trên phương diện cảm hứng lẫn hình thức thể loại, Thơ mới kế
thừa chứ khơng đứt đoạn với thơ truyền thống.
Cây đàn muơn điệu được coi là một tuyên ngơn nghệ thuật của thế hệ
thi nhân mới:
"Tơi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp của muơn hình muơn vẻ
Mượn cây bút nàng Ly Tao tơi vẽ
Và cây đàn ngàn phím tơi ca"
Thi nhân xưa cĩ vai trị "đạo đức tư dân", giáo hố, truyền thụ. Thi
nhân nay sáng tạo theo cảm hứng của cái tơi, biểu hiện rung động của cái tơi
trước cái đẹp. Cây đàn muơn điệu đánh dấu sự lên ngơi của con người nghệ sĩ
trong thế giới hiện thực để tự do cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật. Con người
được đặt ở trung tâm mọi sự cảm thụ.
Cây đàn muơn điệu tiêu biểu cho cảm hứng say mê của cái tơi lần đầu
tiên được tự do cảm nhận. Cái tơi ấy đang bước đầu hành trình hăm hở khám
phá thế giới, là chặng đầu tiên trên hành trình của cái tơi lãng mạn. Cây đàn
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
muơn điệu là minh chứng cho quan niệm nghệ thuật của phong trào Thơ mới.
Đây là thắng lợi của Thơ mới trên phương diện lý luận. Lần đầu tiên, Thơ mới
cĩ một phác thảo đầy đủ về chân dung người nghệ sĩ, mục đích sáng tạo,
phương thức sáng tạo. Trong quỹ đạo văn học hiện đại, thì Nhớ rừng là thắng
lợi của Thơ mới trên phương diện cảm hứng. Với Nhớ rừng, cái bi tráng được
khắc họa, khơng phải bằng khuơn khổ luật Đường đăng đối mà là thứ ngơn
ngữ thơ sinh động từng bị các nhà nho cho là lủng ca lủng củng.
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trơng ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm."
Trong lúc cũ - mới đáng giao thoa, ranh giới chưa được phân định rõ
rệt thì bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ được coi như một địn "dứt điểm", bài thơ
là sự hồ quyện giữa hùng tráng và bi tráng, là nỗi căm phẫn đã đọng lại
thành sức nặng giằng xé, xơ đẩy trong lớp vỏ ngơn từ. Cảm hứng bi tráng tìm
được hình dạng cho nĩ trong thể thơ tám chữ. Thể thơ tám chữ vốn chịu ảnh
hưởng của hình thức hát nĩi. Sau Thế Lữ, những nhà thơ kế tiếp đã nâng thể
thơ tám chữ này lên đến độ điêu luyện. Thơ tám chữ cũng là thể thơ chiếm ưu
thế về số lượng trong các tập thơ của thi nhân trong phong trào Thơ mới.
Như vậy, sự xuất hiện của Thế Lữ trong những năm đầu của thế kỷ 30,
khiến người ta hồn tồn bị thuyết phục về quá trình hiện thực hố ý tưởng
Thơ mới. Sau Thế Lữ xuất hiện nhiều đỉnh cao của phong trào Thơ mới: Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Những thi phẩm của họ là lời
bênh vực hùng hồn nhất cho Thơ mới. Trên thực tế, từ sau Thế Lữ, tranh luận
đã ngã ngũ. Hàng ngũ thơ xưa tan rã, thơ mới đã giành thắng lợi từ năm 1936.
Lê Tràng Kiều vui mừng nhận xét: "Cuộc cách mạng bồng bột nay đã yên
lăng như mặt nước hồ thu" và khơng phải ngẫu nhiên khi lưa chọn 45 thi sĩ
với 167 bài để đưa vào tập Thi nhân Việt Nam, Hồi Thanh - Hồi Chân đã
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong
thi ca, Hồi Thanh tơn vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ".
Tĩm lại, qua diễn biến cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ, luận văn rút
ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Cuộc tranh luận giữa Thơ mới và Thơ cũ là một cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa một bên giành quyền sống và một bên giữ quyền tồn tại.
Thứ hai: Những bài tham gia tranh luận của Thế Lữ cĩ giá trị đặc biệt.
Trong ba năm đầu (1932 - 1935), ơng đã cĩ những bài viết cơng bố ở những
báo khác nhau. Với một cảm quan nhạy bén, lý luận sắc sảo ơng đã gĩp phần
khơng nhỏ cho sự thắng lợi của Thơ mới trên bình diện lý thuyết.
Thứ ba: Khơng phơ trương diễn thuyết suơng, Thế Lữ đã dành cả tâm
huyết của mình cho những sáng tác cụ thể. Ở những sáng tác này, Thế Lữ đã
thể hiện rõ những phẩm chất cách tân để đưa Thơ mới đến tồn thắng, gĩp
phần hồn thiện nền văn học theo hướng hiện đại hố.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Chương 2
NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN
TRONG THƠ THẾ LỮ
2.1. QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THẾ LỮ - MỘT BƢỚC TIẾN SO
VỚI QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại
Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã hội xây
dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến mang dấu ấn đẳng cấp, dấu ấn hệ
tư tưởng tơn giáo. Nên nhìn chung, văn học trung đại dường như chưa nĩi
được cái đẹp của đời sống hàng ngày mà chủ yếu thường dùng các hình ảnh
tượng trưng, ước lệ hay những điển tích, điển cổ.
