Thanh toán vốn giữa các ngân hàng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Lý Nhân

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 2.1. Tổng quan về NHNo & PTNT huyện Lý Nhân 28 2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành của ngân hàng 28 2.1.2. Mô hình cơ cấu tổ chức: 28 2.1.3. Sơ bộ tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng: 29 2.1.3.1. Địa bàn hoạt động 29 2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh 30 2.2. Thực trạng thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 36 2.2.1. Các nghiệp vụ làm phát sinh nhu cầu thanh toán vốn với ngân hàng khác tại NHNo huyện Lý Nhân 36 2.2.2. Vị tr

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2508 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thanh toán vốn giữa các ngân hàng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Lý Nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các NH khác (thể hiện qua sơ đồ sau) 37 2.2.3. Thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 38 2.2.3.1. Thanh toán vốn với NHNo huyện khác cùng tỉnh 40 2.2.3.2.Thanh toán vốn với NHNo ngoại tỉnh 42 2.2.3.3. Thanh toán vốn với NH khác hệ thống NHNo 44 2.2.3.4. Thanh toán với NHNo cấp 3 (chợ Chanh, chợ Cầu) 46 2.2.4. Kết quả thanh toán vốn giữa NHNo huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 49 2.3. Đánh giá về thực trạng hoạt động thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 54 2.3.1. Thành tựu 54 2.3.2. Hạn chế: 57 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THANH TOÁN VỐN TẠI NHNo&PTNT HUYỆN LÝ NHÂN 60 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán vốn của chi nhánh ngân hàng huyện Lý Nhân 60 3.1.1. Định hướng phát triển hệ thống thanh toán của Ngân hàng VN 60 3.1.2. Định hướng phát triển chung của NHNo&PTNT VN 62 3.1.3. Định hướng phát triển của NHNo&PTNT huyện Lý Nhân 63 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 65 3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển thanh toán vốn giữa các ngân hàng 67 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: 67 3.3.2. Đối với hệ thống NHTM 69 3.3.3. Đối với Chính phủ 70 3.3.4. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam 71 3.3.5. Đối với NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam 71 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng nhà nước NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn TCTD : Tổ chức tín dụng CNTT-TT : Công nghệ thông tin thanh toán TTLCNHNH : Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng TTBT : Thanh toán bù trừ TTLNH : Thanh toán liên ngânf hàng NH : Ngân hàng CTĐT : Chuyển tiền điện tử 11.TKTG : Tài khoản tiền gửi 12. TTTT : Trung tâm thanh toán DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh tính đến ngày 31/12/2006……..31 Bảng 2.2. Kết cấu nguồn vốn huy động tính đến 31/12/2006…………….32 Bảng 2.3. Kết cấu chi tiết tài khoản tiền gửi của khách hàng…………….33 Bảng 2.4. Kết quả dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2006…………………..34 Bảng 2.5. Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tính đến 31/12/2006……………………………………………………..35 Bảng 2.6. Kết quả chất lượng tín dụng……………………………………36 Bảng 2.7. Kết quả xử lý Lệnh chuyển Có đi……………………………...49 Bảng 2.8. Kết quả xử lý Lệnh chuyển Có đến…………………………….50 Sơ đồ 1.1. Sơ đồ phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung” ..8 Sơ đồ 2.1. Bộ máy tổ chức của NHNo&PTNT huyện Lý Nhân…………..29 Sơ đồ 2.2. Sơ đồ tổ chức hệ thống NHNo&PTNT-VN……………………37 Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổ chức các TCTD trên địa bàn huyện Lý Nhân………...37 Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổ chức các TCTD trên địa bàn tỉnh Hà Nam…………...38 Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng quát thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác………………………………….42 LỜI MỞ ĐẦU 11/1/2007 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO - sự kiện này mở ra một bước phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thị trường được mở rộng, thông suốt, môi trường kinh doanh trở nên bình đẳng hơn, yếu tố cạnh tranh thực sự trở thành yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trước đây ngành Ngân hàng được coi là ngành độc quyền, do Nhà nước quản lý. Nhưng từ sau đổi mới chuyển thành ngân hàng 2 cấp và đặc biệt là sự kiện Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới, bộ mặt ngân hàng đã hoàn toàn thay đổi, chưa lúc nào cạnh tranh giữa các ngân hàng lại diễn ra gay gắt như hiện nay. Các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với tư cách là một đơn vị kinh doanh tự chủ, hạch toán kinh tế do đó sự cạnh tranh này diễn ra trên tất cả các mặt: từ huy động vốn, cho vay, đa dạng các sản phẩm, dịch vụ, đổi mới công nghệ… Các ngân hàng còn mở rộng hoạt động của mình vào các lĩnh vực như bảo hiểm, chứng khoán, nhà đất… Trong 5 năm trở lại đây ta thấy sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ ngân hàng đã tạo ra hàng loạt các sản phẩm mới, cung cấp sự tiện ích và giá trị gia tăng cho khách hàng, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế. Một trong những chức năng quan trọng của ngân hàng đó là trung gian thanh toán. Chúng ta đã quen thuộc với các phương tiện thanh toán như chuyển tiền, ủy nhiệm chi, nhờ thu, chuyển tiền kiều hối, máy rút tiền tự động ATM,… Ngân hàng thực hiện thanh toán cho khách hàng đồng thời giữa các ngân hàng cũng phát sinh nghiệp vụ thanh toán vốn với nhau. Chỉ khi hệ thống thanh toán vốn giữa các ngân hàng hoạt động tốt mới có thể cung cấp ngày một hoàn thiện các tiện ích thanh toán cho khách hàng, đảm bảo hệ thống thanh toán quốc gia được nhanh chóng và thông suốt. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của hoạt động thanh toán vốn trong hệ thống ngân hàng tôi đã chọn đề tài: “Thanh toán vốn giữa các ngân hàng tại NHNo & PTNT huyện Lý Nhân”. Chuyên đề này được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức thanh toán vốn giữa các ngân hàng – Chương này sẽ tập trung làm rõ sự cần thiết, ý nghĩa cũng như điều kiện thanh toán vốn giữa các ngân hàng; giới thiệu các hệ thống thanh toán vốn giữa các ngân hàng Việt Nam và thực trạng của hệ thống này. Chương 2: Thực trạng thanh toán vốn tại NHNo&PTNT huyện Lý Nhân – Chương này sẽ cụ thể quy trình thanh toán vốn tại một chi nhánh ngân hàng cấp 2 của hệ thống NHNo. Từ đó đánh giá những thành tựu và khó khăn còn vướng mắc của chi nhánh này. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Lý Nhân – Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và khó khăn còn vướng mắc trong công tác thanh toán vốn tại chi nhánh, chương này sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm phát triển một hệ thống thanh toán hoàn thiện trong cả nước. Qua bài viết này, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS.Lê Đức Lữ đã giúp tôi rất nhiều trong việc chỉnh sửa, hoàn thiện đề tài này. Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Phó giám đốc cùng các cô, các anh chị trong phòng Kế toán-Ngân quỹ đã hướng dẫn tôi các quy trình trong kế toán ngân hàng, cung cấp những tài liệu tham khảo hữu ích cho tôi giúp tôi nghiên cứu đề tài này. Nhưng do đề tài còn khá mới mẻ do đó bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của bạn đọc và những ai quan tâm đến vấn đề này. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC THANH TOÁN VỐN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG. 1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của thanh toán vốn giữa các ngân hàng 1.1.1. Sự cần thiết của thanh toán vốn giữa các ngân hàng NHTM được biết đến là trung gian thanh toán giữa các khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Theo đó khi hai khách hàng đều có tài khoản tại ngân hàng thì việc trả tiền cho nhau chính là việc ngân hàng trích tài khoản của bên trả tiền để chuyển vào tài khoản của bên thụ hưởng. Điều này tiếp tục đặt ra vấn đề rằng, liệu việc thanh toán của khách hàng có ảnh hưởng gì đến vốn của ngân hàng và ngân hàng làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ các khoản thanh toán để đảm bảo an toàn tài sản? Trong trường hợp bên trả tiền và bên thụ hưởng đều mở tài khoản tại một đơn vị ngân hàng (chi nhánh, sở giao dịch) thì đương nhiên là không có tác động gì và việc kiểm soát không gặp phải khó khăn lớn, nhưng nếu bên trả tiền và bên thụ hưởng mở tài khoản ở hai đơn vị ngân hàng khác nhau cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng thì không những ngân hàng phục vụ bên trả tiền và ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng không chỉ phải thực hiện việc thanh toán tiền theo yêu cầu của khách hàng mà còn phải thanh toán về vốn với nhau đầy đủ, chính xác và kịp thời, đồng thời phải có biện pháp thích hợp để kiểm soát tính xác thực của các khoản thanh toán nhằm đảm bảo an toàn tài sản. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và xác lập phương thức, quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng là hết sức cần thiết trong hoạt động ngân hàng. Như vậy thanh toán giữa các ngân hàng là nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các ngân hàng nhằm tiếp tục hoàn thành quá trình thanh toán giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân với nhau mà họ không cùng mở tài khoản tại một ngân hàng hoặc thanh toán vốn trong nội bộ các hệ thống ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng, các ngân hàng liên quan không những phải tiếp tục hoàn thành quá trình việc thanh toán tiền cho khách hàng mà còn phải tiến hành thanh toán vốn với nhau một cách đầy đủ và kịp thời. 1.1.2. Ý nghĩa của thanh toán vốn giữa các ngân hàng Thanh toán giữa các ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn: * Đối với ngân hàng - Thể hiện chức năng tập trung thanh toán của ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân - Thực hiện điều hòa vốn trong nội bộ ngân hàng, đảm bảo cho các ngân hàng trong hệ thống luôn đủ vốn để hoạt động. - Tạo điều kiện để các ngân hàng sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả. * Đối với xã hội - Thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng chính là thực hiện được yêu cầu của công tác thanh toán không dùng tiền mặt: nhanh chóng, chính xác, an toàn tài sản, tăng nhanh vòng quay của vốn. - Giảm chi phí lưu thông do không phải vận chuyển tiền mặt từ nơi này đến nơi khác; Giảm chi phí kiểm đếm, giao nhận tiền. * Đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp - Được cung cấp các phương tiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi, an toàn trong giao dịch thương mại cũng như phi thương mại. * Đối với Ngân hàng Nhà nước - Tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ thông qua việc tăng cường quản lý vốn khả dụng và làm cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng diễn ra mạnh mẽ, sôi động hơn. Điều này chỉ có thể có được do hiện đại hóa các hệ thống thanh toán sẽ dẫn đến việc quản lý tập trung các tài khoản thanh, quyết toán của các tổ chức tín dụng mở tại trung ương và đẩy mạnh tốc độ xử lý thanh quyết toán. 1.2. Điều kiện để tổ chức thanh toán giữa các ngân hàng Do tính chất phức tạp của nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng nên khi tổ chức thực hiện mặt nghiệp vụ này cần phải có các điều kiện sau đây: 1.2.1. Điều kiện về pháp chế Thanh toán giữa các ngân hàng có liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu vốn giữa các ngân hàng nên nghiệp vụ này phải được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy của nhà nước và của NHNN. Theo đó, phải xây dựng một hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ về chuyển tiền điện tử, thanh toán bù trừ điện tử, về chữ ký điện tử, về sử dụng dữ liệu trên các vật mang tin hoặc truyền qua mạng máy tính trong hạch toán kế toán… để các ngân hàng vận dụng trong việc tổ chức hệ thống thanh toán của mình cũng như là tham gia vào hệ thống thanh toán Liên ngân hàng do NHNN tổ chức. 1.2.2. Điều kiện về mô hình tổ chức và hoạt động Trước hết phải xây dựng được các hệ thống thanh toán phù hợp với mô hình tổ chức và hoạt động của các ngân hàng. Các hệ thống thanh toán phải đáp ứng yêu cầu thanh toán vốn trong điều kiện từng bước hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tiến tới hội nhập với khu vực và quốc tế. Phải có đội ngũ cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, có chuyên môn nghiệp vụ tốt, hiểu biết và sử dụng thành thạo các máy móc, trang thiết bị tin học. 1.2.3. Điều kiện về kỹ thuật Phải có đầy đủ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật như hệ thống máy vi tính cùng các thiết bị ngoại vi, chương trình phần mềm tin học, đường truyền, trụ sở - để đảm bảo thanh toán nhanh, chính xác, an toàn tài sản, tiết kiệm chi phí. 1.2.4. Điều kiện về vốn trong thanh toán Các đơn vị tham gia thanh toán phải có đầy đủ vốn để đảm bảo thanh toán kịp thời, sòng phẳng các khoản thanh toán qua lại với nhau. Vốn để đảm bảo thanh toán gồm: - Dự trữ thanh khoản bằng tiền mặt. - Tiền gửi thanh toán tại NHNN và các TCTD khác. - Vay NHNN hoặc các TCTD khác. 1.3. Hệ thống thanh toán vốn giữa các ngân hàng ở Việt Nam Tổ chức hệ thống thanh toán vốn giữa các ngân hàng ở Việt Nam gắn liền với việc hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống ngân hàng Việt Nam qua các thời kỳ: Thời kỳ trước năm 1989: Thời kỳ này hệ thống ngân hàng Việt Nam tổ chức thành ngân hàng một cấp (không tách biệt giữa NHNN và các TCTD), nên hệ thống thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân hàng cũng chỉ có một hệ thống. Phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng được sử dụng là phương thức thanh toán liên chi nhánh ngân hàng trong đó các chi nhánh trong hệ thống trực tiếp chuyển tiền thanh toán vốn với nhau, ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ kiểm soát, đối chiếu liên hàng cho toàn hệ thống. Thời kỳ từ 1989 đến nay: Thời kỳ này nền kinh tế nước ta đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, theo đó hệ thống NH 1 cấp cũng được chuyển thành NH 2 cấp với nhiều hệ thống khác nhau như hệ thống NHNN, các hệ thống NHTM… Việc cân đối vốn, điều hòa vốn được tổ chức theo từng hệ thống, do vậy mỗi hệ thống NH đã tổ chức một hệ thống thanh toán để giải quyết quan hệ thanh toán trong nội bộ hệ thống. Ngoài thanh toán nội bộ của từng hệ thống NH, còn có hệ thống thanh toán liên ngân hàng để giải quyết quan hệ thanh toán vốn giữa các đơn vị ngân hàng khác hệ thống. Trong thời kỳ kinh tế mở, mối quan hệ kinh tế giữa các vùng, miền, khu vực không ngừng tăng lên. Khoa học tính toán, kỹ thuật điện tử không ngừng phát triển nên xu hướng chung là phải mở rộng hệ thống thanh toán liên ngân hàng với các trung tâm thanh toán hiện đại để đảm bảo thanh toán liên ngân hàng trong phạm vi khu vực và toàn quốc đạt hiệu quả cao. Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay tương đối phong phú, gồm: - Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng điện tử (Chuyển tiền điện tử) - Thanh toán bù trừ khác hệ thống (bằng giấy và điện tử) - Thanh toán điện tử liên ngân hàng - Thanh toán qua TKTG tại NHNN - Ủy nhiệm thu hộ, chi hộ - Mở tài khoản lẫn nhau để thanh toán . 1.3.1. Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng (TTLCNNH) Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng điện tử là phương thức thanh toán vốn giữa các đơn vị liên hàng trong cùng một hệ thống bằng chương trình phần mềm chuyển tiền với sự trợ giúp của hệ thống máy tính và hệ thống mạng truyền tin nội bộ. Do áp dụng kỹ thuật điện tử trong chuyển tiền nên đã giúp cho việc chuyển tiền được nhanh chóng, chính xác, an toàn tài sản, tiết kiệm vốn và giúp cho các hệ thống ngân hàng điều hòa vốn trong toàn hệ thống đạt hiệu quả cao. Chuyển tiền điện tử áp dụng phương thức “kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”. Do việc kiểm soát và đối chiếu được tập trung tại TTTT và kết thúc ngay trong ngày nên đã đảm bảo tất cả các chuyển tiền được kiểm soát trước khi trả tiền cho khách hàng, từ đó đảm bảo an toàn tài sản. * Phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”: Theo phương thức này, NH chuyển tiền gửi chuyển tiền cho NH nhận chuyển tiền thông qua TTTT (truyền qua mạng). TTTT làm nhiệm vụ kiểm soát và đối chiếu tất cả các chuyển tiền trong toàn hệ thống. Sơ đồ 1.1: Sơ đồ phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung” Trung tâm thanh toán Ngân hàng chuyển tiền Ngân hàng nhận chuyển tiền 1 2 3 3 4 4 (1) NH chuyển tiền gửi lệnh chuyển tiền qua mạng về TTTT (2) TTTT truyền chuyển tiếp lệnh chuyển tiền về NH nhận (3) Cuối ngày TTTT đối chiếu cho tất cả các NH (4) Các NH xác nhận đối chiếu gửi TTTT Tham gia vào quy trình CTĐT gồm: - Người khởi tạo: là người phát lệnh thanh toán đầu tiên của 1 tài khoản thanh toán liên hàng điện tử (người xin chuyển tiền bằng hình thức CTĐT). - Người nhận: là người thụ hưởng khoản chuyển tiền trong trường hợp chuyển “Có”; hoặc là người thanh toán cuối cùng trong trường hợp chuyển “Nợ”. - Ngân hàng khởi tạo: là đơn vị ngân hàng phục vụ người khởi tạo. - Ngân hàng nhận: là đơn vị ngân hàng phục vụ người nhận. - Trung tâm thanh toán: chịu trách nhiệm tổ chức thanh toán, kiểm toán nghiệp vụ thanh toán và thực hiện hạch toán quyết toán các khoản thanh toán điện tử của cả hệ thống. - Lệnh chuyển “Có”, chuyển “Nợ”: là lệnh của NH khởi tạo gửi NH nhận để thanh toán tiền với người nhận theo lệnh của NH khởi tạo. - Chữ ký điện tử: là loại khóa bảo mật tham gia hệ thống thanh toán điện tử được xác định duy nhất cho mỗi cá nhân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và đã đăng ký với TTTT. - Chương trình phần mềm CTĐT, máy vi tính, modem truyền tin, đường truyền nội bộ (thuê bao kênh thoại của bưu điện). Chứng từ sử dụng: ngoài các chứng từ giấy như giấy nộp tiền, ủy nhiệm chi…, trong CTĐT phải sử dụng chứng từ điện tử. Chứng từ điện tử được tạo trên hệ thống máy vi tính thông qua việc chuyển hóa chứng từ giấy thành chứng từ điện tử, chứng từ điện tử chính là các tệp Lệnh chuyển tiền được mã hóa để chuyển đi trên hệ thống CTĐT. Việc chuyển hóa chứng từ (từ chứng từ giấy sang điện tử và ngược lại) phải đảm bảo đúng định dạng, mẫu mực, các yếu tố của chứng từ giấy và điện tử. Tài khoản sử dụng là TK Điều chuyển vốn (5191): tài khoản này mở tại các đơn vị liên hàng (chi nhánh) và trung tâm thanh toán để hạch toán số vốn điều chuyển đi, điều chuyển đến; số tiền chi hộ, thu hộ trong chuyển tiền điện tử giữa các chi nhánh và giữa chi nhánh với Hội sở chính trong cùng hệ thống. Tại TTTT, Hội sở chính tài khoản này mở chi tiết cho từng chi nhánh trực thuộc và có đặc điểm luôn có số dư Có theo quy định từng thời kỳ. CTĐT thực chất là truyền Lệnh chuyển tiền trên mạng truyền tin nội bộ, còn thanh toán là việc ghi Nợ - Có tài khoản Điều chuyển vốn tương ứng của từng chi nhánh phù hợp với Lệnh chuyển tiền trên cơ sở đặc điểm của TK này như đã nói ở trên (luôn phải duy trì một số dư Có nhất định). 1.3.2. Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng Thanh toán bù trừ (TTBT) giữa các ngân hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng được thực hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu, phải trả và trên cơ sở đó chỉ thanh toán với nhau số chênh lệch (kết quả bù trừ). Tùy thuộc vào phương pháp trao đổi chứng từ, chuyển số liệu mà có cơ chế TTBT trên cơ sở chứng từ giấy (TTBT giấy) và TTBT điện tử. 1.3.2.1. Thanh toán bù trừ giấy Mô hình tổ chức gồm: NH chủ trì là CN NHNN tỉnh, thành phố. Các NH thành viên tham gia TTBT là các NH trên địa bàn tỉnh, thành phố đó (các NH này là các NH khác hệ thống). Khi thực hiện TTBT các ngân hàng tham gia TTBT phải tuân thủ các quy định mang tính nguyên tắc sau đây: - Phải có văn bản đề nghị tham gia TTBT và cam kết chấp hành đúng các quy định trong TTBT. - Có văn bản giới thiệu các nhân viên có trách nhiệm đến trực tiếp giao, nhận chứng từ và làm thủ tục thanh toán. Nhân viên TTBT phải giới thiệu chữ ký của mình với NH chủ trì và các NH thành viên khác (theo thủ tục giới thiệu chữ ký). - Phải thực hiện đúng giờ giao và nhận chứng từ theo quy định chung của NH chủ trì. - Phải lập đúng, đầy đủ, kịp thời các giấy tờ trước và trong khi giao dịch TTBT. Số liệu phải đảm bảo chính xác, rõ rang; đồng thời phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với sự hợp pháp, hợp lệ của chứng từ và chính xác về số liệu. - Nguyên tắc số chênh lệch trong TTBT: + Ngân hàng chủ trì được chủ động trích tài khoản tiền gửi của các NH thành viên phải trả (nếu còn) để thanh toán cho ngân hàng thành viên được thu. + Trong trường hợp TKTG của NH thành viên phải trả hết số dư hoặc không đủ số dư để thanh toán thì vay NH chủ trì hoặc vay NH thành viên khác để thanh toán. Trường hợp không được vay thì NH chủ trì thanh toán hộ 1-2 lần với mức phạt cao. Sau đó vẫn tiếp diễn thì buộc phải ngừng tham gia TTBT. Chứng từ sử dụng bao gồm: - Chứng từ gốc: + Giấy ủy nhiệm chi (liên 3-4) + Giấy ủy nhiệm thu (liên 3-4) + Các tờ séc (do khách hàng ở các NH thành viên khác phát hành) + Bảng kê nộp séc - Các loại bảng kê dùng làm căn cứ để hạch toán vào TK TTBT: + Bảng kê chứng từ TTBT – mẫu số 12 (do NH thành viên đi lập) theo vế Nợ - vế Có cho từng NH thành viên có liên quan. Bảng kê chứng từ TTBT vế Nợ kê các chứng từ thanh toán đã ghi Có tài khoản của khách hàng tại NH mình, nghĩa là số phải thu ở NH thành viên đối phương. Ngược lại Bảng kê chứng từ TTBT vế Có kê các chứng từ thanh toán đã ghi Nợ tài khoản của khách hàng tại NH mình và chính là số phải trả cho từng NH thành viên khác. + Bảng kê thanh toán bù trừ - mẫu số 14 (do NH thành viên đi lập). Bảng này liệt kê số phải thu, số phải trả (tức là tổng số tiền trên Bảng kê chứng từ TTBT), rút chênh lệch phải thu hoặc phải trả với từng NH thành viên đối phương, và phản ánh số tổng cộng (với tất cả các NH thành viên đối phương) để xác định số thực phải thu về hoặc thực phải trả của riêng NH mình với các NH thành viên khác. + Bảng kê tổng hợp kết quả TTBT – mẫu số 15 (do NH chủ trì lập để gửi các NH thành viên phải trả, phải thu trong phiên thanh toán). + Bảng kiểm tra kết quả TTBT – mẫu số 16 (do NH chủ trì lập để kiểm tra kết quả TTBT trong phiên TTBT theo tổng số phải trả = tổng số phải thu). Tài khoản sử dụng: Tại NH chủ trì sử dụng tài khoản “Thanh toán bù trừ của NH chủ trì- SH 501” – tài khoản này dùng để hạch toán kết quả TTBT của NH chủ trì đối với các NH thành viên tham gia TTBT. Tại NH thành viên: sử dụng tài khoản “Thanh toán bù trừ của NH thành viên- SH 5012” – tài khoản này dùng để hạch toán toàn bộ các khoản phải thanh toán bù trừ với các NH thành viên khác. Các NH thành viên đều phải mở TKTG tại NH chủ trì, thanh toán kết quả bù trừ chính là việc NH chủ trì ghi Nợ, ghi Có vào TKTG của NH thành viên – TK đối ứng với TKTG của NH thành viên là tài khoản TTBT của NH chủ trì. Các NH thành viên luôn phải duy trì số dư TKTG tại NH chủ trì để đảm bảo thanh toán. 1.3.2.2. Thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng Là hệ thống thanh toán ròng, xử lý các khoản thanh toán chuyển tiền liên ngân hàng giá trị thấp (dưới 500 triệu đồng). Đặc điểm: * Được thiết kế theo mô hình kết hợp thanh toán tổng tức thời và ròng. Theo đó, thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng thực hiện theo quy trình: Lệnh thanh toán từ ngân hàng thành viên gửi lệnh sẽ phải qua ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ điện tử để kiểm soát, xử lý bù trừ, hạch toán kết quả trước khi lệnh thanh toán được chuyển tiếp đi ngân hàng thành viên nhận lệnh. * Các chủ thể tham gia thanh toán bù trừ điện tử (TTBTĐT) gồm có: Ngân hàng chủ trì TTBTĐT, là đơn vị chịu trách nhiệm