Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay,Internet đã phát triển một cách nhanh chóng, trở thành một phần quan trọng, áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống- kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại toàn cầu. Trên thực tế, việc kinh doanh thương mại đã và đang mang lại những nguồn thu khổng lồ cho thương mại thế giới. Trong tương lai, thương mại vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ tăng chóng mặt và thực sự trở thành một công cụ đắc lực giúp cho kinh tế thế giới có những bước chuyển mớ
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thanh toán trong thương mại điện tử và triển vọng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Nhờ có kinh doanh điện tử, mà những hạn chế về không gian và thời gian đều được khắc phục, giúp cho việc kinh doanh được mở rộng và phát triển.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài vòng xoáy của nhân loại, đó là thương mại điện tử. Kinh doanh điện tử chắc chắn sẽ là dụng cụ tiềm năng nhất để doanh nghiệp Việt Nam xây dựng lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay, những hiểu biết và áp dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, mới chỉ ở mức sơ khai. Trong thương mại nói chung, thanh toán là vấn đề khá nhạy cảm và luôn được cả hai bên mua và bán dành sự quan tâm đặc biệt, vì thanh toán thực sự liên quan đến lợi ích của cả hai bên. Khi hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng thì các phương thức thanh toán điện tử cũng khác so với cách thức thanh toán truyền thống.
Do vậy, việc tìm hiểu cách thức thanh toán điện tử là điều rất quan trọng, tạo điều kiện cho việc kinh doanh thương mại điện tử diễn ra suôn sẻ.
2..Đánh giá đề tài trong và ngoài nước
-Khoá luận của Vũ Cường, A7.K36D ĐH Ngoại Thương Hà Nội, viết về các hệ thống thanh toán điện tử và triển vọng ở Việt Nam.
-Khoá luận có ưu điểm là đã trình bày một cách khá đầy đủ về các hệ thống thanh toán điện tử liên quan đến các hình thái thương mại điện tử.
-Nhược điểm: là chưa trình bày sâu đến việc thanh toán thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong ngoại thương.
3. Mục đích nghiên cứu
-Nâng cao hiểu biết về thương mại điện tử trên thế giới nói chung và tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam nói riêng.
-Nhằm hiểu rõ về các phương thức thanh toán thương mại điện tử có liên quan đến hình thái kinh doanh giữa doanh nghiệp với khách hàng và doanh nghiệp với doanh nghiệp trong ngoại thương.
-Tìm hiểu về việc áp dụng thanh toán thương mại điện tử ở Việt Nam.
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung vào việc nghiên cứu các phương thức thanh toán điện tử giữa doanh nghiệp với khách hàng và doanh nghiệp với doanh nghiệp trong ngoại thương và các giải pháp cho phát triển thanh toán thương mại điện tử ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận nghiên cứu
-Sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, tìm kiếm thông tin qua báo chí, sách vở và qua mạng Internet.
-Nghiên cứu tài liệu và thực tiễn tiến hành thanh toán trong thương mại điện tử .
-Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, xin tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu.
6. Nội dung nghiên cứu
Bài khoá luận gồm 3 chương
Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử (TMĐT)
Chương 2: Thanh toán trong thương mại điện tử (TMĐT) ở Việt Nam
Chương 3: Triển vọng đối với thanh toán trong TMĐT ở Việt Nam
7. Điểm mới của đề tài
-Tìm hiểu sâu về phương thức thanh toán trong thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) trong ngoại thương và thanh toán giữa doanh nghiệp với khách hàng (B2C).
-Tiếp tục nghiên cứu về nguồn pháp lý điều chỉnh các hoạt động thanh toán điện tử.
-Đưa ra những giải pháp mới cho sự phát triển TMĐT ở Việt Nam.
8. Lời thề trung thực về học thuật
Trong bài khóa luận này, em xin trung thành với lời thề trung thực về học thuật.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn - Lê Thế Bình- người đã chỉ bảo giúp đỡ em tận tình trong nhiều tháng qua kể từ những ý tưởng ban đầu cho đến khi hoàn thành khoá luận. Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn đối với những kiến thức quý báu mà thầy đã cung cấp cho em trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Ngoại Thương.