Văn học trung đại nĩi chung cũng như thơ ca nĩi riêng dường như
khơng đi sâu vào cái "tơi" cá nhân mà chỉ nĩi đến cái "ta" chung của mọi
người. Tình cảm của họ nằm trong khuơn phép chung của xã hội. Vì thế, khi
nữ sĩ Thanh Quan đứng trên đỉnh Đèo Ngang, tầm mắt của bà chỉ thấy cảnh
đẹp của đất nước v._.hơng trăng, qua đèo Ơ Quý Hồ lại vắng cĩ tiếng giọng
đờn ca, ai bạo qua vào trong rừng vắng thì thấy ba bĩng ma đàn hát cho một
con hổ ngồi nghe.
Như vậy trong truyện ngắn này, chuyện lạ kỳ dị bí mật về sự xuất hiện
hai tráng sĩ cụt đầu ở núi Gơi và âm thanh tiếng hát ở Đơng Giao là cĩ nguồn
gốc từ những câu chuyện cụ thể. Tác giả đã vén màn bí mật này để cho người
đọc rõ. Tuy nhiên tác giả vẫn chưa giải thích rõ vì sao hai tráng sĩ đã chết mà
hình ảnh của họ lại hiện ra múa võ trên đồi sau khi mưa tạnh và anh em Oanh
Cơ đã chết mà, tiếng hát của họ vẫn cất lên trong rừng.
Truyện Khoa thi cuối cùng của Nguyễn Tuân kể về sự long đong lận
đận trên con đường thi cử của hai anh em ơng Đầu sứ vùng Nam Sơn Hạ bắt
nguồn từ "một việc thất đức" mà ơng cụ thân sinh họ phải "mang lấy trách
nhiệm tinh thần". Thời trai trẻ ơng Đầu Sứ anh đi thi, khi làm bài thi hình ảnh
oan hồn hiện lên khiến ơng phải bỏ dở kỳ thi, rồi đến ơng đầu sứ em khi đi thi
bị đau bụng cũng phải bỏ dở.
Việc xuất hiện oan hồn cản trở chuyện thi cử của hai anh em ơng Đầu
Sứ là một câu chuyện kỳ dị. Truyện kỳ dị này được nhà văn dừng lại ở sự ma
quái - sự báo ốn của oan hồn người chết - Tác giả khơng giải thích rõ cho
người đọc hiểu vì sao xuất hiện oan hồn đĩ khi con người đã chết.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
Đến truyện Loạn âm lại là sự xuất hiện kỳ lạ của vị Quan Ơn cùng với
quan quân triều đình lên dương gian bắt phu mở đường. Vì là bạn cùng học
với ơng Kinh lịch, lại là học trị của cha ơng nên Quan Ơn mới đến nhà ơng
Kinh thăm ơng, tặng lễ vật và bảo ơng Kinh xem cĩ ai là ân nhân, người họ
gần xa, tu nhân tích đức thì bảo Quan Ơn để Quan Ơn châm trước cho họ
khơng bị phải chết. Lúc đầu ơng Kinh lịch khơng xin cho ai sau ơng đã xin
cho tên tiểu bộc của ơng Kinh Lịch. Sau đĩ Quan Ơng đến mời ơng Kinh làm
quan dưới ấm phủ nhưng vẫn làm việc ở dân gian.
Trong tác phẩm này, cái chết của nhiều người sau đêm Quan Ơn nĩi lên
dương gian bắt phu mở đường cĩ thể được giải thích là do họ chết vì bệnh dịch
tả. Nhưng sự xuất hiện của Quan Ơn và quan quân triều đình đi bắt lính truyện
Quan Ơn mời ơng Kinh làm việc dưới âm, sự giao tiếp giữa người và ma lại là
một sự huyền bí, tác giả khơng lý giải cho người đọc rõ sự huyền bí đĩ.
Truyện Người con gái tỉnh Bắc của Phạm Cao Củng cũng cĩ những chi
tiết kỳ dị, lạ lùng. Trong truyện Vũ đến trọ học ở nhà bà cụ Đỗ bán hàng, vì
nhà dưới chật, nĩng Vũ lên gian gác xép học. Ở đĩ Vũ đã thấy nhiều sự lạ:
Một người con gái đẹp xuất hiện lạ kỳ, rồi một bộ xương người, người hiện
rồi bién mất... Sau khi hỏi người con gái đĩ thì Vũ mới được biết người con
gái đẹp và bộ xương xuất hiện là một - tên cơ gái là Ngọc Bích, quê ở tỉnh
Bắc, con ơng Tham Tá. Trong chiến tranh khi họ học ở nhà Phán Tâm cơ đã
trú ở trên căn gác xép và bị chết đĩi ở đĩ, khơng được chơn cất. Ước muốn
của cơ là được Vũ chơn cất cho yên đẹp nắm xương. Hơm sau, Vũ tìm thang
trèo lên gác quả nhiên cĩ một đống xương, anh bèn nhờ người chơn cất.
Truyện ngắn này chứa nhiều chi tiết ly kỳ: Sự xuất hiện của cơ gái, bộ
xương... sự xuất hiện này theo tác giả là oan hồn của cơ gái trở về nhờ Vũ
chơn giúp nắm xương tàn của cơ. Nhưng vì sao người chết lại xuất hiện và cĩ
những hành động như thế thì tác giả khơng lý giải cụ thể.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
Khác với các nhà văn trên, truyện kinh dị của Thế Lữ đằng sau những
yếu tố ly kỳ rùng rợn được tác giả giải thích rất logic và khoa học. Điều này đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình khẳng định. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan trong bài Thế Lữ cĩ viết "Trong tập truyện ngắn của Thế Lữ, tơi cũng chỉ
thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thơi. Đời khoa học cĩ khác, người
ta phần nhiều bị ảnh hưởng khoa học, mới cảm được độc giả" [26-25]. Tế
Hanh thì khẳng định: "Ở Thế Lữ thơ và văn xuơi trái ngược hẳn nhau; nếu
nhà thơ Thế Lữ đắm đuối mơ màng trong những giấc mộng xa xăm thì văn
xuơi Thế Lữ rất tỉnh táo và khoa học" [26-383]. Trong cuốn Chân dung văn
học, Hồi Anh khẳng định: "Truyện trinh thám của ơng cĩ sự kết hợp giữa
kịch tính và chất thơ, giữa ly kỳ rùng rợn và lý giải khoa học, điều này cũng
khiến ơng gần gũi với EdgarPoe..." [1-975].
