Thất thoát và lãng phí trong đầu tư thực trạng và giải pháp

Thất thoát và lãng phí trong đầu tư thực trạng và giải pháp CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ. 1. Lý luận chung về đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư Có rất nhiều cách định nghĩa về đầu tư, ví dụ như: Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu trong tương lai cho chủ đầu tư Đầu tư là sự bỏ ra, sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại (như vàng, tiền, sức lao động, cảu cải vật chất hay trí tuệ) nhằm đạt được những kết

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thất thoát và lãng phí trong đầu tư thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đầu tư cũng có thể hiểu là sự bỏ vốn dài hạn trong kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư là một hoạt động kinh tế: đem một khoản tiền đã được tích lũy để sử dụng vào một việc nhất định nhằm mục đích sinh lời. Hay theo luật đầu tư (năm 2005): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Nguồn lực đầu tư: Đầu tư phải sử dụng các nguồn lực to lớn của nền kinh tế. Các nguồn lực có thể bao gồm: tiền vốn, tài nguyên, nhà xưởng, đất đai, khoa học, công nghệ... Các nguồn lực này thường được quy đổi thành tiền để tổng hợp và so sánh và được gọi là vốn đầu tư. Điều đó không có nghĩa là vốn đầu tư chỉ bao gồm vốn bằng tiền. Vốn đầu tư : Theo luật đầu tư (năm 2005): Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Như vậy vốn phản ánh các nguồn lực được đưa vào sản xuất kinh doanh. Tiền được gọi là vốn khi nó được tích tụ và tập trung đến một mức độ nhất định và phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Đặc trưng của vốn: - Đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình. - Vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền. - Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một mức độ nhất định mới có thể phát huy tác dụng - Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Khi xác định rõ chủ sở hữu, đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu quả. - Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn biến động theo thời gian. Vốn đầu tư được thể hiện dưới 4 dạng sau đây: + Tiền mặt các loại (nội tệ, ngoại tệ) + Hiện vật hữu hình: nhà cửa, đất đai, máy móc thiết bị. + Hàng hóa vô hình: sức lao động, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín. Lao động: được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa là người sản xuất, còn người cung cấp hàng hóa là người lao động. Cũng như mọi hàng hóa trên thị trường khác, lao động được trao đổi trên thị trường, gọi là thị trường lao động. Giá cả của lao động là tiền công thực tế mà người sản xuất trả cho người lao động. Mức tiền công là giá của lao động. Đất đai: Trong kinh tế học, đất bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới lòng đất, và thậm chí các thành phần của phổ điện từ. Trong kinh tế học cổ điển nó được coi là một trong các yếu tố sản xuất, các yếu tố khác là tư bản và sức lao động. Tài nguyên: Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người. Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng. Công nghệ:Công nghệ (hay công nghệ học hoặc kỹ thuật học) có nhiều hơn một định nghĩa. Một trong số đó là phát triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con người. Thương hiệu: Thương hiệu là khái niệm trong người tiêu dùng về sản phẩm với dấu hiệu của nhà sản xuất gắn lên mặt, lên bao bì hàng hoá nhằm khẳng định chất lượng và xuất xứ sản phẩm. Thương hiệu thường gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất và thường được uỷ quyền cho người đại diện thương mại chính thức.Thương hiệu - theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): là một dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức. 1.1.2. Đối tượng đầu tư Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư được chia thành: loại được khuyến khích đầu tư và loại không được khuyến khích đầu tư, loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư được chia thành đầu tư vào tài sản vật chất và tài sản vô hình. Tài sản vật chất ở đây là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu… Đối tượng của đầu tư tài chính: các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Nhà đầu tư mua bán các chứng chỉ này để hưởng lãi suất (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (cổ phiếu). 1.1.3.Chủ đầu tư Theo luật đầu tư năm 2005 thì: “Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc thay mặt chủ sở hữu (người vay vốn) trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư”. Theo nghĩa đầy đủ, chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư và là người hưởng thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu mọi trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do đầu tư mang lại cho môi trường sinh thái, xã hội… Thực tế quản lý còn có những nhận thức không đầy đủ về chủ đầu tư. 1.1.4.Thời gian Hoạt động đầu tư là một quá trình, diễn ra trong một thời gian dài và tồn tại vấn đề độ trễ thời gian. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả đầu tư. 1.2.Phân loại đầu tư 1.2.1. Theo mối quan hệ với chủ đầu tư a. Đầu tư trực tiếp Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư và gánh chịu hoàn toàn rủi ro. Đầu tư trực tiếp lại chia thành đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch. Đầu tư phát triển là đầu tư trực tiếp làm tăng năng lực sản xuất và phục vụ xã hội. Nó được thực hiện thông qua việc xây dựng các cơ sở sản xuất, dịch vụ mới, cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở cũ. Đây là hình thức đầu tư quan trọng nhất vì nó làm tăng cả về số lượng và chất lượng năng lực sản xuất của nền kinh tế, tăng việc làm mới, làm tăng trưởng kinh tế. Đầu tư chuyển dịch là đầu tư trực tiếp không làm tăng năng lực sản xuất mà chỉ đơn thuần là sự chuyển quyền sở hữu các cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc các cổ phần của doanh nghiệp. Xét về mặt nào đó, đầu tư chuyển dịch cũng chứa đựng các yếu tố của đầu tư phát triển. Về phía người bán (hoặc cơ sở kinh doanh), họ sẽ thu được tiền và có thể đầu tư vào một lĩnh vực nào đó để tạo ra năng lực sản xuất mới (đầu tư phát triển). Về phía người mua, với mong muốn thu được nhiều lợi nhuận nên đã áp dụng phương thức quản lý mới, đổi mới dây chuyền công nghệ... tạo ra bước phát triển mới cho doanh nghiệp. Đây cũng là yếu tố của đầu tư phát triển. b. Đầu tư gián tiếp Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà chư đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư (họ không biết vốn của họ được sử dụng ở đâu? Như thế nào?...) Họ bỏ vốn và nhận được một lãi suất cố định và không gánh chịu những rủi ro của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đầu tư gián tiếp rất đa dạng, phong phú như: - Các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu... hoặc cho vay để hưởng lợi tức. - Các Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các Chính phủ các nước khác để phát triển kinh tế xã hội. - Các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế tài trợ hoặc cho các nước vay trong giới hạn của tổ chức. Đầu tư gián tiếp là một hình thức đầu tư rất phát triển ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trong đó có thị trường vốn hoàn chỉnh và đồng bộ. Việc chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là đứng trên góc độ quản lý của chủ đầu tư. Còn xét trên tổng thể nền kinh tế thì đó là chu trình đầu tư khép kín, không có giới hạn. Đầu tư gián tiếp, đầu tư chuyển dịch không tự nó vận động và tồn tại nếu không có đầu tư phát triển. Ngược lại, đầu tư phát triển có thể đạt được quy mô lớn hơn nếu như có sự phát triển của đầu tư gián tiếp. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa các hình thức đầu tư trên. 1.2.2.Theo loại hình đầu tư a. Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lợi nhuận tùy thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực (tài sản vật chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Mua cổ phiếu (đầu tư cổ phiếu) gắn với việc chuyển quyền sở hữu và hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử dụng. Do vậy, hai loại đầu tư này đều thuộc hoạt động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán v.v... Đầu tư tài chính còn có đặc điểm là: chủ đầu tư thường có kỳ vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hóa lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư. b. Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. 1.2.3.Theo nguồn vốn đầu tư a. Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm: - Nguồn vốn Nhà nước + Ngân sách Nhà nước: Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch đô thị và nông thôn. + Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: áp dụng cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. + Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp Nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư chiếm 14 - 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. - Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Nguồn vốn này có vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân cư, chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội. b. Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài. Theo tính chất luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài như sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODF): nguồn này bao gồm Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ khác. Trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và Chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn cho vay lớn, ODA còn có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%. Chính phủ Việt Nam ưu tiên nguồn vốn ODA cho các lĩnh vực giao thông vận tải; phát triển hệ thống nguồn điện; mạng lưới chuyển tải và phân phối điện; phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, tăng cường năng lực và thể chế… - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: thủ tục vay vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao; tuy nhiên không có ràng buộc về chính trị, xã hội. Nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận có thể được dùng cho đầu tư phát triển. - Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận vốn, thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. - Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế: Nhà nước rất quan tâm đến nguồn vốn huy động qua thị trường quốc tế thông qua việc triển khai các đề án phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ra nước ngoài. 1.2.4.Theo mối quan hệ và việc phân cấp quản lý Tùy theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành đầu tư theo các dự án trọng điểm quốc gia, dự án nhóm A, B, C. Loại  dự án đầu tư xây dựng công trình Tổng  mức đầu tư I Dự án quan trọng Quốc gia Theo Nghị quyết của Quốc hội II Nhóm A 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng. Không kể mức vốn 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất độc hại, chất nổ; hạ tầng khu công nghiệp. Không kể mức vốn 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở. Trên 600 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông. Trên 400 tỷ đồng 5 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản. Trên 300 tỷ đồng 6 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Trên 200 tỷ đồng III Nhóm B 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông, xây dựng khu nhà ở. Từ 30 đến 600 tỷ đồng 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông Từ 20 đến 400 tỷ đồng 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản. Từ 15 đến 300 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Từ 7 đến 200 tỷ đồng IV Nhóm C 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường phổ thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây dựng khu nhà ở. Dưới 30 tỷ đồng 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông. Dưới 20 tỷ đồng 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản. Dưới 15 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình:  y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Dưới 7 tỷ đồng 2.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư 2.1. Khái niệm về thất thoát và lãng phí trong đầu tư. 2.1.1. Thất thoát trong đầu tư. Có thể hiểu một cách khái quát, thất thoát trong đầu tư là phần vốn bị mất đi, thực tế không sử dụng vào dự án do bị bớt xén, cắt giảm không đúng quy định, không hợp lý hoặc do khai man, khai khống nhưng vẫn tính vào chi phí để rút vốn làm tăng vốn đầu tư, giảm chất lượng và hiệu quả dự án. 2.1.2. Lãng phí trong đầu tư Lãng phí trong đầu tư là những mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu tư, do ý thức chủ quan của con người, do yếu kém trong quản lý dẫn đến việc dử dụng vốn đầu tư không đúng mục đích, không đúng nhiệm vụ thiết kế, chất lượng công trình kém phải phá đi làm lại hoặc hoàn toàn không dùng được, bỏ đi không mang lại hiệu quả với chi phí cao hơn chi phí đầu tư cần thiết ho dự án được xác định theo tiêu chuẩn, định mức hay quy định của Nhà nước. 2.2. Tiêu chí xác định thất thoát và lãng phí trong đầu tư Giá trị lãng phí là tổng số tiền được đầu tư nhưng không mang lại hiệu quả cho công trình hoặc số tiền được sử dụng vào công trình nhưng bị tăng lên làm tăng chi phí đầu tư so với chi phí cần thiết được xác định theo tiêu chuẩn, quy định của Nhà nước. Giá trị lãng phí = Giá trị dự án không có hiệu quả = Giá trị thực tế thực hiện ─ Giá trị cần thiết theo quy định Giá trị thất thoát được hiểu là phần chi phí thực tế không được sử dụng vào công trình nhưng vẫn tính vào chi phí xây dựng công trình để rút vốn đầu tư Giá trị thất thoát = Giá trị thanh quyết toán ─ Chi phí thực tế Mức thất thoát, lãng phí còn được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa giá trị lãng phí, thất thoát và chi phí cần thiết để xây dựng dự án. Giá trị thất thoát, lãng phí m = Chi phí cần thiết theo tiêu chuẩn, quy định hiện hành Lãng phí, thất thoát trong đầu tư có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư: từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, bố trí kế hoạch, cấp phát vốn, bàn giao nghiệm thu công trình. Trong thực tế, thất thoát và lãng phí không phải lúc nào cũng tách bạch mà nó đan xen lẫn nhau, trong thất thoát có lãng phí và trong lãng phí có thất thoát, cái này là nguyên nhân, cái kia là hệ quả và ngược lại. 2.3.Nội dung thất thoát và lãng phí trong đầu tư. Thất thoát trong đầu tư được biểu hiện như sau: Công trình xây dựng bị bớt xén khối lượng vật tư hoặc sử dụng vât tư sai chủng loại, làm kém chất lượng, chi phí không đúng quy định ảnh hưởng đến chât lượng công trình: như bớt xén xi măng, sắt thép không đúng quy định làm giảm cường độ chịu đựng, thay đổi nguyên vật liệu xây dựng bằng các vật liệu khác chất lượng kém hơn, không đúng theo thiết kế được phê duyệt, làm giảm chất lượng công trình. Sử dụng tiền đền bù để giải phóng mặt bằng không đúng mục đích, kê khai khống khối lượng đền bù, làm giả hồ sơ để nhận tiền đền bù… nên phải điều chỉnh lại để bổ sung chi phí. Áp dụng định mức, đơn giá sai: Kê khai nghiệm thu khống khối lượng, hoặc đánh giá sai chất lượng công trình, khi thẩm tra, thẩm định không đúng dẫn đến thanh toán sai làm tăng chi phí xây dựng. Thanh quyết toán khống so với giá thực, bớt xén hoặc sử dụng chi phí xây dựng công trình không đúng quy định. Thất thoát trong đầu tư do chính những đối tượng tham gia vào quá trình đầu tư như chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu nhằm vụ lợi cá nhân, và được gọi là tiêu cực, còn một phần do lỗi khách quan như trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm thực hiện công việc của những người tham gia. Lãng phí trong đầu tư được biểu hiện như sau: Thời gian xây dựng kéo dài, do bàn giao mặt bằng chậm, bố trí vốn không đủ, xây dựng không đồng bộ, do chậm nghiệm thu, thanh quyết toán để đưa công trình vào khai thác, sử dụng làm mất cơ hội kinh doanh, phải trả thêm lãi vay trong thời gian xây dựng. Thiết kế quá hoặc không đạt tiêu chuẩn quy định phải bỏ thêm chi phí để xử lý. Chất lượng xây dựng không được đảm bảo, phải phá đi làm lại. Nhà máy xây xong không có nguyên liệu để sản xuất phải phá đi hoặc di dời sang vùng có nguyên liệu. Chợ xây xong không có người đến họp, bị bỏ phí không mang lại hiểu quả. Hệ thống cấp nước chỉ chú trọng đầu tư nhà máy mà thiếu mạng đường ống phân phối đến các hộ tiêu thụ, nước sản xuất ra không cung cấp được đến hộ tiêu thụ. Trong thực tế, thất thoát và lãng phí không phải lúc nào cũng tách bạch mà nó đan xen lẫn nhau, trong thất thoát có lãng phí và trong lãng phí có thất thoát, cái này là nguyên nhân, cái kia là hệ quả và ngược lại. Cụ thể nội dung của thất thoát và lãng phí được biểu hiện như sau: 2.3.1.Theo nguồn vốn đầu tư 2.3.1.1.Nguồn vốn đầu tư trong nước 2.3.1.1.1.Nguồn vốn Nhà nước Đầu tư xa rời mục tiêu kinh tế xã hội, không sát với thực tế nhu cầu khách quan Đầu tư sai mục đích: nhiều địa phương cắt giảm tiền vốn đầu tư cho phát triển để bố trí không đúng quy định cho các mục tiêu khác. Đầu tư dàn trải, không có quy hoạch hay định hướng cụ thể: Nhà máy xây dựng xong phải di dời hoặc hoạt động dưới công suất do không có đủ nguyên liệu đầu vào, chợ xây dựng xong không có người họp, cầu xây xong không có người đi vì chưa làm đường dẫn lên cầu. Đầu tư theo phong trào, hàng loạt nhà máy mía đường mọc lên, dân ồ ạt trồng mía, rồi thấy giá rẻ lại phá đi trồng cây khác, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu, nhà máy hoạt động dưới công suất. Bố trí cho lĩnh vực đầu tư thấp hơn Trung ương giao. Một số trường hợp tuy phải bổ sung chi phí hoặc chi phí đầu tư cao hơn mức cần thiết di các điều kiện thực tế nhằm đảm bảo dự án được hoạt động an toàn hơn, hiệu quả hơn, được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì các chi phí tăng thêm này không được tính là lãng phí. Tiền đầu tư vào dự án không được sử dụng đúng mục đích mà bị bớt xén, móc ngoặc với nhau, áp dụng đơn giá sai định mức, sủ dụng những vật liệu kém chất lượng. Tiếp tục đầu tư những dự án không hiệu quả dẫn tới hàng loạt các công trình dự án đầu tư sau khi hoàn thành không đạt được hiệu quả kinh tế xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguồn lực. Dự án đầu tư dở dang, bỏ hoang, không thể sử dụng được. Chi vượt dự toán xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương. Tiến độ thi công chậm trễ kéo dài dẫn tới hiệu quả công trình đó bị sụt giảm. Bởi lẽ khi đưa vào sử dụng những điều kiện kinh tế xã hội đã rất khác so với lúc xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật. Tính