Do điều kiện và trình độ còn hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy em xin cảm ơn và rất mong nhận được những góp ý, phê bình của thầy cô giáo và bạn bè quan tâm đến đề tài này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2002
Chương 1
Tổng quan về Thương mại điện tử (TMĐT)
I. Khái quát về TMĐT
1. TMĐT và các qui trình tiến hành TMĐT
1.1. Khái niệm TMĐT
Cách mạng công nghệ thông tin với sự ra đời của máy tính cá nhân (PC) và phương tiện truyền thông điện tử hiện đại đã tạo nên một cuộc “cách mạng Internet” trong thập niên qua. Sự ra đời của phương thức trao đổi dữ liệu điện tử EDI (Electronic Data Interchange), E-mail, và Internet đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội mà đặc biệt là giao dịch thương mại. Giao dịch mang tính thương mại thông qua phương tiện điện tử ngày càng trở nên phổ biến. Theo số liệu tính toán thì doanh số thương mại điện tử tiếp tục tăng trong năm 2002-2003 và theo báo cáo của IDC, hãng nghiên cứu Forrester, CIBC Oppenheimer và IBM, sẽ cho chúng ta thấy một vài chỉ số của thương mại điện tử để phản ánh tốc độ tăng chóng mặt của cuộc cách mạng kinh doanh điện tử. Ví dụ: số người tiêu dùng trực tuyến tăng từ 70 triệu (1998), lên tới 225 triệu (2002). Số trang Web tăng chóng mặt từ 1 tỉ lên tới 7,5 tỉ. Doanh số kinh doanh điện tử trung bình cho một khách hàng từ 1200 $ đến 3300 $. Tất cả các mảng của ngành công nghiệp dịch vụ tài chính đều được dự đoán sẽ có sự tăng trưởng theo cấp số nhân.
Từ báo cáo của IDC, chúng ta nhận thức rõ một điều rằng: thương mại điện tử có mặt ở khắp mọi nơi và có vai trò rất quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và kinh tế mỗi nước nói riêng. Trong kỷ nguyên công nghệ thông tin ngày nay, phát triển thương mại điện tử là một yêu cầu cấp thiết đối với bất cứ quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế. Có thể nói rằng, chúng ta không thể theo kịp các nước phát triển, đón đầu các công nghệ dựa trên tri thức nếu không phát triển thương mại điện tử .
Vậy, thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử tiếng Anh là Electronic commerce, viết tắt là e-commerce. Cũng có nhiều tên gọi khác như "thương mại trực tuyến " (online trade) "thương mại điều khiển học" (cyber trade), thương mại không có giấy tờ (paperless commerce), nhưng gần đây tên gọi e-commerce được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung, được đưa vào văn bản pháp luật quốc tế dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể dùng được và được hiểu với cùng một nội dung.
Theo nghĩa rộng rãi nhất, thương mại điện tử là việc tiến hành các hoạt động thương mại được hỗ trợ bởi các phương tiện điện tử.
Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về thương mại điện tử của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) là các quan hệ thương mại, giao dịch tài chính mà sử dụng công nghệ số, phương tiện điện tử như mạng thông tin toàn cầu mở Internet, các mạng đóng như mạng trao đổi dữ liệu điện tử (EDI- electronic data interchange) ...hỗ trợ.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như các thông tin số hoá thông qua mạng Internet.
Theo OECD (Tổ chức phát triển kinh tế của Liên hợp quốc) thì thương mại điện tử là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Tất nhiên, có những qui trình không thể tiến hành trên mạng như việc giao hàng hóa ở dạng vật thể (máy móc, thực phẩm ...) song tất cả các quá trình của giao dịch nếu có thể tiến hành trên mạng thì đều có thể tiến hành bằng các phương tiện điện tử .
Theo ý kiến các chuyên gia, cho tới nay, TMĐT vẫn tập trung vào những công đoạn cuối trong quá trình kinh doanh: đặt hàng và thanh toán .
Khi nói đến thương mại điện tử, cần chú ý rằng: “thương mại” (commerce) được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp, hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ, thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing ); xây dựng các công trình, tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.
Nhưng, trong phạm vi bài luận văn này, xin chỉ đề cập đến thương mại điện tử theo cách hiểu chỉ là buôn bán hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Qui trình tiến hành TMĐT
Thường thì để có một đơn đặt hàng chính thức, trước đó, người ta phải tiến hành rất nhiều lần giao dịch, trao đổi thông tin. Vì thế, xét trên một phạm vi rộng, ta có thể coi TMĐT gồm những qui trình sau:
Quy trình bán hàng và tiếp thị – Việc phân tích những thông tin phản hồi trên mạng của khách hàng để có thể nắm vững nhu cầu của thị trường.
Phát hiện những thị trường mới, bằng sự hiện diện toàn cầu thông qua mạng Internet.
Phát triển quan hệ với khách hàng hiện có, tạo ra “sự trung thành” của khách hàng, thường xuyên trao đổi e-mail với khách hàng.
Giúp đỡ khách hàng tiềm năng đưa ra quyết định mua hàng của mình – hướng dẫn họ lựa chọn sản phẩm một cách hợp lý nhất.
Cung cấp dịch vụ 24/24 giờ, tạo điều kiện cho khách hàng đặt hàng qua mạng, bất kể họ đang ở đâu.
Quản lý hệ thống chuỗi cung cấp – hỗ trợ những người nằm trong hệ thống này như các nhà buôn, các đại lý phân phối nhờ sự tương tác trực tuyến.
