Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, lý do chọn đề tài 1.1. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguyễn Công Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau,

pdf99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2597 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr. 181]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế hệ độc g iả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đào sâu để tìm tiếp những " vỉa vàng" lấp lánh. Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân nghệ thuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện ngắn. Hơn hai mươi năm cầm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp sáng tác của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê bình "nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những " địa tầng" mới trong thế giới nghệ thuật của ông. Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ quát của văn học thế giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 1.2. Đối với bạn đọc Việt Nam, Nguyễn Công Hoan rất quen thuộc và gần gũi. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông. Sekhov cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc Việt Nam. Ở Nga đã có hẳn một ngành Sekhov học, với nhiều công trình nghiên cứu về Sekhov. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên biệt nào xem xét thế giới nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov trong mối quan hệ so sánh. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov”. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng tìm ra những nét tương đồng trong việc tổ chức hệ thống nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn, chỉ ra những hiệu quả nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ của cách thức tổ chức đó; tìm ra những nét khác biệt thể hiện cái độc đáo, cái sắc nét của mỗi nhà văn với đặc trưng dân tộc, đặc trưng văn hoá khác nhau. 1.3. Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan và Sekhov là hai tác gia trong số các tác gia tiêu biểu được đưa vào chương trình giảng dạy ở nhà trường.Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một cách “đọc, hiểu” mới tác phẩm của hai nhà văn nói riêng và tác phẩm văn chương nói chung. Điều này bổ sung và làm mới cách thức tiếp nhận văn học, cũng như công tác giảng dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đồng thời đề tài của chúng tôi góp một phần nhỏ bé vào việc chứng tỏ vai trò của bộ môn văn học so sánh - một bộ môn khoa học có tính chất quốc tế mà hiện nay đang được giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng quan tâm. 2. Lịch sử vấn đề Với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov”, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn. Từ những tài liệu thu thập được chúng tôi có những nhận xét sau: 2.1. Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến “ một đời văn lực lưỡng” . Ông không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 mà còn có công xây dựng nên một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trong mấy chục năm qua. Nguyễn Công Hoan đã gây được sự chú ý của dư luận ngay từ tập truyện ngắn đầu tiên “Kiếp hồng nhan”, xuất bản năm 1923. Nhưng phải đến những năm 1929 – 1933 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bằng những truyện ngắn in ở mục Xã hội ba đào ký trong An Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương. Những truyện ngắn này được độc giả yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn đọc. Tháng 6 – 1935, khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” ra đời, sáng tác của Nguyễn Công Hoan đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và thu hút được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình.. Tập Kép Tư Bền đã mở đầu cho trào lưu văn học tả chân xã hội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội.. Với Nguyễn Công Hoan, Kép Tư Bền có thể xem là mốc đánh dấu trong đời văn chương Ông viết: “ việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi được nghề văn" [35, tr.118]. Tập truyện với nghệ thuật độc đáo mới lạ, đã thu hút được đông đảo bạn đọc trong cả nước, Họ chú tâm nhiều hơn đến những tác phẩm hiện thực của Nguyễn Công Hoan. Năm đó Kép Tư Bền là tập truyện được đánh giá hay nhất, được mười tám tờ báo Bắc, Trung, Nam viết bài khen ngợi và trở thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích phái nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thì Hải Triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái Nghệ thuật vị nhân sinh đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến Hải Triều có viết: “ Cái chủ trương Nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện bằng những bức tranh linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn Công Hoan”[66, tr.64] Sau khi tập truyện Kép Tư Bền ra đời, Thiếu Sơn đã xếp Nguyễn Công Hoan và Tam Lang ở cùng một phái " tả chân xã hội" và cho rằng: " Cũng như Tam Lang, tác giả của Kép Tư Bền ưa nói đến những bề trái của xã hội, ưa phanh phui, bày tỏ những cái hèn kém, xấu xa gian tà, độc ác của người đời" và cuối cùng tác giả đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả (...) ". Cái đặc sắc của ông Hoan là ỏ chỗ biết quan sát những cái gì chung quanh mình, biết kiếm ra những câu truyện tức cười, biết vẽ người bằng những nét ngộ nghĩnh thần tình, viết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lý thú và biết kết cấu thành những tấn bi hài kịch (...) còn nói về cái tài vẽ người của ông thì thật là tuyệt diệu, có lẽ không thua gì những Carcteres và Paraits của La Bruyere" [71, tr.441- 442]. Trần Hạc Đình khi nhận xét về “Kép Tư Bền”, qua nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật có viết "Ông ưa tả , ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Hạng người này có gặp ở đời, ta thường lầm vì cái bề ngoài mà phải kính trọng nể nang họ” và tác giả kết luận “Nhà văn ở đây vô tình lại có cái đau đớn, khổ sở lầm than của hạng người cùng đinh nghèo khổ và cái giả trá xấu xa bất lương của bọn quyền quý trưởng giả, nhà văn đã nhận thấy rằng: “cái xã hội hiện thời đầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 rẫy sự ô trọc, giả dối lại xây lên trên mọi sự bất bình, là một xã hội cần phải đạp đổ”” [17, tr.40]. Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan đã nhận định : “Ông miêu tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi ông tả những ý nghĩ của họ nhất là những điều u uất của họ thì không bao giờ ông đả động, bao giờ cũng đặt họ vào một khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo hay phong tục mà họ đã " ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của họ” [64, tr.1078] Trên đây là những ý kiến đánh giá và phê bình về thế giới nhân vật được miêu tả, khắc hoạ trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan trước năm 1945. Sau năm 1945 các nhà nghiên cứu đi vào khai thác sâu hơn về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ông và đi đến những ý kiến thống nhất về nghệ thuật mô tả nhân vật, xây dựng tính cách nhân vật, chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Nhóm tác giả trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam có nhận xét về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật như sau: " ông có sở trường về cách mô tả tư cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn hãnh tiến giầu có, sang trọng và khinh người" [ 9, tr.101]. Nói về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan qua thủ pháp nghệ thuật trào phúng, Trương Chính lại cho rằng: "cách vẽ phóng đai, cách vẽ biếm hoạ của nghệ thuật gây cười... cách tập trung tất cả những cái xấu về hình thức cũng như về tư tưởng vào nhân vật phản diện không phải là cách sáng tạo điển hình. Cách đó sẽ làm cho nhân vật kỳ dị, méo mó, không thật. Bệnh công thức, bệnh sơ lược bắt đầu từ đây chứ còn từ đâu nữa" [8, tr.169] Tại cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định: "Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú, ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực, những mâu thuẫn, những cảnh tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 trái và phản nhau…. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới những những kẻ khốn khổ đáng thương. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan người đọc như được trực tiếp sống giữa cái xã hội khốn cùng của những con người dưới đáy, những thói hư tật xấu của đám thanh niên tiểu tư sản thành thị chạy theo lối sống "Âu hoá". Hoặc “khi nhân vật ông miêu tả vừa là kẻ có tiền, có quyền vừa có nhân cách và hành động trái ngược với thứ đạo đức ông ưa, thì ông lên án bằng cả lý trí và tình cảm. Tiếng cười đả kích của ông sảng khoái, nhân vật của ông sống, tác phẩm của ông thành công” [75, tr.222]. Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học - tập 2 đánh giá về nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Mỗi nhân vật nhà văn thường chỉ nêu lên một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động ngôn ngữ, tình huống nào đó (...). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực, không sinh động. Có thể nói trái lại, chỉ bằng vài nét vẽ, nhà văn đã phác ra được một bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ yếu nổi bật, phù hợp với bản chất xã hội nhân vật" [39, tr.56]. Vũ Ngọc Khánh trong Thơ văn trào phúng Việt Nam , có viết về thủ pháp nghệ thuật, cách mô tả nhân vật của Nguyễn Công Hoan như sau: "Thủ pháp quen thuộc và độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối tượng trở nên méo mó hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ hơn" [38, tr.375]. Nhóm Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu Trong cuốn Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930 nhận xét về ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, cho rằng: "Đọc ông, độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn ngữ của tác giả đâu là ngôn ngữ nhân vật và mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ của riêng mình. Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành" [13, tr.386] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam đã nhận xét như sau: “Với số lượng khá lớn như vậy… Nguyễn Công Hoan đã hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà báo, nhà văn, nhà giáo, các nghệ sĩ, tư sản, các nhà buôn, nha thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường hào,nghị viên, công chức, học sinh đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…từ các giai cấp bị bóc lột, các giai cấp thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một xã hội hết sức phức tạp”. “Quả thật, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có tài xây dựng nhân vật phản diện (...) việc xây dựng nhân vật phản diện cho phép nhà văn được tô đậm khuếch ®¹i những nét tiêu biểu” [14, tr.351] Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức Hạnh, với những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, bà đã chỉ ra được những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Khi nhận xét về cách miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, bà viết: “Cách miêu tả nhân vật trong sự đối lập giữa hai sự vật bản chất khác nhau, giữa bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức..." [28, tr.58] Nhận xét về chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tác giả Hoàng Anh trong Văn tập 39 khẳng định: "Những chân dung Nguyễn Công Hoan vẽ nên là những ký hoạ hoặc biếm hoạ linh hoạt, không chỉ đặc tả tính cách của từng loại nhân vật qua cái thần của họ, mà xếp bên cạnh nhau còn hiện lên lồ lộ bức tranh toàn cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến, mặc dù chúng cố tình che đậy, giấu giếm sau tấm phông loè loẹt, mỹ miều" [67, tr.54] Nhìn dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử nhận xét: "Con người trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là con người bị tha hoá, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 vật hoá, sống và hoạt động hầu như phi nhân tính. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là thế giới làm trò, nhân vật là những kẻ làm trò” [21, tr.142] Những tổng hợp ý kiến trên, một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một mặt đã ít nhiều chú ý đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Từ những ý kiến đó đã gợi ý cho chúng tôi khi thực hiện đề tài. 2.2. A.Sekhov và truyện ngắn Nhà văn lão thành Nga Grigôrôvich là người đầu tiên có công phát hiện và đưa ra ý kiến đánh giá mang tính dự báo về tài năng nghệ thuật độc đáo của Sekhov. Đồng thời ông còn khích lệ cổ vũ và xác định ưu thế vượt trội của tác giả trong thể loại văn học này: “Tôi rất kinh ngạc về sự độc đáo của các chi tiết trong truyện, và nhất là tính trung thực, chân xác sâu sắc trong việc mô tả các nhân vật và cả thiên nhiên nữa (...), anh đã có khả năng phân tích nội tâm rất sâu, cả tài tả cảnh điêu luyện” [20, tr.161-162] Yêu mến tài năng nghệ thuật của nhà văn Sekhov, đại văn hào Nga L.Tonxtoi không chỉ coi ông như một người kế tục và thừa hưởng đầy đủ truyền thống văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn là người cách tân của văn học Nga. “Điều chủ yếu là bao giờ Sekhov cũng chân thành, và đó là phẩm chất cao quý của nhà văn, nhờ đó mà Sekhov đã sáng tạo ra được những hình thức viết mới, hoàn toàn mới” [20, tr.330] hoặc “đây là một viên ngọc, một ngôn từ tuyệt diệu. Cả Tuôcghênhep và Gônsarôp, cả tôi không ai viết được như ông ta” [58, tr.41]. Nhận xét này có ý nghĩa định hướng và cổ vũ A.sêkhov vững tin sáng tạo. G.N. Pospelôp với chuyên luận “Dẫn luận nghiên cứu văn học”, khi xây dựng lý thuyết về cốt truyện cũng đánh giá quan trọng về những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn: “ Cơ sở của truyện không phải là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 các sự kiện đột biến, mà là những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, sự cảm thụ và lý giải các hiện tượng và sự thực ngày càng mới, những sự bừng sáng của trí tuệ, các bước chuyển hoá từ quan niệm hư ảo đến cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc có tính phê phán đối với thế giới, hoặc là ngược lại, ngày càng phụ thuộc vào sức ỳ của cái tầm thường”[63, tr.42] M.Gorki là người rất say mê Sekhov. Ông đã nhận xét: “Sự tầm thường ti tiện là kẻ thù của anh, suốt đời anh đã đấu tranh với nó, bắt nó hiện nguyên hình nghiêm khắc qua ngòi bút của anh, anh biết moi móc ra vết mốc meo hôi hám của nó ở ngay chỗ mà mới nhìn tưởng như mọi vật đều sắp đặt khéo léo và có vẻ choáng lộn nữa” [59, tr.36]. Đồng thời ông cũng khẳng định tinh thần nhân đạo trong tác phẩm Sekhov: “Mỗi một truyện của Sekhov đưa ra, là nhấn sâu thêm vào cái điểm dũng cảm và yêu thương cuộc đời, nó là một điểm rất quý và rất cần cho chúng ta”… “ Mỗi một truyện ngắn là một cái thảm kịch nhỏ, nó cảm người một cách sâu sắc” [78, tr.258] M.Gorki đã có những nhận xét chân thành và sâu sắc về tính hiện thực trong sáng tác của Sêkhov: "Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sekhov đúng như họ sống trong hiện thực. Trong các truyện ngắn của Sekhov, không hề có một cái gì mà lại không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông, chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, “không có trên đời này”, tuy có thể là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông không bao giờ tô vẽ cho con người...” [22, tr.5] Nhận xét về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật của Sekhov M. Gorki viết: “Trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với những lạc thú trần gian; đó là nhưng kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối t ăm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 trước cuộc sống, họ quằn quại trong một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm thấy trong hiện tại không có chỗ cho mình đứng...” [22, tr.5] Là đại diện xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga cuối thế kỷ XIX Sekhov được giới thiệu ở Việt Nam khá sớm. Nhiều nhà văn Vi ệt Nam say mê Sekhov như Nguyễn Tuân, Nam Cao. Những truyện ngắn đầu tiên của Sekhov được dịch ra tiếng Việt từ năm 1943. Nguyễn Tuân đã có bài nghiên cứu đầu tiên về ông. Đến nay ở Việt Nam A.Sêkhov được coi là một tài năng đặc biệt, được hâm mộ và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng. Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu ở tập truyện ngắn Sekhov, đã nhận xét: “Trong sáng tác, Sekhov không chen vào mà giải quyết vấn đề, hoặc gián tiếp giải quyết bằng nhân vật này khác. Sekhov cho ta thấy, cho ta xem hết ông nọ bà kia, cho ta gặp nhưng thằng, những con người và như ngụ ý hỏi lại những người đồng điệu chúng ta rằng: “ Trò đời là vậy đó? Vậy thì có nên để nó tồn tại thế không? Có nên bắt chước họ sống một cách tồi tàn, bậy bạ như thế không?” [77, tr.14] Nhấn mạnh cái tính chất ban đầu, tính chất khởi điểm trong cách miêu tả nhân vật của Sekhov, Hoàng Xuân Nhị nhận xét: “lần đầu tiên trong văn học Nga và thế giới chúng ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào biểu hiện những con người nhìn bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau thương của họ”[ 65, tr.79] Dịch giả Đỗ Khánh Hoan cho rằng: Thế giới nhân vật Sekhov "là một nhân loại nho nhỏ", qua đó ông nhấn mạnh tính phức tạp của những "mảnh đời" những "mảng sống" của đủ mọi hạng người trong xã hội. Nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang đã đưa ra những nhận định để khái quát số lượng nhân vật đông đảo, nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov "đó là những cảnh tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người, chải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 chuốt và bê tha… nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một thế giới trên cái đường phố tưởng tượng kia một thế giới thu nhỏ dường như thật hơn, cô đọng hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn" [20, tr.12] Năm 2004 ở Việt Nam đã có một cuộc hội thảo kh oa học kỉ niện 100 năm ngày mất Sekhov. Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến về nhân vật trong truyện ngắn Sekhov. Đi sâu tìm tòi những cái mới trong truyện ngắn Sekhov, Nguyễn Hải Hà đã chú trọng khám phá “Sekhov không trực tiếp miêu tả nhân vật như F.Dostoievski, L.Tonxtoi nhưng ông vẫn quan tâm đến thể hiện tâm lý theo cách riêng của mình, qua hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và qua chân dung nữa". Đồng thời chú ý đến bút pháp nghệ thuật trong miêu tả chân dung của Sekhov, ông viết: "Ông rất chú trọng đến chân dung nhân vật, nắm bắt tâm lý của nó". [22, tr.6]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hải Hà trong bài Cái mới trong truyện ngắn Sekhov, đã chỉ ra thói tật nô lệ của những nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov: “Có thể nói thói nô lệ ngấn sâu và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quan nhân, thương gia, sinh viên, nông dân, “ những con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”[22, tr.5]. Sekhov muốn giúp con người “chắt lọc, loại bỏ khỏi con người mình từng giọt nô lệ”. Phạm Xuân Nguyên cũng gặp gỡ Nguyễn Hải Hà khi khẳng định tài năng của Sekhov trong miêu tả tâm lý nhân vật "... Sekhov có biệt tài khám phá những khả năng kinh ngạc của bản tính con người, sự phân tích tâm lý của ông rất sâu sắc và linh động”[57, tr.6]. Trong bài Sekhov - Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, Nguyễn Trường Lịch lại chú ý tới giọng điệu, điểm nhìn của người thuật truyện như: “lối dẫn truyện khách quan, sự vắng mặt cả người thuật truyện. Ông đã chứng minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 cho các luận điểm của mình bằng các tác phẩm như Người đàn bà có con chó nhỏ, Hai kẻ thù....” [44, tr.89] Đến với thế giới nhân vật đông đảo của Sekhov nhiều nhà nghiên cứu khẳng định lần đầu tiên trong văn học những con người bình thường trong cuộc sống chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Sekhov…. Nói cách khác, có thể khẳng định "gu" thẩm mĩ hay cái tạng của Sekhov là "nhà văn của đời thường”. Như vậy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Sekhov là nhà văn của tầng lớp bình dân, nhân vật của ông chỉ loay hoay với cuộc sống đời thường với những lo lắng tủn mủn về vật chất, những biến động tinh thần không lớn lắm trong từng nhân vật. Tuy nhiên, với tài năng của mình, thông qua cái thế giới nhân vật sám xịt ấy, Sekhov đã phản ánh và nói lên được những vấn đề nóng bỏng của xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ. Với một loạt bài viết của mình, Đào Tuấn Ảnh là một trong những người mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu Sekhov theo lối so sánh loại hình. So sánh truyện ngắn của Sekhov với truyện ngắn của Nam Cao nhà nghiên cứu đã chỉ ra những tương đồng loại hình trong sáng tác của hai nhà văn thể hiện ở kiểu truyện “không cốt truyện” , ở nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn…), ở nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Từ những so sánh nêu trên nhà nghiên cứu đã hướng tới kết luận về một “chủ nghĩa hiện thực kiểu mới” mà người mở đầu trong văn học Nga giao thời thế kỉ XIX- XX là Sekhov, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945, là nhà văn Nam Cao. Tóm lại: Từ những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy: - Về vị trí, vai trò của hai nhà văn viết truyện ngắn Sêkhov và Nguyễn Công Hoan, hầu hết các ý kiến đều nhất trí khẳng định tài năng cùng những đóng góp của họ cho văn học nước nhà và văn học thế giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 - Các ý kiến đó đều thống nhất khẳng định thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, độc đáo trong truyện ngắn của hai nhà văn. - Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa tập trung phân tích thế giới nhân vật của hai nhà văn, nhất là đặt nó trong hệ thống tiếp cận thi pháp học. Hơn nữa, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu và so sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. - Mặc dù vậy, những ý kiến chúng tôi thu thập trên đều là những gợi mở, định hướng tốt cho chúng tôi khi lựa chọn và thực hiện đề tài. