Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một trong những nhà văn xuất
sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho
trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguyễn Công
Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất
sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở
nhiều thể loại khác nhau,
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2597 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các
truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền
văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện
ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr.
181]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế
hệ độc g iả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đào sâu để tìm tiếp
những " vỉa vàng" lấp lánh.
Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế
kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân nghệ thuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện
ngắn. Hơn hai mươi năm cầm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện
ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp
sáng tác của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê
bình "nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những " địa tầng" mới trong thế giới nghệ
thuật của ông.
Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và truyện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc
trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này
vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ
quát của văn học thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
1.2. Đối với bạn đọc Việt Nam, Nguyễn Công Hoan rất quen thuộc và
gần gũi. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông.
Sekhov cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc Việt
Nam. Ở Nga đã có hẳn một ngành Sekhov học, với nhiều công trình nghiên
cứu về Sekhov. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên biệt nào
xem xét thế giới nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Sekhov trong mối quan hệ so sánh. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Sekhov”. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng tìm ra những nét tương đồng trong
việc tổ chức hệ thống nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn, chỉ ra những
hiệu quả nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ của cách thức tổ chức đó; tìm ra những
nét khác biệt thể hiện cái độc đáo, cái sắc nét của mỗi nhà văn với đặc trưng
dân tộc, đặc trưng văn hoá khác nhau.
1.3. Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan và Sekhov
là hai tác gia trong số các tác gia tiêu biểu được đưa vào chương trình giảng
dạy ở nhà trường.Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một
cách “đọc, hiểu” mới tác phẩm của hai nhà văn nói riêng và tác phẩm văn
chương nói chung. Điều này bổ sung và làm mới cách thức tiếp nhận văn học,
cũng như công tác giảng dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đồng thời đề tài
của chúng tôi góp một phần nhỏ bé vào việc chứng tỏ vai trò của bộ môn văn
học so sánh - một bộ môn khoa học có tính chất quốc tế mà hiện nay đang
được giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng quan tâm.
2. Lịch sử vấn đề
Với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov”, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn. Từ những tài liệu thu
thập được chúng tôi có những nhận xét sau:
2.1. Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến “ một đời văn lực lưỡng” . Ông
không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào
lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 mà còn có công xây dựng nên
một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học trong mấy chục năm qua.
Nguyễn Công Hoan đã gây được sự chú ý của dư luận ngay từ tập truyện
ngắn đầu tiên “Kiếp hồng nhan”, xuất bản năm 1923. Nhưng phải đến những
năm 1929 – 1933 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bằng những truyện
ngắn in ở mục Xã hội ba đào ký trong An Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương.
Những truyện ngắn này được độc giả yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên
viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng trở nên quen thuộc
với bạn đọc. Tháng 6 – 1935, khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” ra đời, sáng
tác của Nguyễn Công Hoan đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình.. Tập Kép Tư Bền đã mở đầu cho
trào lưu văn học tả chân xã hội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội.. Với
Nguyễn Công Hoan, Kép Tư Bền có thể xem là mốc đánh dấu trong đời văn
chương Ông viết: “ việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng
tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi được nghề văn"
[35, tr.118].
Tập truyện với nghệ thuật độc đáo mới lạ, đã thu hút được đông đảo bạn
đọc trong cả nước, Họ chú tâm nhiều hơn đến những tác phẩm hiện thực của
Nguyễn Công Hoan. Năm đó Kép Tư Bền là tập truyện được đánh giá hay
nhất, được mười tám tờ báo Bắc, Trung, Nam viết bài khen ngợi và trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của
Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích phái nghệ thuật vị nghệ
thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thì Hải
Triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái Nghệ
thuật vị nhân sinh đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến Hải Triều có viết: “
Cái chủ trương Nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện
bằng những bức tranh linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn
Công Hoan”[66, tr.64]
Sau khi tập truyện Kép Tư Bền ra đời, Thiếu Sơn đã xếp Nguyễn Công
Hoan và Tam Lang ở cùng một phái " tả chân xã hội" và cho rằng: " Cũng như
Tam Lang, tác giả của Kép Tư Bền ưa nói đến những bề trái của xã hội, ưa
phanh phui, bày tỏ những cái hèn kém, xấu xa gian tà, độc ác của người đời"
và cuối cùng tác giả đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả
(...) ". Cái đặc sắc của ông Hoan là ỏ chỗ biết quan sát những cái gì chung
quanh mình, biết kiếm ra những câu truyện tức cười, biết vẽ người bằng
những nét ngộ nghĩnh thần tình, viết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lý thú
và biết kết cấu thành những tấn bi hài kịch (...) còn nói về cái tài vẽ người của
ông thì thật là tuyệt diệu, có lẽ không thua gì những Carcteres và Paraits của
La Bruyere" [71, tr.441- 442].
Trần Hạc Đình khi nhận xét về “Kép Tư Bền”, qua nghệ thuật khắc hoạ
tính cách nhân vật có viết "Ông ưa tả , ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của
cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Hạng người này có
gặp ở đời, ta thường lầm vì cái bề ngoài mà phải kính trọng nể nang họ” và
tác giả kết luận “Nhà văn ở đây vô tình lại có cái đau đớn, khổ sở lầm than
của hạng người cùng đinh nghèo khổ và cái giả trá xấu xa bất lương của bọn
quyền quý trưởng giả, nhà văn đã nhận thấy rằng: “cái xã hội hiện thời đầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
rẫy sự ô trọc, giả dối lại xây lên trên mọi sự bất bình, là một xã hội cần phải
đạp đổ”” [17, tr.40].
Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc
Phan đã nhận định : “Ông miêu tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi
ông tả những ý nghĩ của họ nhất là những điều u uất của họ thì không bao giờ
ông đả động, bao giờ cũng đặt họ vào một khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo
hay phong tục mà họ đã " ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của họ”
[64, tr.1078]
Trên đây là những ý kiến đánh giá và phê bình về thế giới nhân vật được
miêu tả, khắc hoạ trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan trước năm 1945. Sau
năm 1945 các nhà nghiên cứu đi vào khai thác sâu hơn về thế giới nhân vật
trong truyện ngắn của ông và đi đến những ý kiến thống nhất về nghệ thuật
mô tả nhân vật, xây dựng tính cách nhân vật, chân dung nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan.
Nhóm tác giả trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam có nhận xét
về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật như sau: " ông có sở trường về cách mô tả tư
cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn
hãnh tiến giầu có, sang trọng và khinh người" [ 9, tr.101].
Nói về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan qua thủ pháp
nghệ thuật trào phúng, Trương Chính lại cho rằng: "cách vẽ phóng đai, cách
vẽ biếm hoạ của nghệ thuật gây cười... cách tập trung tất cả những cái xấu về
hình thức cũng như về tư tưởng vào nhân vật phản diện không phải là cách
sáng tạo điển hình. Cách đó sẽ làm cho nhân vật kỳ dị, méo mó, không thật.
Bệnh công thức, bệnh sơ lược bắt đầu từ đây chứ còn từ đâu nữa" [8, tr.169]
Tại cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định:
"Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú,
ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực, những mâu thuẫn, những cảnh tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
trái và phản nhau…. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới những
những kẻ khốn khổ đáng thương. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan người
đọc như được trực tiếp sống giữa cái xã hội khốn cùng của những con người
dưới đáy, những thói hư tật xấu của đám thanh niên tiểu tư sản thành thị chạy
theo lối sống "Âu hoá". Hoặc “khi nhân vật ông miêu tả vừa là kẻ có tiền, có
quyền vừa có nhân cách và hành động trái ngược với thứ đạo đức ông ưa, thì
ông lên án bằng cả lý trí và tình cảm. Tiếng cười đả kích của ông sảng khoái,
nhân vật của ông sống, tác phẩm của ông thành công” [75, tr.222].
Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học - tập 2 đánh giá về nghệ
thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Mỗi nhân vật nhà
văn thường chỉ nêu lên một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động ngôn
ngữ, tình huống nào đó (...). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực, không
sinh động. Có thể nói trái lại, chỉ bằng vài nét vẽ, nhà văn đã phác ra được
một bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ yếu
nổi bật, phù hợp với bản chất xã hội nhân vật" [39, tr.56].
Vũ Ngọc Khánh trong Thơ văn trào phúng Việt Nam , có viết về thủ pháp
nghệ thuật, cách mô tả nhân vật của Nguyễn Công Hoan như sau: "Thủ pháp
quen thuộc và độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối
tượng trở nên méo mó hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ
hơn" [38, tr.375].
Nhóm Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu Trong cuốn Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời 1900 - 1930 nhận xét về ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, cho rằng: "Đọc ông, độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn
ngữ của tác giả đâu là ngôn ngữ nhân vật và mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ
của riêng mình. Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và
ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành" [13, tr.386]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam đã nhận xét như sau: “Với số lượng khá lớn như vậy… Nguyễn Công
Hoan đã hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết
trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư
sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,
các nghệ sĩ, tư sản, các nhà buôn, nha thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường
hào,nghị viên, công chức, học sinh đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị
bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…từ các giai cấp bị bóc lột, các giai cấp
thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một
xã hội hết sức phức tạp”. “Quả thật, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có
tài xây dựng nhân vật phản diện (...) việc xây dựng nhân vật phản diện cho
phép nhà văn được tô đậm khuếch ®¹i những nét tiêu biểu” [14, tr.351]
Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức
Hạnh, với những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, bà đã chỉ ra được
những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Khi nhận
xét về cách miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, bà
viết: “Cách miêu tả nhân vật trong sự đối lập giữa hai sự vật bản chất khác
nhau, giữa bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức..." [28, tr.58]
Nhận xét về chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,
tác giả Hoàng Anh trong Văn tập 39 khẳng định: "Những chân dung Nguyễn
Công Hoan vẽ nên là những ký hoạ hoặc biếm hoạ linh hoạt, không chỉ đặc tả
tính cách của từng loại nhân vật qua cái thần của họ, mà xếp bên cạnh nhau
còn hiện lên lồ lộ bức tranh toàn cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến,
mặc dù chúng cố tình che đậy, giấu giếm sau tấm phông loè loẹt, mỹ miều"
[67, tr.54]
Nhìn dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử nhận xét: "Con người
trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là con người bị tha hoá,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
vật hoá, sống và hoạt động hầu như phi nhân tính. Thế giới truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan là thế giới làm trò, nhân vật là những kẻ làm trò”
[21, tr.142]
Những tổng hợp ý kiến trên, một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Công Hoan trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một mặt đã ít nhiều
chú ý đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Từ những
ý kiến đó đã gợi ý cho chúng tôi khi thực hiện đề tài.
2.2. A.Sekhov và truyện ngắn
Nhà văn lão thành Nga Grigôrôvich là người đầu tiên có công phát hiện
và đưa ra ý kiến đánh giá mang tính dự báo về tài năng nghệ thuật độc đáo
của Sekhov. Đồng thời ông còn khích lệ cổ vũ và xác định ưu thế vượt trội
của tác giả trong thể loại văn học này: “Tôi rất kinh ngạc về sự độc đáo của
các chi tiết trong truyện, và nhất là tính trung thực, chân xác sâu sắc trong
việc mô tả các nhân vật và cả thiên nhiên nữa (...), anh đã có khả năng phân
tích nội tâm rất sâu, cả tài tả cảnh điêu luyện” [20, tr.161-162]
Yêu mến tài năng nghệ thuật của nhà văn Sekhov, đại văn hào Nga
L.Tonxtoi không chỉ coi ông như một người kế tục và thừa hưởng đầy đủ
truyền thống văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn là người cách
tân của văn học Nga. “Điều chủ yếu là bao giờ Sekhov cũng chân thành, và
đó là phẩm chất cao quý của nhà văn, nhờ đó mà Sekhov đã sáng tạo ra được
những hình thức viết mới, hoàn toàn mới” [20, tr.330] hoặc “đây là một viên
ngọc, một ngôn từ tuyệt diệu. Cả Tuôcghênhep và Gônsarôp, cả tôi không ai
viết được như ông ta” [58, tr.41]. Nhận xét này có ý nghĩa định hướng và cổ
vũ A.sêkhov vững tin sáng tạo.