Hỗ trợ khách hàng – mở rộng các hỗ trợ hậu mãi tới khách hàng nhờ phương thức trực tuyến: nhờ đó sẽ làm thoả mãn yêu cầu của khách hàng, tạo mối quan hệ bền vững, rút ngắn khoảng thời gian giữa hai lần mua do việc các đơn đặt hàng tương tự liên tiếp được gửi tới.
Phương thức kinh doanh thương mại này được áp dụng ở hầu hết các doanh nghiệp trên mạng và là chiến lược thành công nhất.
2. Nền tảng của TMĐT
Nhìn từ góc độ kỹ thuật, TMĐT phát triển dựa trên các nền tảng: Công cụ phần mềm, phần cứng; Hạ tầng cơ sở Internet; Hạ tầng cơ sở thông tin liên lạc.
1. Các công cụ phần cứng và phần mềm Internet: đó là những công nghệ, ngôn ngữ, công cụ phát triển phần mềm trên Internet đều được TMĐT sử dụng để phát triển những ứng dụng của nó.
2. Hạ tầng cơ sở của Internet: tất cả những hệ thống tạo lập lên Internet đã cho TMĐT một tầm với rộng lớn mang tính toàn cầu.
3. Hạ tầng cơ sở thông tin liên lạc: tất cả những gì tạo lập lên mạng điện thoại toàn cầu hình thành những liên kết điện tử tạo nên Internet và TMĐT sau này.
Tuy nhiên nếu nhìn từ góc độ chiến lược phát triển, TMĐT bao gồm các giải pháp: Tài chính, Pháp lý, Hạ tầng công nghệ và xã hội, Hợp tác quốc tế.
1. Tài chính: giải pháp này sẽ đề cập đến những vấn đề như hệ thống thanh toán, hệ thống thuế, bảo vệ thông tin cá nhân.
2. Pháp lý: giải pháp này đưa ra khuôn khổ hành lang pháp lý cho các hoạt động của TMĐT, sẽ giải quyết các vấn đề như tính hiệu lực của hợp đồng được kí kết theo cách thức điện tử, luật bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng...
3. Hạ tầng công nghệ và xã hội: trong giải pháp này người ta đưa ra phương hướng giải quyết những vấn đề như đào tạo, mở rộng kiến thức về TMĐT, đầu tư - hợp tác xây dựng những công nghệ mới, hiện đại phục vụ cho TMĐT…Mục tiêu của dự án là tạo được một môi trường công nghệ cao và người sử dụng hiểu biết nhiều về TMĐT.
4. Hợp tác quốc tế: do không một quốc gia nào có thể sáng tạo ra được hết các khía cạnh của TMĐT, nên giải pháp này hướng các quốc gia hợp tác lẫn nhau trong lĩnh vực này để có thể học hỏi được ở nhau những điều tốt đẹp nhất.
3. Những lĩnh vực trong thương mại điện tử
Cũng giống như hầu hết các ngành khác, TMĐT không là một thực thể riêng lẻ, độc lập mà là tập hợp của nhiều bộ phận, lĩnh vực khác biệt nhau hoàn toàn nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi bộ phận lại cung cấp một trong những sản phẩm hoặc dịch vụ chủ chốt cần cho toàn hệ thống TMĐT.
Trên thực tế TMĐT phân chia thành các lĩnh vực nhỏ sau:
1. Bộ phận bảo mật: cung cấp phần mềm, phần cứng, và những dịch vụ để những ai tham gia TMĐT có thể tiến hành an toàn các hoạt động trong toàn hệ thống và giữa các hệ thống với nhau. Những sản phẩm chính của bộ phận này là: tường lửa, những nhóm dụng cụ bảo mật, chứng thực số…
2. Bộ phận thanh toán điện tử: tạo lập, xử lý và phân tích tất cả các dạng của những cuộc thanh toán trong hệ thống cho những người tiến thành thanh toán trực tuyến. Ví dụ: tiền điện tử, hoá đơn điện tử, thẻ tín dụng,…
3. Bộ phận phần mềm dịch vụ tài chính: phát triển phần mềm để cho những người trong hệ thống tham gia quản lý, xử lý các nghiệp vụ thanh toán, phân tích tài chính ... Ví dụ: phần mềm quản lý những nghiệp vụ ngân hàng, phần mềm hỗ trợ giao dịch trên mạng,...