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu trong tập Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 2005 và những truyện ngắn trong Truyện ngắn Sekhov, NXB Văn học 1978, tập I, II, để khảo sát và trích dẫn. Số lượng tác phẩm ở hai tập truyện ngắn của hai nhà văn rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ chọn ở mỗi nhà văn 30 tác phẩm để khảo sát và phân tích . Trước hết, chúng tôi căn cứ vào yêu cầu về dung lượng của truyện ngắn để chọn tác phẩm. Căn cứ tiếp theo để chúng tôi lựa chọn là tính tiêu biểu của tác phẩm đã được khẳng định theo thời gian và quá trình nghiên cứu, tiếp nhận. Đối tượng khảo sát của chúng tôi là nhân vật và cách thức tổ chức hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan (trước năm 1945) và truyện ngắn Sekhov (tập I, II do Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo dịch). 3.2. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sekhov có thể có nhiều vấn đề nghiên cứu như : nghệ thuật kết cấu truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời - không gian nghệ thuật…, nhưng chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov trên hai phương diện hình thức và nội dung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 3.3. Từ việc khám phá cách thức tổ chức hệ thống nhân vật, chúng tôi xem xét hai nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, xã hội Nga cuối thế kỉ XIX như thế nào, với những phương thức biểu hiện nào. 4 Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: nhằm nghiên cứu so sánh truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và A.Sêkhov trong tính chỉnh thể 4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học nhằm giải quyết nhiệm vụ đề tài đặt ra. Phương pháp này cho phép không chỉ dừng lại xem xét tác phẩm nói lên cái gì mà phải xem còn được nói như thế nào. Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu này chúng tôi sẽ tìm hiểu thông qua việc tổ chức hệ thống nhân vật trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Công Hoan và Sekhov đã cắt nghĩa những vấn đề gì của xã hội đương thời. 4.3. Phương pháp so sánh: giúp cho chúng tôi chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt của hai nhà văn, ở hai quốc gia khác nhau trong những điều kiện lịch sử (dựa trên phông văn hoá khác nhau, lịch đại, lịch sử khác nhau). Sử dụng phương pháp loại hình nhằm so sánh truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov trên một cấp độ và bình diện cụ thể, để từ đó chỉ ra những nét tương đồng mang tính phổ quát và cả những nét khác biệt mang tính đặc thù. 4.4. Phương pháp phân tích tổng h ợp: giúp chúng tôi đi vào phân tích nhân vật cụ thể nhằm thuyết minh cho những luận điểm, từ đó quy nạp, tổng hợp lại vấn đề. 5. Những đóng góp mới của luận văn So sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn có “cơ địa sáng tác” khác nhau này, chúng tôi muốn hướng tới những tương đồng về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 loại hình nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đồng thời chỉ ra những điểm độc đáo trong phương thức xây dựng thế giới nhân vật của từng nhà văn, qua đó xác định những đóng góp của hai nhà văn đối với chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam, văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Thực hiện được điều này, luận văn bước đầu đóng góp thêm vào việc tìm kiếm những cách thức tiếp cận mới sáng tác của Nguyễn Công Hoan, nhằm phát hiện những giá trị về nội dung, tư tưởng nghệ thuật đang còn tiềm ẩn trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Điều này bổ sung thêm một cách “đọc hiểu” hiện tượng văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học thế kỉ XX ở Việt Nam. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Chương 2: Nhân vật - những dị tật của xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Chương 3: Nhân vật - những nạn nhân bi thảm trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Chương 1: HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN A.SEKHOV 1.1. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan 1.1.1. Nguyễn Công Hoan và thời đại Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) được xem là một trong những đại thụ của văn xuôi Việt Nam, là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học Việt Nam. Được sinh ra trong một gia đình nho học thất thế, cuộc sống của anh em Nguyễn Công Hoan đã trải ra trong khó khăn, vất vả. Nhà nghèo, đông anh em, Nguyễn Công Hoan phải đến ở với bác ruột - một Phó bảng, làm Tri huyện. Những năm tháng sống ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan chứng kiến rất nhiều chuyện xung quanh mối quan hệ quan - dân. Chuyện nhà quan, chuyện làm quan đã để lại những ấn tượng sâu sắc, làm thành ý thức khám phá thời cuộc ở Nguyễn Công Hoan. Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường sư phạm, bắt đầu cuộc sống tự lập của một ông giáo tiểu học. Cuộc đời dạy học của ông không mấy suôn sẻ. Vốn tinh tường, sắc sảo, trung thực, khảng khái, Nguyễn Công Hoan không được cấp trên vừa ý. Ông bị chuyển chỗ dạy nhiều nơi. Thị xã Hải Dương, Thị xã Lao Cai, Thị xã Nam Định, Trà cổ… là những nơi Nguyễn Công Hoan bị điều đến và dạy học. Mỗi nơi, ông và gia đình không ở quá được 2 năm. Vất vả, long đong, nhưng bù lại, ông có điều kiện đi nhiều nơi, biết và khám phá được nhiều điều. Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu” (1920) của Nguyễn Công Hoan ra đời. Năm 20 tuổi, tập truyện ngắn “Kiếp hồng nhan” ra mắt độc giả. Cũng như “Quyết chí phiêu lưu”, tập “Kiếp hồng nhan” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 không được độc giả đón đợi nhiều. Năm 1935, truyện ngắn “Kép tư bền” ra đời, gây một tiếng vang lớn trên văn đàn, khẳng định tài năng nghệ thuật, mở ra một giai đoạn mới, sung sức trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có thể coi, sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan được bắt đầu từ những năm 20 và thực sự được khẳng định ở những năm 30 của thế kỷ XX, với thể loại truyện ngắn. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn thành công nhất của Nguyễn Công Hoan được tính từ 1920 đến 1945. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị, xã hội Việt Nam rất phức tạp, rối ren với tính chất thực dân nửa phong kiến. Nhà nước phong kiến già nua, lỗi thời, phản động, chế độ thực dân tàn bạo hiện hữu và cùng với nó là sự đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân dân, là phong trào Âu hóa rầm rộ, lố lăng…, sự vận động của phong trào yêu nước ở các sỹ phu, những manh nha đầu tiên của các tổ chức cộng sản v…v… là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, làm biến đổi đời số._.ng tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, khoa bảng, Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc hệ tư tưởng phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Công Hoan là tư tưởng yêu nước, yêu con người. Con gái ông - Nhà văn Lê Minh - khẳng định: “Cha tôi trước khi là nhà văn đã là một nhà giáo yêu nước” [81]. Sống trong thời thế rối ren, đảo lộn đó, ông ghi nhận và đồng tình với tâm lý bất mãn của tầng lớp quan lại thất thế với xã hội nửa Tây, nửa Tầu nhố nhăng. Ông cũng không chấp nhận, thậm chí cảm thấy bị xúc phạm bởi sự xu nịnh, luồn cúi của bọn quan lại “thức thời”, lũ “liếm gót giầy cho Tây”. Ông khinh bỉ bọn hãnh tiến, bọn tư sản chạy theo lối sống Âu hóa đồi bại. Ông đau đớn trước sự biến đổi khôn lường của những thước đo giá trị cho những vấn đề, vốn được coi là thiêng liêng. Những khái niệm nghĩa: cha - con, tình chồng - vợ, bạn bè… đã được thay đổi nội hàm, được đem ra hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 xử theo kiểu xu thời mẫn thế. Xã hội, nhất là nơi thành thị, nhan nhản những rởm đời, học đòi, đua chen, bẩn thỉu. Thời đại, hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống… đã tạo nên ở Nguyễn Công Hoan một cái nhìn sắc sảo. Ông viết: “Do gia đình tôi là một gia đình quan lại lỗi thời lép vế, hằn học với bọn quan lại đương lên, ôm chân bọn đế quốc để có thể có tiền, bản thân tôi làm cái nghề bị bạc đãi là cái nghề dạy học, lại làm thêm nghề viết tiểu thuyết kiểu tôi, là nghề mà bọn thống trị chẳng ưa tý nào. Tất cả những cái ấy giáo dục cho tôi nhìn đế quốc, phong kiến, tư sản bằng con mắt căm thù” [35, tr.282]. Nguyễn Công Hoan là người quan tâm nhiều đến thời cuộc với những biến đổi khi ồn ào, dữ dội, lúc bình lặng, tinh vi. Không một câu chuyện nào ngoài đời, không một cảnh tượng nào bất chợt xuất hiện…, lại không được ông lưu giữ. Một gánh tuồng với những đào kép son phấn lòe loẹt diễu qua phố lúc chiều muộn, một mẩu tin trên báo đọc hàng ngày, có thể thoáng qua, vô nghĩa đối với người khác, nhưng với ông lại có giá trị và ông không bỏ qua. Với lòng yêu nước, với cái nhìn sắc sảo, tỉnh táo, Nguyễn Công Hoan quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch. Ông từng tự bạch : “Tôi là một người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế nhạo. Sống dưới chế dộ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế giễu, mỉa mai để khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả đối với tôi chỉ là trò cười. Vì vậy tôi hay pha trò cười” [35, tr.367]. Cái nhìn thời cuộc, xã hội thuộc địa thực dân phong kiến này của Nguyễn Công Hoan gặp gỡ cái nhìn của Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng cũng nhìn thấy sự quay cuồng, hỗn loạn, điên đảo của “xã hội chó đểu”. Ông cũng phanh phui thực chất sự vô luân lý, vô nghĩa lý của xã hội, khi bố con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 trở thành kẻ thù, vợ chồng hóa ra anh em, nghèo đói trở thành triệu phú, mạt hạng trở thành vĩ nhân. Có thể nói, cả Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng đều nhìn đời là một trò diễn sân khấu đầy bi hài. Bằng cách của riêng mình, mỗi ông đã giải phẫu những sinh thể quái dị ấy, “xé toạc mọi trạng thái đang bị che giấu”. Không chỉ nhìn đời bằng con mắt lạnh lùng, kết hợp khôi hài để chế giễu những trò diễn sân khấu, Nguyễn Công Hoan còn nhìn đời bằng con mắt trắc ẩn, đầy cảm thông, đau xót. Là một người nhân hậu, sống ở thời kỳ đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than, đói nghèo, loạn lạc. Ông luôn khuyên, dạy các con: “Con người sống phải biết căm thù bọn bóc lột và yêu thương những người cùng khổ [81] Cái nhìn chân thực, cảm thông đối với những kiếp lầm than như hệ quả tất yếu của cái nhìn đời là một trò diễn và không hề mâu thuẫn, trái lại, đó là cái nhìn hiện thực hết sức tinh nhạy, tỉnh táo. Có thể nói, quan điểm đạo đức phong kiến, dẫu có sâu sắc, cũng không là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy nhất và của Nguyễn Công Hoan. Từ cái nhìn hiện thực nhiều chiều đó, Nguyễn Công Hoan đã phát hiện mâu thuẫn giầu - nghèo trong xã hội. Đó là “nỗi ám ảnh thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan” [37,tr.359]. Ý thức