năng kỹ thuật trang kỹ thuật trong dự án công trình đã lỗ thời, trong khi giá thiết bị so với tính năng kỹ thuật trở nên quá đắt. Không những vậy, khi dự án công trình kéo dài, giá đất càng tăng kéo theo tiền giải phóng mặt bằng và tái định cư trong các dự án đó lên cao làm cho tổng dựu toán tăng. Áp dụng định mức, đơn giá sai: kê khai nghiệm thu khống khối lượng, hoặc đánh giá sai chất lượng công trình, khi thẩm tra, thẩm định không đúng dẫn đến thanh toán sai làm tăng chi phí xây dựng dẫn đến giá công trình lớn hơn giá thực tế. 2.3.1.1.2. Theo nguồn vốn của dân cư và tư nhân. Vốn tư nhân là phần tích lũy của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và huy động từ nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có, tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ, sinh hoạt xã hôi, và sinh hoạt tỏng mỗi gia đình. Nguồn vốn này thường được sử dụng sao cho đạt được hiệu quả tối đa và có sự giám sát khá chặt chẽ từ phía người cung cấp vốn. Vì vậy, thất thoát và lãng phí thường ít xảy ra do nguyên nhân chủ quan, mà thường xuất phát từ nguyên nhân khách quan, như do thủ tục hành chính rườm rà, dẫn đến thời gian chuẩn bị hồ sơ kéo dài, mất cơ hội kinh doanh, tăng chi dự toán, hoặc bị cắt xén trong quá trình thuê thi công, thẩm định…do không hiểu rõ về giá cả, hay các quy định cụ thể khác. 2.3.1.2. nguồn vốn đầu tư nước ngoài 2.3.1.2.1 nguồn vốn ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Thất thoát và lãng phí trong sử dụng nguồn vốn ODA biểu hiện ở những mặt sau: - Tình trạng :lãng phí kép”: : tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội. - Chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do thủ tục phức tạp, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.  - Việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.  Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu.Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. 2.3.1.2.2. Nguốn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Thất thoát và lãng phí trong vốn FDI thể hiện ở những mặt sau: Tốc độ giải ngân chậm: Chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI (năm 2006)10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.  Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho phát triển. Tình trạng khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu Việt Nam khó khăn, làn sóng đầu tư vào nước này sẽ nhỏ dần, thậm chí m._.ất hẳn. Cố gắng lôi lại đà đó không hề dễ dàng.  Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh. Việt Nam cũng có thể học bài học Philippine khi nước này quyết định mở cửa thị trường điện để nhà đầu tư nước ngoài vào tham gia. Chỉ trong vài năm, nhu cầu điện đã được đáp ứng cơ bản. Nhờ đó, Philippine đã giảm tải được nguồn vốn lớn mà ngân sách phải bỏ ra cho phát triển hạ tầng điện, dành đầu tư cho lĩnh vực khác. Việc mở cửa thị trường điện nhiều nước khác cũng đã làm rồi.  2.3.1.2.3. Thị trường vốn quốc tế. Nguồn vốn này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội, thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển. Thất thoát và lãng phí đối với nguồn vốn này thường ít xảy ra, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở quy mô nhỏ, khi nhân viên các công ty xuất nhập khẩu hoặc các cơ quan chức năng bớt xén trong quá trình thực thi nhiệm vụ. 2.3.2.Theo giai đoạn đầu tư Thất thoát và lãng phí xảy ra ở hầu hết các giai đoạn đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án rồi vận hành kết quả đầu tư. 2.3.2.1.Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư Nguồn vốn này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội, thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển. Thất thoát và lãng phí đối với nguồn vốn này thường ít xảy ra, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở quy mô nhỏ, khi nhân viên các công ty xuất nhập khẩu hoặc các cơ quan chức năng bớt xén trong quá trình thực thi nhiệm vụ. a.Trong khâu thiết kế: - Khảo sát sơ sài, khảo sát sai sót không đúng quy định tiêu chuẩn… dẫn đến thiết kế sai, chất lượng thiết kế không đảm bảo an toàn, phương án thiết kế không hợp ly. - Sử dụng tiêu chuẩn thiết kế không phù hợp làm cho chất lượng công trình không đảm bảo, phải khắc phục sửa chữa, trong nhiều trường hợp phải thay đổi cả thiết kế làm phát sinh chi phí và chậm tiến độ thi công. b.Trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng - Bớt xén tiền đền bù của dân, đền bù không thỏa đáng, khai khống số lượng hộ được đền bù, và chi phí đền bù. - Móc ngoặc với người được đền bù, nâng giá trị đền bù cho dân, khai khống diện tích, khối lượng cần được giải tỏa để ăn chia chênh lệch c.Trong công tác quy hoạch: - Tầm nhìn ngắn thiếu tính chiến lược, không phù hợp với cơ chế thị trường: Việc bố trí các công trình ở các vùng, địa phương quá gần nhau mà chưa tính đến sự liên kết trong việc khai thác có hiệu quả hạ tầng kỹ thuật, chưa phù hợp với khả năng phát triển kinh tế, nên khi thực hiện phải đổi địa điểm xây dựng gây lãng phí rất lớn. - Chất lượng quy hoạch thấp: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ thiếu sự liên kết chặt chẽ. - Đầu tư dự án không tính đến nguồn cung cấp nguyên liệu sản xuất tương ứng với quy mô của nhà máy dẫn đến thiếu nguyên liệu, nhà máy xây dựng xong phải bỏ ngỏ vì thiếu nguyên liệu đầu vào. - Ý thức chấp hành quy hoạch chưa nghiêm, trình độ cán bộ quy hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều này gây ra việc xây dựng quy hoạch cho các công trình không hợp lý, gây lãng phí rất lớn cho cả nguồn vốn trong và ngoài nước. 2.3.2.2.Trong giai đoạn thực hiện đầu tư Giai đoạn này bao gồm các bước: hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, thi công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng. Đây là giai đoạn mà việc chi phí vốn được tiến hành dồn dập với khối lượng lớn. Ở giai đoạn này, vấn đề thời gian rất quan trọng, vì trong suốt thời gian thực hiện đầu tư, đồng tiền bị khê đọng, không sinh lời. Biểu hiện của thất thoát và lãng phí trong giai đoạn này thể hiện ở các mặt sau: a.Trong việc bố trí và sử dụng vốn: Bố trí vốn không phù hợp: công trình khởi công không được bố trí vốn hoặc bố trí vốn chậm. - Việc triển khai kế hoạch giải ngân hàng năm bị chậm, đồng thời với việc chậm và thiếu vốn sẽ gây hiện tượng tiêu cực là đi chạy chỉ tiêu kế hoạch, chạy vốn, dẫn tới việc phân phối kém khách quan, bố trí kế hoạch phân tán, dàn trải không theo tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng, làm tăng chi phí không cần thiết, chậm đưa công trình vào sử dụng gây thất thoát, lãng phí. - Từ việc bố trí và sử dụng vốn không phù hợp dẫn đến tình hình nợ đọng khá phổ biến, đẩy các công ty xây dựng vào bờ vực phá sản do phải chịu lãi suất ngân hàng mà không được bên A thanh toán. b.Việc thực hiện quy chế đấu thầu - Thu phí của phụ thầu sai chế dộ, điểu chỉnh giá dự thầu sai quy định. - Trong quá trình đấu thầu, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng thường xảy ra do chủ đầu tư thông đồng với một hoặc nhiều đơn vị tham gia đấu thầu để nâng giá công trình chia nhau. Trong trường hợp này chủ đầu tư thường tiết lộ những thông tin quan trọng trong hồ sơ thầu của đối thủ cạnh tranh, thậm chí còn hướng dẫn cách lập hồ sơ thầu có lợi cho việc chọn đơn vị trúng thầu đã được thông đồng. - Tổ chức lập hồ sơ mời thầu, xét thầu không chặt chẽ nên không đạt được mục đích của việc đấu thầu là cạnh tranh công bằng để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo chất lượng, hiệu quả. - Có sự chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu. Để đạt được mục đích trúng thầu thi công công trình, nhiều nhà đầu tư đã cố tình bỏ giá thầu thấp, thậm chí chỉ bằng một nửa so với giá mời thầu. Do đó, trong quá trình thi công buộc các nhà thầu phải bớt xén nguyên vật liệu thậm chí làm sai quy trình, quy phạm dẫn đến công trình không đảm bảo chất lượng theo thiết kế, kéo dài thời gian thi công và nhà thầu vừa thi công vừa tìm mọi cách để tạo ra phát sinh tăng giá. Kết quả là công trình kéo dài mà giá trị quyết toán công trình vẫn cao hơn giá trúng thầu, tạo ra lãng phí, thất thoát. 2.3.2.3.Trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư Giai đoạn này được tiến hành dựa trên cơ sở kết quả của hai giai đoạn đầu, những thiếu sót của các công việc đã thực hiện ở hai giai đoạn trên nếu sửa đổi trong giai đoạn này thì sẽ rất khó khăn, nhiều khi vượt quá khả năng của chủ đầu tư. Thất thoát và lãng phí trong giai đoạn này được thể hiện ở các mặt sau: - Công tác quản lý chất lượng kém, vi phạm các quy định tiêu chuẩn quản lý chất lượng dẫn đến các hiệu quả công trình phá đi làm lại, tuổi thọ công trình giảm, gây lãng phí, thất thoát lớn. - Công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu. - Khi thời gian thực hiện một dự án công trình, vì nhiều lý do, bị kéo dài, hiệu quả của dự án công trình đó sẽ bị sụt giảm bởi lẽ khi đưa công trình vào sử dụng, những điều kiện kinh tế - xã hội đã rất khác so với lúc xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật. Tính năng kỹ thuật của các trang thiết bị trong dự án công trình bị lỗi thời trong khi giá thiết bị so với tính năng kỹ thuật trở nên quá đắt. 2.3.2.4.Trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư Nghiệm thu, thanh quyết toán chưa đúng quy định: lập quyết toán sai so với thực tế đã thi công. 2.3.3.Theo loại hình doanh nghiệp 2.3.3.1.Doanh nghiệp Nhà nước: Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Thất thoát và lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước biểu hiện ở một số nội dung sau: Tiền đầu tư vào dự án không được sử dụng đúng mục đích mà bị bớt xén, móc ngoặc với nhau, áp dụng đơn giá sai định mức, sử dụng những vật liệu kém chất lượng Thẩm định không đúng, khai khống làm tăng chi phí xây dựng Thực hiện dự án chậm tiến độ, kéo dài thời gian đầu tư, dẫn đến nhà nước phải trợ giá và bù lỗ. Nguồn vốn thực hiện các dự án trong doanh nghiệp Nhà nước có thể từ nguồn vốn trong nước hoặc nguồn vốn nước ngoài đầu tư. Thất thoát và lãng phí xảy ra ở cả hai loại nguồn vốn đầu tư này. Đặc biệt là đối với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại ODA. 2.3.3.2.Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do tính chất doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm về tất cả những chi phí của dự án, nên doanh nghiệp tư nhân thường phải thực hiện dự án sao cho có hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Chính vì vậy, thất thoát và lãng phí ở doanh nghiệp tư nhân thường từ phía khách quan như: không hiểu rõ về xây dựng, dẫn đến bị bớt xén từ phía những người trực tiếp thi công, hoặc phải chi tăng vốn do không hiểu biết về giá cả thị trường. Tuy nhiên, nói chung, thất thoát và lãng phí ở doanh nghiệp tư nhân thường ít xảy ra, nếu xảy thì cũng ở mức không nghiêm trọng và ít được công khai. 2.3.3.3.Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi triển khai thực hiện các dự án, thì hoặc là sẽ có người Việt Nam hoặc người nước ngoài chịu trách nhiệm quản lý dự án. Vì vậy, thất thoát và lãng phí xảy ra khi những nhà quản lý Việt Nam thông đồng với nhau để rút bớt phần vốn của dự án. Thực tế thì điều này khó xảy ra, do quy trình quản lý vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất chặt chẽ. Hơn nữa, khi đầu tư vào công trình ở Việt Nam thì mục tiêu cao nhất của họ là chất lượng và hiệu quả, nên thất thoát và lãng phí khó xảy ra. Chương 2 : Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam trong những năm gần đây 1. Tổng quan tình hình đầu tư ở Việt Nam 1.1.Thực trạng đầu tư chung ở Việt Nam những năm gần đây Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển trong những năm qua, ngày càng tăng. Trong giai đoạn từ năm 2001-2005 Tổng chi Ngân sách Nhà nước bình quân bằng 28% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng không có sự gia tăng đáng kể: Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn này chiếm 5,6% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng số vốn toàn xã hội. Nguồn vốn dân cư và tư nhân tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỉ trọng chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt dự kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng; đồng thời đã có nhiều hình thức huy động mới như công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị..., tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra cơ cấu hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng mức vốn cam kết hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ dang hoạt động. Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Tính từ năm 1998 đến giữa năm 2007, trên phạm vi cả nước đã có hàng nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là hơn 75 tỷ triệu USD. Trong giai đoạn 2001-2006, FDI chiếm trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho dến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vũng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư dưới các hình thức khác nhau. 1.2.Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực đầu tư: Huy động các nguồn vốn đầu tư trong những năm qua tăng khá: Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP không ngừng tăng... Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã có tác động thu hút được các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách Nhà nước hạn hẹp, Chính phủ đã thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình... góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đấu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, trong chỉ đạo, điểu hành của Chính phủ: Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước và tạo khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời, Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư, giảm bớt sai sót, vi phạm, thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã tăng cường được vai trò của Hội đồng Nhândân, coi trọng sự tham gia giám sát cúa cộng đồng và các tổ chức xã hội. 1.3.Một số tồn tại trong đầu tư Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư của nền kinh tế Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn nhanh. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây. Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80 - 90% mức đề ra. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ vững chắc, nhất là cấc thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp... Quản lý Nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liện quan đến công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm.Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng thấp vẫn được thông qua. Bố trí đầu tư còn dàn trải: Nhìn chung, bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn: Lãng phí, thât thoát vốn đầu tư hàng năm của Việt Nam phải lên tới hàng tỉ đồng. Thực tế tình trạng này diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, dự án, lĩnh vực. Tỉ lệ thất thoát, lãng phí của những công trình có mức lãng phí, thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra được những sai phạm. Tình hình nợ đọng trong đầu tư còn là vấn đề bức xúc: Nợ đọng trong đầu tư, đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng). Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay: Công tác quản lý đầu tư còn nhiều thiếu sót, buông lỏng: công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng. Những tồn tại trong công tác đấu thầu: Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tình hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Các quy định trong một số hộp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện. Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp: Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yếu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. 2.Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam trong những năm gần đây 2.1.Tình hình chung về thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam những năm gần đây Lãng phí và thất thoát là hai căn bệnh trầm kha trong đầu tư ở Việt Nam. Theo đánh giá của giáo sư Dapice: “Tỉ lệ thất thoát, lãng phí vốn đầu tư hàng năm của Việt Nam phải lên tới hàng tỉ USD”. Thực tế là qua kiểm tra đã phát hiện tình trạng thất thoát và lãng phí diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ lệ thất thoát và lãng phí của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành công và không tiêu thụ được... Đúng là sờ đâu trúng đó, thanh tra tới đâu thì phát hiện sai phạm đến đó. Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra được những sai phạm. Nếu chỉ lấy con số thất thoát, lãng phí là 15% với dao động 3% như đề tài đánh giá tỉ lệ lãng phí, thất thoát do Tổng hội Xây dựng Việt Nam báo cáo, thì con số lên tới hàng chục ngàn tỉ đồng/năm. Bảng: Mức thất thoát và lãng phí trong đầu tư trong những năm gần đây trong các dự án tiến hành kiểm tra Bảng: Thất thoát, lãng phí trong năm 2002-2003 Năm Số dự án kiểm kiểm tra Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Mức thất thoát và lãng phí (tỷ đồng) 2002 995 20.736 1.151 2003 14 14 (cấp Trung ương) 2.138 (cấp địa phương) 8.193 6.571 1.235 217 (Nguồn vietnamnet) Cụ thể, kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm tài chính lên tới 13%. Đó là chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất. Năm 2003, qua thanh, kiểm tra 14 dự án, công trình cấp Trung ương có tổng vốn đầu tư hơn 8.192 tỷ đồng đã phát hiện sai phạm 1.225 tỷ đồng, chiếm 14% tổng số vốn được thanh tra. Thanh tra các điạ phương kiểm tra 2.138 dự án có tổng vốn đầu tư hơn 6.571 tỷ đồng đã phát hiện sai phạm hơn 217 tỷ đồng, chiếm 4,6% tổng số vốn được thanh kiểm tra. Tỷ lệ thất thoát trung bình của các dự án, công trình cấp Trung ương là 5%, cấp địa phương là 6% và ở các ngành là 7%. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư”. Trong 6 tháng đầu năm 2004, thanh tra cũng đã phát hiện sai phạm về kinh tế trị giá 539 tỷ đồng. Năm 2005, lần đầu tiên căn bệnh thất thoát, lãng phí này được "bắt mạch" một cách rõ ràng thông qua việc Tổng hội Xây dựng (HXD) VN công bố 59 địa chỉ công trình có thất thoát trong đầu tư, xây dựng. Tuy đến năm 2006, con số này dù có giảm, song vẫn là con số "nóng" về thất thoát, lãng phí. Theo thống kê này, vẫn còn tới 43 dự án đầu tư xây dựng có thất thoát, lãng phí. 2.2.Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư theo nguồn vốn 2.2.1.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư sử dụng nguồn vốn trong nước 2.2.1.1.