4. Bộ phận phần mềm thương mại: cung cấp phần mềm cho những người tham gia thương mại điện tử có thể liên kết những dịch vụ nội bộ của họ như thanh toán, chuyển tiền, hệ thống đặt hàng… ra tới mạng toàn cầu. Ví dụ: catalogue điện tử, phần mềm trao đổi dữ liệu điện tử…
5. Bộ phận nội dung thương mại: gồm tất cả những công ty tiến hành hoạt động thương mại trực tuyến dù dưới hình thức bán buôn hay bán lẻ. Bộ phận này có đặc trưng sử dụng tất cả những sản phẩm của cả bốn bộ phận trên để bổ trợ cho mình trong những hoạt động giao dịch. Sản phẩm của bộ phận này là: sách vở, đĩa, băng nhạc…
4. Các hình thức hoạt động của TMĐT và các hình thái kinh doanh TMĐT
4.1. Hình thức hoạt động
4.1.1. Các cửa hàng ảo và phố kinh doanh ảo
Ngày nay người ta tăng cường truy cập Internet và tận dụng những ưu điểm của Internet (các dịch vụ liên tục 24/24 giờ trên phạm vi toàn cầu, cung cấp thông tin khách hàng, đơn từ …) làm nơi giao dịch buôn bán hàng hoá. Người bán hàng xây dựng các cửa hàng ảo trên mạng (virtual shop) để thực hiện việc buôn bán. Người tiêu dùng sử dụng Internet tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hoá, hiển thị trên màn hình và nếu muốn mua thì xác nhận mua, trả tiền bằng thanh toán điện tử. Ban đầu, hình thức bán hàng này chưa phát triển, chủ yếu mới chỉ là các cửa hàng đồ chơi, sách, thiết bị tin học. Đến nay, danh sách bán hàng lẻ trên mạng đã được mở rộng, rất phong phú và đa dạng với nhiều loại mặt hàng như máy móc, thiết bị, vật liệu…, làm cho thị trường kinh doanh qua mạng hoạt động rất tấp nập, không kém thị trường truyền thống. Có thể nói, Internet thực sự trở thành sân chơi cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các thành viên, dù nổi tiếng lẫn không nổi tiếng, là doanh nghiệp hay người tiêu dùng, cho phép mọi người đều có thể truy nhập vào kho giao dịch thương mại duy nhất có mặt ở khắp mọi nơi.
Người ta dự tính có thể thu được một nguồn thu nhiều triệu đôla cho các giao dịch buôn bán đáng kể qua mạng. Một lượng lớn giao dịch đã cho thấy sự thành công đáng kể của xu hướng này. Thống kê cho thấy các lĩnh vực sử dụng thương mại nhiều nhất bao gồm các dịch vụ tài chính ngân hàng, kinh doanh bán lẻ, du lịch, quảng cáo …Trong kinh doanh bán lẻ, ngoài máy tính và các sản phẩm mạng còn có tin tức, sách báo, nhạc, phim ảnh, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm tin học và các thiết bị văn phòng - đó là một số các sản phẩm hiện nay đang được bán rất chạy.
Hiện nay, những người tham gia mua, bán hàng trên mạng ngày càng tăng. Theo một nghiên cứu được tiến hành vào tháng 3 /1997 của Commerce Net và Nielsel thì 73% số người sử dụng các trang Web cho biết họ sử dụng thời gian để tìm kiếm những thông tin về hàng hóa cụ thể, trong đó 53% số người sử dụng nói rằng họ tìm thông tin trước khi ra quyết định mua hàng và 15% (khoảng 5.6triệu) người cho biết họ đã thực sự tham gia vào buôn bán trên mạng.
4.1.2. Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange – EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay các tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc vì hai bên phải thương lượng với nhau trước về khuôn dạng cấu trúc của các thông tin). Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đưa ra định nghĩa pháp lý sau đây: “Trao đổi dữ liệu điện tử là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn sẽ được thoả thuận để cấu trúc thông tin”. EDI được sử dụng từ trước khi có Internet, trước tiên người ta dùng “mạng gia tăng giá trị ” (Value Added Network: VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau: cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi: khi kết nối vào VAN một doanh nghiệp sẽ có thể liên lạc với rất nhiều máy tính điện tử nằm ở mọi nơi trên thế giới. Ngày nay, VAN được xây dựng chủ yếu là trên nền Internet.
Trao đổi dữ liệu điện tử được sử dụng thay thế mọi thứ giấy tờ mà doanh nghiệp vẫn dùng trước đây như vận đơn, đơn đặt hàng, thậm chí cả séc. Nó đề ra các phương pháp để xác minh tên của công ty gửi vận đơn, để chứng minh việc giao hàng và để tiến hành thanh toán. Trao đổi dữ liệu điện tử quan tâm đến việc trao đổi dữ liệu giữa các bên đã có sự hiểu biết khá rõ về nhau và sắp xếp việc kết nối giữa bên này với bên kia (từ điểm nọ đến điểm kia) thông thường qua kênh điện thoại và là công cụ cốt tử trong các giao dịch B2B qua Internet, thậm chí còn là giải pháp sống còn khi số lượng khách hàng ngày một tăng lên.