nghệ thuật đã chi phối Nguyễn Công Hoan trong sáng tác chính là “yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống” [35,tr.236]. Ông luôn đứng về phía những con người nghèo khổ, bần cùng, bị ức hiếp, bóc lột để lên án bọn giầu có, quyền thế, bất nhân, bất nghĩa. Đó chính là cảm quan hiện thực khỏe khoắn và tiến bộ cuả ông. Trong thời của ông, khi người ta đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, thì Nguyễn Công Hoan dứt khoát chọn con đường hiện thực phê phán. Sức mạnh thuyết phục của cách thức phản ánh này là bám rất chặt và o đời sống, nhìn thẳng vào nh÷ng vấn đề của xã hội đương thời, công khai đả kích, phê phán không thương tiếc những thói hư tật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 xấu, những cái ác, thói rởm đời và bênh vực những con người bé nhỏ, cơ cực. Mục đích sáng tác mà Nguyễn Công Hoan nhằm tới là “(…) yêu quan ngày xưa, so sánh với quan ngày nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói”. Để người đọc nhận biết, hiểu được điều mình nói ra, Nguyễn Công Hoan chú ý khai thác đề tài trong xã hội hiện hành và tìm tới hình thức t ruyện ngắn. Nguyễn Công Hoan quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ, với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc” [35, tr.301]. Mỗi truyện ngắn “chỉ có thể tóm tắt bằng một câu, nêu lên một ý” [35, tr.307]. Từ những sự có thật trong cuộc sống, tìm cho nó được hình thức Nguyễn Công Hoan còn rất chú ý tới kỹ thuật viết để sao cho thích hợp với ngòi bút trào phúng của mình, đồng thời làm cho truyện nổi rõ tư tưởng, chủ đề. Quan niệm của Nguyễn Công Hoan về một truyện hay là “dễ hiểu. Người đọc phải nhận ra được, phải hiểu tác giả định nói cái gì?” [35, tr.132]. Theo Nguyễn Công Hoan để người đọc hiểu được truyện, nhận thấy được từ truyện những cái đang có rất nhiều ở ngoài đời, điều căn bản mà nhà văn phải làm là biết sử dụng chi tiết, phải biết “bớt cái thừa, thêm cái thiếu, nhấn mạnh cái cần ở trong sự việc có thật” [35, tr.315]. Nguyễn Công Hoan sử dụng chi tiết với tư cách là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để p hản ánh cuộc sống với tất cả sự rộng lớn bên trong. Tóm lại, thời đại, hoàn cảnh xã hội cụ thể, điều kiện gia đình, đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát triển tài năng của Nguyễn Công Hoan. Hiện thực cuộc sống của một trí thức yêu nước đã trở thành nguồn nguyên liệu quý giá để Nguyễn Công Hoan kiến tạo nên hệ thống hình tượng trong sáng tác của mình. Những quan niệm về cuộc đời, về con người đã giúp nhà văn tìm hiểu, khám phá hiện thực, phản ánh hiện thực một cách sống động trong tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 1.1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan Mỗi tác phẩm nghệ thuật hàm chứa một thế giới nghệ thuật do nhà văn sáng tạo ra và nó mang tính chỉnh thể. Đó là toàn bộ những yếu tố hợp thành, cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nên giá trị thẩm mỹ, tư tưởng và nội dung cho tác phẩm. Đối tượng phản ánh của thế giới nghệ thuật là hiện thực khách quan. Qua thế giới nghệ thuật, nhà văn bộc lộ quan niệm về thế giới, con người và cách cắt nghĩa về thế giới đó, con người đó. Tính chỉnh thể bao hàm cả cách thức tổ chức các yếu tố cấu thành thế giới nghệ thuật, mang đậm tính sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới nghệ thuật, thế giới nhân vật được coi là thành tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung tâm. “Có bao nhiêu nhà văn sẽ có bấy nhiêu thế giới nhân vật riêng biệt” [46,tr.700]. Tạo nên thế giới nhân vật trong tác phẩm là nhân vật và hệ thống nhân vật. Nhân vật là trung tâm của nhận thức, là nơi tập trung tư tưởng nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Từ cái nhìn của tác giả, nhân vật được khắc họa, miêu tả ở nhiều góc độ và thực hiện những chức năng khác nhau. Vì vậy, đọc tác phẩm, người đọc tiếp xúc trực tiếp với một hệ thống hình tượng nhân vật và thông qua đó, nắm bắt được những vấn đề nhà văn đặt ra, giải quyết. Thế giới nhân vật được cấu thành bởi nhiều kiểu loại nhân vật với những đặc điểm tÝnh cách, số phận khác nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo thành một hệ thống, thực hiện nhiệm vụ chuyển tải nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thế giới nhân vật cũng tạo cho tác phẩm sự độc đáo - dấu ấn sáng tạo của mỗi cá nhân. Từ sự phong phú của thế giới nhân vật người ta có thể phân loại nhân vật dựa trên những tiêu chí khác nhau. Dựa vào vị trí, vai trò của nhân vật trong tổ chức tác phẩm, có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật, có nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật loại hình và nhân vật chức năng. Tuy nhiên, sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dù là kiểu nhân vật nào, thì nhân vật khi xuất hiện tr ong tác phẩm, cũng đều là kết quả sự lựa chọn của tác giả, nhằm đạt đến hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Đó chính là đối tượng miêu tả mà nhà văn tìm đến và mục đích của việc tổ chức đối tượng đó. Từ những vấn đề lý luận trên, tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan và Sekhov, chúng tôi dựa trên tiêu chí chung nhất: đối tượng miêu tả và mục đích phản ánh. Với tiêu chí này, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống nhân vật trong truyện ngắn. Chúng tôi tiếp tục xem xét, các nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề thời đại như thế nào qua hệ thống nhân vật đó. Đề tài và những vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan đề cập trong truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Xuyên suốt các tác phẩm là bức tranh đời sống, hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu XX phức tạp, đảo điên. Bức tranh đó được hiện ra với hai mảng mầu đối lập. Một bên là những quan lại, cường hào, tư sản ăn trên, ngồi trốc. Một bên là những số phận nghèo hèn, lầm than, khổ nhục. Khảo sát 30 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi có kết quả sau: TT Tên tác phẩm Nhân vật Ghi chú Nhân vật là những dị tật của Xã hội Nhân vật là những nạn nhân bi thảm của xã hội 1 Răng con chó nhà tư sản X 2 Oẳn tà roằn X 3 Hai thằng khốn nạn X 4 Người ngựa ngựa người X 5 Gói đồ nữ trang X 6 Thằng ăn cắp X 7 Báo hiếu trả nghĩa cha X 8 Báo hiếu trả nghĩa mẹ X Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 9 Cụ Chánh Bá mất giầy X 10 Mất cái ví X 11 Kép tư bền X 12 Thanh! Dạ! X 13 Đàn bà là giống yếu X 14 Một tấm gương sáng X 15 Cái vốn để sinh nhai X 16 Nhân tài X 17 Xuất giá tòng phu X 18 Được chuyến khách X 19 Quyền chủ X 20 Phành phạch X 21 Chiếc quan tài X 22 Đồng hào có ma X 23 Thằng ăn cướp X 24 Thịt người chết X 25 Sáu mạng người X 26 Sáng, chị phu mỏ X 27 Hé! He! He! X 28 Công dụng của cái miệng X 29 Người thứ ba X 30 Bữa…no đòn X Tổng số 19 11 Kết quả khảo sát cho chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến rõ rệt. Tuyến một gồm những nhân vật thuộc lớp quan lại, địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản mới lên. Tuyến này chiếm tỷ lệ tương đối nhiều (19/30) trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, đây là những nhân vật quen thuộc và là những nhân vật xấu trong xã hội thuộc địa, phong kiến. Đó là bọn nhà giầu, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 cậy quyền cậy thế mà ức hiếp người nghèo. Đó là bọn quan lại, địa chủ, tư sản, tiểu tư sản với những nét nhơ bẩn cả về vật chất lẫn tinh thần. Loại người này xuất hiện nhiều trong xã hội nhốn nháo, nửa Tây, nửa Ta, nửa Tầu. Chúng là sản phẩm tấ t yếu của xã hội đó. Nguyễn Công Hoan đã đưa chúng vào tác phẩm, tạo điều kiện cho chúng diễn đủ trò. Điều mà Nguyễn Công Hoan nhìn thấy và muốn chỉ cho mọi người thấy là ở chỗ: xã hội đầy rẫy sự bất công, lừa bịp, xấu xa, trơ trẽn, bẩn thỉu, nhưng, kẻ thống trị lại cố tìm mọi cách để che đậy. Đưa chúng vào tác phẩm, Nguyễn Công Hoan phanh phui những mâu thuẫn đó, phơi bầy những xấu xa, tàn bạo đó. Loại nhân vật này xuất hiện dưới hai dạng thức. Một là bọn quan lại phong kiến, vô trách nhiệm, “ăn bẩn” , bọn tư sản hãnh tiến ác độc. Đó là quan huyện, xuất hiện lúc là Quan, lúc là Huyện Hinh, lúc là Tổng đốc Lê Thăng …; Đó là các cụ chánh bá, lý trưởng…. Những điển hình này mang tính khái quát về lũ sâu mọt (nhân danh nhà nước, đại diện nhà nước) chuyên đục kho ét, áp bức dân lành với đủ mánh khóe, thủ đoạn. Đó là các ông chủ hãng xe hơi, ông chủ báo, nhà tư sản… vô nhân tính, keo bẩn, độc ác. Hai là hệ thống nhân vật bị đồng tiền chi phối mà trở nên mất nhân cách, vô liêm sỉ, mất lương tâm. Loại này xuất hiện tương đối nhiều (10/19) truyện. Cuộc sống xã hội Việt Nam buổi giao thời hiện ra với bao điều kệch cỡm, xa hoa, lố lăng, nhảm nhí. Thói đạo đức giả, đểu cáng được phơi bầy trong một loạt các truyện như: “Mất cái ví”, “Xuất giá tòng phu”…. Hình ảnh ông Tham bày trò mất ví để đuổi khéo cậu ruột ra khỏi nhà khiến người đọc bật ra tiếng cười khinh miệt. Tiếp nhận hình ảnh ông chủ hãng xe hơi đuổi mẹ già về quê ngay trong ngày làm giỗ, báo hiếu cha, thì người đọc chỉ còn biết thở dài cho sự vô sỉ, vô lương tâm ... Và, không còn gì để nói khi một quan Tham lấy luân thường đạo lý ra dạy vợ, bắt vợ ngủ với quan trên để tiến thân ... Nguyễn Công Hoan đã tập trung phơi bầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 bản chất xấu xa của bọn này. Tiền, danh vọng với chúng là trên hết. Đó là căn bệnh do xã hội sản sinh ra và nhà văn đã giải phẫu một cách kiên quyết. Tuyến nhân vật thứ hai là những kiếp người nghèo khổ, bị áp chế, ức hiếp. Tuyến này chiếm tỷ lệ (11/30) trên tổng số truyện ngắn. Họ là những con người sống lay lắt trong xã hội Việt Nam ở cả thành thị lẫn nông thôn. Đó là những anh phu kéo xe, kép hát, gái điếm… không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mà còn nhục nhã, khốn cùng (“Người ngựa ngựa người”, “Kép tư bền”). Đó là những người nông dân do dốt nát mà bị ức hiếp (“Hai thằng khốn nạn”, “Gánh khoai lang”, “Thịt người chết” ). Cái cách mà Nguyễn Công Hoan sử dụng ở những truyện kiểu này là những phi lý trở thành có lý. Người đọc tiếp nhận hiện thực ở góc độ vô lý nhất, bật ra tiếng cười chua xót, cay đắng, đầy nước mắt và nhận thấy sự có lý hiển nhiên. Đó là “được đến chỗ đau đớn của người đời, truyện như bịa chơi mà trò đời thường có”[37,tr. 412]. Tham gia vào tuyến nhân vật này còn là những nhân vật trẻ em (“Thanh! Dạ”, “Giá ai cho cháu một hào”, “Thằng bé ăn mày”, “Quyền chủ”…). Đó là những đứa bé đi ở, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày…. Chúng cũng bị đánh đập, bóc lột như bất kỳ kẻ nghèo đói, cùng quẫn nào. Cuộc sống của chúng là chuỗi dài đầy ải khủng khiếp. Chúng là thú vui của bọn nhà giầu hợm hĩnh, ác độc. Sự góp mặt của những nhân vật trẻ em đã gia tăng sự phong phú của những con người nghèo khổ, là những mảng màu bổ sung cho bức tranh xã hội vốn đã xám xịt, càng xám xịt thêm. Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn sáng tạo ra loại nhân vật đặc biệt: nhân vật - đồ vật. Nhân vật hóa đồ vật là một thủ pháp các nhà trào phúng thường sử dụng và khai thác triệt để khả năng phản ánh hiện thực của chúng. Nói về cuộc sống khốn khổ của người dân bằng chính họ chưa đủ, Nguyễn Công Hoan còn sử dụng đồ vật như nhân vật để làm tăng cái nghèo, cái bấp bênh, cái khốn cùng của kiếp người (“Chiếc quan tài”). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Tóm lại, thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan thật phong phú, đa dạng. Đó là một thế giới đông đúc với đủ hạng người, đủ các thành phần. Tất cả từ quan lại, tư sản, đến me Tây, gái điếm, phu phen, nông dân, kéo xe, ăn mày, từ người lớn đến trẻ con, từ sang trọng đến thấp hèn … đều đang nhố nhăng, đi lại, nói cười trong truyện ngắn của ông. Thế giới nhân vật ấy thật sinh động, góp phần thể hiện quan niệm của ông về cuộc đời, về con người. Thế giới ấy cũng góp phần chứng minh cho nguyên lý: xã hội thế nào thì con người thế ấy. 1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn A.Sekhov 1.2.1. A.Sekhov và thời đại A.P.Sekhov (1860 -1904) là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Ông được sinh ra trong một gia đình tiểu th ị d ân ở th ị trấn Tagan roc - một thành phố cảng cổ, một nơi buôn bán sầm uất. Dòng họ Sekhov có tới năm đời là nô lệ. Đến đời ông nội của Sekhov dòng họ mới chuộc được tự do. Thoát khỏi kiếp nô lệ, là người tự do, nhưng cuộc sống của gia đình Sekhov vẫn rất chật vật. Họ sống trong sự chắt bóp, dè sẻn, tằn tiện. Cuộc sống vất vả đã cho cha Sekhov - ông Peven E.S. một bài học giáo dục đáng sợ và ông thực hiện nó với con cái. Cần phải có quy củ trong cuộc sống; cần phải có luật lệ trong gia đình; cần phải nghiêm khắc với con cái…. Vì thế, sinh hoạt trong gia đình Sekhov là thời gian biểu bất di bất dịch. Sáng, lũ trẻ cùng bố mẹ đi lễ nhà thờ, về ăn qua quít, người cha bán hàng. Trưa, đi lễ nhà thờ và tối đến, sau bữa ăn, Paven đọc báo cho cả nhà nghe và ông sẽ không chịu nổi nếu ai đó tỏ vẻ không lắng nghe. Trước khi đi ngủ, họ lại cầu nguyện. Bản thân Sekhov nhiều lần suýt bị đánh đòn, vì đã lấy làm lạ, sao lại cứ phải cúi rạp, chạm trán xuống sàn nhà. Có thể nói, tuổi thơ của anh em Sekhov trải qua trong nhàm chán, buồn tẻ, sợ hãi. Cầu kinh, đi học, trông hàng, đòn roi ở nhà và đòn roi ở trường…, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 đó là vßng luẩn quẩn, tẻ nhạt mà họ phải chịu đựng. Khi đã trưởng thành, Sekhov chua chát nhắc lại: “Thuở nhỏ, tôi không có thời thơ ấu…”. Quyền lực, trật tự gia đình mà Peven muốn gây dựng, cuối cùng không thực hiện được. Buôn bán khó khăn, vỡ nợ, phá sản, ông buộc phải trốn đi, để lại gánh nặng cho Sekhov. Năm 1876, gia đình Sekhov thực sự phá sản, phải chuyển đến Maxcơva. Đang học dở trung học, Sekhov ở lại Taganroc với cô ruột. Cuộc sống khó khăn, nhờ sự giúp đỡ của bà cô, cộng với nghị lực của bản thân, Sekhov đã vượt qua. Cuộc sống “không có thời thơ ấu” , nỗi đau của cha, mẹ, những vất vả của họ, sự tráo trở, đê tiện của người vốn là bạn của cha, những tháng năm một mình bươn trải để sống ở Taganroc đã tạo cho Sekhov cái nhìn tỉnh táo, lạnh lùng, nghiêm khắc. Không chỉ có thế, nỗi đau vì nghèo đói, nô lệ đã thấm sâu trong Sekhov. Tốt nghiệp trung học, Sekhov quyết định lên M axcơva. Trước khi đi, Sekhov chào bà cô với tâm trạng bùi ngùi: “Đừng buồn cô ạ. Cháu đi Maxcơva rồi sẽ thành bác sỹ. Cháu sẽ sống đàng hoàng, sống cho ra con người cô ạ”. Đây, không đơn giản là một lời chào, mà là một tâm niệm, được xuất phát từ thực tế cuộc sống, để rồi trở thành quan niệm về cuộc đời, về con người của nhà văn Sekhov sau này. Ở Maxcơva, Sekhov vừa học trường y, vừa bắt đầu viết văn. Chất hài hước xuất hiện trong những tác phẩm đầu tay của ông. Mặc dù còn trẻ, nhưng Sekhov đã trở thành chỗ dựa cho mẹ và các em ở Maxcơva. Ông rất quan tâm đến việc giáo dục các em, uốn nắn họ. Hơn ai hết, Sekhov hiểu rõ, cay đắng, căm phẫn với sự nô lệ đã trở thành máu thịt của bao kiếp người, trong đó có cha ông, anh, em ông. Cho nên, theo ông, cần phải tẩy rửa đến cùng những giọt máu nô lệ. Trong thư gửi anh trai Nicolai, Sekhov đã nói rõ quan niệm của mình về một con người có đạo đức, có giáo dục. Đó là người cần thỏa mãn những điều kiện: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 “- Phải biết tôn trọng cá tính con người, luôn độ lượng, nhã nhặn, lễ độ… - Không chỉ yêu thương những con người nghèo khổ mà còn phải biết yêu thương những con mèo. - Phải biết đau xót tâm hồn…” [ 19,tr.2]. Sự nghiệp văn học của Sekhov được tính từ những năm 80 của thế kỷ XIX. Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm cực kỳ phức tạp của lịch sử xã hội Nga. Nhận xét về thời kỳ này, Sekhov viết: “Cảnh sống chung quanh thật tồi tệ… theo như sự suy xét của tôi về trật tự sự vật, thì cuộc đời hầu như chỉ gồm toàn những điều khủng khiếp, cãi cọ, cấu xé nhau. Sự ti tiện, thấp hèn, xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc”. Do đâu mà có hiện thực đó? Nước Nga nửa sau thế kỷ XIX thật sự rối ren. Cuộc cải cách nông nô 19- 12-1861 với tính chất nửa vời, bịp bợm đã làm đảo lộn toàn bộ xã hội. Chế độ nông nô không những không bị thủ tiêu m à còn trở nên tàn bạo hơn, tinh vi hơn trong việc áp chế nhân dân. Chế độ phong kiến Nga hoàng bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn. Đó là “tình trạng bế tắc, đứng ở ngã ba đường về xu hướng chính trị, xã hội, cuộc sống tràn ngập vô vàn mâu thuẫn” [61,tr. 45]. Để tồn tại, giai cấp quý tộc già nua câu kết với giai cấp tư sản vừa “thoát thai từ giai cấp nông nô” , non yếu, bạc nhược và cũng đầy toan tính. Giai cấp vô sản mới ra đời chưa đủ sức trở thành một lực lượng chính trị độc lập, như ng đã phần nào thể hiện những yếu tố tiến bộ, cách mạng, tác động nhất định đến phong trào đấu tranh của nhân dân Nga. Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm trì trệ nhất trong lịch sử xã hội Nga. Sekhov tận mắt nhìn thấy đời sống khổ cực của nhân dân do nạn mất mùa xảy ra liên tiếp trong mấy năm. Ông cũng chứng kiến sự tàn bạo, hà khắc của Nga hoàng và nhà nước phong kiến trong ngày tàn, cùng sự ngoi lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 của tầng lớp tư sản mới trở lại. Không khí ngột ngạt, oi bức bao trùm toàn bộ đất nước. Tư tưởng nhân dân bị phân tách. Phần đông giới trí thức hoang mang, dao động, rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tầng lớp tiến bộ muốn rời bỏ vũ đài chính trị, thậm chí thỏa hiệp, đầu hàng. Học thuyết “không chống lại cái ác bằng bạo lực” của L.Tonxtoi có điều kiện phát huy tác dụng. Có thể nói, Đây là giai đoạn thoái trào của cách mạng. Nước Nga rơi vào hoàn cảnh ảm đạm, xám xịt, phá sản về nhiều mặt và nổi bật nhất là sự phá sản về tinh thần của giới trí thức Nga. Họ lặn ngụp trong sự tầm thường và dung tục. Như vậy, những năm 80,90 của thế kỷ XIX là thời kỳ giao thời của xã hội với những rối ren, đảo lộn. Cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa hình thành. Đời sống văn học lúc này, về cơ bản, là bế tắc. Tuy nhiên văn học hiện thực vẫn có thành tựu. Sekhov sống và sáng tác trong buổi giao thời đó. Ô ng được coi là đại biểu xuất s¾c cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga. Sekhov bước vào lịch sử văn học Nga với tư cách nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn. Sekhov - nhà văn của thời đại. Năng khiếu quan sát, nhạy bén với xã hội đã giúp nhà văn hình thành nhận thức khách quan. Bằng sự tinh tế, sự trải nghiệm, nhà văn thu lượm chất liệu cho truyện ngắn từ đời sống hàng ngày, gần gũi với tất cả mọi người. Chứng kiến sự thật trần trụi của xã hội đảo điên, Sekhov đau xót và hi vọng vào sự thức tỉnh của nhân cách. Ông không chỉ đưa ra lời khuyên mà còn khích lệ tích cực cho sự bảo vệ, hoàn thiện nhân cách. Quan niệm về cuộc đời và con người luôn được Sekhov duy trì. Trong thư gửi em trai, Sekhov viết: “Việc gì em phải tôn sùng người khác bằng cách tự gọi mình là kẻ hèn mọn, không đáng để ý đến…. Không! Giữa người đời cần phải ý thức được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 nhân phẩm của mình…. Em hãy biết rằng con người nhỏ bé, trung thực, không phải là người hèn mọn”. [19,tr. 82] Khuyên em và cũng là nhắc mình. “Phải sống sao cho ra con người”, “(…) Giữa người đời phải ý thức được nhân phẩm của mình” - Đó cũng là mục đích sáng tạo của Sekhov. Có thể nói, toàn bộ sự nghiệp văn học của Sekhov đã và chỉ phục vụ cho mục đích cao cả ấy. Trong sự phá sản tinh thần khủng khiếp của thời đại, Sekhov là người dũng cảm lôi ra những xấu xa, tội lỗi chui rúc sâu trong ngõ ngách tâm hồn, phản ánh thực trạng xã hội đen tối. Ông cũng là người lên tiếng phê phán xã hội qua những cuộc đời khổ ải, bất công…. Tất c ả những việc làm đó của ông đều nhằm tìm và trả lại cho con người ý nghĩa đẹp đẽ và cao cả của chính nó. Cuộc sống vất vả, chật vật tạo điều kiện cho Sekhov khả năng quan sát, khám phá hiện thực. Cùng lúc Sekhov vừa làm thày thuốc chữa bệnh, vừa làm nhà văn. Nghề y buộc ông tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hội. Nhà giải phẫu, nhà chữa bệnh thân xác, nhà châm biếm, thầy thuốc tâm hồn có thêm điều kiện hiểu cặn kẽ mỗi loại người. Nhờ thế, trong tác phẩm, những xấu xa, ti tiện được ông moi ra từ mỗi đường gân, thớ thịt để xem xét, mô tả, phê phán, đớn đau. Bất kỳ ở đâu, chỗ nào, Sekhov cũng nhìn ra căn bệnh tinh thần khủng khiếp. Sau thời gian làm việc ở đảo Xakhalin - nơi Nga hoàng đầy ải các tù nhân - Sekhov chứng kiến nhiều nỗi kinh hoàng của tù nhân. “Chúng ta làm chết dần chết mòn hàng vạn người trong n hà tù, làm lụi dần ánh bình minh (…) Chúng ta là những kẻ vô nhân đạo; chúng ta đã xua đuổi nhiều người vào nơi băng giá, trong gông cùm…. Chúng ta đã làm sinh sôi, nảy nở ra những tên tội phạm và chú ng ta đã trút tất cả điều đó cho những tên cai ngục mũi đỏ. Không phải những tên cai ngục có tội mà tất cả chúng ta đều có tội”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Trung tâm chú ý của Sekhov là “mong muốn khám phá và mô tả thân phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua vô vàn dạng thức (…) Thói nô lệ ngấm sâu và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân - những con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”. Chính vì vậy, khao khát của Sekhov là ở chỗ, tác phẩm của ông không chỉ phanh phui, lên án, công kích hiện tại, mà còn hướng đến tương lai qua nhận thức của người đọc. Đây là những lời ông nói với một thanh niên, khi anh ta khóc trước vở kịch của ông: - “Đấy, annh kể với tôi rằng anh đã khóc khi xem kịch của tôi. Mà không phải chỉ mình anh. Nhưng tôi đâu có viết để thấy những giọt nước mắt? Tôi muốn cái khác kia. Tôi chỉ muốn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng: “Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tệ như thế nào? Cái quan trọng nhất là để họ thấu hiểu điều đó, và khi đã thấu hiểu, thế nào họ cũng phải tạo cho mình cuộc sống tốt hơn. Tôi không thấy cuộc sống đó, nhưng tôi biết rằng nó sẽ hoàn toàn khác, không giống gì với cuộc sống hiện tại. Và bây giờ, khi nó chưa tới, tôi sẽ còn mãi mãi nói