G.N. Pospelôp với chuyên luận “Dẫn luận nghiên cứu văn học”, khi xây
dựng lý thuyết về cốt truyện cũng đánh giá quan trọng về những cách tân
nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn: “ Cơ sở của truyện không phải là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
các sự kiện đột biến, mà là những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân
vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, sự cảm thụ và lý giải các hiện
tượng và sự thực ngày càng mới, những sự bừng sáng của trí tuệ, các bước
chuyển hoá từ quan niệm hư ảo đến cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc có tính phê
phán đối với thế giới, hoặc là ngược lại, ngày càng phụ thuộc vào sức ỳ của
cái tầm thường”[63, tr.42]
M.Gorki là người rất say mê Sekhov. Ông đã nhận xét: “Sự tầm thường
ti tiện là kẻ thù của anh, suốt đời anh đã đấu tranh với nó, bắt nó hiện nguyên
hình nghiêm khắc qua ngòi bút của anh, anh biết moi móc ra vết mốc meo hôi
hám của nó ở ngay chỗ mà mới nhìn tưởng như mọi vật đều sắp đặt khéo léo
và có vẻ choáng lộn nữa” [59, tr.36]. Đồng thời ông cũng khẳng định tinh
thần nhân đạo trong tác phẩm Sekhov: “Mỗi một truyện của Sekhov đưa ra, là
nhấn sâu thêm vào cái điểm dũng cảm và yêu thương cuộc đời, nó là một
điểm rất quý và rất cần cho chúng ta”… “ Mỗi một truyện ngắn là một cái
thảm kịch nhỏ, nó cảm người một cách sâu sắc” [78, tr.258]
M.Gorki đã có những nhận xét chân thành và sâu sắc về tính hiện thực
trong sáng tác của Sêkhov: "Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như
người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sekhov đúng như họ sống trong
hiện thực. Trong các truyện ngắn của Sekhov, không hề có một cái gì mà lại
không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông,
chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, “không có trên đời này”, tuy có thể
là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông không bao giờ tô vẽ cho con
người...” [22, tr.5]
Nhận xét về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật của Sekhov M. Gorki
viết: “Trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ
của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với
những lạc thú trần gian; đó là nhưng kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối t ăm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
trước cuộc sống, họ quằn quại trong một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời
lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm thấy trong hiện tại không có chỗ cho
mình đứng...” [22, tr.5]
Là đại diện xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga cuối thế kỷ
XIX Sekhov được giới thiệu ở Việt Nam khá sớm. Nhiều nhà văn Vi ệt Nam
say mê Sekhov như Nguyễn Tuân, Nam Cao. Những truyện ngắn đầu tiên của
Sekhov được dịch ra tiếng Việt từ năm 1943. Nguyễn Tuân đã có bài nghiên
cứu đầu tiên về ông. Đến nay ở Việt Nam A.Sêkhov được coi là một tài năng
đặc biệt, được hâm mộ và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu ở tập truyện ngắn Sekhov, đã
nhận xét: “Trong sáng tác, Sekhov không chen vào mà giải quyết vấn đề,
hoặc gián tiếp giải quyết bằng nhân vật này khác. Sekhov cho ta thấy, cho ta
xem hết ông nọ bà kia, cho ta gặp nhưng thằng, những con người và như ngụ
ý hỏi lại những người đồng điệu chúng ta rằng: “ Trò đời là vậy đó? Vậy thì
có nên để nó tồn tại thế không? Có nên bắt chước họ sống một cách tồi tàn,
bậy bạ như thế không?” [77, tr.14]
Nhấn mạnh cái tính chất ban đầu, tính chất khởi điểm trong cách miêu tả
nhân vật của Sekhov, Hoàng Xuân Nhị nhận xét: “lần đầu tiên trong văn học
Nga và thế giới chúng ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào
biểu hiện những con người nhìn bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện
cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau thương của họ”[ 65, tr.79]
Dịch giả Đỗ Khánh Hoan cho rằng: Thế giới nhân vật Sekhov "là một
nhân loại nho nhỏ", qua đó ông nhấn mạnh tính phức tạp của những "mảnh
đời" những "mảng sống" của đủ mọi hạng người trong xã hội. Nhà nghiên
cứu Phan Hồng Giang đã đưa ra những nhận định để khái quát số lượng nhân
vật đông đảo, nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov "đó là những cảnh
tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người, chải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
chuốt và bê tha… nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một thế giới trên cái
đường phố tưởng tượng kia một thế giới thu nhỏ dường như thật hơn, cô đọng
hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn" [20, tr.12]
Năm 2004 ở Việt Nam đã có một cuộc hội thảo kh oa học kỉ niện 100
năm ngày mất Sekhov. Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến về nhân vật trong
truyện ngắn Sekhov.
Đi sâu tìm tòi những cái mới trong truyện ngắn Sekhov, Nguyễn Hải Hà
đã chú trọng khám phá “Sekhov không trực tiếp miêu tả nhân vật như
F.Dostoievski, L.Tonxtoi nhưng ông vẫn quan tâm đến thể hiện tâm lý theo
cách riêng của mình, qua hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và qua
chân dung nữa". Đồng thời chú ý đến bút pháp nghệ thuật trong miêu tả chân
dung của Sekhov, ông viết: "Ông rất chú trọng đến chân dung nhân vật, nắm
bắt tâm lý của nó". [22, tr.6]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hải Hà trong bài Cái mới
trong truyện ngắn Sekhov, đã chỉ ra thói tật nô lệ của những nhân vật trong
truyện ngắn của Sekhov: “Có thể nói thói nô lệ ngấn sâu và đầu độc người
lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quan nhân, thương gia, sinh
viên, nông dân, “ những con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm
người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những
kẻ nô lệ”[22, tr.5]. Sekhov muốn giúp con người “chắt lọc, loại bỏ khỏi con
người mình từng giọt nô lệ”.
Phạm Xuân Nguyên cũng gặp gỡ Nguyễn Hải Hà khi khẳng định tài
năng của Sekhov trong miêu tả tâm lý nhân vật "... Sekhov có biệt tài khám
phá những khả năng kinh ngạc của bản tính con người, sự phân tích tâm lý
của ông rất sâu sắc và linh động”[57, tr.6].
Trong bài Sekhov - Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, Nguyễn Trường
Lịch lại chú ý tới giọng điệu, điểm nhìn của người thuật truyện như: “lối dẫn
truyện khách quan, sự vắng mặt cả người thuật truyện. Ông đã chứng minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
cho các luận điểm của mình bằng các tác phẩm như Người đàn bà có con
chó nhỏ, Hai kẻ thù....” [44, tr.89]
Đến với thế giới nhân vật đông đảo của Sekhov nhiều nhà nghiên cứu
khẳng định lần đầu tiên trong văn học những con người bình thường trong
cuộc sống chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Sekhov…. Nói cách
khác, có thể khẳng định "gu" thẩm mĩ hay cái tạng của Sekhov là "nhà văn
của đời thường”.
Như vậy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Sekhov là nhà văn của
tầng lớp bình dân, nhân vật của ông chỉ loay hoay với cuộc sống đời thường
với những lo lắng tủn mủn về vật chất, những biến động tinh thần không lớn
lắm trong từng nhân vật. Tuy nhiên, với tài năng của mình, thông qua cái thế
giới nhân vật sám xịt ấy, Sekhov đã phản ánh và nói lên được những vấn đề
nóng bỏng của xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ.
Với một loạt bài viết của mình, Đào Tuấn Ảnh là một trong những người
mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu Sekhov theo lối so sánh loại hình. So
sánh truyện ngắn của Sekhov với truyện ngắn của Nam Cao nhà nghiên cứu
đã chỉ ra những tương đồng loại hình trong sáng tác của hai nhà văn thể hiện
ở kiểu truyện “không cốt truyện” , ở nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện,
ngôi kể, điểm nhìn…), ở nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Từ những so
sánh nêu trên nhà nghiên cứu đã hướng tới kết luận về một “chủ nghĩa hiện
thực kiểu mới” mà người mở đầu trong văn học Nga giao thời thế kỉ XIX- XX là
Sekhov, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945, là nhà văn Nam Cao.
Tóm lại: Từ những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy:
- Về vị trí, vai trò của hai nhà văn viết truyện ngắn Sêkhov và Nguyễn
Công Hoan, hầu hết các ý kiến đều nhất trí khẳng định tài năng cùng những
đóng góp của họ cho văn học nước nhà và văn học thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
- Các ý kiến đó đều thống nhất khẳng định thế giới nhân vật phong phú,
đa dạng, độc đáo trong truyện ngắn của hai nhà văn.
- Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa tập trung phân tích thế giới nhân
vật của hai nhà văn, nhất là đặt nó trong hệ thống tiếp cận thi pháp học. Hơn
nữa, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu và so sánh thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov.
- Mặc dù vậy, những ý kiến chúng tôi thu thập trên đều là những gợi
mở, định hướng tốt cho chúng tôi khi lựa chọn và thực hiện đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu
trong tập Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội 2005 và những truyện ngắn trong Truyện ngắn Sekhov, NXB Văn
học 1978, tập I, II, để khảo sát và trích dẫn. Số lượng tác phẩm ở hai tập
truyện ngắn của hai nhà văn rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ chọn ở mỗi nhà
văn 30 tác phẩm để khảo sát và phân tích . Trước hết, chúng tôi căn cứ vào
yêu cầu về dung lượng của truyện ngắn để chọn tác phẩm. Căn cứ tiếp theo để
chúng tôi lựa chọn là tính tiêu biểu của tác phẩm đã được khẳng định theo
thời gian và quá trình nghiên cứu, tiếp nhận. Đối tượng khảo sát của chúng tôi
là nhân vật và cách thức tổ chức hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
công Hoan (trước năm 1945) và truyện ngắn Sekhov (tập I, II do Phan Hồng
Giang và Cao Xuân Hạo dịch).
3.2. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sekhov có thể
có nhiều vấn đề nghiên cứu như : nghệ thuật kết cấu truyện, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, thời - không gian nghệ thuật…, nhưng chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
truyện ngắn Sekhov trên hai phương diện hình thức và nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
3.3. Từ việc khám phá cách thức tổ chức hệ thống nhân vật, chúng tôi
xem xét hai nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế
kỉ XX, xã hội Nga cuối thế kỉ XIX như thế nào, với những phương thức biểu
hiện nào.
4 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: nhằm nghiên cứu so sánh truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan và A.Sêkhov trong tính chỉnh thể
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học nhằm giải quyết nhiệm vụ đề tài
đặt ra. Phương pháp này cho phép không chỉ dừng lại xem xét tác phẩm nói
lên cái gì mà phải xem còn được nói như thế nào. Trên cơ sở phương pháp
nghiên cứu này chúng tôi sẽ tìm hiểu thông qua việc tổ chức hệ thống nhân
vật trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Công Hoan và Sekhov đã cắt
nghĩa những vấn đề gì của xã hội đương thời.
4.3. Phương pháp so sánh: giúp cho chúng tôi chỉ ra những nét tương
đồng và khác biệt của hai nhà văn, ở hai quốc gia khác nhau trong những điều
kiện lịch sử (dựa trên phông văn hoá khác nhau, lịch đại, lịch sử khác nhau).
Sử dụng phương pháp loại hình nhằm so sánh truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan và Sekhov trên một cấp độ và bình diện cụ thể, để từ đó chỉ ra những
nét tương đồng mang tính phổ quát và cả những nét khác biệt mang tính
đặc thù.
4.4. Phương pháp phân tích tổng h ợp: giúp chúng tôi đi vào phân tích
nhân vật cụ thể nhằm thuyết minh cho những luận điểm, từ đó quy nạp, tổng
hợp lại vấn đề.
5. Những đóng góp mới của luận văn
So sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn có “cơ địa
sáng tác” khác nhau này, chúng tôi muốn hướng tới những tương đồng về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
loại hình nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đồng thời chỉ ra những điểm
độc đáo trong phương thức xây dựng thế giới nhân vật của từng nhà văn, qua
đó xác định những đóng góp của hai nhà văn đối với chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam, văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung.
Thực hiện được điều này, luận văn bước đầu đóng góp thêm vào việc tìm
kiếm những cách thức tiếp cận mới sáng tác của Nguyễn Công Hoan, nhằm
phát hiện những giá trị về nội dung, tư tưởng nghệ thuật đang còn tiềm ẩn
trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Điều này bổ sung thêm một cách “đọc
hiểu” hiện tượng văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình
văn học thế kỉ XX ở Việt Nam.