4.1.3. E-mail, Fax và hệ thống điện thoại trên mạng Internet
Đây là giao dịch thương mại điện tử thông qua các hình thức thông tin điện tử hạn chế hơn: E-mail (thư điện tử ), Facimile hay Fax, điện thoại truyền hình trên mạng Internet. Hầu hết các giao dịch điện tử này là sự trao đổi qua lại từ giao dịch này sang giao dịch kia với một số công ty, đây là việc cố gắng sử dụng E-mail và Fax cho các quảng cáo tới khách hàng và các triển vọng kinh doanh khác.
Trong các giao dịch điện tử trên, có lẽ E-mail là phương tiện quảng cáo trực tuyến trên mạng hiệu quả nhất. Qua E-mail, doanh nghiệp có thể giải đáp thắc mắc của khách hàng, đưa ra những cách thức dễ dàng để mọi người có thể đặt câu hỏi qua trang Web, có thể tập hợp tên và địa chỉ những người gửi thư tới, phân loại các yêu cầu trong một cơ sở dữ liệu và giải đáp đa số yêu cầu này theo kiểu tự động hoá hoặc gửi e-mail cho từng khách hàng khi có câu trả lời. Đồng thời, thông qua việc thu thập các câu trả lời của bảng câu hỏi trong e-mail tự động gửi tới khách hàng, doanh nghiệp có thể dễ dàng nắm bắt được thị hiếu của khách hàng như màu sắc, hình dáng…để từ đó có kế hoạch tung ra thị trường những sản phẩm có khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể trao cho khách hàng khả năng kết nối vào hệ thống tự động của doanh nghiệp, sao cho vào các thời điểm thích hợp họ có thể nhận được chào hàng đặc biệt như các hoạt động mua bán, các mặt hàng mới, các kỹ thuật tiên tiến trong nghành công nghiệp nếu doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cung cấp dịch vụ.
4.1.4. Xây dựng và quảng bá trang Web
Một trong những cách thức hiệu quả nhất để khuyếch trương việc kinh doanh thương mại là xây dựng và quảng bá các trang Web, trước hết, thông qua các bài báo trên những tờ báo, tạp chí thương mại hoặc thậm chí trên các chương trình tin tức trên truyền hình hay đài phát thanh.
Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp hiểu rõ lợi ích của việc xây dựng trang Web của mình trên mạng nên đã lắp đặt hệ thống máy tính và xây dựng mạng nội bộ, dựa trên các chuẩn thống nhất (TCP/IP và HTTP) để bắt đầu hình thành các trang Web của doanh nghiệp.
Khi kết nối vào Internet, mỗi doanh nghiệp nên xem xét và cân nhắc để quyết định sẽ đưa lên trang Web của mình những gì, vì vậy, trước hết, doanh nghiệp cần tự trả lời một số câu hỏi như:
Liệu có thể đặt cactaloge sản phẩm của mình thành trực tuyến được không?
Chính sách về sử dụng Internet của doanh nghiệp với nhân viên như thế nào?
Nên tự làm hay nên mua các dịch vụ thương mại điện tử?
Quy mô của giao dịch thương mại mà các nhà cung cấp và các khách hàng thực sự tiến hành với Internet? Hiện tại họ giao tiếp với các hệ thống của mình như thế nào và liệu sẽ có những thay đổi gì trên mạng?
Thông tin nào sẽ cung cấp miễn phí, thông tin nào sẽ đòi hỏi người dùng phải trả tiền?
Sẽ phải liên lạc từ trang Web của mình tới những ai?…
Có thể nói, việc xây dựng các trang Web có hiệu quả là một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp, vì đây là yếu tố đầu tiên để khách hàng biết đến doanh nghiệp. Do vậy, trang Web của doanh nghiệp nhất thiết phải được trình bày một cách sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu và tiện dụng cho khách hàng, có như vậy công việc kinh doanh trên mạng của các doanh nghiệp mới có thể tiến hành thuận lợi đựơc.
4.2. Các hình thái thương mại điện tử
Thương mại điện tử gồm có thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B: Business to Business), doanh nghiệp với tư nhân (B2C: Business to Customer), doanh nghiệp với Chính phủ (B2G: Business to Government), Chính phủ với Chính phủ (G2G: Government to Government), Chính phủ với doanh nghiệp (G2B: Government to Business), Chính phủ với khách hàng (G2C: Government to Customer), khách hàng với khách hàng (C2C: Customer to Customer), khách hàng với doanh nghiệp (C2B: Customer to Business), khách hàng với Chính phủ (C2G: Customer to Government).