với mọi người: Hãy nhận ra đi, các người sống thật tồi, thật tệ”. Vậy, thì có gì phải khóc?” [19,tr.282] Những năm cuối đời, Sekhov vẫn tiếp tục quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật vì con người đó. Nhờ vậy, sự phản ánh mặt trái xã hội ở ông thời kỳ này nghiêm khắc hơn, quyết liệt hơn. Vấn đề gay cấn của thời đại, của xã hội đã hiện hình rõ nét. Đó là cuộc sống tầm thường, dung tục trở nên phổ biến, bao vây con người. Sekhov đã vật lộn với cuộc sống, tìm tòi trong đó, và bẳng thái độ lạnh lùng, khách quan, ông đã phản ánh thực trạng xã hội, phanh phui, lật tẩy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 những cái xấu, cái ác bọc trong nhung lụa, hào nhoáng. Theo ông, khi viết truyện có thể khóc lóc, có thể rên rỉ, có thể đau đớn cùng nhân vật của mình. Càng tỏ ra khách quan bao nhiêu, ấn tượng gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Đó chính là sự hi vọng vào cộng đồng sáng tạo ở độc giả của Sekhov, thể hiện rất rõ quan hệ giữa sáng tạo và đời sống hiện thực. Quan niệm về cuộc đời, con người, nghệ thuật đã đem lại cho nhà văn những giá trị riêng. Toàn bộ sáng tác của Sekhov đã phản ánh một cách đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc thời đại mà ông sống, hoạt động nghệ thuật. Từ hoàn cảnh sống, đến sự vận động, phát triển và những thay đổi của thời đại… đều được thâu tóm bằng cái nhìn tinh tế, nhạy bén và sâu sắc của nghệ sỹ Sekhov. Tác phẩm của Sekhov không chỉ cất lên tiếng nói của thời đại nước Nga những năm 80 - 90, mà còn phản ánh được hơi thở chung, sự gần gũi của các dân tộc khác trong những hoàn cảnh tương tự. “Chắc rằng người đọc chúng ta ngày nay vẫn tìm thấy trong tác phẩm Sekhov cái thế giới và cuộc sống của nước Nga những năm 80 không có gì rạng rỡ đó, những con người, những tâm hồn sao mà gần gũi, giống như họ đang sống đâu đây” [45,tr.215] 1.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Sekhov Truyện ngắn Sekhov là truyện ngắn hiện thực, do vậy, nhân vật, sự việc được đề cập đến đều xuất phát từ những nguyên mẫu ngoài đời. Cũng như khi phân loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cũng lấy đối tượng miêu tả và mục đích phản ánh của tác giả làm tiêu chí để khảo sát thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sekhov. Đối tượng miêu tả của Sekhov là tất cả các tầng lớp người trong xã hội. Từ bọn quan lại trí thức, những người bình thường, đến tầng lớp đáy cùng của xã hội… đều xuất hiện trong tác phẩm của Sekhov với tư cách là nhân vật chính. Mục đích phản ánh của Sekhov, như ông viết trong thư gửi Pleseev: “Tôi căm thù sự dối trá và bạo lực trong mọi dạng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 thức của chúng, thói giả nhân giả nghĩa, sự đần độn và thói độc đoán ngự trị không chỉ trong các gia đình thương gia và cả trong nhà tù” [52,Tr. 252] Chúng tôi đã khảo sát 30 truyện ngắn của Sekhov và có bảng khảo sát thế giới nhân vật sau: TT Tên tác phẩm Nhân vật Ghi chú Nhân vật là những dị tật của xã hội Nhân vật là những nạn nhân bi thảm của xã hội 1 Cái chết của một viên chức X 2 Anh béo anh gầy X 3 Con kỳ nhông X 4 Phẫu thuật X 5 Mặt nạ X 6 Lão quản Prisubeep X 7 Vanka X 8 Chuyện đời vặt vãnh X 9 Vé trúng số X 10 Đánh cược X 11 Những người đàn bà X 12 Các bà X 13 Ionuts X 14 ._.6,tr.378]. Bà quyết định gọi con Đỏ lên quạt hầu bà, vì: “Bà đã đủ lòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 nhân đạo đối với một con bé mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại…. Con Đỏ con, cả ngày chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp…” [36,tr.378]. Câu chuyện cứ nhẹ nhàng diễn ra, như chẳng động đến ai, chỉ là chuyện một bà chủ “béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” với con hầu “vẫn gầy còm lắm”. Nhưng toàn bộ sự ác độc, ích kỷ của chủ và nỗi khổ bị áp bức, bóc lột của người nghèo cứ hiển hiện. Nhất cử lưỡng tiện, con Đỏ quạt hầu, bà chủ vừa đỡ “hại quạt và tốn tiền điện”, vừa lại được tiếng là người có nhân đức, vì, “cái ngữ ấy (con Đỏ)… chẳng xin ở không công để kiếm miếng ăn, tất chỉ có ăn mày”. Người đàn bà béo nứt béo trương, vật vã trên giường vì nóng. Con bé gày còm, hai tay khẳng khiu, phành phạch quạt cho bà, để cho “lưng áo lụa của bà phồng lên như cánh buồm”. Thời gian con Đỏ quạt hầu bà chủ được tính từ mười giờ tối cho đến sáng. Bà mơ màng, con Đỏ mỏi tay, buồn ngủ, cũng lơ đãng. Cái nóng khiến bà tỉnh. Tiếng quát, mệnh lệnh “Mạnh lên, mày” và cái “giúi đầu” nó của bà, làm con Đỏ tỉnh giấc. Bà bực d ọc, khó chịu. Con Đỏ luống cuống, sợ hãi…. Hỗ trợ cho cơn buồn ngủ mà không được ngủ của con Đỏ là âm thanh của đêm trường thanh vắng. Tiếng chuông đồng hồ của nhà giầu, cứ đến cữ lại đổ chuông, tiếng gà gáy xa xa, đặc biệt cái âm thanh “phành phạch”, “phành phạch”… cứ kéo dài, nổi trội, ám ảnh người đọc. Sự dồn nén của cuộc sống cay nghiệt đã dồn đẩy tuổi thơ tới phạm tội. Phạm tội mà chúng không biết mình đã làm điều ác. Ai là người chịu trách nhiệm về số phận bé Thanh (“Thanh! Dạ!”), số phận thằng bé con chủ nhà, về số phận Varka (“Buồn ngủ”), nếu không phải chính xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và xã hội Nga cuối thế kỷ XIX. Những thân phận đi ở, bị đầy đọa đến mấy, vẫn còn có chút gì hơn những kiếp lang thang phải ăn cắp, ăn xin, ăn mày. Như đã nói, dường như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 những đứa trẻ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov vừa sinh ra đã có tên trong danh sách hạng người cầu bất cầu bơ. Ở Nguyễn Công Hoan, nhân vật là những đứa trẻ lang thang chiếm 3/5 truyện (“Bữa no đòn”, “Cái vốn để sinh nhai”, “Thằng ăn cắp”).Cái hay mà Nguyễn Công Hoan khám phá và đem lại cho người đọc ở những tác phẩm này không chỉ là hiện thực xô bồ, khủng khiếp, nỗi đau nhân thế, mà còn ở sự thức tỉnh nhận thức của con người. Sự va chạm giữa giầu và nghèo, rất dễ nhận thấy, rất dễ bộc lộ sự cảm thông, thương xót hoặc căm ghét. Sự va chạm giữa những người cùng cảnh ngộ, hoặc na ná như nhau, không dễ nhận ra. “Thằng ăn cắp” là câu chuyện về một thằng bé lang thang, đói rạc đói dài, lấy cái chợ nghèo làm chốn nương thân. Tác phẩm được mở ra bằng cái kết thúc của câu chuyện: “Phải trận đòn này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp! Ai thương! Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp”. [36,tr.111] Ở truyện ngắn này, có hai loại nhân vật cùng lúc xuất hiện là đám đông và thằng bé. Nhân vật đám đông, bao gồm những bà bán hàng rau, hàng thịt, hàng lê, hàng bún riêu, bánh đúc, và những người qua đường. Nhân vật đám đông vừa là cái nền để làm rõ thân phận thằng bé “lử thử lừ thừ”, vừa là cái tương phản trong tương quan lực lượng với thằng bé ăn xin không được, sinh ra ăn cắp này. Cùng cảnh khổ cả, có chăng hơn ở chỗ có rau, có bánh đúc, bún riêu mà bán, nhưng cả chợ đều nhìn thằng bé bằng con mắt khinh miệt, thậm chí lãnh đạm, dửng dưng, thậm chí nhẫn tâm: “Quân ấy tinh quái lắm! Ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm…” [36,tr.111]. Điều đáng nói là ở đó. Cái nhìn lạnh lùng, hoài nghi của đám đông đã làm họ thiếu tỉnh táo để nhận ra sự thực: thằng bé đói thật và nó đã thật lòng ăn xin: “Cắn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc…”. Lê la ăn xin không được, ở chỗ nào nó cũng chỉ nhận được sự khinh thị, mỉa mai, phũ phàng: - “Ba mươi sáu cái nõn nường…. Thôi đi! Dơ!” - “Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!”. Cũng vẫn là cái đám đông vô tình với cái đói của một thằng bé khốn nạn ấy, nhưng lại rất nhiệt tình, thậm chí hăng hái quá mức khi thằng bé ấy quỵt bát bún riêu. Họ nhốn nháo, kêu gào. Lực lượng đuổi bắt được gia tăng bởi người đi đường ủng hộ. “Họ chạy huỳnh huỵch, họ làm như bắt giặc” (…) “Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù! Khổ chủ thì “chạy sau rốt. Áo lấm. Khăn sổ. Tóc rũ. Ngửa mặt kêu…” [36,tr.114]. Cả đám đông ấy hoắng lên, truyền cho nhau những thông tin đáng để bỏ công sức ra đuổi. Nào là “nó cắt ruột tượng của người kia” , nào là “lấy của người ta 5 đồng bạc, lại còn đánh người ta”…. Thế thì đáng đánh quá. Cho nên, người ta ùa vào đánh nó. Nào đấm, đá, thúc… khiến thằng bé mềm như sợi bún. Trong khi thực chất, nó quỵt 2 xu bún riêu. Hỗ trợ đắc lực cho quan hệ tương phản của nhân vật là hệ thống âm thanh mà tác giả sử dụng trong tác phẩm. Đó là những âm thanh của con người, do con người phát ra. Đó là tiếng kháo nhau, tiếng thì thào to nhỏ, tiếng quát, tiếng pha trò, tiếng cười ha hả của những người bán hàng. Đó là tiếng kêu, tiếng chân chạy, tiếng thở, tiếng van xin, tiếng chân đá, tiếng tay đấm… rầm rầm, huỳnh huỵch..... Tất cả tạo nên sự hỗn độn, huyên náo của cả một khối người bộc lộ sức mạnh của “đạo lý” trước sự việc ăn cắp. Chỉ với 2 xu bún riêu mà trở thành vấn nạn, cần phải đến nhà chức trách ra tay. 2 xu bún riêu ăn quỵt, phải lên Cẩm để giải quyết. Họ phản ứng dữ dội trước sự ăn cắp, ăn quỵt - điều đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vì sao, thằn g b é phải ăn qu ỵ t, k hôn g ai đ ể tâm. Đó là điều Nguyễn Công Hoan muốn nói đến, muốn đánh động tới lòng trắc ẩn của con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 người. Không phải ngẫu nhiên khi tác giả sử dụng giọng điệu giễu nhại, châm biếm. Đằng sau những câu văn ngắn, phần nhiều là câu đặc biệt, vô chủ, là tình cảm của tác giả, đau xót cho cái gọi là tình người giữa nhân quần. Liệu sự khinh miệt, dửng dưng, nhẫn tâm có dạy cho lũ trẻ kia điều gì? Một câu hỏi treo trên đầu người đọc thưở ấy và cả bây giờ. Thằng bé trong “Thằng ăn cắp” không có lối thoát, như bé Varka trong “Buồn ngủ” của Sekhov. Nó phạm tội trong sự tính toán ngây thơ, khờ khạo. Đói quá sinh liều. Nó không tính đến khả năng không chạy thoát, cũng như Varka, buồn ngủ quá, chỉ biết vì thằng bé khóc mà không được ngủ. Thằng ăn cắp quyết ăn quỵt bát bún, Varka quyết bóp cổ thằng bé con chủ nhà… chỉ cần được ăn và được ngủ. Với “Cái vốn để sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan một lần nữa chỉ ra sự dửng dưng, ghẻ lạnh của người đời đã hủy hoại những đứa trẻ như thế nào. Vẫn là những con người không tên, hợp thành đám đông, làm nền cho nhân vật hoạt động. Thằng bé ăn xin với cái gậy , cái rá chọn bến xe để kiếm ăn. Cay đắng ở chỗ nó nhận ra một thực tế: “Chẳng may giời đầy nó làm kiếp ăn mày, mà lại bắt nó phải lành lặn. Gia dĩ cái gầy gò, xấu xí cũng không được bằng ai. Rõ khổ”. [36,tr.169]. Đội ngũ ăn mày thân tàn ma dại, không mù thì câm, không toét mắt thì què chân, gãy tay…. Đội ngũ ấy hoạt động mới có kết quả, dù chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cũng đủ cho nó thèm và so sánh với mình. Một thực tế nữa cứ xoáy vào thằng bé. Đó là những câu răn dạy của mọi người, từ quan, đến thày khóa, đến những ông, bà đi xe. - “Mày lành lặn thế, sao không đi làm đi ăn, chỉ lười biếng quen xác thôi”. - “Thừa tiền cũng không cho thứ mày”. - “Đi mà làm ăn! Đừng lười thế.” - “Mặc kệ mày, cho mày chết đói…”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Những câu luân lý ấy, nghe