Quả đúng như nhận định của các nhà nghiên cứu, khi đi vào tìm hiểu
cách giải thích trong truyện kinh dị của Thế Lữ chúng tơi thấy: cách giải thích
của ơng rất khoa học. Đúng là tác giả đã cố tình gây nên trong truyện một
khơng khí rờn rợn, ly kỳ, huyền bí, chủ tâm đưa người đọc vào thế giới đầy bí
ẩn mà chẳng qua là do những mưu mơ xảo kế của người đời, hay do trí tưởng
tượng bệnh hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tĩm lại, các truyện cĩ vẻ giật gân
kia điều cĩ nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lí.
Truyện Vàng và máu là một câu truyện Tàu để của, cái đặc sắc của
truyện này là đề cao sự tin tưởng vào khoa học, vào trí người. Ơng Quan
Châu ở đây để đối phĩ với hang Văn Dú, để tìm vàng bạc cất dấu, khơng
dùng đến thầy mơ cúng bái như lời dặn của người thổ Kao Lâm, khơng tin
vào những phép yểm của người đọc chú. Ơng sử dụng ĩc quy nạp, thâu nhập
những tài liệu để dựng lại câu chuyện, ĩc suy diễn để giải thích hiện tượng, ĩc
quan sát và thực nghiệm để tìm ra nguyên nhân của sự giết người. Kết quả
ơng đã tìm ra được kho vàng, lại khám phá ra cái bí mật đã giết chết những
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
người đến trước ơng - những tảng đá cuội cĩ trát thuốc độc, chẳng phải bùa
phép thần thánh gì cả: "Chung quanh tảng đá này, cĩ một sức mạnh giết
người mau chĩng hơn cả thần thánh nữa; đĩ là nhựa của một thứ cây độc tên
là Mây Nơm, thứ cây mà bọn mán đi săn với quân giặc ở Mỹ núi hiểm gọi là
Cơng đia đeng. Nhựa cây này, ngâm tên thì hố độc: bắn, khơng phải cứ chỗ
hiểm, chỉ làm trầy da rớm máu cũng đủ cho kẻ bị thương chết khơng thể cứu
được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống sợ bên Trung Quốc
là giống bơi thuốc độc vào mĩng tay để cào cấu kẻ thù thì nhựa cây đĩ trở nên
rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chĩng hơn. Viên quan Tàu kia
hẳn biết cách chế luyện nĩ. Rồi ơng Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem
những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ơng bảo rằng đĩ là thứ cát làm bằng
mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện cho keo lại với thứ thuốc độc mà ơng
vừa nĩi. Thứ keo riêng ấy đem trát lên các hịn đá xây lắp cửa hang, là thành
một thứ quân canh gác chắc chắn khơng gì bằng. Cho nên những kẻ đi tìm
vàng trước ơng Châu như bọn con cháu họ Hồng, bọn cướp Khách với tên
Nùng Khai đều vi phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên
đá đâm vào da mà bỏ mạng... " [38-105; 106]. Đúng như Khái Hưng đã viết
trong bài tựa "khơng cĩ gì xảy ra mà khơng hợp lệ, khơng một kết quả nào là
khơng cĩ nguyên nhân chắc chắn vững vàng". Ta nhớ khi nhĩm Tự lực văn
đồn mới ra đều cĩ nêu một điều trong bảng tơn chỉ là: "Đêm phương pháp
khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chương An Nam...". Đĩ cũng là cái chủ
trương chống phong trào tiểu thuyết thần bí, hoang đường, bài trừ ĩc mê tín,
luyện ĩc khoa học.
Đến truyện Một đêm trăng, tác giả trong một chuyến đi rừng, nghỉ đêm
tại một cái lều, bạn đồng hành kéo vào trong bản chơi, tác giả ở lại trong lều
một mình, ngắm ánh trăng, nghe tiếng thác rồi ngủ thiếp đi. Bỗng một người
con gái xinh đẹp vào lều đánh thức ơng dạy rồi rủ ơng đi chơi khiến ơng ngạc
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
124
nhiên, bất ngờ khơng tin vào mắt mình "Trời ơi! Con gái Thổ mà cĩ người
nhan sắc đến thế này ư? Tơi mơ hay tỉnh?" [38-11] Cơ gái ở đây là: ma rừng?
Gái quỷ? hay Hồ tinh? Cơ Thổ đưa ơng xuyên qua rừng đến một thác nước
nhờ ơng kéo hộ cái xác một người đàn ơng lâm nạn mắc vào một cành cây
mọc đâm ngang sườn núi. Khi tác giả đã đưa được cái xác lên mặt cầu, thiếu
nữ mới cho hay người này đã giết chồng chưa cưới của cơ và bị cơ báo thù
đâm chết, xơ xác xuống thác nhưng chưa xuống tới nên phải nhờ một người
giúp sức.