Giữa các doanh nghiệp với nhau: (B2B: Business to Business)
Mô hình này chủ yếu nhằm tăng hiệu năng và giảm giá thành dịch vụ của khâu quản lý dây chuyền cung ứng: các công ty chế biến công nghiệp mua thiết bị, phụ tùng, bán thành phẩm cần thiết từ hàng trăm, hàng ngàn công ty cung ứng qua mạng, vừa tiết kiệm phí tổn cung ứng vừa có hiệu năng cao (nhanh chóng, kịp thời, chính xác và giảm nhu cầu tồn kho). Mặt khác, do sự cạnh tranh tự do nên, doanh nghiệp có thể mua được hàng hoá với giá thành hợp lý nhất. Nói chung, thương mại B2B đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích, tiết kiệm khoảng 10%-25% toàn bộ chi phí của khâu cung ứng, do đó tăng nguồn lợi nhuận cho công ty, đồng thời tiết kiệm một lượng chi phí xã hội đáng kể.
Giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C: Business to Customer)
Mô hình kinh doanh thương mại điện tử này tương đương với hình thức bán hàng qua mạng. Hình thức này giúp cho các doanh nghiệp bán lẻ có thể kết hợp chiến lược tiếp thị theo chiều rộng (phổ biến đến nhiều người) lẫn chiều sâu (biết rõ và đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của từng khách hàng) và loại hình này giúp người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần đến cửa hàng.
Trước đây, các nhà bán lẻ phải chọn một trong hai mục tiêu, vì không thể thực hiện cả hai trong cùng một lúc hay qua cùng một phương tiện tiếp thị, nhưng bây giờ, nhờ có Internet, doanh nghiệp có thể đạt được cả hai mục tiêu và thông qua mạng, các nhà bán lẻ có thể cung cấp rất nhiều dịch vụ cho người tiêu dùng từ bán hàng tiêu dùng, đa dạng như bánh kẹo, rượu bia, máy tính, xe hơi… đến các chương trình phần mềm.
Tuy vậy, do văn hoá kinh doanh từng nước, mà sự phát triển bán hàng lẻ qua mạng có sự khác nhau, ví dụ: tại Mỹ, do trình độ hiểu biết về Internet cao, dẫn đầu trong các nước, nên nghành kinh doanh bán lẻ qua mạng rất phát triển. Trong khi đó, dù Singapore và Hồng Kông tuy là thị trường viễn thông có sức cạnh tranh nhất và nằm trong danh sách các nước được trang bị về công nghệ thông tin tốt nhất nhưng vẫn chưa nằm trong số 10 nước đứng đầu về phát triển kinh doanh qua mạng.
Giữa các công ty với chính phủ (B2G: Business to Goverment) và Chính phủ với doanh nghiệp (G2B: Government to Business)
Thương mại điện tử giữa công ty và Chính phủ bao gồm toàn bộ các giao dịch giữa các công ty và các tổ chức chính phủ. Thông qua mạng, Chính phủ có thể cung cấp các dịch vụ, thông tin đến doanh nghiệp và có thể dễ dàng quản lý thuế, hải quan, các phí, lệ phí và các khoản thu dịch vụ khác thông qua một hệ thống quản lý thống nhất về thuế, thanh toán bằng tài khoản trực tiếp trên mạng Internet giữa doanh nghiệp và Nhà nước và ngược lại, doanh nghiệp có thể tiếp nhận thông tin, dịch vụ và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách dễ dàng hơn, cũng như nắm bắt kịp thời sự thay đổi luật pháp, chính sách của Nhà nước.
Mô hình giao dịch giữa Chính phủ và công ty sẽ phát triển mạnh mẽ khi có mạng liên kết giữa các cơ quan quản lý từ trung ương tới địa phương, bởi việc quản lý thông qua mạng Internet sẽ giúp giảm đáng kể khối lượng công việc quản lý cũng như chi phí ngân sách của Nhà nước trong việc này.
Giữa tư nhân với doanh nghiệp (C2B: Customer to Business), tư nhân với tư nhân (C2C: Customer to Customer)
Mô hình này tạo cơ hội cho các cá nhân có thể mua/bán những hàng hóa hay dịch vụ mình cần nhưng ít có do doanh nghiệp cung cấp, vì hình thức thương mại điện tử này có thể kết nối giữa một số ít người bán và một số ít người mua ở bất cứ nơi nào. Điều này mở rộng khả năng lựa chọn cho các cá nhân.
Giữa chính phủ với nhau ( G2G: Government to Government)
Khi mạng Internet phát triển, chính phủ các nước có thể mở rộng quan hệ với nhau thông qua mạng Internet. Mọi hoạt động hợp tác, liên kết, trao đổi giữa các nước có thể thực hiện dễ dàng thông qua mạng rộng khắp toàn cầu.