mãi quen tai, nhưng thằng bé cũng rút ra được điều rằng: lành lặn khó xin, lành lặn đi liền với chết đói. Tác giả đã diễn tả nỗi đau đớn, thất vọng của thằng bé bằng những đoạn độc thoại nội tâm gián tiếp. Nhà văn mô tả lại suy nghĩ tuyệt vọng của thằng bé: “(…) Nó biết đi xin thế này là nhục (…) Khốn nạn! Nào nó có lười biếng gì cho cam? Nó có máu động kinh, lắm lúc đương yên lành tử tế, thì lăn đùng ra đất, mắt trợn lên, bọt mép sùi ngầu (…) Vì thế nó bị đuổi khỏi nơi đi ở. Vì thế nó phải đi ăn mày” [36, tr.168 - 169]. Đầu óc trẻ thơ có sâu sắc mấy cũng chỉ nhận ra bài học: Vì còn lành lặn nên có thể chết đói.. Nó chỉ biết tuyệt vọng khi nghĩ đến chết đói. Nhưng đám đông kia đã khai thông đầu óc cho nó bằng một lời đùa nhiều hơn thật: - “Mày què đi thì lần sau tao cho” . Câu nói ám ảnh, câu nói mở đường. Câu nói như một luồng ánh sáng thức tỉnh sự u mê của thằng bé. “Ở đời, làm nghề gì chả phải có vốn? Chả phải cạnh tranh? Đi ăn mày, tưởng dễ lắm đấy hẳn” [ ]. Chi tiết thằng bé chống gậy đi, tìm đến một cây cao, cố hết sức leo lên, để tìm vốn sinh nhai, bằng cách: “Nó thở dài, nó liều. Nó nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay, ngả người ra. Vụt một cái: Ối!... Nó rơi đánh bộp xuống đất (…) cánh tay lủng lẳng như chỉ còn bám xương vào vai nó một tý lấy lệ” [36, tr.171-172], như một lưỡi dao cùn cứa vào tim người đọc. Với người đời, với thằng bé, lối thoát thật đơn giản. Nhưng, khi nghĩ cách tìm được cái vốn để sinh nhai ấy, nó đâu biết, vào những ngày trở trời, nó sẽ đau như dần, nó sẽ phải bò lê đi kiếm ăn…. Cũng cho nhân vật trẻ em tìm lối thoát khỏi cảnh bị đọa đày, ở Sekhov có “Buồn ngủ” và “Vanka”. Cô bé Varka tìm lối thoát ở hành vi phạm tội. Bé Vanka trong “Vanka” lại tìm lối thoát ở sự sẻ chia và mơ ước mong manh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 9 tuổi đầu, Vanka đi ở cho gia đình tiểu chủ ở thành phố. Toàn bộ cuộc đời khốn khổ của Vanka được tái hiện qua bức thư nó viết cho ông nhà quê. Ngoài hình thức viết thư, Sekhov còn sử dụng kết cấu chuyện lồng chuyện. Có hai câu chuyện được lồng trong truyện ngắn này. Câu chuyện (1) là chuyện Vanka viết thư, tức điểm nhìn trần thuật là người kể ở ngôi thứ ba. Câu chuyện (2) là câu chuyện đời Vanka được kể trong thư, tức điểm nhìn trần thuật đã chuyển sang Vanka. Hỗ trợ đắc lực cho hai câu chuyện là sự đan xen của thời gian nghệ thuật. Tại câu chuyện đời của Vanka, thời gian được tổ chức từ điểm n h ìn của Vank a. Thời g ian q uá khứ, h iện tại, tương lai đ ồng hiện và đan cài với nhau. Cuộc sống khốn khổ của Vanka hiện ra rõ nét qua từng lời lẽ trong thư, được Vanka hồi nhớ. Những cụm từ “ngày hôm qua”, “tuần vừa rồi”, “hôm vừa rồi” xuất hiện cùng với những sự việc bị bà chủ đập cả một con cá mòi vào mặt, ông chủ cầm khuôn khâu giầy đập vào mặt đến bất tỉnh…, cho thấy Vanka đã bị đày đọa thế nào. Giữa dòng hồi tưởng đầy hãi hùng, Vanka sực nhớ ra: “Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về làng…”. Đoạn thư dài sau đã hàm chứa cả quá khứ, hiện tại và tương lai. “Cháu quỳ lạy bên chân ông, cháu cầu thượng đế suốt ngày đêm để ông mang cháu đi khỏi nơi này (…) Cháu sẽ thái thuốc lá cho ông (tương lai). Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ con nước là chết nữa thôi (hiện tại), cháu đã định chạy trốn về làng nhưng mà không có giầy (quá khứ) (…) Còn khi nào cháu lớn lên, cháu sẽ trả ơn ông và nuôi ông (tương lai)” [68, tr.36]. Trong suốt bức thư, thời gian hiện tại xuất hiện rất ít, phản ánh rất chính xác tâm lý trẻ con. Cậu bé không quan tâm mấy đến hiện tại. Với cậu chỉ là những khiếp hãi, đau đớn đã trải qua và khao khát được giải thoát. Sự sắp xếp thời gian cũng rất lộn xộn, phù hợp với nhân vật. Ở độ tuổi còn cần rất nhiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 sự chăm chút của người lớn, mới có cách tư duy hồn nhiên và lộn xộn như vậy, nên, sự việc được kể chưa được chắt lọc để viết cho rõ ràng. Yếu tố hồn nhiên đã làm tăng giá trị hiện thực và tác động rất mạnh đến người đọc. Tại câu chuyện Vanka viết thư, thời gian cũng được đan xen giữa hiện tại (thời gian Vanka viết ra các đoạn thư) với quá khứ (Vanka dừng viết, hồi tưởng) và tương lai (Vanka dừng viết và mơ). Dấu hiệu nhận biết là lời kể của người kể chuyện. Ở câu chuyện này, thì hiện tại xuất hiện thường rất ngắn. Có 5 lần xuất hiện câu kể hàm chỉ thời gian hiện tại, kiểu như: “Vanka đưa mắt nhìn ra cửa sổ tối tăm…”, “bây giờ…”, “Vanka thở dài, … viết tiếp…”, “cậu đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc…”, “Vanka gấp lá thư làm tư rồi bỏ vào phong bì”. Những khoảnh khắc hiện tại làm nhiệm vụ kết nối quãng đời đã qua trong hạnh phúc nhỏ nhoi mà ấm áp với quãng đời hiện tại đau khổ và cực nhục của Vanka. Thời gian quá khứ không nhiều nhưng dài hơi hơn. Đó là những hồi ức của Vanka về quê nhà, nơi cậu đi ở. Bên cạnh hồi tưởng là giấc mơ ngắn ngủi của Vanka. Thời gian để giấc mơ tồn tại rất ngắn và xuất hiện một lần ở cuối tác phẩm, cho thấy, cái tương lai mà Vanka khao khát rất bấp bênh. Tính chất thời gian với những thấp thoán g của hiện tại, quá ít của tương lai, quá đậm của quá khứ ở câu chuyện (1 ), góp phần khẳng định, tô đậm nỗi khổ nhục, bế tắc của Vanka. Như vậy, những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng đã phát huy tối đa hiệu quả của chúng. Sự lồng ghép các mạch thời gian, sự đan xen các dạng thức thời gian tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với đó là hình thức bức thư được Vanka viết và gửi với địa chỉ vu vơ cho thấy sự hồn nhiên của Vanka. Càng hồn nhiên bao nhiêu trong việc tìm lối thoát càng cho thấy, trẻ em càng tội nghiệp, số phận của chúng càng bấp bênh, càng bế tắc. Thế giới những con người nghèo khổ bị chà đạp, bị triệt tiêu dần khả năng làm người hiện ra rõ nét, sinh động trong sáng tác của Nguyễn Công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Hoan và Sekhov. Cả hai nhà văn đều bộc lộ tài năng khi xử lý đề tài “con người bé nhỏ”. Bằng thái độ tiếp nhận hiện thực, bằng những thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu, hai nhà văn đã đưa những con người lam lũ, nghèo khổ, bất hạnh vào tác phẩm, trao cho họ nhiệm vụ phản ánh hiện thực ngang trái, bất công. Thông qua đó, hai nhà văn gửi gắm sự cảm thông, thương xót những số phận bấp bênh, bị coi rẻ, khinh miệt. Thông qua hệ thống nhân vật nghèo hèn, đủ mọi lứa tuổi này, hai nhà văn đã giải quyết triệt để mối quan hệ giầu - nghèo trong xã hội. Họ đã góp phần tích cực trong việc vạch trần tội ác ở mọi hình thức của lũ người ăn trên ngồi trốc, nhẫn tâm, cũng như góp phần lay động thức tỉnh lòng trắc ẩn của con người trước hiện thực nghiệt ngã. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 KẾT LUẬN 1. Nguyễn Công Hoan là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông được coi là người có công lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn xuôi và là người đặt nền móng cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Một trong những nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là đã mang l ại cho văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX một phong cách nghệ thuật độc đáo, một kiểu nhân vật mới mẻ, vừa mang quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện được những vấn đề xã hội của thời đại. Là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ XIX, Sekhov đã mở ra khuynh hướng mới cho văn học hiện thực phê phán Nga. Bằng các tác phẩm của mình, ông kịch liệt lên án những thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội. Tố cáo chính quyền Nga hoàng tàn bạo và đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân. Hơn 20 năm cầm bút, Sekhov đã để lại một khối lượng lớn truyện ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới Bằng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc Nguyễn Công Hoan đã chĩa thẳng ngòi bút của mình vào những vấn đề nổi cộm của hiện thực cuộc sống , túm lấy những khoảnh khắc trong cuộc đời con người để phanh phui, bóc trần, lên án, tố cáo xã hội đương thời đầy ung nhọt, nhơ nhớp của những hạng người bất nhân và bất nghĩa. Qua những truyện ngắn bất hủ của mình, Sekhov đã phơi bày toàn bộ hiện thực nước Nga dưới ách chuyên chế của chế độ Nga hoàng. Giai cấp quý tộc độc ác đê tiện, bọn thị dân phàm tục, Sekhov đã tái hiện bức tranh xã hội rộng lớn, phê phán một cách gay gắt những cái xấu, cái ác trong xã hội đương thời. 2. Cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều rất thành công khi tổ chức hệ thống nhân vật của mình. Một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 động…, nhìn vào thế giới nhân vật này người đọc các thế hệ đều hình dung được xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX. Hệ thống nhân vật này vừa mang quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện những vấn đề của xã hội, của thời đại. Họ chính là nguyên cớ, là bằng chứng về một thực trạng xã hội không nhân tính và là nạn nhân của lòng tham, của tội ác, của quyền lực. Đồng thời qua thế giới nhân vật, hai nhà văn đã bày tỏ khát vọng cháy bỏng của mình về một xã hội có nhân tính, là nơi để nhà văn hy vọng vào sự đổi thay ở con người, vào những phẩm chất tốt đẹp của con người. 3. Nguyễn Công Hoan và Sekhov đÒu chú ý đến các loại người trong xã hội như: quan lại, những công chức, tiểu tư sản, dung tục tầm thường, vô liêm sỉ. Bằng nghệ thuật kết cấu, sử dụng chi tiết, lời đối thoại, lời độc thoại…, hình ảnh các nhân vật hiện ra một cách cụ thể. Đó là bọn quan lại, tư sản giầu có, lắm tiền mà bất nhân, vô nhân đạo. Thế giới nhân vật ấy chính là hiện thân của một hiện thực xã hội vô nhân đạo, không có sự tồn tại của tấm lòng lương thiện của con người. Viết về giai cấp tư sản quý tộc, tầng lớp thị dân, Sekhov thẳng tay phanh phui, mổ xẻ những thói hư tật xấu của những kẻ sống phàm tục, thói nô lệ tầm thường trước uy quyền và của cải tồn tại trong xã hội Nga cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên ở mỗi nhà văn tổ chức loại nhân vật này có những nét khác nhau. Nguyễn Công Hoan tập trung vào tầng lớp quan lại nhiều để vạch trần những dị tật xấu xa, ghê tởm mang những điển hình của xã hội thực dân nửa phong kiến. Còn Sekhov tập trung nhiều vào lớp công chức bình thường, từ những con người bình thường ấy nhà văn đã chỉ ra những con người máy, những quái thai nó chính là sản phẩm của xã hội Nga trong buổi giao thời. 4. Bằng cái nhìn thông cảm và xót thương cả hai nhà văn chú ý đến đời sống khổ cực của lớp người cùng đáy trong xã hội. Đồng cảm sâu sắc với số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 phận những người dân nghèo, đằng sau giọng mô tả bình thản của Nguyễn Công Hoan và Sekhov về những cuộc đời cơ cực, vất vưởng, lê lết ta như nghe rõ tiếng đạp bồi hồi, đau đớn chứa đựng niềm cảm thông sâu xa với nỗi thống khổ của những kiếp đói nghèo. Một sự gặp gỡ tài năng nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo trong thể hiện thế giới nhân vật của hai nhà văn. 5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được