Một truyện kinh dị mà cảm hứng kinh dị chỉ cĩ lúc đầu rồi dần dần tan
đi nhường chỗ cho sự thật. Cơ gái xuất hiện lúc đêm khuya và rủ tác giả đi
chơi khơng phải là ma quỷ hay hồ tinh mà là một gái Thổ đến nhờ tác giả kéo
hộ cái xác bị mắc trên cây. Sự thật ở đây hơi khác với Vàng và máu, cịn
phảng phất một điểm huyền bí, ấy là cái tâm hồn của người con gái Thổ hiện
ra bí ẩn lạnh lùng khi đã cho tác giả biết rõ câu chuyện "Trong con mắt lĩng
lánh của người con gái, cùng với cái mặt đanh thép kia, tơi tưởng như thấy cái
khí chất núi rừng, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra" [38-30]. Tính cách huyền bí
ấy vừa là một nét quyến rũ, một nghệ thuật của tác giả. Tuy ý nghĩa và sự thật
hiển nhiên dưới ánh sáng lý luận, song tác giả vẫn muốn giữ một ít xương mù
phủ trên câu văn, hàng chữ, một khơng khí huyền ảo qua bút phát để gây một
thi vị huyền ảo.
Ở truyện Hai lần chết, sau sự xuất hiện bất ngờ, lạ lùng của anh Tâm
tại nhà anh Tri khi anh đã chết, tác giả đã làm rõ đây thực chất khơng phải là
hồn ma của anh Đàm Văn Tâm mà thực tế là anh Tâm vẫn cịn sống? Kết thúc
truyện ngắn này tác giả đã để lại cho anh Tâm kể lại lý do mình cịn sống và
về đây: vì tờ di chúc anh viết hứa là sẽ để lại gia tài và sự nghiệp cho Mão -
một người bạn thân, nên Mão muốn giết Tâm để chiếm đoạt nhưng tâm chưa
chết đã vùng lên giết Mão "Lúc mở mắt ra thì thấy mình bị ép hai bên trong
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
125
một xĩ tối và khĩ thở, tơi định tâm vừa nghĩ vừa sờ soạng mãi mới biết là
mình nằm trong săng. Nhưng trơng lên thấy mờ mờ cĩ ảnh lửa soi vào 2 bên
nắp săng và lắng tai nghe thấy quả lắc đồng hồ tích tắc đưa với chuơng điểm.
Tơi đốn rằng tơi ngất đi đã lâu lắm vì bụng thấy đĩi dữ, cĩ lẽ mọi người
tưởng chết thực và đã cho mình vào săng sắp sửa đem chơn. Tơi nâng săng thì
thấy cịn mở, bên yên lặng ngồi lên. Lúc ấy mới biết là hơn 12 giờ đêm. Tơi
cười để cho hắn khỏi sợ và nĩi: Tơi khơng chết đâu... sống đây mà!" [38-113].
Sau khi giết Mão, Tâm quyết định thuê xe đến gọi anh Tri kể cho anh nghe để
đến cùng anh xử lý việc này. Như vậy ở truyện này cũng như truyện Một đêm
trăng cảm tưởng kinh dị chỉ cĩ lúc đầu rồi dần tan đi nhường chỗ cho sự thật.
Truyện Cái đầu lâu, sự kỳ dị xuất hiện từ cái đầu lâu khiến mọi người
sợ hãi và kinh ngạc. Kết cục sau một cuộc tìm xét kỹ càng nhưng rất vơ ích.
Mọi người đã theo dõi, rình xét và cuối cùng thì hố ra cĩ một con mèo đen
đã chui vào gặm bên trong cái đầu lâu vì cái đầu lâu mới luộc nên cịn hơi thịt
"Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng và quay cạnh đấy một vật đen ngịm đang
giẫy giụa. Mắt chúng tơi khi đã đỡ chĩi thì nhận ra đĩ là một con mèo đen,
mà gầy, lơng mặc sờ sạc khơng đều và khơng mượt..." [38-185].
Như vậy, những âm thanh phát ra từ cái đầu lâu, sự lắc lư của nĩ chẳng
phải là ma quái gì cả mà tất cả là do con mèo gây ra. Kết thúc truyện tác giả
đã làm sáng tỏ sự băn khoăn nghi ngại về hiện tượng kỳ quái từ cái đầu lâu.
Đến truyện Ơng Phán nghiện, chi tiết con rắn cạp nong nằm vắt qua cổ
ơng Phán thoạt đầu nghe cĩ vẻ kỳ quái, nhưng sự thực chẳng cĩ sự kỳ quái
nào cả, chẳng qua con rắn này dã quen hơi thuốc phiện của ơng Phán tác giả
đã để ơng Phán nĩi rõ cho nhân vật tơi biết nguyên nhân của sự kỳ quái này:
"Tơi đem nĩ về, rồi ngày ngày đặt cái lồng đựng nĩ bên bàn hút, nĩi chuyện
với nĩ, than thở với nĩ, như tình tự với người thương. Tơi hút điếu nào lại hà
khĩi vào lồng đặng cho nĩ nuốt đi. Cứ vậy trong hơn 1 tháng trời, lần lần con
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
126
rắn thành quen thuốc, thành "nghiện" tơi mới thả nĩ đi, nhưng chỉ ít lâu nĩ lại
trở lại quanh quẩn bên bàn hút. Rồi cứ vậy cho tới giờ, con rắn khơng bao giờ
muốn rời bỏ tơi ra. Tới bữa hút là nĩ lại bị gần tơi..." [38-49].