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov.
Chương 2: Nhân vật - những dị tật của xã hội trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và Sekhov.
Chương 3: Nhân vật - những nạn nhân bi thảm trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan và Sekhov.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Chương 1:
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN A.SEKHOV
1.1. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
1.1.1. Nguyễn Công Hoan và thời đại
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) được xem là một trong những đại thụ
của văn xuôi Việt Nam, là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học
Việt Nam.
Được sinh ra trong một gia đình nho học thất thế, cuộc sống của anh em
Nguyễn Công Hoan đã trải ra trong khó khăn, vất vả. Nhà nghèo, đông anh
em, Nguyễn Công Hoan phải đến ở với bác ruột - một Phó bảng, làm Tri
huyện. Những năm tháng sống ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan chứng kiến rất
nhiều chuyện xung quanh mối quan hệ quan - dân. Chuyện nhà quan, chuyện
làm quan đã để lại những ấn tượng sâu sắc, làm thành ý thức khám phá thời
cuộc ở Nguyễn Công Hoan.
Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường sư phạm, bắt đầu cuộc
sống tự lập của một ông giáo tiểu học. Cuộc đời dạy học của ông không mấy
suôn sẻ. Vốn tinh tường, sắc sảo, trung thực, khảng khái, Nguyễn Công Hoan
không được cấp trên vừa ý. Ông bị chuyển chỗ dạy nhiều nơi. Thị xã Hải
Dương, Thị xã Lao Cai, Thị xã Nam Định, Trà cổ… là những nơi Nguyễn
Công Hoan bị điều đến và dạy học. Mỗi nơi, ông và gia đình không ở quá
được 2 năm. Vất vả, long đong, nhưng bù lại, ông có điều kiện đi nhiều nơi,
biết và khám phá được nhiều điều.
Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu” (1920) của
Nguyễn Công Hoan ra đời. Năm 20 tuổi, tập truyện ngắn “Kiếp hồng nhan”
ra mắt độc giả. Cũng như “Quyết chí phiêu lưu”, tập “Kiếp hồng nhan”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
không được độc giả đón đợi nhiều. Năm 1935, truyện ngắn “Kép tư bền” ra
đời, gây một tiếng vang lớn trên văn đàn, khẳng định tài năng nghệ thuật, mở
ra một giai đoạn mới, sung sức trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có thể
coi, sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan được bắt đầu từ những năm
20 và thực sự được khẳng định ở những năm 30 của thế kỷ XX, với thể loại
truyện ngắn. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn thành công nhất của Nguyễn
Công Hoan được tính từ 1920 đến 1945. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị,
xã hội Việt Nam rất phức tạp, rối ren với tính chất thực dân nửa phong kiến.
Nhà nước phong kiến già nua, lỗi thời, phản động, chế độ thực dân tàn bạo
hiện hữu và cùng với nó là sự đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân
dân, là phong trào Âu hóa rầm rộ, lố lăng…, sự vận động của phong trào yêu
nước ở các sỹ phu, những manh nha đầu tiên của các tổ chức cộng sản v…v…
là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, làm biến
đổi đời số._.ng tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, khoa bảng, Nguyễn Công
Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc hệ tư tưởng phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của
Nguyễn Công Hoan là tư tưởng yêu nước, yêu con người. Con gái ông - Nhà
văn Lê Minh - khẳng định: “Cha tôi trước khi là nhà văn đã là một nhà giáo
yêu nước” [81]. Sống trong thời thế rối ren, đảo lộn đó, ông ghi nhận và đồng
tình với tâm lý bất mãn của tầng lớp quan lại thất thế với xã hội nửa Tây, nửa
Tầu nhố nhăng. Ông cũng không chấp nhận, thậm chí cảm thấy bị xúc phạm
bởi sự xu nịnh, luồn cúi của bọn quan lại “thức thời”, lũ “liếm gót giầy cho
Tây”. Ông khinh bỉ bọn hãnh tiến, bọn tư sản chạy theo lối sống Âu hóa đồi
bại. Ông đau đớn trước sự biến đổi khôn lường của những thước đo giá trị cho
những vấn đề, vốn được coi là thiêng liêng. Những khái niệm nghĩa: cha -
con, tình chồng - vợ, bạn bè… đã được thay đổi nội hàm, được đem ra hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
xử theo kiểu xu thời mẫn thế. Xã hội, nhất là nơi thành thị, nhan nhản những
rởm đời, học đòi, đua chen, bẩn thỉu.
Thời đại, hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống… đã tạo nên ở Nguyễn
Công Hoan một cái nhìn sắc sảo. Ông viết: “Do gia đình tôi là một gia đình
quan lại lỗi thời lép vế, hằn học với bọn quan lại đương lên, ôm chân bọn đế
quốc để có thể có tiền, bản thân tôi làm cái nghề bị bạc đãi là cái nghề dạy
học, lại làm thêm nghề viết tiểu thuyết kiểu tôi, là nghề mà bọn thống trị
chẳng ưa tý nào. Tất cả những cái ấy giáo dục cho tôi nhìn đế quốc, phong
kiến, tư sản bằng con mắt căm thù” [35, tr.282].
Nguyễn Công Hoan là người quan tâm nhiều đến thời cuộc với những
biến đổi khi ồn ào, dữ dội, lúc bình lặng, tinh vi. Không một câu chuyện nào
ngoài đời, không một cảnh tượng nào bất chợt xuất hiện…, lại không được
ông lưu giữ. Một gánh tuồng với những đào kép son phấn lòe loẹt diễu qua
phố lúc chiều muộn, một mẩu tin trên báo đọc hàng ngày, có thể thoáng qua,
vô nghĩa đối với người khác, nhưng với ông lại có giá trị và ông không bỏ
qua. Với lòng yêu nước, với cái nhìn sắc sảo, tỉnh táo, Nguyễn Công Hoan
quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch. Ông từng tự bạch : “Tôi là một
người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế nhạo.
Sống dưới chế dộ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa
bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm
ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế giễu, mỉa mai để
khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả đối với tôi chỉ là
trò cười. Vì vậy tôi hay pha trò cười” [35, tr.367].
Cái nhìn thời cuộc, xã hội thuộc địa thực dân phong kiến này của
Nguyễn Công Hoan gặp gỡ cái nhìn của Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng
cũng nhìn thấy sự quay cuồng, hỗn loạn, điên đảo của “xã hội chó đểu”. Ông
cũng phanh phui thực chất sự vô luân lý, vô nghĩa lý của xã hội, khi bố con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
trở thành kẻ thù, vợ chồng hóa ra anh em, nghèo đói trở thành triệu phú, mạt
hạng trở thành vĩ nhân. Có thể nói, cả Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng
Phụng đều nhìn đời là một trò diễn sân khấu đầy bi hài. Bằng cách của riêng
mình, mỗi ông đã giải phẫu những sinh thể quái dị ấy, “xé toạc mọi trạng thái
đang bị che giấu”. Không chỉ nhìn đời bằng con mắt lạnh lùng, kết hợp khôi
hài để chế giễu những trò diễn sân khấu, Nguyễn Công Hoan còn nhìn đời
bằng con mắt trắc ẩn, đầy cảm thông, đau xót. Là một người nhân hậu, sống ở
thời kỳ đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than, đói nghèo, loạn lạc. Ông luôn
khuyên, dạy các con: “Con người sống phải biết căm thù bọn bóc lột và yêu
thương những người cùng khổ [81]
Cái nhìn chân thực, cảm thông đối với những kiếp lầm than như hệ quả
tất yếu của cái nhìn đời là một trò diễn và không hề mâu thuẫn, trái lại, đó là
cái nhìn hiện thực hết sức tinh nhạy, tỉnh táo. Có thể nói, quan điểm đạo đức
phong kiến, dẫu có sâu sắc, cũng không là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy
nhất và của Nguyễn Công Hoan. Từ cái nhìn hiện thực nhiều chiều đó,
Nguyễn Công Hoan đã phát hiện mâu thuẫn giầu - nghèo trong xã hội. Đó là
“nỗi ám ảnh thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan” [37,tr.359].
Ý thức nghệ thuật đã chi phối Nguyễn Công Hoan trong sáng tác chính là
“yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống” [35,tr.236]. Ông
luôn đứng về phía những con người nghèo khổ, bần cùng, bị ức hiếp, bóc lột
để lên án bọn giầu có, quyền thế, bất nhân, bất nghĩa. Đó chính là cảm quan
hiện thực khỏe khoắn và tiến bộ cuả ông. Trong thời của ông, khi người ta
đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, thì Nguyễn Công Hoan dứt khoát chọn
con đường hiện thực phê phán. Sức mạnh thuyết phục của cách thức phản ánh
này là bám rất chặt và o đời sống, nhìn thẳng vào nh÷ng vấn đề của xã hội
đương thời, công khai đả kích, phê phán không thương tiếc những thói hư tật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
xấu, những cái ác, thói rởm đời và bênh vực những con người bé nhỏ, cơ cực.
Mục đích sáng tác mà Nguyễn Công Hoan nhằm tới là “(…) yêu quan ngày
xưa, so sánh với quan ngày nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói”.
Để người đọc nhận biết, hiểu được điều mình nói ra, Nguyễn Công Hoan
chú ý khai thác đề tài trong xã hội hiện hành và tìm tới hình thức t ruyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ,
với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc” [35, tr.301]. Mỗi truyện ngắn “chỉ
có thể tóm tắt bằng một câu, nêu lên một ý” [35, tr.307].
Từ những sự có thật trong cuộc sống, tìm cho nó được hình thức Nguyễn
Công Hoan còn rất chú ý tới kỹ thuật viết để sao cho thích hợp với ngòi bút
trào phúng của mình, đồng thời làm cho truyện nổi rõ tư tưởng, chủ đề. Quan
niệm của Nguyễn Công Hoan về một truyện hay là “dễ hiểu. Người đọc phải
nhận ra được, phải hiểu tác giả định nói cái gì?” [35, tr.132]. Theo Nguyễn
Công Hoan để người đọc hiểu được truyện, nhận thấy được từ truyện những
cái đang có rất nhiều ở ngoài đời, điều căn bản mà nhà văn phải làm là biết sử
dụng chi tiết, phải biết “bớt cái thừa, thêm cái thiếu, nhấn mạnh cái cần ở
trong sự việc có thật” [35, tr.315]. Nguyễn Công Hoan sử dụng chi tiết với tư
cách là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để p hản ánh cuộc sống
với tất cả sự rộng lớn bên trong.
Tóm lại, thời đại, hoàn cảnh xã hội cụ thể, điều kiện gia đình, đã tác
động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát triển tài năng của Nguyễn Công
Hoan. Hiện thực cuộc sống của một trí thức yêu nước đã trở thành nguồn
nguyên liệu quý giá để Nguyễn Công Hoan kiến tạo nên hệ thống hình tượng
trong sáng tác của mình. Những quan niệm về cuộc đời, về con người đã giúp
nhà văn tìm hiểu, khám phá hiện thực, phản ánh hiện thực một cách sống
động trong tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
1.1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Mỗi tác phẩm nghệ thuật hàm chứa một thế giới nghệ thuật do nhà văn
sáng tạo ra và nó mang tính chỉnh thể. Đó là toàn bộ những yếu tố hợp thành,
cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nên
giá trị thẩm mỹ, tư tưởng và nội dung cho tác phẩm. Đối tượng phản ánh của
thế giới nghệ thuật là hiện thực khách quan. Qua thế giới nghệ thuật, nhà văn
bộc lộ quan niệm về thế giới, con người và cách cắt nghĩa về thế giới đó, con
người đó. Tính chỉnh thể bao hàm cả cách thức tổ chức các yếu tố cấu thành
thế giới nghệ thuật, mang đậm tính sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới nghệ
thuật, thế giới nhân vật được coi là thành tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung
tâm. “Có bao nhiêu nhà văn sẽ có bấy nhiêu thế giới nhân vật riêng biệt”
[46,tr.700]. Tạo nên thế giới nhân vật trong tác phẩm là nhân vật và hệ thống
nhân vật. Nhân vật là trung tâm của nhận thức, là nơi tập trung tư tưởng nghệ
thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Từ cái nhìn của tác giả, nhân vật
được khắc họa, miêu tả ở nhiều góc độ và thực hiện những chức năng khác
nhau. Vì vậy, đọc tác phẩm, người đọc tiếp xúc trực tiếp với một hệ thống
hình tượng nhân vật và thông qua đó, nắm bắt được những vấn đề nhà văn đặt
ra, giải quyết.