nhận, kiểm tra các lệnh thanh toán từ các ngân hàng thành viên gửi lệnh; xử lý bù trừ, và gửi bảng kết quả bù trừ cùng các lệnh thanh toán cho các ngân hàng thành viên liên quan; xử lý việc đối chiếu doanh số TTBTĐT với các ngân hàng thành viên; quyết toán và hạch toán kết quả TTBTĐT. Các ngân hàng thành viên trực tiếp của hệ thống là các ngân hàng và tổ chức được làm dịch vụ thanh toán, có mở tài khoản tại ngân hàng chủ trì TTBTĐT. Ngân hàng thành viên có trách nhiệm lập và gửi lệnh thanh toán, bảng kê thanh toán; nhận lệnh thanh toán và kết quả TTBTĐT; thực hiện đúng quy trình đối chiếu, quyết toán TTBTĐT. * Áp dụng chữ ký điện tử trong việc chuyển, nhận các lệnh thanh toán và các giao dịch có liên quan giữa ngân hàng chủ trì TTBTĐT với ngân hàng thành viên trực tiếp của hệ thống. * Để phòng ngừa rủi ro hệ thống, việc xử lý thanh toán và quyết toán TTBTĐT phải thực hiện theo nguyên tắc: Ngân hàng chủ trì TTBTĐT xử lý bù trừ các lệnh thanh toán và thanh toán ngay số chênh lệch phải trả theo kết quả TTBTĐT của từng ngân hàng thành viên trong phạm vi khả năng chi trả thực tế của họ tại ngân hàng chủ trì TTBTĐT. Thực hiện vấn đề này, về phương diện kỹ thuật, thông thường ngân hàng chủ trì TTBTĐT sẽ khóa số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của các ngân hàng thành viên trong thời gian xử lý bù trừ theo phiên và khi quyết toán TTBTĐT trong ngày. Trong trường hợp tài khoản tiền gửi thanh toán của một ngân hàng thành viên bất kỳ không có đủ số dư để thanh toán kết quả phải trả của mình thì Ngân hàng chủ trì TTBTĐT sẽ phải chuyển bớt một số lệnh thanh toán của ngân hàng này để xử lý vào phiên thanh toán bù trừ kế tiếp (nếu là xử lý tại phiên TTBTĐT) hoặc phải hủy bỏ các lệnh thanh toán này nếu là tại thời điểm quyết toán bù trừ điện tử trong ngày. 1.3.3. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN: Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN được áp dụng trong thanh toán qua lại giữa hai ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống đều có tài khoản tiền gửi tại NHNN (cùng hoặc khác chi nhánh, Sở giao dịch NHNN). Ngân hàng phát sinh nghiệp vụ thanh toán phải lập và gửi CN.NHNN nơi mình mở tài khoản chứng từ thanh toán, hạch toán ghi Nợ TK thích hợp (tiền gửi của khách hàng hoặc TK nội bộ), Có TKTG tại CN.NHNN Tại NHNN khi tiếp nhận các chứng từ thanh toán do NH phát sinh nghiệp vụ thanh toán chuyển đến, nếu không có sai sót gì sẽ xử lý hạch toán: - Nếu 2 NH (NH phát sinh và NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán) đều mở TKTG tại đơn vị mình: Sở GD hoặc CN.NHNN sẽ căn cứ các chứng từ gốc do NH phát sinh nghiệp vụ gửi đến để lập Bảng kê các chứng từ thanh toán qua TKTG tại NHNN, hạch toán Nợ, Có vào TKTG của 2 NH đó. - Trường hợp NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán mở TKTG tại đơn vị NHNN khác thì NHNN phục vụ NH phát sinh nghiệp vụ thanh toán phải căn cứ chứng từ gốc để lập lệnh chuyển tiền chuyển đi đơn vị NHNN nơi NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán mở TKTG (xử lý theo quy trình TTLCNNH) Khi nhận được lệnh chuyển tiền đến, đơn vị NHNN phục vụ NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán sẽ xử lý ghi Có và gửi chứng từ báo Có cho NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán. Sau khi tiếp nhận và kiểm soát chứng từ thanh toán do NHNN chuyển sang, nếu không có sai sót, NH kết thúc nghiệp vụ thanh toán hạch toán, ghi Nợ TKTG tại NHNN, Có TK thích hợp (tiền gửi khách hàng hoặc TK nội bộ thích hợp). 1.3.4. Thanh toán theo phương thức ủy nhiệm thu hộ, chi hộ Ủy nhiệm thu hộ, chi hộ là một phương thức thanh toán giữa hai ngân hàng theo sự thỏa thuận và cam kết với nhau ngân hàng này sẽ thực hiện thu hộ hoặc chi hộ cho ngân hàng kia trên cơ sở các chứng từ thanh toán của các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng kia. Phạm vi áp dụng: phương thức này được áp dụng trong thanh toán: - Giữa 2 đơn vị ngân hàng trong cùng hệ thống; và - Giữa 2 ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống. Để tiến hành thanh toán theo phương thức ủy nhiệm thu hộ, chi hộ, hai ngân hàng phải ký hợp đồng để thống nhất với nhau về nguyên tắc, thủ tục và nội dung thanh toán. Các nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được hạch toán vào tài khoản thu hộ, chi hộ mở cho ngân hàng kia. Bên Có phản ánh NH A thu hộ NH B. Bên Nợ phản ánh NH A chi hộ NH B. Dư Có phản ánh thu hộ > chi hộ, NH A phải trả cho NH B số dư Có này. Dư Nợ phản ánh chi hộ > thu hộ, NH A phải thu NH B số dư Nợ này, tức NH B phải trả NH A số dư Nợ này. Theo định kỳ thỏa thuận, hai ngân hàng đối chiếu doanh số phát sinh và số dư tài khoản thu, chi hộ để thanh toán cho nhau và tất toán số dư của tài khoản này. 1.3.5. Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán Phạm vi áp dụng: phương thức này được áp dụng trong thanh toán: - Giữa 2 đơn vị ngân hàng trong cùng hệ thống; và - Giữa 2 ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống. Điều kiện để thực hiện thanh toán: để thanh toán theo phương thức này đòi hỏi ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng này (sau đây gọi chung là ngân hàng) phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng kia hoặc ngược lại, thanh toán theo phương thức này đòi hỏi phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký của người có thẩm quyền ra lệnh thanh toán qua tài khoản tiền gửi. 1.3.6. Thanh toán điện tử liên ngân hàng Là hệ thống thanh toán tổng thể, bao gồm hệ thống bù trừ liên ngân hàng, hệ thống xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán và cổng giao diện với hệ thống chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống TTĐTLNH hiện đã được triển khai tại Trung ương (Sở giao dịch NHNN) và 5 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Tp.Hồ Chí Minh. Hệ thống TTĐTLNH có các đặc trưng sau đây: * Về mô hình tổ chức: Hệ thống TTĐTLNH có Trung tâm thanh toán quốc gia đặt tại Hà Nội. Trung tâm này thực hiện các chức năng tiểu hệ thống giá trị cao, chuyển mạch tiểu hệ thống giá trị thấp, xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán, giao diện với hệ thống chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước và các chức năng kiểm tra hệ thống bao gồm phần cứng, phần mềm và truyền thông. Kết nối với Trung tâm thanh toán quốc gia có các Trung tâm xử lý tỉnh, thành phố và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng xử lý các lệnh thanh toán của tiểu hệ thống giá trị thấp và chuyển mạch tiểu hệ thống giá trị cao trong phạm vi hệ thống TTLNH. Các thành viên trực tiếp của hệ thống TTĐTLNH là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có đủ điều kiện và được chấp nhận tham gia hệ thống TTLNH. Các thành viên trực tiếp phải có tài khoản tiền gửi thanh toán tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước và phải đăng ký danh sách các chi nhánh trực thuộc của mình (gọi là đơn vị thành viên) tham gia TTĐTLNH để được kết nối trực tiếp vào hệ thống. Ngoài ra, hệ thống còn có các thành viên gián tiếp. Thành viên gián tiếp là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được tham gia hệ thống TTLNH thông qua thành viên trực tiếp. * Về kỹ thuật nghiệp vụ xử lý thanh, quyết toán: Hệ thống TTLNH xử lý các lệnh thanh toán giá trị cao hoặc khẩn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của ngân hàng thành viên mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước theo phương thức quyết toán tổng tức thời. Đối với các lệnh thanh toán giá trị thấp sẽ được xử lý thông qua thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố. Kết quả thanh toán bù trừ trên các địa bàn (tỉnh, thành phố, khu vực) được chuyển về Trung tâm thanh toán quốc gia, cùng với kết quả bù trừ tại Trung ương (bù trừ giữa các Hội sở chính ngân hàng), sẽ được tiếp tục xử lý bù trừ một lần nữa – bù trừ “kép” để xác định kết quả cuối cùng và