Như vậy, cái chết của ơng Phán ở phần kết thúc truyện lúc đầu bí ẩn
nhưng thực ra là do con rắn. Con rắn cạp nong đã nghiện hơi thuốc phiện của
ơng Phán nay khơng cịn thuốc nên trở nên hung dữ. Nĩ đã quấn chặt lấy cổ
ơng Phán khiến ơng tắt thở mà chết. Cách giải thích của Thế Lữ ở đây là rất
khoa học. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã cĩ đánh giá xác đáng như sau:
"Trong tập Bên đường thiên lơi... Truyện kỳ quái mà hay hơn cả là truyện
Ơng Phán nghiện (trang 159). Những truyện ấy làm cho người đọc cĩ nhiều
cảm giác thú vị, vì nĩ là những truyện căn cứ vào khoa học, vào việc đời. Một
người kỳ quái như ơng Phán nghiện mà tác giả tả được nét bút tinh tế như thế
thật là tuyệt khéo. Đọc truyện Hai lần chết tơi phải nhớ đến những truyện lạ
lùng cho Edgar Poe và truyện Ơng Phán nghiện, tơi phải nhớ đến những
truyện kỳ quái của Hoffman. Những truyện của hai đại văn hào này chỉ những
truyện căn cứ vào khoa học, vào sự thiết thực, mới thật hay, cịn những huyễn
hoặc của hai nhà văn ấy cũng ít khi cảm được người ta. Trong tập truyện ngắn
của Thế Lữ, tơi cũng chỉ thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thơi.
Đời khoa học cĩ khác. Người ta phần nhiều bị ảnh hưởng bởi khoa học, nên
tác giả dù viết truyện kỳ quái cũng phải nương tựa vào khoa học mới cảm
được độc giả" [26-24;25].
Trại Bồ Tùng Linh cũng là một truyện hay. Tuy đây khơng phải là cảnh
núi rừng, song câu chuyện cũng là một thiên tình ái lãng mạn và huyền hoặc.
Cĩ thể nĩi tác giả đã chú ý dựng một truyện Liêu trai tân thời, lấy khung cảnh
một cái trại bỏ hoang làm khung cả của truyện. Truyện kể về một nhà văn cĩ
tên là Tuấn viết thư kể cho Bình - một người bạn thân nghe những truyện dị
thường xảy ra ở trại Bồ - nơi anh đến thuê trọ.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
127
Trong truyện ngắn này, sự kỳ lạ là ở chỗ: sự xuất hiện, hành động đầy
bí ẩn, kỳ dị của cơ gái đã gieo vào tâm trí Tuấn một sự hồi nghi khơng biết
cơ gái đĩ là người hay là ma. Sự băn khoăn ghi ngờ của Tuấn cuối cùng
dường như đã được giải toả. Tác giả để nhân vật Bình giải thích một cách
thuyết phục và cĩ lý về sự xuất hiện kỳ dị của cơ gái. Cơ gái xuất hiện trong
đêm rồi biến mất ở trại Bồ khơng phải là ma mà thực chất là người. "... Cơ gái
tên là Hồng Lan Hương (tên đĩ cĩ phải tên thực hay tên mượn). Lan Hương
đến trại làn này anh thấy khơng phải mới lần đầu. Những lần trước khơng biết
cơ ta tưởng mình là gì. Nhưng đột nhiên thấy một anh chàng viết lách dưới
đèn trước cửa sổ, khơng biết ở đâu tới, nhưng đốn chắc là một nhà văn, Lan
Hương mới nảy ra cái dàn ý xếp câu chuyện cĩ một vẻ đẹp huyền hồ và làm
thực hiện một thiên Liêu Trai mới... Khơng khí huyền ảo đã thừa đã thừa cĩ ở
nơi hoang tịch này rồi chỉ thêm sự giữ gìn chờ đợi cho khơn khéo, Lan Hương
cĩ thể ẩn đâu mà chẳng được? Cơ nàng chọn một nơi ẩn tiện nhất, những khi
cần thiết phải lẩn tránh, khơng kín đáo lắm nhưng lại rất chắc chắn vì khơng
ai ngờ... Cơ nàng đã biến đi một cách giản dị nhất: là nhân trời chưa sáng, bỏ
anh ngủ đấy để lại cho anh một hồng lan nhặt ở ngồi vườn hay đem theo
sẵn trong mình... lẳng lặng ra về dễ lắm"[38-369; 370; 371;732]. Rồi cơ trở về
ngơi chùa gần đĩ. Hơm nay cơ khơng cịn ở đĩ, theo lời bà cụ già ở chùa kể
lại thì hai, ba hơm trước người nhà đưa ơ tơ đến đĩn cơ đi. Ở đoạn kết tác giả
đã khéo trộn lẫn mộng với thực mà tưởng ra một cơ khuê các trước ở chùa và
mới đi khỏi chùa.
Kết thúc truyện mặc dù cĩ vẻ Tuấn khơng tin các lý giải của Bình về sự
xuất hiện và ra đi kỳ lạ của cơ gái nơi trại Bồ, nhưng cách lý giải đĩ là hoan
tồn hợp lý, cĩ cơ sở và rất khoa học. Cách lý giải của Tuấn cũng chính là
cách lý giải của chính tác giả về sự xuất hiện và ra đi kỳ dị của cơ gái. Tuy
nhiên đây chỉ là một giả thuyết, tác giả muốn để lại cái màn bí mật bao
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
128
trùm cho cĩ một chút thi vị huyền bí như nhận định của Phạm Thế Ngũ
trong bài. Văn xuơi Thế Lữ "cĩ thể nĩi ở đây tác giả đã theo ý khuyến
khích của Khái Hưng mà cố gắng làm một cuộc tổng hợp Edgar Poe và Bồ
Tùng Linh, một truyện huyền mà thật, dung hợp ĩc khoa học với tâm hồn
thi nhân" [26-319]. Đoạn kết của tác phẩm này đã chứng tỏ rằng tác giả đã
cĩ những băn khoăn của người thế kỷ XX, của những người đã chịu ảnh
hưởng rất sâu sắc của khoa học nhưng vẫn cịn trong máu và trong não
những cái rất mơ mộng, rất nên thơ.