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế quy mô tổng thu ngân sách Nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước...). Đi cùng sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư đặc biệt là đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau: Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước % 2000 2001 2002 2003 2004 TỔNG CHI 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Trong tổng chi Chi đầu tư phát triển 27.19 31.00 30.51 32.91 30.87 Trong đó: Chi XDCB 24.06 27.85 27.49 30.04 28.83 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội 56.74 55.14 52.66 52.77 50.42 (Nguồn tổng cục thống kê) Tuy nhiên không phải tất cả số tiền từ Ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển đều được sử dụng hiệu quả.Trong khi nhu cầu sử dụng ngân sách để phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở tất cả các tỉnh, thành phố đều rất lớn thì một số bộ, ngành, địa phương vẫn sử dụng ngân sách một cách vô lối. Tình trạng lãng phí thất thoát diễn ra phổ biến và nghiêm trọng ở hầu hết các công trình dự án sủ dụng vốn từ ngân sách Nhà nước. Tiền của của dân, của nước cứ như không cánh mà bay, đây đó họ xài ngân sách như xài tiền chùa. Thực tế hiện nay tình trạng sử dụng Ngân sách Nhà nước sai mục đích, chi sai chế độ, chi vượt dự toán xảy ra khá phổ biến tại nhiều địa phương, gây thất thoát, lãng phí lớn đối với Ngân sách Nhà nước, tức là tiền đóng thuế của người dân. Ai cũng biết rằng Luật Ngân sách nhà nước đã nghiêm cấm các trường hợp cho vay và sử dụng ngân sách nhà nước trái quy định. Nhưng, như lời Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng tại QH: “Một số địa phương, bộ ngành vẫn sử dụng ngân sách nhà nước cho vay, tạm ứng tương đối lớn và kéo dài nhiều năm”. Kết quả kiểm tra cho thấy nhiều bộ, ngành, đơn vị đã cho vay, tạm ứng tới 683 tỉ đồng. Đứng đầu là TP Hồ Chí Minh (cho vay 357,5 tỉ đồng), tỉnh Quảng Nam (83 tỉ đồng)... Một phần không nhỏ trong số đó là tạm ứng cho các cá nhân. Theo kêt quả kiểm toán tiến hành trong năm 2003 của 55 dự án vốn ngân sách nhà nước với tổng vốn đầu tư 701 tỉ đồng, có 22 dự án vi phạm với tổng số tiền 40 tỉ đồng, chiếm 5,7%; Chỉ một đợt kiểm toán trên đã giúp tăng thu và giảm chi được 162 tỉ đồng... Vậy là một con số rất ấn tượng bởi vì nếu kiểm tra đầy đủ ở tât cả các địa phương, bộ ngành, doanh nghiệp còn lại thì còn làm dôi ra cho ngân sách biết bao nhiêu. Kết quả kiểm toán niên độ ngân sách năm 2005 tại 32 tỉnh, thành phố, 10 bộ cơ quan Trung ương, 16 dự án chương trình trọng điểm, 22 công ty doanh nghiệp công nghệ... đã phát hiện, kiến nghị xử lý về tài chính 7.622 tỉ đồng chi sai nguyên tắc, trong đó có hơn 1.399,5 tỉ đồng từ ngân sách đã mất, thất thoát không thể thu hồi, xử lý các khoản tạm thu, tạm giữ 286,7 tỷ đồng, cho vay tạm ứng không đúng quy định, sai phạm khác là 2.735,8 tỉ đồng... Kiểm toán còn phát hiện một loạt sai phạm khác trong việc sử dụng ngân sách tùy tiện, sai mục đích, quy định gây thất thoát và lãng phí lớn, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư phát triển và chi tiêu công. Chẳng hạn vụ bê bối trong việc thực hiện Đề án 112 (Tin học hoá) gây thất thoát và lãng phí hàng ngàn tỷ đồng ngân sách Nhà nước. Một đề án lớn, được thực thi tùy tiện, sai phạm, vụ lợi được thực hiện và tiếp tay từ một số cán bộ của Văn phòng Chính phủ. Họ không chỉ yếu kém về năng lực chuyên môn mà còn tha hoá về đạo đức cách mạng. Họ đã tự nâng khống giá thiết bị, in ấn tài liệu để bòn rút tiền đóng của dân. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, hàng ngàn tỉ đồng của dân đã ném xuông sông xuống biển và chui vào túi riêng của không ít quan tham, do Đề án 112 bất khả thi, không đưa vào ứng dụng được. Thậm chí có địa phương sử dụng sai ngân sách dự phòng dành cho công tác phòng chống lụt bão, nhưng gây bức xúc nhất là có địa phương sử dụng đến 17 tỉ đồng ngân sách dự phòng để mua xe con. Người dân bức xúc nhất là việc sử dụng xe công sai mục đích diễn ra tràn lan tại nhiều địa phương. Tình trạng sử dụng xe công vào việc riêng, dùng để đi chùa trong dịp lễ hội đã được dư luận phản ánh nhiều. Người ta còn sử dụng xe cứu thương để đi nhậu, đi chơi thì không thể chấp nhận được. Trong lĩnh vực đầu tư bằng nguồn vốn trong nước, chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước thì trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản thất thoát và lãng phí diễn ra phổ biến và nghiêm trọng nhất. “Thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện nay đã trở nên phổ biến, và giới chuyên môn có nhiều nhận định khác nhau về tỷ lệ thất thoát, nhưng tỷ lệ đó có thể lên đến 30%”. Tuy nhiên, khó có bằng chứng xác thực về vấn đề này. Nếu lấy tỷ lệ thất thoát của Sở Giao thông Công chính Hà Nội là 7% làm cơ sở, thì mỗi năm thành phố cũng “mất” đến hàng nghìn tỷ đồng. Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa có thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập. Tuy nhiên có thể đưa ra một số đánh giá về thất thoát vốn đầu tư: Năm Số DA tiến hành thanh tra Tổng mức vốn đầu tư (tỷ đồng) Sai phạm về tài chính (tỷ đồng) Tỉ lệ (%) 2002 17 9.385 871 13,6 2003 14 8.193 1.235 19 2004 64 6.000 1.134 18,9 2005 84 2.054,2 402 19,6 Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trình bày trước Quốc hội sáng 16/11). Thanh tra Nhà nước năm 2002 đã tiến hành thanh tra 17 dự án có tổng mức đầu tư là 9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu  tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ đồng. Tổng số sai phạm về tài chính phát hiện ở 17 dự án là 871 tỷ đồng, chiếm 13,6%. Năm 2003 đã thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu tư là 8.193 tỷ đồng trong đó giá trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.450 tỷ đồng. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế do làm trái các quy định của Nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm khoảng 19%. Năm 2004, tổng vốn đầu tư của ngành giao thông công chính là 3.149 tỉ đồng, thì mới thấy được số tiền thất thoát lớn đến mức nào – 220 tỉ đồng. Trong 648 dự án được kiểm toán với giá trị khoảng 6.000 tỷ đồng có sai sót 159 tỷ đồng, chiếm 2,6% giá trị được kiểm toán. Năm 2005 được thành phố xác định là năm chống lãng phí thất thoát - chủ yếu là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách thì số tiền thất thoát cũng lên đến gần 1.200 tỉ đồng. Trong 585 dự án được giám sát đã phát hiện và xử lý một s._. còn như mong muốn. Với quan niệm vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước phải phân cân bằng và chia đều cho các vùng, miền, ngành nghề, khu vực, cộng với thực tế nhu cầu đầu tư rất lớn nên khi phân bổ chúng ta thường bị căng kéo bởi nhiều mục tiêu. Chính vì vậy hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước đạt thấp thể hiện rất rõ thông qua tình trạng đầu tư dàn trải, tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài. Số dự án đầu tư tăng nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Không chỉ vậy,chúng ta vẫn còn có thói quen sản xuất ra những thứ mình có chứ không phải là những thứ thị trường cần tức là vấn đề hiệu quả kinh tế chưa được xem trọng đúng mức. Chẳng hạn, để thực hiện chủ trương sản xuất mía đường, chúng ta đã đầu tư xây dựng 32 nhà máy cán và lọc mía đường với tổng số vốn đầu tư 750 triệu USD và 350 triệu USD xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng theo đánh giá của WB thì khả năng thu hồi vốn chỉ đạt 60-70% do các nhà máy hoạt động không đúng công suất, do quy hoạch sai, do khi thiết kế không tính đến việc quy hoạch nguyên liệu dẫn đến việc di dời rất tốn kém. 2.4. Không công khai minh bạch trong quy trình đầu tư Một thực tế đang diễn ra đối với hoạt động đầu tư là tính công khai, minh bạch không đảm bảo. Quy hoạch không được công khai kể cả quy trình thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư cũng chưa được công khai hoá. Đặc biệt hoạt động đầu thầu, đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách, vần đề công khai hoá lại càng không được thực hiện, nhiều công trình đáng lẽ phải được đầu thầu rộng rãi nhưng cũng không được công khai, nhiều nhà thầu không biết đến sau đó kết quả gói thầu, giá trúng thầu lại cũng không được công khai. Trong công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm cũng chưa thực hiện được vấn đề này. Chính những điều này đã làm giảm hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư, gây thất thoát lãng phí tài sản của Nhà nước, của nhân dân. 2.5. Nguồn vốn ngân sách hạn hẹp Hàng năm, vốn đầu tư ngân sách chỉ khoảng 15-20% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, mà trong đó, một phần nửa số vốn đi vay (ODA) nên nhiều hạn chế trong việc bố trí đầu tư, hơn nữa lại đang có chủ trương cắt giảm trong thời gian tới, việc co kéo bới nhiều nhu cầu cấp bách. Trong khi đó, các Bộ, ngành chưa quan tâm đến việc tạo thêm các nguồn vốn khác để cải thiện cơ cấu đầu tư, trông chờ vào ngân sách Nhà nước nên hiện tượng cấp phát vốn bình quân vẫn còn là phổ biến. Dẫn đến tình trạng rất nhiều dự án cùng được thực hiện nhưng không có đủ vốn để thanh quyết toán đã hoàn thành hoặc hiện tượng các công trình dở dang gây lãng phí nghiêm trọng. 