rọi chiếu bằng một thứ ánh sáng gay gắt, khiến tính cách, hành động của đủ mọi hạng người trong đó phát lộ ra bên ngoài. Còn Sekhov âm thầm nhẹ nhàng lôi kéo ngườ i đọc xâm nhập vào thế giới bên trong con người, tìm những uẩn khúc, những nguyên nhân tha hoá hay những phút thăng hoa của nó. Tuy không đi sâu vào khai thác tâm lý bên trong nhân vật như Sekhov, nhưng Nguyễn Công Hoan cũng đã thể hiện một cách sắc sảo bằng nghệ thuật độc đáo của riêng mình để phanh phui những căn bệnh xấu xa của thời đại, được biểu hiện trong tâm lý nhân vật. Chính điểm này là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn Công Hoan và Sekhov Tất nhiên, giữa Sekhov và Nguyễn Công Hoan cái khác biệt giữa hai người là lớn. Cái Sekhov có mà nguyễn Công Hoan không có là nhiều. Bởi Sekhov là người có vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh cao trào lưu hiện thực vào giai đoạn cuối của nó, được coi là nhà hiện thực kiểu mới với những cách tân trong thể loại truyện ngắn, đặc b iệt ở mảng tâm lý bên trong của nhân vật và kiểu truyện không cốt truyện. Còn Nguyễn Công Hoan là người mở đầu cho trào lưu hiện thực ở Việt Nam. Nhưng cả hai nhà văn lại có những nét tương đồng về thời đại, về thể tài, một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo, một cái nhìn sắc sảo phát hiện ra những căn bệnh của xã hội trong từng tế bào nhỏ. Bằng tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã trở thành bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Sekhov là bậc thầy của truyện ngắn nhân loại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tác phẩm văn chương không còn là một vấn đề mới, song không có nghĩa là không thể khám phá ở lĩnh vực này những điều thú vị, hấp dẫn. Bởi mỗi nhà văn sẽ có một thế giới nghệ thuật riêng, mỗi thế giới nghệ thuật lại có một thế giới nhân vật riêng. Luận văn của chúng tôi đã chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc tổ chức thế giới nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn. Tìm hiểu thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan trong tương quan so sánh với Sekhov còn là một điều khá mới lạ đối với giới nghiên cứu. Với giới hạn và khuôn khổ của luận văn, chúng tôi cố gắng đưa một cái nhìn mới mang tính khái quát về một vài đặc điểm nổi bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Vì vậy những vấn đề chúng tôi nêu ra chắc chắn còn chưa thật đầy đủ và thật sâu sắc, chưa thật sự khai thác hết những đóng góp của hai nhà văn. Chúng tôi mong muốn, hy vọng được trở lại vấn đề trong tương lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Antôn Sêkhốp và Nam Cao – nhìn từ góc độ thi pháp”, Tạp chí nghiên cứu văn học (số 4), Viện văn học – Viện khoa học xã hội Việt Nam. 3. Đào Tuấn Ảnh "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov. Thử một cách tiếp cận mới", Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), Viện văn học - Viện khoa học xã hội Việt Nam. 4. Đào Tuấn Ảnh (2004), "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov và sự tiếp nhận sáng tác của ông ở Việt Nam", Báo cáo khoa học tại Hội thảo Kỷ niệm 100 năm ngày mất A.Sêkhov. 5. Trần Lê Bảo (2004), “A.Sêkhov và Lỗ Tấn dưới góc nhìn so sánh” (Hội thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất A.sêkhov). 6. Nam Cao (2000), Con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 17. La Côn (1960), "Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Sê-Khốp", Tạp chí văn học (số 2), tr. 60-71. 8. Trương Chính (1990), (viết chung) Tác phẩm văn học 1930 - 1945, tập I Nxb Khoa học xã hội. 9. Trương Chính (1977), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb xây dựng. 10. Phạm Vĩnh Cư (1996), "Đôi nét cơ bản về giao lưu văn học Việt Nam - thế giới từ sau cách mạng tháng tám". In trong 50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 11. Nguyễn Văn Dân (1995), Văn học so sánh, Nxb khoa học xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 12. Nguyễn Văn Dân (1988), Nghiên cứu văn học so sánh trước nhu cầu đổi mới. 13. Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb ĐH & TH chuyện nghiệp. 14. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NxbKhoa học xã hội. 15. Trần Thanh Đạm (1997), “ Mấy vấn đề về đối tượng chức năng của văn học so sánh”, Tạp chí văn học (số 9) tr, 39 – 42. 16. Phan Cự Đệ (1982), “ Ảnh hưởng của tư tưởng mác xít và phong trào cách mạng đối với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam (1930 - 1945)”, Tạp chí văn học (số 6), tr,83 – 93. 17. Trần Hạc Đình (1936), “ Phê bình Kép Tư Bền Hà Nội báo” (số 2). 18. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NxbHà Nội. 19. Phan Hồng Giang T.Sekhov (1979), Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Phan Hồng Giang (2001), A.Sêkhốp, Nxb Hải Phòng. 21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 22. Nguyễn Hải Hà (2004), “Cái mới trong truyện ngắn của A.Sêkhov”, (Hội thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov. 23. Nguyễn Hải Hà (1992), Văn học Nga, sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. Hồng Hạnh (2001), “ Vấn đề "người trong bao" trong một số tác phẩm của Sêkhốp”, Tạp chí văn học tuổi trẻ (số 12). 25. Lê Thị Đức Hạnh (1970) “ Mấy vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước các mạng”, Tạp chí văn học (số 6) tr, 46 – 54. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 26. Lê Thị Đức Hạnh (1975), “ Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”, Tạp chí văn học (số 5), tr. 121 – 132. 27. Lê Thị Đức Hạnh (1977), “Nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan”, Tạp trí văn học (số 4), tr. 83 – 93. 28. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan , Nxb Khoa học xã hội. 29. Lê Thị Đức Hạnh (1990), “ Kép Tư Bền”, Tạp chí văn học (số 3), tr, 24 - 25. 30. Lê Thị Đức Hạnh . (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Nxb KHXH, Hà Nội. 31. Lê Thị Đức Hạnh (1996), “Nguyễn Công Hoan - tài năng và nhân cách”, Tạp chí tác phẩm mới (số 12). 32. Lê Thị Đức Hạnh (2003), Sưu tầm và biên soạn Nguyễn Công Hoan tác giả, tác phẩm, Nxb Giáo dục. 33. Trọng Hiền (1960) Sê-Khốp nhà văn hiện thực vĩ đại, Báo văn nghệ (số 3) 34. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học. 35. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội. 36. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.. 37. Nguyễn Công Hoan (2005), Tác gia - tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 38. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 39. Nguyễn Hoành Khung (1984), Nguyễn Công Hoan trong từ điển văn học (tập hai), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 40. Nguyễn Hoành Khung (1988), (viết chung) Văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 41. Phong Lê (1976), Nguyễn Công Hoan " Văn và người", Nxb Văn h ọc Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 42. Phong Lê (1993), “Nguyễn Công Hoan một đời văn lực lưỡng” , Tạp chí văn học (số 6). 43. Phong Lê (2004), A.Sêkhov và Nam Cao " nhìn từ hai nền văn học". Tạp chí văn học nước ngoài (số 4), Hội nhà văn Việt Nam. 44. Nguyễn Trường Lịch (2004), Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, (Hội thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov). 45. Mai Thúc Luân (1984), Nghệ thuật dân tộc quốc tế, Nxb Khoa học, Hà Nội. 46. Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Lê-nin V.I (1960), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội. 48. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, (phần khải luận) – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 49. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 50. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 51. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 52. M.B kharapchenkô (1993), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người, Nxb Khoa học, Hà Nội. 53. M.B kharapchenkô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 54. M.B kharapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự p hát triển văn học, Nxbtác phẩm mới, Hà Nội. 55. M. Gorki (1998), Bàn về văn học, NxbVăn học, Hà Nội 56. Trần Quỳnh Nga (2000), “A.Sêkhov ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 10). 57. Phạm Xuân Nguyên (2004), Đặc điểm văn A.Sêkhov, (Hội thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 58. Vương Trí Nhàn Bản dịch truyện ngắn và một giai đoạn giới thiệu văn học nước ngoài ở Hà Nội, Evan. Vnexprress. Net. 59. Vương Chí Nhàn (2000), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 60. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, Văn học Việt Nam giao lưu và gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 61. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội 62. Nhiều tác giả. (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 63. Pespelop G.N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (hai tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 64. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội. 65. Đỗ Hải Phong (1971), Bài giảng Thi pháp A.Sêkhov của Truđacôp, Nxb Giáo dục Maxcơva. 66. Vũ Dương Quý (1999), Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 67. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Sưu tầm và biên soạn tác phẩm bình luận văn học, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh. 68. Sêkhov (1988), Truyện ngắn A.Tsêkhốp, Nxb Cầu vồng Maxcơva do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch. 69. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập một), Nxb Văn học, Hà Nội do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch. 70. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập hai), Nxb Văn học, Hà Nội do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch. 71. Thiếu Sơn (2002), Phê bình “ Kép Tư Bền”, in lại trong tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 72. Trần Đình Sử (1993) Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, BGD & ĐT - Vụ giáo viên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 73. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học , Nxb giáo dục, Hà Nội. 74. Timôphiep (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá. 75. Nguyễn Trác (1973), (viết chung) Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, (tập V phần 1), Nxb Bộ giáo dục, Hà Nội 76. Nguyễn Thanh Tú (1995), “Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng”, Tạp chí văn học (số 6), tr, 7- 11. 77. Nguyễn Tuân (1957), Tìm hiểu Sêkhốp, Lời giới thiệu A.sêkhov truyện ngắn (tái bản 2004), Nxb Hà Nội. 78. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn. 79. Vũ Thanh Việt (2000), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc (sưu tầm và biên sọan), Nxb Văn học thông tin, Hà Nội. 80. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thời gian - không gian nghệ thuật trong truyện ngắn "Vaska" của A.Sêkhov. TCKH & CN Đại học Thái Nguyên (số 3). 81. w w w. Can d. com. Vn. 12/2007 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9513.pdf
Tài liệu liên quan