Qua phân tích, so sánh, tìm hiểu cách giải thích về cái kì dị của Thế Lữ
trong truyện kinh dị của ơng, chúng tơi cĩ thể khẳng định: Thế Lữ viết truyện
kinh dị nhưng cách giải thích của ơng rất khoa học khơng thần bí hoang
đường. Mới nhìn, mới nghe, mới đọc nhưng cái tên như Vàng và Máu, Cái
đầu lâu, Hai lần chết,... tư tưởng đây là những chuyện hoang đường, ma quái
nhưng cuối cùng người đọc chẳng thấy cĩ thần linh, ma quái nào cả mà chẳng
qua là do những mưu mơ xảo kế của người đời hay do trí tưởng tượng bệnh
hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tĩm lại, các truyện cĩ vẻ giật gân kia đều cĩ
nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lý và được giải thích bằng tư duy logic và
phương pháp luận khoa học.
Mặt khác cách giải thích khoa học của Thế Lữ ở những truyện kinh dị
cũng là một kiểu luận đề. Ơng đưa ra các tình tiết ly kỳ rồi giải quyết một
cách hợp lý khoa học theo quan điểm của mình. Bản thân các tác phẩm luận
đề thường rất gị bĩ, khơ khan và cơng thức vì người viết phải dùng tác phẩm
để chứng minh cho một luận đề nhất định. Tuy nhiên, cách giải quyết của Thế
Lữ ở những truyện này khơng hề gị bĩ khơ khan, cơng thức mà rất tự nhiên.
Đọc những truyện này người đọc như được thấy những gì đang diễn ra trong
cuộc sống chứ khơng phải là sự hư cấu của nhà văn. Thế Lữ phải là người cĩ
tài, cĩ tư duy logic chặt chẽ mới làm được điều này. Chính những tố chất đĩ
đã đem lại thành cơng cho ơng ở thể loại độc đáo này.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
129
Tĩm lại: Truyện kinh dị của Thế Lữ tuy cĩ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
truyện quái dị của Edgar Poe nhưng đã cĩ sự sáng tạo rất lớn. Chính nhờ
những cách tân đáp ứng nhu cầu tiềm tàng của con người theo nguyện vọng
khoa học này mà những tác phẩm của Thế Lữ thời kỳ này đã được cơng
chúng đĩn nhận một cách dễ dàng và nhanh chĩng. Vì vậy "truyện Thế Lữ
khơng phải tất cả đều hay, đều sâu sắc nhưng vẫn là của ơng, rất khĩ lẫn
lộn" [44; 26].
Với một tư duy logic,một phương pháp suy luận khoa học Thế Lữ đã
sáng tác những truyện ly kỳ huyền bí cĩ nguồn gốc xã hội nhân sinh. Truyện
Thế Lữ vì vậy mà khác hẳn với những truyện cùng sáng tác về đề tài này ở
thời điểm văn học những năm 30. Truyện Thế Lữ mang một giá trị nghệ thuật
nhất định và được người đương thời tìm đọc một cách thích thú. Đúng như lời
nhận định của Xuân Diệu "Những truyện ngắn của Thế Lữ thường biệt lập ra
một lối riêng, sáng tạo trong cái kỳ lạ, ít ai ngờ đến [26-176]. Thế Lữ thật
xứng đáng với đánh giá của Tế Hanh "một người cĩ nhiều tài năng và sáng
tạo, ở nơi anh chất mở đường tiên phong thật là rõ ràng, trong thơ, trong
truyện, trong báo chí, trong sân khấu".
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
130
PHẦN KẾT LUẬN
1. Phong trào Thơ mới đã đi vào lịch sử văn học dân tộc như một mốc
son trong quá trình hiện đại hĩa. Nĩ được phát động bởi một nhà nho cấp tiến
và lập tức được lớp người trẻ của thời đại đĩn nhận, nhân lên, cộng hưởng
thành âm vang của một thời đại Thơ mới. Trong số những người trẻ tuổi tiên
phong ấy, nổi bật là vai trị của Thế Lữ. Người cầm ngọn cờ vinh quang cho
Thơ mới, đưa Thơ mới nhanh chĩng vượt qua những non nớt, chập chững của
buổi đầu để đạt tới độ viên mãn, trịn đầy với nhiều thi sĩ tài năng kế tiếp.
Trong cuộc tranh luận giữa Thơ mới - Thơ cũ, khơng phơ trương diễn
thuyết suơng. Thế Lữ đã khẳng định vai trị tiên phong của mình bằng những
sáng tác cụ thể, nổi bật nhất là Nhớ rừng là một địn dứt điểm khẳng định sự
thắng thế của Thơ mới đối với Thơ cũ, đưa Thế Lữ trở nên nhà thơ tiêu biểu
nhất của Thơ mới buổi đầu, đánh dấu bước ngoặt thay đổi cơ bản diện mạo thi
ca nước nhà từ thời trung đại sang thời hiện đại.