2.6.Trình độ năng lực yếu kém và sự thoái hoá về đạo đức của một số không ít các chủ đầu tư và ban quản lý dự án. Năng lực hạn chế của cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kiểm toán còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực hành nghề về chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần. Chẳng hận như do năng lực của chủ đầu tư và ban quản lý còn hạn chế nên dẫn đến tình trạng quy hoạch thiếu chính xác về mặt địa chất cũng như cả về mặt kỹ thuật, kinh tế - các yếu tố quan trọng quyết định tính hiệu quả của dự án đầu tư. Chính vì vậy mà rất nhiều dự án, công trình đầu tư khi hoàn thành nhưng không sử dụng được hoặc có được sử dụng nhưng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Sự thoái hoá về mặt đạo đức của không ít các chủ đầu tư và ban quản lý dự án là môt trong những nguyên nhân gây ra thất thoát và lãng phí trầm trọng. Họ đã bất chất các quy định của pháp luật, coi nhẹ những hiểu biệt về quy luật thị trường tìm mọi cách rút ruộc công trình, mang về cho mình một khoản tiền béo bở bằng việc thông đồng với nhau (giữa chủ đầu tư với ban quản lý) để có thể bớt xen vật tư, nguyên vật liệu hay thay đổi thiết kế để có thể làm giảm chi phí thi công, khoản chi phí giảm đó sẽ nghiễm nhiên ở trong túi họ. Thực tế tình trạng này diễn ra rất phổ biển và nó đã trở thành một “căn bệnh kinh niên” trong đầu tư, chẳng hạn như việc không tuân thủ các quy chế trong đầu thầu: Theo quy định hiện hành phải thực hiện đầu thầu cạnh tranh rộng rãi để lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực để thi công công trình, song việc chỉ định thầu không đúng quy định vẫn diễn ra phổ biến, ý thức chấp hành quy chế đấu thầu đã dẫn đến tình trạng mua bán thầu. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ THẤT THOÁT VÀ LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ 1.Các giải pháp vĩ mô: Các quy định quản lý đầu tư là cơ sở, là “cái gậy” của cán bộ quản lý. Nếu nghiêm cứu chưa kỹ thì có nhiều sơ hở dẫn đến hay thay đổi và ban hành không đồng bộ thì dẫn đên khó khăn cho công tác quản lý, bị kẻ xấu lợi dụng để trục lợi cá nhân. Vì vậy, để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí nêu trên ở tầm vĩ mô chúng ta cần: 1.1.Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong đầu tư - Cần rà soát lại các quy định hiện tại, để xem trong quá trình thực hiện những quy định nào còn chưa phù hợp với điều kiện tình hình thực tế để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện dần. Nhưng quá trình sửa đổi và hoàn thiện này phải diễn ra nhanh chóng không thì sẽ dẫn đến tình trạng quy định vừa mới sửa đổi, bổ sung thì đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa - Hệ thống văn bản pháp luật cần phải được xây dựng một cách đồng bộ, tránh tình trạng quy định này bác bỏ hay mâu thuẫn với quy định kia. - Các quy định đưa ra cần phải rõ ràng, không được chồng chéo lên nhau. Ngoài ra từ ngữ dùng trong văn bản pháp luật phải dễ hiểu, đơn giản tránh dùng từ nhiều nghĩa... dễ dẫn đến hiểu sai, nghiêm trọng hơn điều này sẽ tạo cơ hội cho một số kẻ tìm cách lách luật rồi từ đó chuộc lợi riêng cho mình... - Cần phải đưa ra các chế tài nghiêm khắc về xử phạt, cưỡng chế khi có các sai phạm để xử lý các cá nhân tham gia dự án: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu... - Cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng người khi tham gia vào một dự án để tránh tình trạng khi có sai phạm xảy ra thì đổ lỗi quy kết trách nhiệm lẫn nhau giữa các bên liên quan, không ai chịu đứng ra chịu trách nhiệm. - Để có được một hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, chúng ta cần thành lập một tổ công tác gồm các nhà chuyên môn ở nhiều lĩnh vực, có nhiều kinh nghiệm thực tế trong quản lý dự án, có tâm huyết. Tổ công tác này hoạt động độc lập, chuyên trách giúp Chính phủ nghiêm cứu soạn thảo ra hệ thống các quy định trong đầu tư, đặc biệt là trong xây dựng đạt được các yêu cầu trên. Việc soạn thảo, ban hành các quy định theo đúng quy trình. 1.2. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư Có quy định mà không có sự giám sát, kiểm tra và thanh tra thì việc thực thi sẽ không nghiêm. Nhưng các sai phạm thường được che dấu bởi nhiều thủ đoạn tinh vi vì thế nếu không điều tra thì không thể phát hện được. Cho nên có thể nói trong nguyên nhân: Công tác quản lý bị buông lỏng và có kẻ cố tình vi phạm định chế quản lý vì lợi ích cá nhân là do công tác thanh tra, điều tra chưa lành mạnh, lực lượng thanh tra, điều tra còn yếu và thiếu lực. Do vậy những việc cần làm ngay là: Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của lực lượng này và đẩy mạnh công tác này để ngăn chặn và phát hiện những sai phạm; đưa ra ánh sáng những kẻ cố ý làm trái quy định, pháp luật gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí hiện nay; thu hồi tài sản bị thất thoát. Muốn vậy cần phải: - Thành lập mạng lưới kiểm định chất lượng đầu tư trên cả nước nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư. - Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát. - Tăng cường tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ thanh tra. - Bổ sung thêm nhiều cán bộ “có năng lực, trình độ” vào lực lượng thanh tra, điều tra. - Trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật và tăng kinh phí cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Mở rộng phạm vi quyền hạn cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Lực lượng thanh tra, điều tra phải độc lập để đảm bảo tính khách quan, công bằng. - Có sự thưởng, phạt phân minh với những thành tích và khuyết điểm trong công tác. - Cần áp dụng các giải pháp liên quan đến cá nhân đối với lực lượng thanh tra, điều tra. - Xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này đối với sự gia tăng số vụ và mực độ thất thoát. - Đã có đơn tố giác, đã có biểu hiện, dư luận về sai phạm, thất thoát ở dự án nào thì lực lượng thanh tra, điều tra phải sớm xác định và làm rõ, phải làm cho đến nơi đến chốn để rõ trắng đen để đưa vụ việc ra ánh sáng, để có tác dụng răn đe và quan trọng hơn là thu hồi tài sản của đất nước bị thất thoát. - Nhà nước cần mở tài khoản kế toán riêng để theo dõi và quản lý tập trung tất cả tài sản bị thất thoát thu hồi qua kết quản kiểm tra, thanh tra và điều tra. Số tiền thu hồi để chi cho việc đầu tư nâng cao năng lực lực lượng thanh tra, điều tra, chi cho việc bảo vệ nhân chứng, bổ sung kinh phí cho hoạt động thanh tra, điều tra... Vì vậy có thể sẽ phát hiện nhiều hơn những dự án có thất thoát và thu hồi được nhiều hơn số tiền bị thất thoát. - Tập trung giám sát đầu tư với tất cả các dự án đang ở giai đoạn chuẩn bị triển khai để đánh giá hiệu quả đầu tư, phát hiện những sai sót trong tính toán có thể dẫn đến lãng phí từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời làm giảm hoặc tránh xảy ra lãng phí. - Tập trung thanh tra tất cả các dự án đang và đã triển khai để phát hiện những sai phạm quy định, thủ tục triển khai, những sơ hở trong quản lý có thể dẫn đến lãng phí, thất thoát từ đó có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời ngăn chặn hoặc tránh xảy ra lãng phí, thất thoát. 1.3. Công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước Công khai trong quy trình đầu tư là một yêu cầu đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa thực hiện được, mà nguyên nhân chủ yếu là do con người cố tình không công khai để tham ô, tham nhũng, gây thất thoát hàng tỷ đồng của Nhà nước. Do đó, để hạn chế thất thoát, lãng phí cần có biện pháp thực hiện triệt để. Cần có chế tài đủ mạnh để quy hoạch vùng, ngành được công bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng. Quy trình đấu thầu cũng phải được công bố rộng rãi kể cả đấu thầu hạn chế và đấu thầu cạnh tranh rộng rãi về giá gói thầu, giá trúng thầu, tiến độ thi công, công khai xử lý những trường hợp vi phạm quy chế về đầu tư tranh thủ sự giám sát của cộng đồng để tránh lãng phí, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. 1.4. Loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư Tình trạng “khép kín” trong đầu tư là một trong những căn bệnh kinh niên trong đầu tư. Muốn xóa bỏ tình trạng nay, trước hết cần từng bước tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành và địa phương nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công... trong cùng một Bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, bổ sung chế tài đủ mạnh để các đơn vị phải chấp hành nghiêm túc các quy định về giám sát đánh giá đầu tư, theo hướng chống “khép kín” trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư; bổ sung các quy định về xử lý hành chính các hình thức kỷ luật đối với các cá nhân, đơn vị về việc không thực hiện chế độ báo cáo hoặc báo cáo sai với nội dung báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư. Các tổ chức, cá nhân thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra về đầu tư và xây dựng phải chịu trách nhiệm về kết quả công tác kiểm tra, thanh tra của mình. Cụ thể: - Phải thực hiện cơ chế đấu thầu đối với những dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước - Người ra quyết định đầu tư không được kiêm nhiệm làm chủ đầu tư dự án, tổ chức tư vấn thiết kế, nhà thầu xây dựng, tư vấn giám sát của một dự án, công trình nhát thiết không được cùng một cơ quan (Bộ, tỉnh, thành phố) - Quy định rõ điểu kiện, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án; - Nâng