Thế giới nhân vật được cấu thành bởi nhiều kiểu loại nhân vật với những
đặc điểm tÝnh cách, số phận khác nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo
thành một hệ thống, thực hiện nhiệm vụ chuyển tải nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Thế giới nhân vật cũng tạo cho tác phẩm sự độc đáo - dấu ấn sáng tạo
của mỗi cá nhân. Từ sự phong phú của thế giới nhân vật người ta có thể phân
loại nhân vật dựa trên những tiêu chí khác nhau. Dựa vào vị trí, vai trò của
nhân vật trong tổ chức tác phẩm, có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật
trung tâm. Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật, có nhân vật tư tưởng,
nhân vật tính cách, nhân vật loại hình và nhân vật chức năng. Tuy nhiên, sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dù là kiểu nhân vật nào, thì nhân vật
khi xuất hiện tr ong tác phẩm, cũng đều là kết quả sự lựa chọn của tác giả,
nhằm đạt đến hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Đó chính là đối tượng miêu tả mà
nhà văn tìm đến và mục đích của việc tổ chức đối tượng đó. Từ những vấn đề
lý luận trên, tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan
và Sekhov, chúng tôi dựa trên tiêu chí chung nhất: đối tượng miêu tả và mục
đích phản ánh. Với tiêu chí này, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống nhân
vật trong truyện ngắn. Chúng tôi tiếp tục xem xét, các nhà văn đã cắt nghĩa
những vấn đề thời đại như thế nào qua hệ thống nhân vật đó.
Đề tài và những vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan đề cập trong
truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Xuyên suốt các tác phẩm là bức tranh đời
sống, hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu XX phức tạp, đảo điên. Bức
tranh đó được hiện ra với hai mảng mầu đối lập. Một bên là những quan lại,
cường hào, tư sản ăn trên, ngồi trốc. Một bên là những số phận nghèo hèn,
lầm than, khổ nhục.
Khảo sát 30 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi có kết quả sau:
TT Tên tác phẩm
Nhân vật
Ghi
chú
Nhân vật là những
dị tật của Xã hội
Nhân vật là những
nạn nhân bi thảm
của xã hội
1 Răng con chó nhà tư sản X
2 Oẳn tà roằn X
3 Hai thằng khốn nạn X
4 Người ngựa ngựa người X
5 Gói đồ nữ trang X
6 Thằng ăn cắp X
7 Báo hiếu trả nghĩa cha X
8 Báo hiếu trả nghĩa mẹ X
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
9 Cụ Chánh Bá mất giầy X
10 Mất cái ví X
11 Kép tư bền X
12 Thanh! Dạ! X
13 Đàn bà là giống yếu X
14 Một tấm gương sáng X
15 Cái vốn để sinh nhai X
16 Nhân tài X
17 Xuất giá tòng phu X
18 Được chuyến khách X
19 Quyền chủ X
20 Phành phạch X
21 Chiếc quan tài X
22 Đồng hào có ma X
23 Thằng ăn cướp X
24 Thịt người chết X
25 Sáu mạng người X
26 Sáng, chị phu mỏ X
27 Hé! He! He! X
28 Công dụng của cái miệng X
29 Người thứ ba X
30 Bữa…no đòn X
Tổng số 19 11
Kết quả khảo sát cho chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến rõ rệt. Tuyến
một gồm những nhân vật thuộc lớp quan lại, địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản
mới lên. Tuyến này chiếm tỷ lệ tương đối nhiều (19/30) trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, đây là những nhân vật quen thuộc và là
những nhân vật xấu trong xã hội thuộc địa, phong kiến. Đó là bọn nhà giầu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
cậy quyền cậy thế mà ức hiếp người nghèo. Đó là bọn quan lại, địa chủ, tư
sản, tiểu tư sản với những nét nhơ bẩn cả về vật chất lẫn tinh thần. Loại người
này xuất hiện nhiều trong xã hội nhốn nháo, nửa Tây, nửa Ta, nửa Tầu.
Chúng là sản phẩm tấ t yếu của xã hội đó. Nguyễn Công Hoan đã đưa chúng
vào tác phẩm, tạo điều kiện cho chúng diễn đủ trò. Điều mà Nguyễn Công
Hoan nhìn thấy và muốn chỉ cho mọi người thấy là ở chỗ: xã hội đầy rẫy sự
bất công, lừa bịp, xấu xa, trơ trẽn, bẩn thỉu, nhưng, kẻ thống trị lại cố tìm mọi
cách để che đậy. Đưa chúng vào tác phẩm, Nguyễn Công Hoan phanh phui
những mâu thuẫn đó, phơi bầy những xấu xa, tàn bạo đó. Loại nhân vật này
xuất hiện dưới hai dạng thức. Một là bọn quan lại phong kiến, vô trách nhiệm,
“ăn bẩn” , bọn tư sản hãnh tiến ác độc. Đó là quan huyện, xuất hiện lúc là
Quan, lúc là Huyện Hinh, lúc là Tổng đốc Lê Thăng …; Đó là các cụ chánh
bá, lý trưởng…. Những điển hình này mang tính khái quát về lũ sâu mọt
(nhân danh nhà nước, đại diện nhà nước) chuyên đục kho ét, áp bức dân lành
với đủ mánh khóe, thủ đoạn. Đó là các ông chủ hãng xe hơi, ông chủ báo, nhà
tư sản… vô nhân tính, keo bẩn, độc ác. Hai là hệ thống nhân vật bị đồng tiền
chi phối mà trở nên mất nhân cách, vô liêm sỉ, mất lương tâm. Loại này xuất
hiện tương đối nhiều (10/19) truyện. Cuộc sống xã hội Việt Nam buổi giao
thời hiện ra với bao điều kệch cỡm, xa hoa, lố lăng, nhảm nhí. Thói đạo đức
giả, đểu cáng được phơi bầy trong một loạt các truyện như: “Mất cái ví”,
“Xuất giá tòng phu”…. Hình ảnh ông Tham bày trò mất ví để đuổi khéo cậu
ruột ra khỏi nhà khiến người đọc bật ra tiếng cười khinh miệt. Tiếp nhận hình
ảnh ông chủ hãng xe hơi đuổi mẹ già về quê ngay trong ngày làm giỗ, báo
hiếu cha, thì người đọc chỉ còn biết thở dài cho sự vô sỉ, vô lương tâm ... Và,
không còn gì để nói khi một quan Tham lấy luân thường đạo lý ra dạy vợ, bắt
vợ ngủ với quan trên để tiến thân ... Nguyễn Công Hoan đã tập trung phơi bầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
bản chất xấu xa của bọn này. Tiền, danh vọng với chúng là trên hết. Đó là căn
bệnh do xã hội sản sinh ra và nhà văn đã giải phẫu một cách kiên quyết.
Tuyến nhân vật thứ hai là những kiếp người nghèo khổ, bị áp chế, ức
hiếp. Tuyến này chiếm tỷ lệ (11/30) trên tổng số truyện ngắn. Họ là những
con người sống lay lắt trong xã hội Việt Nam ở cả thành thị lẫn nông thôn. Đó
là những anh phu kéo xe, kép hát, gái điếm… không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước
mắt, mà còn nhục nhã, khốn cùng (“Người ngựa ngựa người”, “Kép tư
bền”). Đó là những người nông dân do dốt nát mà bị ức hiếp (“Hai thằng
khốn nạn”, “Gánh khoai lang”, “Thịt người chết” ). Cái cách mà Nguyễn
Công Hoan sử dụng ở những truyện kiểu này là những phi lý trở thành có lý.
Người đọc tiếp nhận hiện thực ở góc độ vô lý nhất, bật ra tiếng cười chua xót,
cay đắng, đầy nước mắt và nhận thấy sự có lý hiển nhiên. Đó là “được đến chỗ
đau đớn của người đời, truyện như bịa chơi mà trò đời thường có”[37,tr. 412].
Tham gia vào tuyến nhân vật này còn là những nhân vật trẻ em
(“Thanh! Dạ”, “Giá ai cho cháu một hào”, “Thằng bé ăn mày”, “Quyền
chủ”…). Đó là những đứa bé đi ở, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày…. Chúng cũng bị
đánh đập, bóc lột như bất kỳ kẻ nghèo đói, cùng quẫn nào. Cuộc sống của
chúng là chuỗi dài đầy ải khủng khiếp. Chúng là thú vui của bọn nhà giầu
hợm hĩnh, ác độc. Sự góp mặt của những nhân vật trẻ em đã gia tăng sự
phong phú của những con người nghèo khổ, là những mảng màu bổ sung cho
bức tranh xã hội vốn đã xám xịt, càng xám xịt thêm.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn sáng tạo ra loại nhân vật đặc biệt:
nhân vật - đồ vật. Nhân vật hóa đồ vật là một thủ pháp các nhà trào phúng
thường sử dụng và khai thác triệt để khả năng phản ánh hiện thực của chúng.
Nói về cuộc sống khốn khổ của người dân bằng chính họ chưa đủ, Nguyễn
Công Hoan còn sử dụng đồ vật như nhân vật để làm tăng cái nghèo, cái bấp
bênh, cái khốn cùng của kiếp người (“Chiếc quan tài”).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Tóm lại, thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan thật
phong phú, đa dạng. Đó là một thế giới đông đúc với đủ hạng người, đủ các
thành phần. Tất cả từ quan lại, tư sản, đến me Tây, gái điếm, phu phen, nông
dân, kéo xe, ăn mày, từ người lớn đến trẻ con, từ sang trọng đến thấp hèn …
đều đang nhố nhăng, đi lại, nói cười trong truyện ngắn của ông. Thế giới nhân
vật ấy thật sinh động, góp phần thể hiện quan niệm của ông về cuộc đời, về
con người. Thế giới ấy cũng góp phần chứng minh cho nguyên lý: xã hội thế
nào thì con người thế ấy.
1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn A.Sekhov
1.2.1. A.Sekhov và thời đại
A.P.Sekhov (1860 -1904) là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn
học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Ông được sinh ra trong một
gia đình tiểu th ị d ân ở th ị trấn Tagan roc - một thành phố cảng cổ, một nơi
buôn bán sầm uất. Dòng họ Sekhov có tới năm đời là nô lệ. Đến đời ông nội
của Sekhov dòng họ mới chuộc được tự do. Thoát khỏi kiếp nô lệ, là người tự
do, nhưng cuộc sống của gia đình Sekhov vẫn rất chật vật. Họ sống trong sự
chắt bóp, dè sẻn, tằn tiện. Cuộc sống vất vả đã cho cha Sekhov - ông Peven
E.S. một bài học giáo dục đáng sợ và ông thực hiện nó với con cái. Cần phải
có quy củ trong cuộc sống; cần phải có luật lệ trong gia đình; cần phải nghiêm
khắc với con cái…. Vì thế, sinh hoạt trong gia đình Sekhov là thời gian biểu
bất di bất dịch. Sáng, lũ trẻ cùng bố mẹ đi lễ nhà thờ, về ăn qua quít, người
cha bán hàng. Trưa, đi lễ nhà thờ và tối đến, sau bữa ăn, Paven đọc báo cho cả
nhà nghe và ông sẽ không chịu nổi nếu ai đó tỏ vẻ không lắng nghe. Trước
khi đi ngủ, họ lại cầu nguyện. Bản thân Sekhov nhiều lần suýt bị đánh đòn, vì
đã lấy làm lạ, sao lại cứ phải cúi rạp, chạm trán xuống sàn nhà.
Có thể nói, tuổi thơ của anh em Sekhov trải qua trong nhàm chán, buồn
tẻ, sợ hãi. Cầu kinh, đi học, trông hàng, đòn roi ở nhà và đòn roi ở trường…,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
đó là vßng luẩn quẩn, tẻ nhạt mà họ phải chịu đựng. Khi đã trưởng thành,
Sekhov chua chát nhắc lại: “Thuở nhỏ, tôi không có thời thơ ấu…”.