Là một trong những thành viên chủ chốt, cĩ tư tưởng và hành động
nghệ thuật tiến bộ vào bậc nhất trong nhĩm Tự lực văn đồn. Thế Lữ đã cĩ
quan niệm nghệ thuật mới lạ mà trước đĩ chưa ai từng đề xuất. Cái đẹp là
hạt nhân của quan niệm ấy. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ là ý thức tự
giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật, bắt rễ, sàng lọc tích cực từ quan
niệm chung về văn hố, văn học, nghệ thuật của tầng lớp trí thức tiểu tư
sản thành thị tiến bộ được đào tạo trong trường Pháp - Việt. Chịu ảnh
hưởng của phương Tây qua Pháp, nhuần thấm cách nghĩ, cách cảm của
người Việt và phương Đơng trong bối cảnh 30 năm đầu thế kỷ XX, được
Âu Hố một cách mạnh mẽ.
Với quan niệm nghệ thuật tiến bộ và những cách tân táo bạo về hình
thức và nội dung nghệ thuật: ý mới, lời mới, phong phú về hình ảnh, âm
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
131
thanh, sắc màu, nhạc điệu "mới cả từ số câu, số chữ, cách bỏ vần". Thế Lữ là
người đầu tiên đặt cho Thơ mới một nền mĩng vững chắc, gây được niềm tin
mãnh liệt trong lịng khách yêu thơ, mở đường cho những sáng tạo của những
thế hệ cầm bút sau này.
2. Ngồi vị trí là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới buổi đầu, Thế Lữ
cịn là một nhà thơ xây dựng được cho mình sự nghiệp văn xuơi nghệ thuật
nổi danh. Vượt qua ngưỡng năm 1932, văn xuơi Tự lực văn đồn ghi dấu
bước chuyển đổi sâu sắc về chất so với trước đĩ. Truyện của Thế Lữ là một
đĩng gĩp rất quan trọng để tạo nên bước chuyển đổi ấy. Thế Lữ là một trong
những nhà văn đầu tiên gĩp phần lớn hiện đại hố truyện truyền kỳ, mở đầu
truyện kinh dị và cũng mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam, cĩ những đĩng
gĩp đáng kể với hai loại hình văn xuơi nghệ thuật này.
Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã tỏ ra vơ cùng tài hoa trong việc sử
dụng ngơn ngữ, tạo tình huống truyện giàu kịch tính, khắc hoạ được những
diễn biến tâm lý thầm kín trong đáy sâu tâm hồn của nhân vật khi phải đối
mặt với những điều bất thường kỳ dị. Cùng với trí tưởng tượng phong phú, lỗi
kể chuyện độc đáo, truyện trinh thám của Thế Lữ đã gây được ấn tượng sâu
sắc đối với người đọc.
Tuân thủ theo tơn chỉ của Tự lực văn đồn "Đem phương pháp khoa
học Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam". Thế Lữ đã cố tình tạo ra
một khơng khí rờn rợn, ly kỳ, chủ tâm đưa người đọc vào một thế giới đầy bí
ẩn trong truyện kinh dị rồi giải thích một cách rất khoa học khơng khiên
cưỡng, gị ép. Với thể loại truyện này Thế Lữ muốn phản ánh lại những
truyện dị đoan, thần bí mà dịng truyện truyền kỳ đã đề cập và những truyện
ma quái đường rừng mà nhiều nhà văn cùng thời đã nĩi đến.
Với truyện trinh thám và những truyện kinh dị, Thế Lữ đã đĩng gĩp
đáng kể cho nền văn xuơi nghệ thuật nước nhà. Xứng đáng được coi là "người
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
132
mở đường, đi tiên phong", "tiểu thuyết gia cĩ biệt tài". Càng khám phá, càng
tìm hiểu, chúng ta càng cảm thấy những điều lý thú và mới mẻ từ những
truyện này mang lại. Nĩ là điểm mời gọi của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
văn học nĩi chung và bạn đọc yêu mến văn xuơi Thế Lữ nĩi riêng."
3. Là một nghệ sĩ đa tài, đến với Thơ mới khi chưa cĩ nền và xây dựng
một số thể tài văn xuơi khi chưa cĩ mĩng. Thế Lữ là một tác gia cĩ những
đĩng gĩp quan trọng mở đầu và cách tân trong tiến trình hiện đại hố văn học
nghệ thuật giai đoạn 30 - 45 nĩi riêng và nền văn học nước nhà nĩi chung.
Thế Lữ xứng đáng với giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật mà
nhà nước truy tặng. Bằng sáng tác văn chương nổi bật và bằng những hoạt
động văn hố, văn học nghệ thuật xuất sắc khác đặc biệt là nghệ thuật biểu
diễn kịch nĩi. Nghệ sĩ nhân dân Thế Lữ cĩ vị trí quan trọng trong tiến trình
văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồi Anh (1989), "Thế Lữ một trong những người thợ cả dựng nền mĩng
văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại", Tạp chí Văn học, số 5 tháng 6.
2. Hồi Anh (2001), "Thế Lữ từ máu đúc nên vàng", Sách Chân dung văn
học (cùng tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm
định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1993), "Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến
trình thơ ca Tiếng Việt", Tạp chí Văn học, số 1.
5. Lại Nguyên Ân (2006), Thế Lữ về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Phan Canh (1999), "Thế Lữ tất cả cho Thơ mới", Sách Thi ca Việt Nam
thời tiền chiến 1932 - 1945 (cùng tác giả), Nxb Đồng Nai.
7. Huy Cận - Hà Minh Đức (1993) (chủ biên), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hồi Chân (1997), "Một ngơi sao sáng của phong trào Thơ mới", Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số 6.