cao năng lực và tính chuyên môn của các ban quản lý dự án. 1.5.Tiếp tục rà soát, cập nhật và nâng cao chất lượng quy hoạch Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, công tác quy hoạch ở nước ta phải xem xét, hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới. Cụ thể, công tác quy hoạch phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Công tác quy hoạch tổng thể cũng như quy hoạch chi tiết phải đi trước một bước và phải nghiên cứu xây dựng phê duyệt thẩm định chặt chẽ trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng ngành, từng vùng, thường là phải kế hoạch 5 năm và đồng thời chất lượng quy hoạch phải phù hợp với thị trường, đúng định hướng, đảm bảo cơ cấu, cân đối vĩ mô. - Coi trọng công tác quy hoạch đầu tư nhất là quy hoạch quy mô cho từng dự án, đảm bảo phù hợp trên cơ sở xác định nhu cầu đầu tư. - Công tác quy hoạch phải mang tính thống nhất và liên vùng. - Phải có quy hoạch cho từng giai đoạn phù hợp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phải lưu ý các vấn đề hội nhập quốc tế, thường xuyên cập nhật, bổ sung điểu chỉnh. Để đảm bảo được những yêu cầu đó cần phải làm tốt những công việc sau: 1.5.1.Nhanh chóng tạo ra khung khổ pháp lý cho công tác quy hoạch, sớm ban hành các văn bản về quản lý Nhà nước đối với quy hoạch. Việc phân cấp trong quy hoạch cần được cụ thể hơn, quy định rõ trách nhiệm cụ thể của các chủ thể trong công tác quy hoạch, phân biệt rõ quy hoạch có hiệu lực pháp lý “quy hoạch cứng” và quy hoạch có tính định hướng “quy hoạch mềm”, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân cần được lập và phê duyệt quy hoạch. 1.5.2. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế - Tăng khả năng và nâng cao chất lượng công tác dự báo và thông tin cho các ngành, địa phương phục vụ công tác quy hoạch nhất là cung câp thông tin kinh tế, thị trường, khoa học, công nghệ. Đảm bảo quy hoạch sẽ là cơ sở vững chắc, định hướng cho đầu tư và kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Kết hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch sử dụng đất. - Các dự án đầu tư phải tuân thủ theo quy hoạch bao gồm: quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, trong đó lấy quy hoạch phát triển ngành làm trọng tâm. Phải có các chế tài đủ mạnh đối với các dự án đầu tư không tuân thủ pháp luật, không thực hiện quy hoạch hoặc thực hiện sai quy hoạch. - Rà soát các quy hoạch ngành, sản phẩm để loại bỏ trường hợp lợi dụng quy hoạch để độc quyền đầu tư, đảm bảo sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, sản xuất hàng hoá chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của hội nhập. - Tập trung và hoàn chỉnh kịp thời những quy hoạch không còn phù hợp để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Do công tác quy hoạch là công tác quan trọng, định hướng quyết định đến hiêụ quả của đầu tư nên quy hoạch sai dẫn đến đầu tư sai, hiệu quả thấp, nếu không kịp thời hoàn thiện, bổ sung thì sẽ gây sự lãng phí rất lớn. 1.5.3. Chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. Xuất phát từ yêu cầu của sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, địa phương và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cần phải quan tâm đúng mức đến công tác lập, phê duyệt quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp để tránh trường hợp tất cả các ngành, các cấp đều lập quy hoạch nhưng dẫn đến thực thi các dự án mà ngay sau đó, khi dự án đã hoàn thành phải phá bỏ không thể thực hiện do quy hoạch sai, thay đổi quy hoạch. Muốn thế cần phải: - Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ lập và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. - Tổ chức tốt việc thẩm định các dự án quy hoạch, điều này có ý nghĩa quan trọng vừa từng bước nâng cao chất lượng quy hoạch vừa tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả đầu tư. - Nâng cao hơn nữa tính kết nối giữa các quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch các tỉnh bằng cách rà soát, chấn chỉnh công tác quy hoạch nhanh chóng khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”. 1.5.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác quy hoạch Tình trạng không nắm rõ quy hoạch dẫn đến việc đâu tư tràn lan, hiệu quả đầu tư thấp gây lãng phí tổn thất lớn. Do đó, cần đẩy mạnh công tác kiểm tra giam sát của Nhà nước cũng như cộng đồng đối với công tác quy hoạch. - Các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quy hoạch đã được duyệt, có biện pháp ngăn ngừa, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý những đơn vị, cá nhân quyết định đầu tư không đúng quy hoạch. - Cần công bố công khai, minh bạch quy hoạch tổng thể, chiến lược, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng vùng thu hút rộng rãi ý kiến đóng góp, tranh thủ sự giám sát của cộng đồng. 1.6. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án - Đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, thẩm định lại các phương án đầu tư, xem xét lại các yêu cầu về quy hoạch, kỹ thuật, công nghệ, thị trường...; nếu việc đầu tư không mang lại hiệu quả thiết thực thì không quyết định đầu tư. - Đối với các dự án đang đầu tư, cần có sự rà soát, tính toán sửa đổi, bổ sung giải pháp kỹ thuật, thay đổi quy mô, công nghệ cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án, nếu xét thấy việc tiếp tục đầu tư không hiệu quả thì kiên quyết dừng đầu tư. - Trường hợp các dự án đầu tư xét thấy không hiệu quả nhưng vẫn tiếp tục được đầu tư dẫn đến không thu hồi được vốn, không trả được nợ vay thì người quyết định tiếp tục đầu tư phải bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm hoặc xử lý hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng. 1.7. Hoàn thiện phân cấp trong quản lý đầu tư Phân cấp trong quản lý kinh tế nói chung và phân cấp trong đầu tư nói riêng là những nội dung quan trọng cấu thành chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Quản lý đầu tư được hiểu là quản lý quy hoạch, kế hoạch cân đổi và phân bổ nguồn lực, quản lý sử dụng các nguồn lực được phân bổ đúng quy định và đạt hiệu quả cao nhất. Phân cấp phải đảm bảo những nội dung sau: Mục tiêu của phân cấp quản lý đầu tư là nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Hiệu quả của hoạt động đầu tư được thể hiện bởi 4 nguyên tắc: - Đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. - Đảm bảo việc chuẩn bị ra quyết định một cách nhanh nhất. - Đảm bảo cấp quyết định là cấp có đủ điều kiện cần thiết đối với việc ra quyết định (đủ thẩm quyền và đủ thông tin). - Đảm bảo người ra quyết định là người duy nhất có quyền, đồng thời có trách nhiệm với quyết định. Định hướng phân cấp quản lý đầu tư - Đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn tín dụng, định hướng phân cấp theo hướng phân cấp quản lý căn cứ vào tính chất, phạm vi hoạt động, lĩnh vực đầu tư, quy mô, nguồn vốn đầu tư mà thực hiện phân cấp, các cấp chính quyền quyết định các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội và khả năng quản lý của địa phương. - Đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, định hướng chung là đảm bảo cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động tìm kiếm cơ hội đầu tư và lựa chọn quyết định đầu tư. Các cơ quan quản lý chỉ tham gia từ góc độ người sở hữu phần vốn Nhà nước liên quan. Nội dung phân cấp quản lý: Phân cấp quản lý quy hoạch phát triển - Xác định lĩnh vực, cấp phải lập quy hoạch phát triển và thời hạn ứng với từng cấp. - Xác định vị trí,vai trò và mối quan hệ giữa các loại quy hoạch với nhau. - Xác định tiêu chí phân cấp cho việc tổ chức thẩm định, phê duyệt. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý thực hiện quy hoạch. Phân cấp quản lý các kế hoạch phát triển (kế hoạch đầu tư) - Trước hết, tất cả các cơ quan, các đơn vị, các cấp sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước đều phải lập kế hoạch phát triển, trong đó có kế hoạch đầu tư. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị kế hoạch phát triển, nội dung của kế hoạch phát triển, kế hoạch phải phù hợp và nhằm thực hiện quy hoạch phát triển. - Xác định rõ cấp nào bố trí vốn cho quy hoạch phát triển thì cấp đó là người phê duyệt kế hoạch, cấp nào lập và phê duyệt kế hoạch thì cấp đó chịu trách nhiệm quản lý kế hoạch. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra. Phân cấp các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách và vốn tín dụng Nhà nước - Phân định rõ giữa công tác quản lý Nhà nước về đầu tư và việc quản lý dự án của chủ đầu tư. - Gắn phân cấp quản lý với trách nhiệm cụ thể, với công tác kiểm tra, thanh tra. 2.Các giải pháp vi mô: Trong hoạt động đầu tư có nhiều chức danh cán bộ như: khảo sát, tư vấn, thiết kế, soát, kiểm tra, giám sát, thẩm định, phản biện, quản lý doanh nghiệp tư vấn, người có thẩm quyền quyết định phê chuẩn, quản lý dự án, quản lý thi công... Mỗi chức danh phải có cá nhân nào chịu trách nhiệm chính, cá nhân nào liên đới trách nhiệm, không thể để tình trạng “rất nhiều người có quyền, song rất ít người chịu trách nhiệm cụ thể” và tình trạng “cha chung không ai khóc” tồn tại trong quản lý điều hành và triển khai dự án. Vì vậy để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp sau: 2.1.Nâng cao ý thức trách nhiệm của người người tham gia vào hoạt động đầu tư Khi tham gia vào bật kỳ dự án đầu tư nào, mỗi người đều phải tự ý thức được trách nhiệm, quyền hạn cũng như các hình thức xử phạt đối với bản thân nếu như trong quá trình thực hiện để xảy ra hậu quả để từ đó thực hiện tốt công việc của mình: 2.1.1.