quyết toán. Về cơ bản, các lệnh thanh toán giá trị thấp được xử lý theo phương thức ròng (DNS) như đã nói ở trên. * Áp dụng chữ ký điện tử (mã khóa bảo mật) trong việc chuyển, nhận các lệnh thanh toán và các giao dịch có liên quan trong hệ thống. * Phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hệ thống TTĐTLNH: Giống như hệ thống thanh toán điện tử ở các nước, hệ thống TTĐTLNH cũng phải đối mặt với các rủi ro tiềm tàng như rủi ro vận hành và rủi ro có tính hệ thống do vậy cần phải có các biện pháp hữu hiệu và phù hợp để giảm thiểu tới mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro trong TTĐTLNH bao gồm: - Thiết lập._. và duy trì hoạt động của hệ thống dự phòng: hệ thống TTĐTLNH có hệ thống dự phòng cho hoạt động của Trung tâm thanh toán quốc gia và các Trung tâm xử lý tỉnh. Hệ thống dự phòng có đầy đủ máy móc, trang thiết bị như hệ thống đang vận hành chính thức và được đặt tại địa điểm riêng biệt, cách xa hệ thống đang vận hành chính thức nhằm đảm bảo cho các sự cố bất khả kháng như thiên tai, dịch họa… không thể cùng lúc ảnh hưởng đến cả 2 hệ thống. Trong trạng thái bình thường, hệ thống dự phòng hoạt động song hành với hệ thống chính thức và luôn sẵn sang thay thế cho hệ thống chính thức nếu hệ thống chính thức gặp phải sự cố bất khả kháng. - Xử lý và quyết toán các khoản thanh toán chuyển tiền giá trị cao và khẩn theo phương thức tổng tức thời: trong trường hợp tài khoản tiền gửi thanh toán của thành viên không có đủ số dư thì lệnh thanh toán sẽ được chuyển vào hàng đợi, khi đủ tiền mới được xử lý. - Áp dụng hạn mức nợ ròng: Hạn mức nợ ròng là mức giá trị tối đa quy định cho các giao dịch thanh toán giá trị thấp được tham gia quyết toán bù trừ, được tính toán dựa trên chênh lệch giữa tổng số các lệnh thanh toán giá trị thấp Đến và tổng số các lệnh thanh toán giá trị thấp Đi trong một khoảng thời gian xác định. Các thành viên tham gia quyết toán bù trừ phải tự thiết lập hạn mức nợ ròng của mình (6 tháng một lần) theo đó, phải ký quỹ giấy tờ có giá tại SGD-NHNN theo một tỷ lệ quy định tính trên hạn mức nợ ròng. Cơ chế hạn mức nợ ròng được vận hành như sau: Đầu ngày làm việc, Trung tâm thanh toán quốc gia cập nhật cho các Trung tâm xử lý tỉnh hạn mức nợ ròng đúng bằng giá trị các ngân hàng thành viên đã thiết lập. Tại mỗi thời điểm của ngày làm việc, hạn mức này thay đổi tăng, giảm tùy thuộc vào hoạt động giao dịch thanh toán trên thực tế. Định kỳ (10 giây), Trung tâm thanh toán quốc gia tính toán và cập nhật lại hạn mức này cho các Trung tâm xử lý tỉnh. Trong phạm vi hạn mức nợ ròng, các thành viên thực hiện việc chuyển, nhận các lệnh thanh toán với nhau và quyết toán bù trừ theo quy định và có trách nhiệm thường xuyên theo dõi hạn mức nợ ròng của mình để đảm bảo cho hoạt động thanh toán không bị ách tắc do thiếu hạn mức nợ ròng. - Chuyển nhượng cho nhau giấy tờ có giá ký quỹ: Là một biện pháp được áp dụng trong trường hợp một thành viên bất kỳ thiếu vốn thanh toán. Trong trường hợp này, SGD-NHNN sẽ thực hiện chuyển nhượng các giấy tờ có giá ký quỹ của thành viên này tại phiên giao dịch gần nhất của thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán. - Chia sẻ khoản thiếu hụt trong quyết toán bù trừ: Chia sẻ khoản thiếu hụt trong quyết toán bù trừ có thể được áp dụng khi một thành viên thiếu vốn thanh toán (sau khi đã áp dụng các giải pháp theo quy định), NHNN có thể xem xét phân bổ khoản tiền thiếu này cho các thành viên đối tác tham gia quyết toán cùng gánh chịu như là một khoản cho vay tạm thời. Cách xử lý chia sẻ khoản thiếu hụt trong quyết toán bù trừ: Khi nhận được thông báo khoản tiền được phân bổ để chia sẻ khoản thiếu hụt, thành viên bị phân bổ phải có hoặc bổ sung đủ số tiền vào tài khoản tiền gửi SGD-NHNN trong phạm vi thời gian quy định. Theo đó, thành viên này sẽ tính toán lại số dư quyết toán bù trừ bao gồm cả số tiền đóng góp cho khoản thiếu hụt được phân bổ. Thành viên thiếu vốn thanh toán có trách nhiệm phải hoàn trả đúng thời hạn số tiền cả gốc và lãi được các thành viên khác cho vay tạm thời kể trên. Trong trường hợp việc chuyển nhượng giấy tờ có giá ký quỹ và chia sẻ thiếu hụt trong quyết toán bù trừ vẫn không đáp ứng đủ vốn thanh toán thì các khoản thanh toán của thành viên thiếu vốn sẽ bị loại bỏ để thực hiện lại việc quyết toán bù trừ. 1.4. Khái quát về hệ thống thanh toán vốn giữa các ngân hàng Việt Nam hiện nay Nhận thức được tầm quan trọng của thanh toán vốn trong nền kinh tế, những năm gần đây, NHNN đã quan tâm đầu tư công nghệ hiện đại. Ngày 16/01/1996, Hiệp định tín dụng Dự án Hiện đại hoá Ngân hàng và Hệ thống Thanh toán ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và WB số 2785 VN được ký kết, bao gồm 7 Tiểu dự án: 01 của Ngân hàng Nhà nước và 06 của các Ngân hàng thương mại (NHTM), trong đó Tiểu dự án thanh toán điện tử liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý và thực hiện là Tiểu dự án xương sống, quan trọng nhất trong toàn Dự án. Với sự tài trợ của WB, NHNN đã xây dựng thành công hệ thống TTĐTLNH - đây là hệ thống thanh toán được thiết kế hiện đại nhất Việt Nam, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và chuẩn mực quốc tế. Sáu NHTM lớn khác cũng đã xây dựng và triển khai thành công hệ thống Corbanking, thiết kế theo giải pháp tập trung hóa tài khoản, các giao dịch được thực hiện tức thời (online) - đây là giải pháp công nghệ tiên tiến mà các ngân hàng hiện đại trên thế giới đang áp dụng. Nhờ sự thành công này mà thanh toán qua ngân hàng đã được cải tiến vượt bậc, không còn ách tắc trong thanh toán, dẫn đến đóng băng nguồn vốn như trước đây. Những thành công bước đầu này không những mang lại lợi ích cho bản thân ngân hàng, mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, hạn chế tối đa lượng tiền mặt trôi nổi trong lưu thông dẫn đến tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo để rồi ngân hàng phải phát hành một khối lượng tiền mặt không nhỏ để bù đắp, gây nhiều tốn kém và lãng phí cho xã hội. Tính đến thời điểm hiện tại, NHNH Việt Nam đang tồn tại 5 hệ thống thanh toán cùng song song hoạt động. Đó là: Thứ nhất, hệ thống TTĐTLNH, được thiết kế theo giải pháp tập trung hóa tài khoản, mỗi ngân hàng thành viên chỉ mở và sử dụng một tài khoản duy nhất tại NHNN. Thứ hai, hệ thống chuyển tiền điện tử liên ngân hàng do NHNN tự xây dựng và vận hành trước khi có hệ thống TTĐTLNH. Đây là hệ thống chuyển tiền điện tử trong nội bộ NHNN, được thiết kế theo giải pháp tài khoản phân tán, nghĩa là mỗi chi nhánh của các NHTM tham gia hệ thống này bắt buộc phải mở một tài khoản thanh toán tại chi nhánh NHNN cùng địa bàn. Thứ ba, hệ thống TTBT tại tỉnh, thành phố do chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố chủ trì. Hệ thống này đang hoạt động ở hai cấp độ kỹ thuật khác nhau. Một số tỉnh, thành phố thực hiện chuyển lệnh thanh toán bằng các thiết bị điện tử (bù trừ điện tử), số tỉnh còn lại vẫn thực hiện bù trừ giấy theo phương pháp thủ công, hai phiên giao dịch một ngày. Phần lớn các lệnh thanh toán được bù trừ trong địa bàn. Những khoản thanh toán ngoài địa bàn sẽ phải chuyển qua hệ thống CTĐT để thực hiện (ba hệ thống này do NHNN quản lý và điều hành). Thứ tư, các hệ thống CTĐT của các NHTM. Các hệ thống này được thiết lập khi các NHTM chưa tổ chức được hệ thống Corbanking tập trung hóa tài khoản. Cách thức thiết kế kỹ thuật, phương pháp hạch toán và vận hành có khác nhau nhưng nội dung thực hiện đều là chuyển các lệnh thanh toán trong nội bộ mỗi NHTM, từ chi nhánh về Hội sở chính hoặc từ chi nhánh này đến chi nhánh khác. Thứ năm, hệ thống chuyển tiền quốc tế (SWIFT), thường gọi là hệ thống thanh toán quốc tế. Đây mới chỉ đơn thuần là hệ thống CTĐT quốc tế, vì đến thời điểm này, tại Việt Nam chưa có hệ thống thanh quyết toán vốn cho hệ thống chuyển tiền này. Hệ thống TTĐTLNH gồm 3 cấu phần: Luồng thanh toán giá trị cao; Luồng thanh toán