Quyền lực, trật tự gia đình mà Peven muốn gây dựng, cuối cùng không
thực hiện được. Buôn bán khó khăn, vỡ nợ, phá sản, ông buộc phải trốn đi, để
lại gánh nặng cho Sekhov. Năm 1876, gia đình Sekhov thực sự phá sản, phải
chuyển đến Maxcơva. Đang học dở trung học, Sekhov ở lại Taganroc với cô
ruột. Cuộc sống khó khăn, nhờ sự giúp đỡ của bà cô, cộng với nghị lực của
bản thân, Sekhov đã vượt qua.
Cuộc sống “không có thời thơ ấu” , nỗi đau của cha, mẹ, những vất vả
của họ, sự tráo trở, đê tiện của người vốn là bạn của cha, những tháng năm
một mình bươn trải để sống ở Taganroc đã tạo cho Sekhov cái nhìn tỉnh táo,
lạnh lùng, nghiêm khắc. Không chỉ có thế, nỗi đau vì nghèo đói, nô lệ đã thấm
sâu trong Sekhov. Tốt nghiệp trung học, Sekhov quyết định lên M axcơva.
Trước khi đi, Sekhov chào bà cô với tâm trạng bùi ngùi: “Đừng buồn cô ạ.
Cháu đi Maxcơva rồi sẽ thành bác sỹ. Cháu sẽ sống đàng hoàng, sống cho ra
con người cô ạ”. Đây, không đơn giản là một lời chào, mà là một tâm niệm,
được xuất phát từ thực tế cuộc sống, để rồi trở thành quan niệm về cuộc đời,
về con người của nhà văn Sekhov sau này.
Ở Maxcơva, Sekhov vừa học trường y, vừa bắt đầu viết văn. Chất hài
hước xuất hiện trong những tác phẩm đầu tay của ông. Mặc dù còn trẻ, nhưng
Sekhov đã trở thành chỗ dựa cho mẹ và các em ở Maxcơva. Ông rất quan tâm
đến việc giáo dục các em, uốn nắn họ. Hơn ai hết, Sekhov hiểu rõ, cay đắng,
căm phẫn với sự nô lệ đã trở thành máu thịt của bao kiếp người, trong đó có
cha ông, anh, em ông. Cho nên, theo ông, cần phải tẩy rửa đến cùng những
giọt máu nô lệ. Trong thư gửi anh trai Nicolai, Sekhov đã nói rõ quan niệm
của mình về một con người có đạo đức, có giáo dục. Đó là người cần thỏa
mãn những điều kiện:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
“- Phải biết tôn trọng cá tính con người, luôn độ lượng, nhã nhặn, lễ
độ…
- Không chỉ yêu thương những con người nghèo khổ mà còn phải biết
yêu thương những con mèo.
- Phải biết đau xót tâm hồn…” [ 19,tr.2].
Sự nghiệp văn học của Sekhov được tính từ những năm 80 của thế kỷ
XIX. Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm cực kỳ phức tạp của
lịch sử xã hội Nga. Nhận xét về thời kỳ này, Sekhov viết:
“Cảnh sống chung quanh thật tồi tệ… theo như sự suy xét của tôi về trật
tự sự vật, thì cuộc đời hầu như chỉ gồm toàn những điều khủng khiếp, cãi cọ,
cấu xé nhau. Sự ti tiện, thấp hèn, xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc”. Do đâu mà có
hiện thực đó?
Nước Nga nửa sau thế kỷ XIX thật sự rối ren. Cuộc cải cách nông nô 19-
12-1861 với tính chất nửa vời, bịp bợm đã làm đảo lộn toàn bộ xã hội. Chế độ
nông nô không những không bị thủ tiêu m à còn trở nên tàn bạo hơn, tinh vi
hơn trong việc áp chế nhân dân. Chế độ phong kiến Nga hoàng bước vào thời
kỳ khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn. Đó là “tình trạng bế tắc, đứng
ở ngã ba đường về xu hướng chính trị, xã hội, cuộc sống tràn ngập vô vàn
mâu thuẫn” [61,tr. 45]. Để tồn tại, giai cấp quý tộc già nua câu kết với giai
cấp tư sản vừa “thoát thai từ giai cấp nông nô” , non yếu, bạc nhược và cũng
đầy toan tính. Giai cấp vô sản mới ra đời chưa đủ sức trở thành một lực lượng
chính trị độc lập, như ng đã phần nào thể hiện những yếu tố tiến bộ, cách
mạng, tác động nhất định đến phong trào đấu tranh của nhân dân Nga.
Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm trì trệ nhất trong lịch sử
xã hội Nga. Sekhov tận mắt nhìn thấy đời sống khổ cực của nhân dân do nạn
mất mùa xảy ra liên tiếp trong mấy năm. Ông cũng chứng kiến sự tàn bạo, hà
khắc của Nga hoàng và nhà nước phong kiến trong ngày tàn, cùng sự ngoi lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
của tầng lớp tư sản mới trở lại. Không khí ngột ngạt, oi bức bao trùm toàn bộ
đất nước. Tư tưởng nhân dân bị phân tách. Phần đông giới trí thức hoang
mang, dao động, rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tầng lớp tiến bộ
muốn rời bỏ vũ đài chính trị, thậm chí thỏa hiệp, đầu hàng. Học thuyết
“không chống lại cái ác bằng bạo lực” của L.Tonxtoi có điều kiện phát huy
tác dụng. Có thể nói, Đây là giai đoạn thoái trào của cách mạng. Nước Nga
rơi vào hoàn cảnh ảm đạm, xám xịt, phá sản về nhiều mặt và nổi bật nhất là
sự phá sản về tinh thần của giới trí thức Nga. Họ lặn ngụp trong sự tầm
thường và dung tục.
Như vậy, những năm 80,90 của thế kỷ XIX là thời kỳ giao thời của xã
hội với những rối ren, đảo lộn. Cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa hình thành.
Đời sống văn học lúc này, về cơ bản, là bế tắc. Tuy nhiên văn học hiện thực
vẫn có thành tựu.
Sekhov sống và sáng tác trong buổi giao thời đó. Ô ng được coi là đại
biểu xuất s¾c cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga. Sekhov bước vào lịch
sử văn học Nga với tư cách nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn.
Sekhov - nhà văn của thời đại. Năng khiếu quan sát, nhạy bén với xã hội
đã giúp nhà văn hình thành nhận thức khách quan. Bằng sự tinh tế, sự trải
nghiệm, nhà văn thu lượm chất liệu cho truyện ngắn từ đời sống hàng ngày,
gần gũi với tất cả mọi người. Chứng kiến sự thật trần trụi của xã hội đảo điên,
Sekhov đau xót và hi vọng vào sự thức tỉnh của nhân cách. Ông không chỉ
đưa ra lời khuyên mà còn khích lệ tích cực cho sự bảo vệ, hoàn thiện nhân
cách. Quan niệm về cuộc đời và con người luôn được Sekhov duy trì. Trong
thư gửi em trai, Sekhov viết:
“Việc gì em phải tôn sùng người khác bằng cách tự gọi mình là kẻ hèn
mọn, không đáng để ý đến…. Không! Giữa người đời cần phải ý thức được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
nhân phẩm của mình…. Em hãy biết rằng con người nhỏ bé, trung thực,
không phải là người hèn mọn”. [19,tr. 82]
Khuyên em và cũng là nhắc mình. “Phải sống sao cho ra con người”,
“(…) Giữa người đời phải ý thức được nhân phẩm của mình” - Đó cũng là
mục đích sáng tạo của Sekhov. Có thể nói, toàn bộ sự nghiệp văn học của
Sekhov đã và chỉ phục vụ cho mục đích cao cả ấy. Trong sự phá sản tinh thần
khủng khiếp của thời đại, Sekhov là người dũng cảm lôi ra những xấu xa, tội
lỗi chui rúc sâu trong ngõ ngách tâm hồn, phản ánh thực trạng xã hội đen tối.
Ông cũng là người lên tiếng phê phán xã hội qua những cuộc đời khổ ải, bất
công…. Tất c ả những việc làm đó của ông đều nhằm tìm và trả lại cho con
người ý nghĩa đẹp đẽ và cao cả của chính nó.
Cuộc sống vất vả, chật vật tạo điều kiện cho Sekhov khả năng quan sát,
khám phá hiện thực. Cùng lúc Sekhov vừa làm thày thuốc chữa bệnh, vừa làm
nhà văn. Nghề y buộc ông tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hội. Nhà
giải phẫu, nhà chữa bệnh thân xác, nhà châm biếm, thầy thuốc tâm hồn có
thêm điều kiện hiểu cặn kẽ mỗi loại người. Nhờ thế, trong tác phẩm, những
xấu xa, ti tiện được ông moi ra từ mỗi đường gân, thớ thịt để xem xét, mô tả,
phê phán, đớn đau. Bất kỳ ở đâu, chỗ nào, Sekhov cũng nhìn ra căn bệnh tinh
thần khủng khiếp. Sau thời gian làm việc ở đảo Xakhalin - nơi Nga hoàng đầy
ải các tù nhân - Sekhov chứng kiến nhiều nỗi kinh hoàng của tù nhân. “Chúng
ta làm chết dần chết mòn hàng vạn người trong n hà tù, làm lụi dần ánh bình
minh (…) Chúng ta là những kẻ vô nhân đạo; chúng ta đã xua đuổi nhiều
người vào nơi băng giá, trong gông cùm…. Chúng ta đã làm sinh sôi, nảy nở
ra những tên tội phạm và chú ng ta đã trút tất cả điều đó cho những tên
cai ngục mũi đỏ. Không phải những tên cai ngục có tội mà tất cả chúng
ta đều có tội”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Trung tâm chú ý của Sekhov là “mong muốn khám phá và mô tả thân
phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua vô vàn dạng thức (…)
Thói nô lệ ngấm sâu và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức,
viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân - những con người
không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm ngoan
ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”. Chính vì vậy, khao khát
của Sekhov là ở chỗ, tác phẩm của ông không chỉ phanh phui, lên án, công
kích hiện tại, mà còn hướng đến tương lai qua nhận thức của người đọc. Đây là
những lời ông nói với một thanh niên, khi anh ta khóc trước vở kịch của ông:
- “Đấy, annh kể với tôi rằng anh đã khóc khi xem kịch của tôi. Mà không
phải chỉ mình anh. Nhưng tôi đâu có viết để thấy những giọt nước mắt? Tôi
muốn cái khác kia. Tôi chỉ muốn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng:
“Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tệ như
thế nào? Cái quan trọng nhất là để họ thấu hiểu điều đó, và khi đã thấu hiểu,
thế nào họ cũng phải tạo cho mình cuộc sống tốt hơn. Tôi không thấy cuộc
sống đó, nhưng tôi biết rằng nó sẽ hoàn toàn khác, không giống gì với cuộc
sống hiện tại.
Và bây giờ, khi nó chưa tới, tôi sẽ còn mãi mãi nói với mọi người: Hãy
nhận ra đi, các người sống thật tồi, thật tệ”.
Vậy, thì có gì phải khóc?” [19,tr.282]
Những năm cuối đời, Sekhov vẫn tiếp tục quan niệm sống, quan niệm
nghệ thuật vì con người đó. Nhờ vậy, sự phản ánh mặt trái xã hội ở ông thời
kỳ này nghiêm khắc hơn, quyết liệt hơn. Vấn đề gay cấn của thời đại, của xã
hội đã hiện hình rõ nét. Đó là cuộc sống tầm thường, dung tục trở nên phổ
biến, bao vây con người.
Sekhov đã vật lộn với cuộc sống, tìm tòi trong đó, và bẳng thái độ lạnh
lùng, khách quan, ông đã phản ánh thực trạng xã hội, phanh phui, lật tẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
những cái xấu, cái ác bọc trong nhung lụa, hào nhoáng. Theo ông, khi viết
truyện có thể khóc lóc, có thể rên rỉ, có thể đau đớn cùng nhân vật của mình.
Càng tỏ ra khách quan bao nhiêu, ấn tượng gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Đó chính là sự hi vọng vào cộng đồng sáng tạo ở độc giả của Sekhov, thể hiện
rất rõ quan hệ giữa sáng tạo và đời sống hiện thực.