Đối với người ra quyết định đầu tư Người quyết định đầu tư là người chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả và khả năng bảo đảm nguồn vốn. Do đó, không thể để tình trạng người ra quyết định vô trách nhiệm đối với những quyết định sai của mình gây thất thoát lãng phí hàng tỷ đồng. Theo đó, người quyết định đầu tư phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc miễn nhiệm khi quyết định sai gây lãng phí, thất thoát. Có như vậy mới đảm bảo cho các quyết định đầu tư đúng đắn, nâng cao hoạt động đầu tư, hạn chế thất thoát, lãng phí. 2.1.2. Đối với chủ đầu tư Chủ đầu tư là người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý vốn để thực hiện đầu tư nên cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp đối với hiệu quả của dự án, mọi quyết định đầu tư của chủ đầu tư đều ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nên cần quy định rõ điều kiện, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý dự án. Trong trường hợp chủ đầu tư không có đủ điều kiện năng lực thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý dự án theo quy định của luật xây dựng. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hậu quả của việc thanh quyết toán chậm hay sai so với quy định. Kiện toàn, sắp xếp ban quản lý dự án, xóa bỏ các ban quản lý dự án không đủ điều kiện năng lực, thành lập ban quản lý chuyên nghiệp hoặc động theo quy mô của dự án. 2.1.3.Đối với tổ chức tư vấn đầu tư Với tư cách là tổ chức thực hiện các dịch vụ tư vấn về các lĩnh vực liên quan đến đầu tư cho nên cũng ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả đầu tư. Dó đó, phải củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức tư vấn, sắp xếp lại các tổ chức tư vấn trong nước theo hướng cổ phần hóa, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập, không được sử dụng tư vấn trong nội bộ cơ quan chủ đầu tư để thực hiện các dịch vụ thẩm định, giám sát, đánh giá dự án của chủ đầu tư. Tổ chức tư vấn trong nước có thể liên kết với các tổ chức tư vấn nước ngoài để có đủ điều kiện năng lực thực hiện các dự án quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp. Cần quy dịnh điều kiện của các tổ chức tư vấn được lựa chọn, có chính sách để khuyến khích các tổ chức tư vấn nâng cao năng lực chuyên môn để đảm bảo các công trình tương tự mà trước đây vẫn phải thuê tư vấn nước ngoài. Tiến tới tổ chức tư vấn trong nước thực hiện các công việc mà trước đó phải thuê tư vấn nước ngoài. Tổ chức tư vấn có thể đảm nhận được công việc tư vấn cả thiết kế công trình, giám sát, thi công….các công trình kỹ thuật phức tạp chỉ thuê tư vấn nước ngoài đối với một số công việc đặc biệt phức tạp. 2.1.4.Đối với nhà thầu Để công trình sau khi hoàn thành có thể đi vào sử dụng đạt được hiệu quả về kinh tế - xã hội đòi hỏi các nhà thầu phải có năng lực, trình độ chuyên môn nhất định. Chấm dứt tình trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu cho các nhà thầu không đủ điều kiện năng lực thi công. Do đó, khi phát hiện nhà thầu không đủ năng lực đảm bảo chất lượng của dự án cần có biện pháp xử lý kịp thời hoặc chấm dứt hợp đồng. Trong trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với tổ chức tư vấn hoặc nhà thầu thì tùy theo mức độ sai phạm phải có cơ chế đủ mạnh như phạt tiền, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia các hoạt động đầu tư ít nhất là một năm nhằm hạn chế những tiêu cực dẫn đến thất thoát và lãng phí. 2.2.Nâng cao trình độ đạo đức của cán bộ quản lý đầu tư. Cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Đào tạo kiến thức cơ bản và tạo điều kiện để cán bộ quản lý nghiên cứu thị trường và các kiến thức liên quan như thị trường xây dựng, thị trường bất động sản. Đào tạo để quản lý trở thành một nghề mang tính chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ban hành các chế tài đủ mạnh để diều tiết người quyết định đầu tư theo hướng: Người quyết định đầu tư phải bị xử phạt hành chính, cách chức, miễn nhiệm khi quyết định các dự án đầu tư sai quy hoạch gây hậu quả nghiêm trọng. Cần xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị tham gia vào quá trình đầu tư. Cá nhân nào đã nhận trách nhiệm mà không hoàn thành thì phải chịu hình phạt trước nhân dân, Đảng, Nhà nước. Nâng cao nhận thức về tự hào và tự trọng nghề nghiệp, trả lương thỏa dáng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; phù hợp với chất lượng, kết quả công viêc. Tăng cường triển khai các biện pháp chông tham nhũng, lãng phí thực hành tiết kiệm. Nâng cao đạo đức và ý thức chấp hành kỷ luật của công chức Nhà nước. Xây dựng cơ chế để kiểm soát thu nhập, thực hiện triệt để việc kê khai tài sản và thu nhập cá nhân đối với cán bộ công chức Nhà nước, đặc biệt là những người có chức có quyền, tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra và xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức thái hóa, biến chất. Tập trung làm trong sạch các cơ quan bảo vệ pháp luật. 2.3.Thực hiện nghiêm túc các công việc trong suốt quá trình đâu tư ở từng đơn vị. Muốn vậy mỗi đơn vị thực hiện đầu tư cần phải: - Có các quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm cá nhân với công việc được giao quản lý. Cần xác định rõ theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì người quyết định là người chịu trách nhiệm chứ không phải là tập thể chịu trách nhiệm, không có tập thể quyết định chuyên môn. Cá nhân nào đã nhận trách nhiệm mà không hoàn thành thì phải chịu hình phạt trước nhân dân, Đảng, Nhà nước. Đó chính là lời giải tốt nhất cho bài toán thất thoát lãng phí trong đầu tư ở thời điểm hiện nay. - Cần trả lương thoả đáng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; phừ hợp với chất lượng, kết quả của công việc. - Kiên quyết xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, không bao che, dung túng, nể nang, né tránh đối với bất kể cán bộ nào làm sai để giữ vững kỷ cương, kỷ luật. - Những cán bộ có trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án, trước khi được giao nhiệm vụ phải khai báo tài sản và thu nhập cá nhân 2.4. Phổ biến rộng rãi văn bản pháp luật cho từng cá nhân trong mỗi đơn vi. - Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư: Luật Xây dựng, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn được ban hành kem theo; Nghị quyết số 36/2004/QH11 kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XI về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, phải coi đây là công việc trọng tâm của đơn vị. - Các hệ thống chỉ tiêu, định mức, đơn giá phù hợp với tình hình thực tế. - Tổ chức các buổi học cho cán bộ nhân viên để họ có thể nắm vững các tiêu chuẩn, cũng như các quy định trong lĩnh vực hoạt động của mình tránh tình trạng không biết dẫn đến thất thoát, lãng phí. 2.5.Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra trong từng đơn vi. Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư tố cáo, rất ít vì không ai giám nói vì tư tưởng “muốn yên thân”, vì “ngại va chạm”, vì sợ “đấu tranh – tránh đâu”, vì mọi người chưa tin vào quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Do vậy muốn giảm thất thoát lãng phí thì trước tiên cán bộ nhân viên ở mỗi doanh nghiệp cần mạnh dạn hơn trong việc tố cáo thất thoát lãng phí ở ngay cơ quan, nhà máy mình. Muốn vậy cần: - Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để mọi người có thể giám sát quá trình đầu tư tốt hơn. - Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu của họ. 2.6.Những vùng, địa phương được đầu tư cần tích cực tham gia vào hoạt động giám sát. - Để chấn chỉnh công tác quản lý trong đầu tư, tăng cường giám sát sẽ là biện pháp quan trọng nhất, trong đó hoạt động giám sát của cộng đồng sẽ giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tất cả các dự án, các công trình đầu tư phải công khai hoá cho nhân dân biết, đồng thời cho phép các tổ chức, mặt trận, đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân được quyền tiếp cận các thông tin của dự án, giám sát hoạt động của dự án tại tất cả các khâu; có cơ chế để các cơ quan chức năng tiếp nhận và xử lý các kiến nghị sau giám sát của nhân dân và báo chí. - Các dự án đầu tư của Trung ương trên địa bàn tỉnh nào thì chính quyền ở tỉnh đó phải biết, hội đồng nhân dân, đoàn thể quần chúng cũng như phương tiện thông tin đại chúng ở đó phải biết, và những yếu tố cơ bản của các dự án đầu tư phải đến với người dân để người dân biết được quy mô của dự án đầu tư như thế nào, vốn là bao nhiêu, rồi các tiêu chí chuẩn phí... Trên cơ sở đó, người dân sẽ tập trung giám sát. Điều này góp phần ngăn chặn tỷ lện thất thoát và lãng phí vốn đầu tư một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, nhiều công trình xây dựng đường giao thông, trường học, thuỷ lợi của địa phương đã tiết kiệm được tối đa chi phí do người dân giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện đầu tư, nắm chắc giá trị từng kilogam vật liệu để tính ra tổng dự toán công trình ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24915.doc
Tài liệu liên quan