giá trị thấp; Xử lý quyết toán vốn. Thanh toán giá trị cao theo quy định hiện hành là những khoản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên và những thanh toán khẩn. Luồng thanh toán giá trị thấp xử lý các món thanh toán theo lô, mỗi món thanh toán có giá trị dưới 500 triệu đồng. Thời gian thực hiện một lệnh thanh toán chỉ diễn ra không quá 10 giây. Trong thiết kế kỹ thuật Hệ thống TTĐTLNH đã đáp ứng giải pháp mở, cho phép thực hiện xử lý tình trạng thiếu vốn trong thanh toán thông qua cơ chế thấu chi, cho vay qua đêm theo lãi suất quy định của NHNN. Phạm vi Tiểu dự án gồm: Trung tâm thanh toán quốc gia (NPSC) đặt tại Ngân hàng trung ương (Cục Công nghệ tin học), Trung tâm dự phòng (B-NPSC) tại Thị xã Sơn Tây và 06 Trung tâm xử lý tỉnh gồm: Sở giao dịch NHNN, 05 Chi nhánh NHNN: T/P Hà Nội, T/P Hải phòng, T/P Đà Nẵng, T/P Hồ Chí Minh và T/P Cần Thơ. Theo thiết kế ban đầu của Tiểu dự án, chỉ có 06 đơn vị NHNN và 06 ngân hàng thương mại với gần 100 chi nhánh tham gia hệ thống TTĐTLNH. Nhưng sau khi hệ thống TTĐTLNH đi vào hoạt động thì số lượng các Ngân hàng thương mại mong muốn được tham gia hệ thống thanh toán hiện đại ngày càng tăng, đến nay NHNN đã mở rộng cho 55 ngân hàng (trong đó có 06 đơn vị của NHNN và 49 Ngân hàng thương mại) với 232 chi nhánh tham gia hệ thống TTLNH. Thành phần bao gồm NHNN, các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh và các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy, so với thiết kế được duyệt, số ngân hàng tham gia hệ thống đã tăng hơn 8 lần, số chi nhánh tăng hơn 2 lần, nhưng kinh phí đầu tư cho hệ thống không thay đổi. Hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng của NHNN đã chính thức đưa vào hoạt động từ tháng 05/2002, theo số liệu thống kê, lượng giao dịch thanh toán qua TTĐTLNH trung bình là 13.000-15.000 món/ngày với 8.000 tỷ đồng/ngày, có ngày lên tới gần 30.000 món/ngày với 19.000 tỷ đồng/ngày và còn tiếp tục gia tăng. Từ 02/05/2002 đến 12/2005, hệ thống TTĐTLNH đã thực hiện 8.394.240 giao dịch với 5.185.000 tỷ đồng. So với năm 2004, năm 2005 số lượng giao dịch thanh toán qua TTĐTLNH tăng 31%, số tiền tăng 35%. Số lượng giao dịch thanh toán trong năm 2006 là hơn 4.500.000 giao dịch với hơn 3.700.000 tỷ đồng; trung bình mỗi ngày có 17.000 giao dịch với doanh số đạt 14.000 tỷ đồng. Trong đó có ngày lên tới 40.000 giao dịch với hơn 44.000 tỷ đồng. So với năm 2005, cả số giao dịch cũng như doanh số đều tăng gần 50%, vượt qua cả ngưỡng thiết kế của hệ thống. Điều này thể hiện sự phát triển, nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế rất nhanh chóng. Kết quả triển khai Tiểu dự án đã đạt các mục đích đề ra: (1) Đáp ứng nhu cầu của NHNN về kiểm soát tức thời nguồn vốn dự trữ thông qua số dư tài khoản tập trung, thay thế việc duy trì tài khoản thanh toán của các Ngân hàng thương mại tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố; (2) Giảm thiểu vốn trôi nổi trong thanh toán, tăng tốc độ chu chuyển vốn và tăng tính hiệu quả trong thanh toán; (3) Nâng cao tính thuận lợi và khả năng phục vụ khách hàng; (4) Thiết lập hệ thống quyết toán và bù trừ có độ tin cậy, an toàn và có khả năng thực hiện các khoản thanh toán từ các hệ thống thanh toán khác (séc, ATM…) nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang chuyển đổi và tăng trưởng; (5) Cải tiến và tăng cường công tác kế toán, các thủ tục kiểm soát trong nội bộ NHNN và các NHTM, hỗ trợ cho việc chuyển sang môi trường thanh toán hiện đại; (6) Góp phần cải tiến nâng cao chất lượng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trên cơ sở cung cấp thông tin kịp thời, chính xác các luồng chu chuyển vốn, các số dư tài khoản và quyết toán tức thời các giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ; (7) Tạo khả năng mở rộng các dịch vụ Ngân hàng hiện đại trong tương lai. Hệ thống TTĐTLNH có các giao diện tự động với các hệ thống khác như mạng thanh toán quốc tế SWIFT, hệ thống xử lý chuyển mạch ATM, hệ thống xử lý kết quả bù trừ séc, hệ thống quyết toán và bù trừ chứng khoán... Đây là tiểu dự án có tầm quan trọng để Hiện đại hoá ngân hàng Việt Nam, được Ngân hàng Nhà nước ưu tiên thực hiện cao nhất. Hội đồng nghiệm thu Quốc gia và WB đánh giá rất cao sự thành công của Dự án WB và đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đầu tư mở rộng dự án (giai đoạn II). Trong giai đoạn II, NHNN dự kiến sẽ tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống kỹ thuật phần cứng, phần mềm, viễn thông và bảo mật an ninh mạng cho hệ thống TTĐTLNH, gồm NPSC, B-NPSC và 06 Trung tâm xử lý cấp tỉnh (PPC) hiện có là: OC-PPC, HaNoi-PPC, HaiPhong-PPC, DaNang-PPC, HCM-PPC và CanTho-PPC. Việc nâng cấp kỹ thuật với công nghệ mới, tiên tiến nhằm nâng cao năng lực xử lý của hệ thống, bảo đảm sau mở rộng, hệ thống hoạt động ổn định trong vòng 5 năm tiếp theo; đồng thời kết nối tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng trong cả nước tham gia hệ thống thanh toán mà không cần phải xây dựng thêm PPC. Giải pháp này cũng tạo điều kiện cho NHNN tập trung nguồn lực kỹ thuật, tiếp nhận công nghệ mới, duy trì vận hành ổn định hệ thống trong khi lực lượng cán bộ kỹ thuật của NHNN từ Trung ương đến địa phương còn thiếu và chưa đồng bộ về trình độ. Thực hiện kết nối vào hệ thống thanh toán: 64 Chi nhánh NHNN tỉnh thành phố (giai đoạn 1 mới chỉ áp dụng cho 5 Chi nhánh- giai đoạn 2 thêm 59 Chi nhánh còn lại), gần 100 tổ chức tín dụng (giai đoạn 1 là 50 đơn vị, giai đoạn 2 thêm gần 50 đơn vị) với hơn 1000 Chi nhánh trong toàn quốc (giai đoạn 1 hơn 200 đơn vị, giai đoạn 2 thêm 800 đơn vị); bảo đảm hệ thống xử lý an toàn lượng giao dịch trung bình 300.000 món/ ngày, và đáp ứng xử lý lượng thanh toán ngày càng gia tăng, khoảng 1.400.000 giao dịch/ ngày, vào năm 2010. Ngày 17/6/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã thay mặt Nhà nước Việt Nam ký với WB Hiệp định tín dụng phát triển cho Dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn 2, trị giá 112 triệu USD (trong đó vốn vay của WB khoảng 105 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng trong nước). Khoá đào tạo về quản lý dự án và quản lý mua sắm bằng nguồn vốn đối ứng để hỗ trợ công tác quản lý dự án đã được thực hiện. Tháng 11/2005, dự án đã chính thức khởi động. NHNN đang phối hợp với các các NHTM tích cực triển khai dự án theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN phê duyệt, các thủ tục đấu thầu dự án tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật pháp Việt Nam và hướng dẫn của WB. Dự kiến giai đoạn II được thực hiện từ cuối 2005 đến cuối năm 2007. Theo lộ trình, khi đưa các tiểu dự án (giai đoạn II) vào vận hành đúng tiến độ sẽ tạo ra bước đột phá mới về công nghệ; hệ thống thanh toán mới, hiện đại của Ngân hàng Việt Nam sẽ được mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động trên cả nước tạo ra một nền tảng CNTT hiện đại cho cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 2005, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT Việt Nam, với việc Quốc hội chính thức thông qua Luật Giao dịch điện tử ngày 19/11/2005 và có hiệu lực từ 1-3-2006. Luật giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua ngày 19/11/2005. Đây là đạo luật đầu tiên trong lĩnh vực CNTT ở Việt Nam. Luật Giao dịch điện tử ra đời là một bước tiến mới mang tính đột phá của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) để phát triển kinh tế - xã hội. Nó đã tạo một nền tảng hành lang pháp lý cho các giao dịch điện tử nói chung và các nghiệp vụ, dịch vụ Ngân hàng hiện đại nói riêng, tạo điều kiện đẩy mạnh ứng dụng CNTT- TT trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động Thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Thực ra, trong nhiều năm qua (khi chưa có luật Giao dịch điện tử), hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng đã triển khai ứng dụng nhiều nghiệp