Quan niệm về cuộc đời, con người, nghệ thuật đã đem lại cho nhà văn
những giá trị riêng. Toàn bộ sáng tác của Sekhov đã phản ánh một cách đầy
đủ, trọn vẹn và sâu sắc thời đại mà ông sống, hoạt động nghệ thuật. Từ hoàn
cảnh sống, đến sự vận động, phát triển và những thay đổi của thời đại… đều
được thâu tóm bằng cái nhìn tinh tế, nhạy bén và sâu sắc của nghệ sỹ Sekhov.
Tác phẩm của Sekhov không chỉ cất lên tiếng nói của thời đại nước Nga
những năm 80 - 90, mà còn phản ánh được hơi thở chung, sự gần gũi của các
dân tộc khác trong những hoàn cảnh tương tự.
“Chắc rằng người đọc chúng ta ngày nay vẫn tìm thấy trong tác phẩm
Sekhov cái thế giới và cuộc sống của nước Nga những năm 80 không có gì
rạng rỡ đó, những con người, những tâm hồn sao mà gần gũi, giống như họ
đang sống đâu đây” [45,tr.215]
1.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Sekhov
Truyện ngắn Sekhov là truyện ngắn hiện thực, do vậy, nhân vật, sự việc
được đề cập đến đều xuất phát từ những nguyên mẫu ngoài đời. Cũng như khi
phân loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cũng lấy đối tượng miêu
tả và mục đích phản ánh của tác giả làm tiêu chí để khảo sát thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Sekhov. Đối tượng miêu tả của Sekhov là tất cả các tầng
lớp người trong xã hội. Từ bọn quan lại trí thức, những người bình thường,
đến tầng lớp đáy cùng của xã hội… đều xuất hiện trong tác phẩm của Sekhov
với tư cách là nhân vật chính. Mục đích phản ánh của Sekhov, như ông viết
trong thư gửi Pleseev: “Tôi căm thù sự dối trá và bạo lực trong mọi dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
thức của chúng, thói giả nhân giả nghĩa, sự đần độn và thói độc đoán ngự trị
không chỉ trong các gia đình thương gia và cả trong nhà tù” [52,Tr. 252]
Chúng tôi đã khảo sát 30 truyện ngắn của Sekhov và có bảng khảo sát
thế giới nhân vật sau:
TT Tên tác phẩm
Nhân vật
Ghi
chú
Nhân vật là những
dị tật của xã hội
Nhân vật là những nạn
nhân bi thảm của xã hội
1 Cái chết của một viên chức X
2 Anh béo anh gầy X
3 Con kỳ nhông X
4 Phẫu thuật X
5 Mặt nạ X
6 Lão quản Prisubeep X
7 Vanka X
8 Chuyện đời vặt vãnh X
9 Vé trúng số X
10 Đánh cược X
11 Những người đàn bà X
12 Các bà X
13 Ionuts X
14 ._.6,tr.378]. Bà quyết định gọi con Đỏ lên quạt hầu bà, vì: “Bà đã đủ lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
nhân đạo đối với một con bé mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ
nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại….
Con Đỏ con, cả ngày chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp…” [36,tr.378].
Câu chuyện cứ nhẹ nhàng diễn ra, như chẳng động đến ai, chỉ là chuyện một
bà chủ “béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” với con hầu “vẫn gầy còm lắm”.
Nhưng toàn bộ sự ác độc, ích kỷ của chủ và nỗi khổ bị áp bức, bóc lột của
người nghèo cứ hiển hiện. Nhất cử lưỡng tiện, con Đỏ quạt hầu, bà chủ vừa
đỡ “hại quạt và tốn tiền điện”, vừa lại được tiếng là người có nhân đức, vì,
“cái ngữ ấy (con Đỏ)… chẳng xin ở không công để kiếm miếng ăn, tất chỉ có
ăn mày”. Người đàn bà béo nứt béo trương, vật vã trên giường vì nóng. Con
bé gày còm, hai tay khẳng khiu, phành phạch quạt cho bà, để cho “lưng áo
lụa của bà phồng lên như cánh buồm”. Thời gian con Đỏ quạt hầu bà chủ
được tính từ mười giờ tối cho đến sáng. Bà mơ màng, con Đỏ mỏi tay, buồn
ngủ, cũng lơ đãng. Cái nóng khiến bà tỉnh. Tiếng quát, mệnh lệnh “Mạnh lên,
mày” và cái “giúi đầu” nó của bà, làm con Đỏ tỉnh giấc. Bà bực d ọc, khó
chịu. Con Đỏ luống cuống, sợ hãi…. Hỗ trợ cho cơn buồn ngủ mà không
được ngủ của con Đỏ là âm thanh của đêm trường thanh vắng. Tiếng chuông
đồng hồ của nhà giầu, cứ đến cữ lại đổ chuông, tiếng gà gáy xa xa, đặc biệt
cái âm thanh “phành phạch”, “phành phạch”… cứ kéo dài, nổi trội, ám ảnh
người đọc.
Sự dồn nén của cuộc sống cay nghiệt đã dồn đẩy tuổi thơ tới phạm tội.
Phạm tội mà chúng không biết mình đã làm điều ác. Ai là người chịu trách
nhiệm về số phận bé Thanh (“Thanh! Dạ!”), số phận thằng bé con chủ nhà,
về số phận Varka (“Buồn ngủ”), nếu không phải chính xã hội Việt Nam đầu
thế kỷ XX và xã hội Nga cuối thế kỷ XIX.
Những thân phận đi ở, bị đầy đọa đến mấy, vẫn còn có chút gì hơn
những kiếp lang thang phải ăn cắp, ăn xin, ăn mày. Như đã nói, dường như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
những đứa trẻ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov vừa sinh ra
đã có tên trong danh sách hạng người cầu bất cầu bơ.
Ở Nguyễn Công Hoan, nhân vật là những đứa trẻ lang thang chiếm 3/5
truyện (“Bữa no đòn”, “Cái vốn để sinh nhai”, “Thằng ăn cắp”).Cái hay mà
Nguyễn Công Hoan khám phá và đem lại cho người đọc ở những tác phẩm
này không chỉ là hiện thực xô bồ, khủng khiếp, nỗi đau nhân thế, mà còn ở sự
thức tỉnh nhận thức của con người. Sự va chạm giữa giầu và nghèo, rất dễ
nhận thấy, rất dễ bộc lộ sự cảm thông, thương xót hoặc căm ghét. Sự va chạm
giữa những người cùng cảnh ngộ, hoặc na ná như nhau, không dễ nhận ra.
“Thằng ăn cắp” là câu chuyện về một thằng bé lang thang, đói rạc đói
dài, lấy cái chợ nghèo làm chốn nương thân. Tác phẩm được mở ra bằng cái
kết thúc của câu chuyện:
“Phải trận đòn này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp! Ai thương! Ai
bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp”. [36,tr.111]
Ở truyện ngắn này, có hai loại nhân vật cùng lúc xuất hiện là đám đông
và thằng bé. Nhân vật đám đông, bao gồm những bà bán hàng rau, hàng thịt,
hàng lê, hàng bún riêu, bánh đúc, và những người qua đường. Nhân vật đám
đông vừa là cái nền để làm rõ thân phận thằng bé “lử thử lừ thừ”, vừa là cái
tương phản trong tương quan lực lượng với thằng bé ăn xin không được, sinh
ra ăn cắp này. Cùng cảnh khổ cả, có chăng hơn ở chỗ có rau, có bánh đúc, bún
riêu mà bán, nhưng cả chợ đều nhìn thằng bé bằng con mắt khinh miệt, thậm
chí lãnh đạm, dửng dưng, thậm chí nhẫn tâm:
“Quân ấy tinh quái lắm! Ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn
vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm…” [36,tr.111]. Điều
đáng nói là ở đó. Cái nhìn lạnh lùng, hoài nghi của đám đông đã làm họ thiếu
tỉnh táo để nhận ra sự thực: thằng bé đói thật và nó đã thật lòng ăn xin: “Cắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc…”. Lê la ăn xin không được, ở chỗ nào
nó cũng chỉ nhận được sự khinh thị, mỉa mai, phũ phàng:
- “Ba mươi sáu cái nõn nường…. Thôi đi! Dơ!”
- “Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!”.
Cũng vẫn là cái đám đông vô tình với cái đói của một thằng bé khốn nạn
ấy, nhưng lại rất nhiệt tình, thậm chí hăng hái quá mức khi thằng bé ấy quỵt
bát bún riêu. Họ nhốn nháo, kêu gào. Lực lượng đuổi bắt được gia tăng bởi
người đi đường ủng hộ. “Họ chạy huỳnh huỵch, họ làm như bắt giặc” (…)
“Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù! Khổ chủ thì “chạy sau rốt.
Áo lấm. Khăn sổ. Tóc rũ. Ngửa mặt kêu…” [36,tr.114]. Cả đám đông ấy
hoắng lên, truyền cho nhau những thông tin đáng để bỏ công sức ra đuổi. Nào
là “nó cắt ruột tượng của người kia” , nào là “lấy của người ta 5 đồng bạc,
lại còn đánh người ta”…. Thế thì đáng đánh quá. Cho nên, người ta ùa vào
đánh nó. Nào đấm, đá, thúc… khiến thằng bé mềm như sợi bún. Trong khi
thực chất, nó quỵt 2 xu bún riêu.
Hỗ trợ đắc lực cho quan hệ tương phản của nhân vật là hệ thống âm
thanh mà tác giả sử dụng trong tác phẩm. Đó là những âm thanh của con
người, do con người phát ra. Đó là tiếng kháo nhau, tiếng thì thào to nhỏ,
tiếng quát, tiếng pha trò, tiếng cười ha hả của những người bán hàng. Đó là
tiếng kêu, tiếng chân chạy, tiếng thở, tiếng van xin, tiếng chân đá, tiếng tay
đấm… rầm rầm, huỳnh huỵch..... Tất cả tạo nên sự hỗn độn, huyên náo của cả
một khối người bộc lộ sức mạnh của “đạo lý” trước sự việc ăn cắp. Chỉ với 2
xu bún riêu mà trở thành vấn nạn, cần phải đến nhà chức trách ra tay. 2 xu
bún riêu ăn quỵt, phải lên Cẩm để giải quyết.
Họ phản ứng dữ dội trước sự ăn cắp, ăn quỵt - điều đó hoàn toàn chính
đáng. Nhưng vì sao, thằn g b é phải ăn qu ỵ t, k hôn g ai đ ể tâm. Đó là điều
Nguyễn Công Hoan muốn nói đến, muốn đánh động tới lòng trắc ẩn của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
người. Không phải ngẫu nhiên khi tác giả sử dụng giọng điệu giễu nhại, châm
biếm. Đằng sau những câu văn ngắn, phần nhiều là câu đặc biệt, vô chủ, là
tình cảm của tác giả, đau xót cho cái gọi là tình người giữa nhân quần. Liệu
sự khinh miệt, dửng dưng, nhẫn tâm có dạy cho lũ trẻ kia điều gì? Một câu
hỏi treo trên đầu người đọc thưở ấy và cả bây giờ.
Thằng bé trong “Thằng ăn cắp” không có lối thoát, như bé Varka trong
“Buồn ngủ” của Sekhov. Nó phạm tội trong sự tính toán ngây thơ, khờ khạo.
Đói quá sinh liều. Nó không tính đến khả năng không chạy thoát, cũng như
Varka, buồn ngủ quá, chỉ biết vì thằng bé khóc mà không được ngủ. Thằng ăn
cắp quyết ăn quỵt bát bún, Varka quyết bóp cổ thằng bé con chủ nhà… chỉ
cần được ăn và được ngủ.
Với “Cái vốn để sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan một lần nữa chỉ ra sự
dửng dưng, ghẻ lạnh của người đời đã hủy hoại những đứa trẻ như thế nào.
Vẫn là những con người không tên, hợp thành đám đông, làm nền cho
nhân vật hoạt động. Thằng bé ăn xin với cái gậy , cái rá chọn bến xe để kiếm
ăn. Cay đắng ở chỗ nó nhận ra một thực tế: “Chẳng may giời đầy nó làm kiếp
ăn mày, mà lại bắt nó phải lành lặn. Gia dĩ cái gầy gò, xấu xí cũng không
được bằng ai. Rõ khổ”. [36,tr.169]. Đội ngũ ăn mày thân tàn ma dại, không
mù thì câm, không toét mắt thì què chân, gãy tay…. Đội ngũ ấy hoạt động
mới có kết quả, dù chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cũng đủ cho nó thèm và so
sánh với mình. Một thực tế nữa cứ xoáy vào thằng bé. Đó là những câu răn
dạy của mọi người, từ quan, đến thày khóa, đến những ông, bà đi xe.