9. Hồng Minh Châu (1993), "Truyện trinh thám của một nhà thơ", Sách Bài
học tình yêu (cùng tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nam Chi (1991), "Thế Lữ, cuộc đời và tác phẩm", Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
11. Nam Chi (1991), "Những đĩng gĩp của Thế Lữ vào thơ mới", Sách Thế
Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật (nhiều tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
12. Nguyễn Huệ Chi (2001), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 3 (tập V, tập
VI), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Dân (2002), "Huyễn tưởng văn học và truyện kinh dị", Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 4.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
134
14. Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục (Trúc Khê, Ngơ Văn Triện dịch), Nxb
Văn học Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (2000), Văn học lãng mạn Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (2000), "Cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để đánh giá
phong trào Thơ mới và văn học lãng mạn 1932 - 1945", Sách Tuyển tập
Phan Cự Đệ, Nxb Văn học Việt Nam.
20. Lê Bá Hán (Chủ biên), Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (2001), Tinh hoa
Thơ mới, thẩm định và suy ngẫm, Nxb Giáo dục Hà Nội.
21. Khái Hưng (1934), "Vàng và Máu của Thế Lữ", Lời tựa cuốn Vàng và
Máu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
22. Nguyễn Hồnh Khung (1983), "Mấy vần thơ", Sách Từ điển văn học
(nhiều tác giả), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Hồnh Khung (1994), "Một mùa thơ nở rộ", Sách Thơ Việt Nam
(1930 - 1945), Nxb Văn học Hà Nội.
24. Lê Đình Kỵ (1993), Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
25. Lê Đình Kỵ, Lê Huy Nguyên (1995), Tuyển tập Thế Lữ (Sưu tầm và
tuyển chọn), Nxb Văn học Hà Nội.
26. Huỳnh Thị Hoa Kỳ (1996), "Tiểu thuyết trinh thám", Tạp chí Kiến thức
ngày nay, số 203.
27. Lê Tràng Kiều (1936), "Thơ mới Thế Lữ", Hà Nội báo, số 24 ngày 17/6.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
135
28. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
29. Bồ Tùng Linh (Thế kỷ XVII) (1999), Liêu trai chí dị, Nxb Văn học Hà Nội.
30. Thế Lữ truyện chọn lọc (1987), Nxb Văn hố, Hà Nội.
31. Nguyễn Tấn Long (1968), "Thế Lữ", Sách Việt Nam thi ca tiền chiến, Nxb
Sống mới, Sài Gịn.
32. Phạm Vĩnh Lộc (1974), "Đi tìm thân thế và tác phẩm của Thế Lữ", Tạp chí
Văn học Sài Gịn, tháng 10.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), "Kế thừa truyền thống dân tộc trong đổi mới thơ
ca qua kinh nghiệm phong trào Thơ mới", Tạp chí Văn học, số 11.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hố văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX", Tạp chí Văn học, số 5.
35. Anh Ngọc (1999), "Các thuở ban đầu lưu luyến ấy", Báo Văn học, số 34 ngày
21 tháng 8.
36. Phạm Thế Ngũ (1965), "Thế Lữ", Sách Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, tập 3, Nxb Sài Gịn.
37. Phạm Thế Ngũ, Văn xuơi Thế Lữ in trong Việt Nam văn học sứ giản ước
(tập 3), Văn học Việt Nam hiện đại (1982 - 1945), Nxb Đồng Tháp.
38. Nhiều tác giả (1998), Thơ mới (1932 - 1945), tác giả và tác phẩm, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (2000), Thế lữ, Cây đàn muơn điệu, Nxb Văn hĩa thơng tin,
Hà Nội.
40. Poe.E.A (Thế kỷ XIX), Truyện kinh dị, Nxb Lao động, Hà Nội, 1989.
41. Vũ Ngọc Phan (1942), "Thế Lữ", Sách nhà văn hiện đại tập 2, Nxb Văn học
Hà Nội, 1994.
42. Nguyễn Nhược Pháp (1997), "Mấy vần thơ", Sách Tuyển tập phê bình văn
học Việt Nam (1900 - 1945), tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
136
43. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
44. Trần Đình Sử (1993), "Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam",
Sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (Huy Cận - Hà Minh Đức
chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
46. Hồi Thanh - Hồi Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
47. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trạng truyện
truyền kỳ Việt Nam", Tạp chí Văn học, số 6.
48. Vũ Thanh (2001), "Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt
Nam hiện đại", Sách những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Hà Minh
Đức chủ biên), Nxb Khoa học xã hội.
49. Phan Trọng Thưởng (1997), Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong, Tạp chí
Văn học, số 7.
50. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả, tác phẩm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Đình Thi (1987), Mừng anh Thế Lữ 80 tuổi, Báo Văn nghệ số gộp
24, 25 ngày 10/6.
52. Nguyễn Đình Thi (1997), "Nhớ anh Thế Lữ", Báo Quân đội nhân dân,
ngày 14/6.
53. Đỗ Lai Thuý (1992), "Thế Lữ, người bộ hành phiêu lãng", Sách Con mắt
(cùng tác giả), Nxb Lao động, Hà Nội.
54. Nguyễn Vỹ (1994), "Thế Lữ", Sách Văn sĩ tiền chiến (cùng tác giả), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
55. Trần Vương (1962), Một giờ với Thế Lữ, Báo Văn học, số 19.
56. Hồi Việt, Thế Lữ như tơi biết
57. Lê Huy Oanh (1974), Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong "Vàng và
Máu", Tạp chí Văn học, (SG tháng 10).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9525.pdf