vụ ngân hàng điện tử hiện đại và cũng đã có nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiên tiến được cung cấp cho khách hàng trên môi trường điện tử số hoá, như các nghiệp vụ Thanh toán điện tử, Chuyển tiền điện tử và từ tháng 5/2002 đã chính thức đưa vào vận hành hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng rồi các sản phẩm Thẻ tín dụng, Thẻ ATM, Ví tiền điện tử… - Đó là các giao dịch điện tử. Tuy nhiên trong bối cảnh còn thiếu một hành lang pháp lý đồng bộ, chưa có luật Giao dịch điện tử, các giao dịch điện tử đó được chi phối bởi nhiều Nghị định, Thông tư nên nó vẫn mang tính chất nội ngành (liên ngành), chưa thể mở rộng ứng dụng rộng rãi phục vụ cho mọi nhu cầu phát sinh của đời sống kinh tế toàn xã hội. Trong bối cảnh thiếu hành lang pháp lý như vậy, nhiều khi các giao dịch chỉ thực hiện được ở mức bán tự động, đóng khung trong nội bộ ngân hàng. Một mặt giao dịch được tiến hành trực tuyến (Online), xử lý hoàn toàn trên môi trường điện tử hoá, nhưng vẫn phải đồng thời thực hiện những qui định theo phương pháp giao dịch truyền thống: như luân chuyển và kiểm soát chứng từ giấy, in kết quả các giao dịch ra chứng từ giấy để ký và đóng dấu sau khi các giao dịch điện tử đã hoàn thành..., in chứng từ giấy để lưu trữ. Quy trình đó đã làm giảm đi tính hiệu quả của hoạt động giao dịch điện tử ngân hàng nói riêng, cũng như việc chưa khai thác hết được tiềm năng của các ứng dụng CNTT – TT trong hoạt động ngân hàng nói chung. Không những không làm giảm bớt các thao tác nghiệp vụ mà ngược lại khối lượng công việc phải xử lý hàng ngày lại nhiều hơn khi làm thủ công. Điều nghịch lý này sẽ được khắc phục khi luật giao dịch điện tử đi vào cuộc sống. Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt chiến lược phát triển CNTT-TT Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Theo đó, đến năm 2010 ngành CNTT-TT sẽ trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng từ 20 - 30%, đạt tổng doanh thu khoảng 6 – 7 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet sẽ sử dụng công nghệ hiện đại, phát triển nhanh và đa dạng hoá dịch vụ, sẽ cung cấp cho người sử dụng những dịch vụ chất lượng cao với giá cước thấp hơn hoặc tương đương giá cước bình quân các nước trong khu vực. Đây là xu hướng phát triển tất yếu của lĩnh vực CNTT-TT trong bối cảnh cả thế giới đang bước vào kỷ nguyên của thông tin, của nền kinh tế tri thức, góp phần để nền kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Chiến lược trên sẽ hỗ trợ tích cực cho hoạt động CNTT Ngân hàng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH TOÁN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN LÝ NHÂN. 2.1. Tổng quan về NHNo & PTNT huyện Lý Nhân 2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành của ngân hàng NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là một trong những chi nhánh của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam (NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam là chi nhánh cấp 1 có 6 chi nhánh cấp 2 ở 5 huyện và 1 thị xã), nguồn gốc là chi nhánh NHNN huyện Lý Nhân, được thành lập vào năm 1958 hoạt động theo mô hình một cấp. Thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, chuyển đổi cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, năm 1998 từ NHNN huyện Lý Nhân đã tách thành NHNo&PTNT huyện Lý Nhân và Kho bạc Nhà nước huyện Lý Nhân, chuyển hoạt động ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, từ đây ngân hàng thương mại ra đời chịu sự kiểm tra giám sát của NHNN nói chung và chi nhánh NHNN huyện Lý Nhân đổi thành NHNo&PTNT huyện Lý Nhân. Đến tháng 4/2003 theo chỉ đạo của NHNN Việt Nam, NHNo&PTNT huyện Lý Nhân tách thành NHNo&PTNT huyện Lý Nhân và Ngân hàng chính sách xã hội Lý Nhân. 2.1.2. Mô hình cơ cấu tổ chức: NHNo&PTNT huyện Lý Nhân hiện có các phòng: Phòng kế hoạch-tín dụng, Phòng kế toán-Ngân quỹ, Phòng hành chính. Mạng lưới hoạt động gồm có trụ sở chính đóng tại Thị trấn Vĩnh Trụ, hiện nay để phục vụ khách hàng ở xa trung tâm, NHNo&PTNT huyện Lý Nhân đã mở thêm Ngân hàng cấp III Chợ Cầu và Ngân hàng cấp III Chợ Chanh. Tổng số cán bộ công nhân viên tính đến ngày 31/1/2007 là 38 người trong đó trình độ Đại học: 11 người, Cao đẳng: 16 người, Trung cấp: 11 người. Sơ đồ 2.1. Bộ máy tổ chức của NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Giám đốc Phó giám đốc Phòng kế hoạch-tín dụng Phòng kế toán-Ngân quỹ Phòng hành chính-bảo vệ Ngân hàng cấp III 2.1.3. Sơ bộ tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng: 2.1.3.1. Địa bàn hoạt động Bên cạnh các cơ quan, hoạt động trong lĩnh vực kinh tế như Kho bạc nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là NHTM quốc doanh lớn trên địa bàn huyện Lý Nhân, là chi nhánh cấp 2 trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam với chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. NHNo&PTNT huyện Lý Nhân có trụ sở đóng tại trung tâm thị trấn Vĩnh Trụ. Là một huyện có tổng diện tích tự nhiên là 987,97 km2, dân số 23 ngàn người, phân bố 24 xã trong huyện. Ngành nghề chính của huyện là nông nghiệp trồng lúa nước và các cây hoa màu. Hiện nay trong cả huyện đã có một số xã trồng các loại cây đem lại lợi nhuận cao cho người dân như dưa xuất khẩu, ngô bao tử, các làng nghề thủ công nên đời sống người dân đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, một phần đó có sự giúp đỡ của NHNo&PTNT huyện Lý Nhân đã giúp người dân vay vốn để sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế, NHNo&PTNT huyện Lý Nhân thành lập đến nay đã 58 năm và tạo được uy tín đối với khách hàng trong toàn huyện. 2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT huyện Lý Nhân có chức năng thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trong phạm vi chức năng được NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam giao quyền, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ chủ yếu trên địa bàn huyện. Chức năng, nhiệm vụ chính là áp dụng các thể thức thích hợp để huy động vốn bằng tiền nhàn rỗi của mọi tầng lớp dân cư để cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn. Mọi hoạt động của Ngân hàng phải tuân thủ theo đúng pháp luật Nhà nước, luật tổ chức tín dụng, các thông lệ về lĩnh vực ngân hàng. Trong những năm gần đây, các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã phát triển đồng bộ đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội địa phương. Các hoạt động của Ngân hàng bao gồm: - Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. - Hoạt động tín dụng: Ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay. Đối tượng vay vốn của Ngân hàng chủ yếu là các hộ nông dân, mục đích chủ yếu là phát triển trồng trọt, chăn nuôi. - Hoạt động thanh toán: Ngân hàng làm trung gian thanh toán như: dịch vụ chuyển tiền cá nhân, tổ chức có tài khoản hoặc không có tài khoản tại ngân hàng, chuyển khoản, thực hiện ủy nhiệm chi. Nhận chi trả tiền nhanh Westerm Union... - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: trong hoạt động này Ngân hàng chỉ đơn giản là thực hiện nghiệp vụ mua ngoại tệ từ khách hàng nhận chuyển tiền nhanh Westerm Union muốn nhận bằng VNĐ và bán cho NHNo tỉnh Hà Nam theo hình thức mua bán giao ngay. - Hoạt động ngân quỹ: Ngân hàng thực hiện các dịch vụ ngân quỹ như: đổi tiền rách, tiền lẻ, kiểm định ngoại tệ, kiểm đếm đồng tiền... Bảng 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh tính đến ngày 31/12/2006 Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Tỷ lệ tăng trưởng Lợi nhuận 2.157.006.009 2.307.996.526 7,0% Thu nhập từ tín dụng 1.760.320.835 1.901.146.502 8,0% Thu nhập phí từ hoạt động dịch vụ 244.591.246 264.647.728 8,2% Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối 3.892.565 4.242.896 9,0% Thu nhập khác 474.818.100 489.400.600 4,0% Lãi và phí phải trả 209.098.341 226.871.700 8,5% Chi phí khác 117.518.396 124.569.500 