- “Mày lành lặn thế, sao không đi làm đi ăn, chỉ lười biếng quen xác
thôi”.
- “Thừa tiền cũng không cho thứ mày”.
- “Đi mà làm ăn! Đừng lười thế.”
- “Mặc kệ mày, cho mày chết đói…”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
Những câu luân lý ấy, nghe mãi quen tai, nhưng thằng bé cũng rút ra
được điều rằng: lành lặn khó xin, lành lặn đi liền với chết đói. Tác giả đã diễn
tả nỗi đau đớn, thất vọng của thằng bé bằng những đoạn độc thoại nội tâm
gián tiếp. Nhà văn mô tả lại suy nghĩ tuyệt vọng của thằng bé:
“(…) Nó biết đi xin thế này là nhục (…) Khốn nạn! Nào nó có lười biếng
gì cho cam? Nó có máu động kinh, lắm lúc đương yên lành tử tế, thì lăn đùng
ra đất, mắt trợn lên, bọt mép sùi ngầu (…) Vì thế nó bị đuổi khỏi nơi đi ở. Vì
thế nó phải đi ăn mày” [36, tr.168 - 169].
Đầu óc trẻ thơ có sâu sắc mấy cũng chỉ nhận ra bài học: Vì còn lành lặn
nên có thể chết đói.. Nó chỉ biết tuyệt vọng khi nghĩ đến chết đói. Nhưng đám
đông kia đã khai thông đầu óc cho nó bằng một lời đùa nhiều hơn thật:
- “Mày què đi thì lần sau tao cho” . Câu nói ám ảnh, câu nói mở đường.
Câu nói như một luồng ánh sáng thức tỉnh sự u mê của thằng bé. “Ở đời, làm
nghề gì chả phải có vốn? Chả phải cạnh tranh? Đi ăn mày, tưởng dễ lắm đấy
hẳn” [ ]. Chi tiết thằng bé chống gậy đi, tìm đến một cây cao, cố hết sức leo
lên, để tìm vốn sinh nhai, bằng cách:
“Nó thở dài, nó liều. Nó nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay, ngả
người ra. Vụt một cái:
Ối!... Nó rơi đánh bộp xuống đất (…) cánh tay lủng lẳng như chỉ còn
bám xương vào vai nó một tý lấy lệ” [36, tr.171-172], như một lưỡi dao cùn
cứa vào tim người đọc.
Với người đời, với thằng bé, lối thoát thật đơn giản. Nhưng, khi nghĩ
cách tìm được cái vốn để sinh nhai ấy, nó đâu biết, vào những ngày trở trời,
nó sẽ đau như dần, nó sẽ phải bò lê đi kiếm ăn….
Cũng cho nhân vật trẻ em tìm lối thoát khỏi cảnh bị đọa đày, ở Sekhov
có “Buồn ngủ” và “Vanka”. Cô bé Varka tìm lối thoát ở hành vi phạm tội. Bé
Vanka trong “Vanka” lại tìm lối thoát ở sự sẻ chia và mơ ước mong manh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
9 tuổi đầu, Vanka đi ở cho gia đình tiểu chủ ở thành phố. Toàn bộ cuộc
đời khốn khổ của Vanka được tái hiện qua bức thư nó viết cho ông nhà quê.
Ngoài hình thức viết thư, Sekhov còn sử dụng kết cấu chuyện lồng chuyện.
Có hai câu chuyện được lồng trong truyện ngắn này. Câu chuyện (1) là
chuyện Vanka viết thư, tức điểm nhìn trần thuật là người kể ở ngôi thứ ba.
Câu chuyện (2) là câu chuyện đời Vanka được kể trong thư, tức điểm nhìn
trần thuật đã chuyển sang Vanka. Hỗ trợ đắc lực cho hai câu chuyện là sự đan
xen của thời gian nghệ thuật. Tại câu chuyện đời của Vanka, thời gian được tổ
chức từ điểm n h ìn của Vank a. Thời g ian q uá khứ, h iện tại, tương lai đ ồng
hiện và đan cài với nhau. Cuộc sống khốn khổ của Vanka hiện ra rõ nét qua
từng lời lẽ trong thư, được Vanka hồi nhớ. Những cụm từ “ngày hôm qua”,
“tuần vừa rồi”, “hôm vừa rồi” xuất hiện cùng với những sự việc bị bà chủ
đập cả một con cá mòi vào mặt, ông chủ cầm khuôn khâu giầy đập vào mặt
đến bất tỉnh…, cho thấy Vanka đã bị đày đọa thế nào. Giữa dòng hồi tưởng
đầy hãi hùng, Vanka sực nhớ ra: “Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang
cháu về nhà ông, về làng…”. Đoạn thư dài sau đã hàm chứa cả quá khứ, hiện
tại và tương lai.
“Cháu quỳ lạy bên chân ông, cháu cầu thượng đế suốt ngày đêm để ông
mang cháu đi khỏi nơi này (…) Cháu sẽ thái thuốc lá cho ông (tương lai).
Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ con nước là chết nữa thôi
(hiện tại), cháu đã định chạy trốn về làng nhưng mà không có giầy (quá khứ)
(…) Còn khi nào cháu lớn lên, cháu sẽ trả ơn ông và nuôi ông (tương lai)”
[68, tr.36].
Trong suốt bức thư, thời gian hiện tại xuất hiện rất ít, phản ánh rất chính
xác tâm lý trẻ con. Cậu bé không quan tâm mấy đến hiện tại. Với cậu chỉ là
những khiếp hãi, đau đớn đã trải qua và khao khát được giải thoát. Sự sắp xếp
thời gian cũng rất lộn xộn, phù hợp với nhân vật. Ở độ tuổi còn cần rất nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
sự chăm chút của người lớn, mới có cách tư duy hồn nhiên và lộn xộn như
vậy, nên, sự việc được kể chưa được chắt lọc để viết cho rõ ràng. Yếu tố hồn
nhiên đã làm tăng giá trị hiện thực và tác động rất mạnh đến người đọc.
Tại câu chuyện Vanka viết thư, thời gian cũng được đan xen giữa hiện tại
(thời gian Vanka viết ra các đoạn thư) với quá khứ (Vanka dừng viết, hồi
tưởng) và tương lai (Vanka dừng viết và mơ). Dấu hiệu nhận biết là lời kể của
người kể chuyện. Ở câu chuyện này, thì hiện tại xuất hiện thường rất ngắn. Có
5 lần xuất hiện câu kể hàm chỉ thời gian hiện tại, kiểu như: “Vanka đưa mắt
nhìn ra cửa sổ tối tăm…”, “bây giờ…”, “Vanka thở dài, … viết tiếp…”, “cậu
đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc…”, “Vanka gấp lá thư làm
tư rồi bỏ vào phong bì”. Những khoảnh khắc hiện tại làm nhiệm vụ kết nối
quãng đời đã qua trong hạnh phúc nhỏ nhoi mà ấm áp với quãng đời hiện tại
đau khổ và cực nhục của Vanka. Thời gian quá khứ không nhiều nhưng dài
hơi hơn. Đó là những hồi ức của Vanka về quê nhà, nơi cậu đi ở. Bên cạnh
hồi tưởng là giấc mơ ngắn ngủi của Vanka. Thời gian để giấc mơ tồn tại rất
ngắn và xuất hiện một lần ở cuối tác phẩm, cho thấy, cái tương lai mà Vanka
khao khát rất bấp bênh. Tính chất thời gian với những thấp thoán g của hiện
tại, quá ít của tương lai, quá đậm của quá khứ ở câu chuyện (1 ), góp phần
khẳng định, tô đậm nỗi khổ nhục, bế tắc của Vanka.
Như vậy, những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng đã phát huy tối
đa hiệu quả của chúng. Sự lồng ghép các mạch thời gian, sự đan xen các dạng
thức thời gian tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với đó là hình thức
bức thư được Vanka viết và gửi với địa chỉ vu vơ cho thấy sự hồn nhiên của
Vanka. Càng hồn nhiên bao nhiêu trong việc tìm lối thoát càng cho thấy, trẻ
em càng tội nghiệp, số phận của chúng càng bấp bênh, càng bế tắc.
Thế giới những con người nghèo khổ bị chà đạp, bị triệt tiêu dần khả
năng làm người hiện ra rõ nét, sinh động trong sáng tác của Nguyễn Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Hoan và Sekhov. Cả hai nhà văn đều bộc lộ tài năng khi xử lý đề tài “con
người bé nhỏ”. Bằng thái độ tiếp nhận hiện thực, bằng những thủ pháp nghệ
thuật hữu hiệu, hai nhà văn đã đưa những con người lam lũ, nghèo khổ, bất
hạnh vào tác phẩm, trao cho họ nhiệm vụ phản ánh hiện thực ngang trái, bất
công. Thông qua đó, hai nhà văn gửi gắm sự cảm thông, thương xót những số
phận bấp bênh, bị coi rẻ, khinh miệt. Thông qua hệ thống nhân vật nghèo hèn,
đủ mọi lứa tuổi này, hai nhà văn đã giải quyết triệt để mối quan hệ giầu -
nghèo trong xã hội. Họ đã góp phần tích cực trong việc vạch trần tội ác ở mọi
hình thức của lũ người ăn trên ngồi trốc, nhẫn tâm, cũng như góp phần lay
động thức tỉnh lòng trắc ẩn của con người trước hiện thực nghiệt ngã.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Công Hoan là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện
đại, ông được coi là người có công lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn
xuôi và là người đặt nền móng cho trào lưu văn học hiện thực phê phán
1930 - 1945. Một trong những nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan là đã mang l ại cho văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX một
phong cách nghệ thuật độc đáo, một kiểu nhân vật mới mẻ, vừa mang quan
điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện được những vấn đề xã hội của
thời đại.
Là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ XIX, Sekhov đã
mở ra khuynh hướng mới cho văn học hiện thực phê phán Nga. Bằng các tác
phẩm của mình, ông kịch liệt lên án những thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội.
Tố cáo chính quyền Nga hoàng tàn bạo và đồng cảm sâu sắc với số phận của
nhân dân. Hơn 20 năm cầm bút, Sekhov đã để lại một khối lượng lớn truyện
ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới
Bằng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc Nguyễn Công Hoan đã chĩa thẳng ngòi
bút của mình vào những vấn đề nổi cộm của hiện thực cuộc sống , túm lấy
những khoảnh khắc trong cuộc đời con người để phanh phui, bóc trần, lên án,
tố cáo xã hội đương thời đầy ung nhọt, nhơ nhớp của những hạng người bất
nhân và bất nghĩa. Qua những truyện ngắn bất hủ của mình, Sekhov đã phơi
bày toàn bộ hiện thực nước Nga dưới ách chuyên chế của chế độ Nga hoàng.
Giai cấp quý tộc độc ác đê tiện, bọn thị dân phàm tục, Sekhov đã tái hiện bức
tranh xã hội rộng lớn, phê phán một cách gay gắt những cái xấu, cái ác trong
xã hội đương thời.
2. Cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều rất thành công khi tổ chức hệ
thống nhân vật của mình. Một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
động…, nhìn vào thế giới nhân vật này người đọc các thế hệ đều hình dung
được xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX. Hệ thống
nhân vật này vừa mang quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện những
vấn đề của xã hội, của thời đại. Họ chính là nguyên cớ, là bằng chứng về một
thực trạng xã hội không nhân tính và là nạn nhân của lòng tham, của tội ác,
của quyền lực. Đồng thời qua thế giới nhân vật, hai nhà văn đã bày tỏ khát
vọng cháy bỏng của mình về một xã hội có nhân tính, là nơi để nhà văn hy
vọng vào sự đổi thay ở con người, vào những phẩm chất tốt đẹp của con
người.