II. Lợi ích của thương mại điện tử
Ngày nay, thương mại điện tử ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng là một phương thức giao dịch nhanh, hiệu quả và cung cấp thông tin một cách cập nhật nhất. Phương thức kinh doanh này tận dụng được tối đa các nguồn lực và đem lại nhiều sự tiện dụng cho các bên tham gia, do đó việc kinh doanh trên mạng ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào công việc kinh doanh thông qua mạng đem lại lợi ích to lớn, giúp người tham gia có được thông tin phong phú về thị trường, đối tác, giảm chi phí trong kinh doanh, rút ngắn chu kỳ sản xuất, và trên quan điểm chiến lược giúp cho một nước sớm chuyển sang nền kinh tế số hoá như một xu hướng tất yếu của thời đại và bằng cách đó các nước đang phát triển có thể tạo một bước tiến nhảy vọt. Có thể nói rằng, thương mại điện tử đem lại những lợi ích vô cùng to lớn, mà các doanh nghiệp muốn phát triển, muốn thu được những món hời khổng lồ, thì không thể bỏ qua được.
Vậy lợi ích của thương mại điện tử thể hiện ở những điểm gì?
1. Vấn đề giờ giấc
Việc kinh doanh trên mạng tạo ra sự tiện lợi vô cùng lớn đối với cả doanh nghiệp lẫn khách hàng, vì doanh nghiệp có thể bán hàng tận dụng cả ngày vẫn với một chi phí không đổi, nhân lực không đổi, còn khách hàng, thì có thể xem hàng mọi lúc, bất cứ khi nào họ rỗi rãi. Hơn nữa, các yêu cầu qua thư điện tử từ khách hàng có thể được doanh nghiệp xem xét giải quyết mau lẹ và đầy đủ hơn so với hình thức gửi thư thông thường hay qua điện thoại. Mặt khác, trong các giao dịch thông thường đòi hỏi phải có sự gặp gỡ trực tiếp giữa các bên thì chi phí và thời gian là rất lớn.
Giao dịch được hiểu là cả quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, cho tới giao dịch đặt hàng, giao hàng, giao dịch thanh toán. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax và bằng khoảng 0,5% so với thời gian giao dịch qua bưu điện, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% tới 20% chi phí thanh toán theo cách thông thường. Như vậy, việc kinh doanh trên mạng tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho cả người tiêu dùng và cho các doanh nghiệp.
2. Giảm chi phí dành cho các hoạt động tiếp thị, chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm
Công ty có thể quảng cáo các mặt hàng một cách thường xuyên trên các Website của mình mà lại ít tốn kém hơn việc quảng cáo trên giấy và khi doanh nghiệp muốn thay đổi, quảng cáo thêm mặt hàng mới thì, vấn đề này cũng trở nên dễ dàng hơn, do cataloge thông thường chỉ có khuôn khổ giới hạn, không thể nêu hết các thông tin và luôn luôn lỗi thời còn cataloge điện tử có thể thay đổi hình ảnh các sản phẩm một cách dễ dàng, giúp cho khách hàng thuận tiện trong việc tiếp cận cataloge và cập nhật hàng hoá của công ty một cách thường xuyên hơn.
Thông qua mạng, doanh nghiệp có thể giảm được một khoản khá lớn chi phí cho việc in ấn tài liệu cho các nhân viên của công ty bằng cách sử dụng mạng nội bộ, và khi tiến hành kinh doanh trên mạng, doanh nghiệp cũng đã giảm một khoản đáng kể chi phí cho việc thuê cửa hàng (đây là một khoản chi phí không nhỏ, đặc biệt là khi doanh nghiệp thuê cửa hàng tại các thành phố lớn như Tokyo…), chi phí cho việc in ấn các chứng từ, chi phí cho các đàm phán giao dịch vì giao dịch qua mạng vừa ít mất thời gian, lại không mất chi phí đi lại, trong khi chi phí giao dịch trực tiếp lại rất tốn thời gian, tiền bạc, cũng như giảm bớt được những khoản bưu phí đắt đỏ dành cho việc thông tin liên lạc với khách hàng và đối tác kinh doanh, do chi phí mỗi lần liên lạc rẻ, hơn nữa, chi phí gửi thư tới 100 người chỉ tương đương với việc gửi tới một người duy nhất.
Như vậy, do việc giảm chi phí trong cả quá trình giao dịch mà giá thành sản phẩm cũng được giảm. Điều này có lợi cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng, vì người tiêu dùng thì có thể mua được hàng hoá với giá rẻ, còn doanh nghiệp thì cũng tăng được nguồn lợi do bán được hàng với số lượng lớn.
3. Xác định mục tiêu dễ dàng hơn
Cộng đồng Internet hoạt động theo nguyên tắc tự lựa chọn, tức là mỗi người với những sở thích nhất định thường có xu hướng tìm đến những nơi phù hợp với sở thích của mình trên không gian ảo do hệ thống các mạng lưới tạo nên và các khách hàng tự tìm đến những mặt hàng mà họ ưa thích và đặt mua, nghĩa là các khách hàng là người tìm đến bạn, chứ bạn không phải tìm đến họ. Mặt khác, doanh nghiệp có thể thông qua mạng, để điều tra thị hiếu khách hàng, để tìm ra được những mặt hàng, thể loại hàng hoá, hình dáng, màu sắc ưa thích của khách hàng, điều tra thông tin về thị trường trên cơ sở xem xét các trang Web của các doanh nghiệp cùng ngành nghề, các đối thủ cạnh tranh, hoặc xem xét tình hình biến động về giá cả, xu hướng tăng hay giảm nhu cầu…, để từ đó phân tích, đánh giá, xây dựng chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các doanh nghiệp này không có một mạng lưới thông tin trên toàn cầu.