6,0% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 Những chỉ tiêu tăng trưởng vượt bậc này là kết quả nỗ lực của toàn cán bộ ngân hàng trong thời gian qua, cũng chứng tỏ sự sáng suốt trong đường lối của Nhà nước, tách NHNo&PTNT huyện Lý Nhân khỏi Ngân hàng chính sách, hoạt động hạch toán kinh doanh. NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán báo sổ, vốn điều lệ bằng không. Do chiếm vị thế trên địa bàn nên là kênh huy động tích cực. Bảng 2.2. Kết cấu nguồn vốn huy động tính đến 31/12/2006 Đơn vị: ngàn đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Tỷ lệ tăng trưởng Tổng nguồn vốn 144.322.720 186.447.846 29,18% Tiền gửi của dân cư 118.343.235 153.108.914 33,90% Tiền gửi của kho bạc 24.706.949 33.031.301 33,69% Tiền gửi của TCTD 1.272.536 307.631 Trong đó: ngoại tệ quy đổi 7.028.247 13.454.473 91,43% Nguồn: Sao kê chi tiết tiền gửi tiết kiệm ngày 31/12/2005 và 31/12/2006. Đây là tốc độ tăng trưởng khá tốt ở một ngân hàng huyện, con số tăng trưởng 30-33% luôn được duy trì trong mấy năm qua đảm bảo nguồn vốn cho ngân hàng phát triển tín dụng, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người dân trong huyện. Tiền gửi của người dân chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn, tăng trưởng cũng mạnh nhất, điều đó chứng tỏ mức độ tin tưởng của dân chúng với ngân hàng ngày càng tăng. Ngân hàng thực hiện tốt chức năng là kênh huy động vốn từ dân cư. Cụ thể nguồn tiền gửi của khách hàng như sau: Bảng 2.3. Kết cấu chi tiết tài khoản tiền gửi của khách hàng Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Tỷ lệ tăng trưởng Tổng tiền gửi của khách hàng 118.343.235.456 153.108.914.273 33,90% Tiền gửi không kỳ hạn 3.079.058.060 4.033.566.058 31,00% Tiền gửi vốn chuyên dụng 262.077.762 338.080.313 29,00% Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng 188.461.538 245.053.090 30,00% Tiền gửi tiết kiệm bưu điện 40.992.836 54.110.544 32,00% Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn 1.308.833.314 1.740.748.307 33,00% Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 99.308.591.090 133.051.675.869 33,98% - dưới 12 tháng 34.557.899.752 46.342.143.567 34,10% - 12 – 24 tháng 62.222.394.596 83.346.897.568 33,95% - trên 24 tháng 2.528.296.752 3.362.634.680 33,00% Tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn 10.146.876.551 13.515.639.567 33,20% Nguồn: Sao kê chi tiết tiền gửi tiết kiệm ngày 31/12/2005 và 31/12/2006. Trong cơ cấu tiền gửi của khách hàng thì tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, tập trung vào tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng và 12 đến 24 tháng. Loại tiền gửi này có đặc điểm ổn định, người dân gửi vào để hưởng lãi nên thường ít rút ra trước hạn. Ngân hàng có thể dùng nguồn này để cho vay trung, dài hạn trên cơ sở tính toán chuyển hoán kỳ hạn hợp lý. Mặt khác loại vay tại ngân hàng cũng chủ yếu là vay ngắn hạn nên nguồn vốn huy động được hoàn toàn phù hợp, tăng vốn cho hoạt động tín dụng. Kết quả hoạt động tín dụng * Về quy mô tín dụng Bảng 2.4. Kết quả dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2006 Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Tỉ lệ tăng trưởng Tổng dư nợ tín dụng 94.268.700.530 125.377.371.700 33,00% Vượt kế hoạch 115.013.000 125.377.000 9,01% Trong đó: -Cho vay bằng vốn huy động 79.926.110.940 108.568.248.300 35,84% -Cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư 14.342.589.592 16.809.123.400 17,20% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 Qua bảng ta thấy dư nợ tín dụng trong 2 năm gần đây luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tăng trưởng tín dụng tới 33% trong đó tăng mạnh cho vay bằng vốn huy động (35,84%). Cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư cũng tăng 17,2% điều đó chứng tỏ uy tín của ngân hàng tăng, nguồn vốn tài trợ, ủy thác ngân hàng nhận được tăng. Đối tượng cho vay chủ yếu của ngân hàng là hộ nông dân, nhưng những năm gần đây do nền kinh tế chung của toàn huyện phát triển, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, các cơ sở sản xuất của các hộ nông dân cũng xuất hiện ngày một nhiều. Do đó ngân hàng đã mở rộng tín dụng sang đối tượng này đem lại nguồn thu nhập khá lớn mỗi năm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Bảng 2.5. Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tính đến 31/12/2006 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Tỷ lệ tăng trưởng Dư nợ tín dụng 12.234 22.265 82% Tỷ trọng cho vay DN nhỏ và vừa so với tổng dư nợ 12,97% 17,76% Tỷ lệ nợ xấu cho vay DN nhỏ và vừa Chưa phát sinh nợ quá hạn Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006. * Về chất lượng tín dụng Song song với việc tăng trưởng khối lượng đầu tư thì chất lượng công tác tín dụng luôn được xem trọng và cải thiện. Công tác thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh được tiến hành thực hiện chặt chẽ, đúng chế độ, thường xuyên tổ chức theo dõi, giám sát nên đã hướng khách hàng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay. Việc thực hiện nghiêm túc luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn, các quy định của ngành luôn được chỉ đạo quán triệt nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh mở rộng tín dụng NHNo&PTNT Lý Nhân còn coi trọng tập trung đôn đốc thu hồi nợ đến hạn Bảng 2.6. Kết quả chất lượng tín dụng Chỉ tiêu 2005 2006 Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ 0,77% 0,56% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006. Đây là kết quả tốt về đảm bảo an toàn đối với một ngân hàng nông nghiệp đặc biệt là ngân hàng mới tách ra hạch toán kinh doanh. Nhìn chung hoạt động của Ngân hàng còn đơn giản, nhưng với địa bàn hoạt động của mình đây là tổ chức tài chính thực hiện tốt các chức năng cơ bản của một ngân hàng thương mại. 2.2. Thực trạng thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 2.2.1. Các nghiệp vụ làm phát sinh nhu cầu thanh toán vốn với ngân hàng khác tại NHNo huyện Lý Nhân - Khách hàng (tổ chức, cá nhân) đến yêu cầu chuyển tiền (bằng uỷ nhiệm chi từ tài khoản hoặc nộp tiền mặt trực tiếp) cho người thụ hưởng có tài khoản hoặc không có tài khoản tại NHNo huyện khác tỉnh Hà Nam, NHNo tỉnh Hà Nam, NHNo tỉnh khác, NHNo huyện khác thuộc tỉnh khác, NH khác hệ thống NHNo trên toàn quốc. NHNo huyện Lý Nhân được sử dụng số tiền này trong khi các NH phục vụ người hưởng kia phải thanh toán cho người thụ hưởng từ vốn của mình, do đó NHNo huyện Lý Nhân phải thanh toán (phải trả) cho NH đã thanh toán hộ mình. - Khách hàng đến NHNo huyện Lý Nhân để lĩnh tiền chuyển đến. Giao dịch này ngược với giao dịch trên, trong trường hợp này NHNo huyện Lý Nhân được thanh toán (phải thu). 2.2.2. Vị trí NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các NH khác (thể hiện qua sơ đồ sau) Sơ đồ 2.2. Sơ đồ tổ chức hệ thống NHNo&PTNT-VN Trụ sở chính NHNo&PTNT-VN Trung tâm thanh toán NHNo & PTNT-VN NHNo TP khác, tỉnh khác CN cấp 1 NHNo tỉnh Hà Nam NHNo huyện Lý Nhân NHNo huyện khác CN cấp 3 (chợ Chanh, chợ Cầu) CN cấp 3 trực thuộc NHNo huyện khác NHNo quận khác thuộc TP khác NHNo huyện khác thuộc tỉnh khác CN cấp 2 CN cấp 3 trực thuộc NHNo quận, huyện thuộc TP, tỉnh khác CN cấp 3 Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổ chức các TCTD trên địa bàn huyện Lý Nhân NHNo&PTNT huyện Lý Nhân NH chính sách xã hội huyện Lý Nhân CNNHNo cấp 3 chợ Cầu CNNHNo cấp 3 chợ Chanh Sơ đồ 2.4. Sơ đồ tổ chức các TCTD trên địa bàn tỉnh Hà Nam CN.NHNN tỉnh Hà Nam CN.NHNo tỉnh NHNo huyện (5 huyện) CNNH Công thương CNNH Ngoại thương CNNH Đầu tư NHNo thị xã Phủ Lý 2.2.3. Thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác Sơ đồ 2.5. Sơ đồ tổng quát thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác Ngân hàng Nhà nước Trụ sở chính Ngân hàng nông nghiệp huyện Lý Nhân Ngân hàng nông n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32116.doc
Tài liệu liên quan