3. Nguyễn Công Hoan và Sekhov đÒu chú ý đến các loại người trong xã
hội như: quan lại, những công chức, tiểu tư sản, dung tục tầm thường, vô liêm
sỉ. Bằng nghệ thuật kết cấu, sử dụng chi tiết, lời đối thoại, lời độc thoại…,
hình ảnh các nhân vật hiện ra một cách cụ thể. Đó là bọn quan lại, tư sản giầu
có, lắm tiền mà bất nhân, vô nhân đạo. Thế giới nhân vật ấy chính là hiện thân
của một hiện thực xã hội vô nhân đạo, không có sự tồn tại của tấm lòng lương
thiện của con người. Viết về giai cấp tư sản quý tộc, tầng lớp thị dân, Sekhov
thẳng tay phanh phui, mổ xẻ những thói hư tật xấu của những kẻ sống phàm
tục, thói nô lệ tầm thường trước uy quyền và của cải tồn tại trong xã hội Nga
cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên ở mỗi nhà văn tổ chức loại nhân vật này có những
nét khác nhau. Nguyễn Công Hoan tập trung vào tầng lớp quan lại nhiều để
vạch trần những dị tật xấu xa, ghê tởm mang những điển hình của xã hội thực
dân nửa phong kiến. Còn Sekhov tập trung nhiều vào lớp công chức bình
thường, từ những con người bình thường ấy nhà văn đã chỉ ra những con
người máy, những quái thai nó chính là sản phẩm của xã hội Nga trong buổi
giao thời.
4. Bằng cái nhìn thông cảm và xót thương cả hai nhà văn chú ý đến đời
sống khổ cực của lớp người cùng đáy trong xã hội. Đồng cảm sâu sắc với số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
phận những người dân nghèo, đằng sau giọng mô tả bình thản của Nguyễn
Công Hoan và Sekhov về những cuộc đời cơ cực, vất vưởng, lê lết ta như
nghe rõ tiếng đạp bồi hồi, đau đớn chứa đựng niềm cảm thông sâu xa với nỗi
thống khổ của những kiếp đói nghèo. Một sự gặp gỡ tài năng nghệ thuật và
tấm lòng nhân đạo trong thể hiện thế giới nhân vật của hai nhà văn.
5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được rọi
chiếu bằng một thứ ánh sáng gay gắt, khiến tính cách, hành động của đủ mọi
hạng người trong đó phát lộ ra bên ngoài. Còn Sekhov âm thầm nhẹ nhàng lôi
kéo ngườ i đọc xâm nhập vào thế giới bên trong con người, tìm những uẩn
khúc, những nguyên nhân tha hoá hay những phút thăng hoa của nó. Tuy
không đi sâu vào khai thác tâm lý bên trong nhân vật như Sekhov, nhưng
Nguyễn Công Hoan cũng đã thể hiện một cách sắc sảo bằng nghệ thuật độc
đáo của riêng mình để phanh phui những căn bệnh xấu xa của thời đại, được
biểu hiện trong tâm lý nhân vật. Chính điểm này là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn
Công Hoan và Sekhov
Tất nhiên, giữa Sekhov và Nguyễn Công Hoan cái khác biệt giữa hai
người là lớn. Cái Sekhov có mà nguyễn Công Hoan không có là nhiều. Bởi
Sekhov là người có vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh cao trào lưu hiện thực vào
giai đoạn cuối của nó, được coi là nhà hiện thực kiểu mới với những cách tân
trong thể loại truyện ngắn, đặc b iệt ở mảng tâm lý bên trong của nhân vật và
kiểu truyện không cốt truyện. Còn Nguyễn Công Hoan là người mở đầu cho
trào lưu hiện thực ở Việt Nam. Nhưng cả hai nhà văn lại có những nét tương
đồng về thời đại, về thể tài, một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo, một cái
nhìn sắc sảo phát hiện ra những căn bệnh của xã hội trong từng tế bào nhỏ.
Bằng tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan đã trở thành bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Sekhov là bậc thầy của
truyện ngắn nhân loại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tác phẩm văn chương không còn là
một vấn đề mới, song không có nghĩa là không thể khám phá ở lĩnh vực này
những điều thú vị, hấp dẫn. Bởi mỗi nhà văn sẽ có một thế giới nghệ thuật
riêng, mỗi thế giới nghệ thuật lại có một thế giới nhân vật riêng. Luận văn của
chúng tôi đã chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc tổ chức thế giới
nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn. Tìm hiểu thế giới nhân vật của
Nguyễn Công Hoan trong tương quan so sánh với Sekhov còn là một điều khá
mới lạ đối với giới nghiên cứu. Với giới hạn và khuôn khổ của luận văn,
chúng tôi cố gắng đưa một cái nhìn mới mang tính khái quát về một vài đặc
điểm nổi bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Vì
vậy những vấn đề chúng tôi nêu ra chắc chắn còn chưa thật đầy đủ và thật sâu
sắc, chưa thật sự khai thác hết những đóng góp của hai nhà văn. Chúng tôi
mong muốn, hy vọng được trở lại vấn đề trong tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Antôn Sêkhốp và Nam Cao – nhìn từ góc độ thi
pháp”, Tạp chí nghiên cứu văn học (số 4), Viện văn học – Viện khoa học
xã hội Việt Nam.
3. Đào Tuấn Ảnh "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov. Thử một cách tiếp cận
mới", Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), Viện văn học - Viện khoa học
xã hội Việt Nam.
4. Đào Tuấn Ảnh (2004), "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov và sự tiếp nhận
sáng tác của ông ở Việt Nam", Báo cáo khoa học tại Hội thảo Kỷ niệm
100 năm ngày mất A.Sêkhov.
5. Trần Lê Bảo (2004), “A.Sêkhov và Lỗ Tấn dưới góc nhìn so sánh” (Hội
thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất A.sêkhov).
6. Nam Cao (2000), Con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
17. La Côn (1960), "Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Sê-Khốp", Tạp chí
văn học (số 2), tr. 60-71.
8. Trương Chính (1990), (viết chung) Tác phẩm văn học 1930 - 1945, tập I
Nxb Khoa học xã hội.
9. Trương Chính (1977), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb
xây dựng.
10. Phạm Vĩnh Cư (1996), "Đôi nét cơ bản về giao lưu văn học Việt Nam -
thế giới từ sau cách mạng tháng tám". In trong 50 năm Văn học Việt Nam
sau cách mạng tháng tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Dân (1995), Văn học so sánh, Nxb khoa học xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
12. Nguyễn Văn Dân (1988), Nghiên cứu văn học so sánh trước nhu cầu
đổi mới.
13. Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 – 1930, Nxb ĐH & TH chuyện nghiệp.
14. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam, NxbKhoa học xã hội.
15. Trần Thanh Đạm (1997), “ Mấy vấn đề về đối tượng chức năng của văn
học so sánh”, Tạp chí văn học (số 9) tr, 39 – 42.
16. Phan Cự Đệ (1982), “ Ảnh hưởng của tư tưởng mác xít và phong trào
cách mạng đối với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán Việt
Nam (1930 - 1945)”, Tạp chí văn học (số 6), tr,83 – 93.
17. Trần Hạc Đình (1936), “ Phê bình Kép Tư Bền Hà Nội báo” (số 2).
18. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NxbHà Nội.
19. Phan Hồng Giang T.Sekhov (1979), Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Phan Hồng Giang (2001), A.Sêkhốp, Nxb Hải Phòng.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Hải Hà (2004), “Cái mới trong truyện ngắn của A.Sêkhov”, (Hội
thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov.
23. Nguyễn Hải Hà (1992), Văn học Nga, sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
24. Hồng Hạnh (2001), “ Vấn đề "người trong bao" trong một số tác phẩm
của Sêkhốp”, Tạp chí văn học tuổi trẻ (số 12).
25. Lê Thị Đức Hạnh (1970) “ Mấy vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn
trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước các mạng”, Tạp chí văn học
(số 6) tr, 46 – 54.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
26. Lê Thị Đức Hạnh (1975), “ Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan”, Tạp chí văn học (số 5), tr. 121 – 132.
27. Lê Thị Đức Hạnh (1977), “Nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan”, Tạp trí văn học (số 4), tr. 83 – 93.
28. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ,
Nxb Khoa học xã hội.
29. Lê Thị Đức Hạnh (1990), “ Kép Tư Bền”, Tạp chí văn học (số 3), tr, 24 -
25.
30. Lê Thị Đức Hạnh . (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Nxb
KHXH, Hà Nội.
31. Lê Thị Đức Hạnh (1996), “Nguyễn Công Hoan - tài năng và nhân cách”,
Tạp chí tác phẩm mới (số 12).
32. Lê Thị Đức Hạnh (2003), Sưu tầm và biên soạn Nguyễn Công Hoan tác
giả, tác phẩm, Nxb Giáo dục.
33. Trọng Hiền (1960) Sê-Khốp nhà văn hiện thực vĩ đại, Báo văn nghệ (số 3)
34. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học.
35. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà
Nội..
37. Nguyễn Công Hoan (2005), Tác gia - tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1984), Nguyễn Công Hoan trong từ điển văn học
(tập hai), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Hoành Khung (1988), (viết chung) Văn học Việt Nam 1930 –
1945, tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
41. Phong Lê (1976), Nguyễn Công Hoan " Văn và người", Nxb Văn h ọc Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
42. Phong Lê (1993), “Nguyễn Công Hoan một đời văn lực lưỡng” , Tạp chí
văn học (số 6).
43. Phong Lê (2004), A.Sêkhov và Nam Cao " nhìn từ hai nền văn học". Tạp
chí văn học nước ngoài (số 4), Hội nhà văn Việt Nam.
44. Nguyễn Trường Lịch (2004), Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, (Hội
thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).
45. Mai Thúc Luân (1984), Nghệ thuật dân tộc quốc tế, Nxb Khoa học, Hà Nội.
46. Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Lê-nin V.I (1960), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, (phần khải
luận) – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. M.B kharapchenkô (1993), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người,
Nxb Khoa học, Hà Nội.
53. M.B kharapchenkô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
54. M.B kharapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự p hát
triển văn học, Nxbtác phẩm mới, Hà Nội.
55. M. Gorki (1998), Bàn về văn học, NxbVăn học, Hà Nội
56. Trần Quỳnh Nga (2000), “A.Sêkhov ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 10).
57. Phạm Xuân Nguyên (2004), Đặc điểm văn A.Sêkhov, (Hội thảo khoa
học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
58. Vương Trí Nhàn Bản dịch truyện ngắn và một giai đoạn giới thiệu văn
học nước ngoài ở Hà Nội, Evan. Vnexprress. Net.
59. Vương Chí Nhàn (2000), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
60. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, Văn học Việt Nam giao lưu
và gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội
62. Nhiều tác giả. (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Pespelop G.N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (hai tập), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
64. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
65. Đỗ Hải Phong (1971), Bài giảng Thi pháp A.Sêkhov của Truđacôp, Nxb
Giáo dục Maxcơva.
66. Vũ Dương Quý (1999), Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Sưu tầm và biên soạn tác phẩm bình luận văn
học, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
68. Sêkhov (1988), Truyện ngắn A.Tsêkhốp, Nxb Cầu vồng Maxcơva do
Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
69. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập một), Nxb Văn học, Hà Nội
do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
70. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập hai), Nxb Văn học, Hà Nội
do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.
71. Thiếu Sơn (2002), Phê bình “ Kép Tư Bền”, in lại trong tác giả tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Trần Đình Sử (1993) Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, BGD & ĐT -
Vụ giáo viên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
73. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học , Nxb giáo dục,
Hà Nội.
74. Timôphiep (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá.
75. Nguyễn Trác (1973), (viết chung) Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,
(tập V phần 1), Nxb Bộ giáo dục, Hà Nội
76. Nguyễn Thanh Tú (1995), “Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan trong truyện ngắn trào phúng”, Tạp chí văn học (số 6), tr, 7- 11.
77. Nguyễn Tuân (1957), Tìm hiểu Sêkhốp, Lời giới thiệu A.sêkhov truyện
ngắn (tái bản 2004), Nxb Hà Nội.
78. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn.
79. Vũ Thanh Việt (2000), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc
(sưu tầm và biên sọan), Nxb Văn học thông tin, Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thời gian - không gian nghệ thuật trong
truyện ngắn "Vaska" của A.Sêkhov. TCKH & CN Đại học Thái Nguyên
(số 3).
81. w w w. Can d. com. Vn. 12/2007
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9513.pdf