4. Khả năng vươn tới những thị trường lớn hơn
Một nhà cung cấp, dù là nhỏ cũng có thể được nhiều người biết đến._. thông qua tính toàn cầu của mạng máy tính và ngược lại, người tiêu dùng cũng có thể có khả năng chọn lựa nhà cung cấp phù hợp trên toàn cầu vì mạng đã cung cấp cho họ vô số thông tin về rất nhiều những nhà cung cấp trên thế giới. Sở dĩ như vậy là do, khi tiến hành thương mại điện tử, mạng máy tính đã xóa bỏ được khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, giúp người bán và người mua trên toàn thế giới gặp nhau một cách dễ dàng. Như vậy, nhờ Internet, khoảng cách giữa các thị trường không còn là vấn đề cản trở việc xúc tiến bán hàng của doanh nghiệp đến các thị trường xa nữa.
Khi chưa có Internet, việc muốn mở rộng thị trường sang các nước khác là một điều rất khó khăn bắt đầu từ việc thăm dò thị hiếu thị trường, cho đến, việc tìm đối tác tiến hành đại lý kinh doanh, hay cửa hàng làm phân phối hàng hoá. 5. Nâng cao chất lượng các dịch vụ sau bán hàng
Với việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực tuyến, khách hàng có thể tự mình tìm kiếm mọi thông tin cần thiết về các dịch vụ hậu mãi đối với các sản phẩm và các doanh nghiệp cũng có thể đáp ứng rất nhanh các yêu cầu của khách hàng, có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn và thông tin về sản phẩm, cách hướng dẫn sử dụng sản phẩm một cách nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng, làm cho dịch vụ sau bán hàng được nâng lên rõ rệt.
6. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Thông qua mạng Internet/ Web, người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ có thể giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau, xoá bỏ khoảng cách về không gian, nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Nhờ vào các thông tin trên mạng, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn. Đối với những bạn hàng cũ thì việc giao dịch liên tục, trao đổi thông tin thăm hỏi nhau sẽ giữ được bạn hàng lâu dài, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp và bạn hàng.
7.Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá
Xét trên bình diện quốc gia, trước hết, thương mại điện tử sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và nhìn rộng hơn, thương mại điện tử sẽ giúp một nước đang phát triển sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá, một cơ hội cho các nước phát triển tạo một bước nhảy vọt đuổi kịp các nước phát triển trong một thời gian ngắn.
III. Tình hình phát triển TMĐT trên thế giới
Các chuyên gia kinh tế nói rằng thế giới đã bước vào kỷ nguyên Internet. Kinh tế Internet sẽ là động lực kích thích tăng trưởng buôn bán toàn cầu. Điều nhận định này hẳn không sai chút nào.
1. TMĐT ngày càng phát triển với tốc độ chóng mặt
Có thể nói rằng, Internet trở thành một phần không thể tách rời trong nền kinh tế hiện đại, nó thâm nhập vào mọi hoạt động của đời sống của xã hội, điều đó thể hiện rõ nét ở việc các dịch vụ thương mại điện tử ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng mặt. Ví dụ: mạng Internet có thể cải tiến dịch vụ hành chính nhà nước. Từ năm 1996, tiểu bang Arizona của Mỹ đã thiết lập địa chỉ Web Service Arizona, cho phép người dân có thể thực hiện các dịch vụ hành chính thông thường trên Web, 24 giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Thí dụ như việc đăng ký xe ô-tô trên Web chỉ mất có 2 phút (so với vài tiếng đồng hồ trước đó) và tốn 1,6 đôla thay vì tốn 6,6 đôla. Hiện nay, với 15% việc đăng ký xe ôtô được thực hiện trên trang Web, sở đăng ký xe của Chính phủ tiểu bang Arizona đã tiết kiệm mỗi năm 1,7 triệu đôla. Singapore hiện nay đang dẫn đầu thế giới với địa chỉ Web eCitizen, cung cấp toàn bộ các dich vụ hành chính của các cơ quan chính quyền cho người dân.
Theo Gartner group, ước tính giá trị của các hoạt động thương mại điện tử hiện nay là khoảng 136 tỉ đôla; đến năm 2003 sẽ lên tới 4,4 ngàn tỉ đôla. Theo nguồn tài liệu của Internation Data Corp – Canadian Economic Outlook, doanh số thương mại điện tử toàn cầu được thống kê và dự báo như sau:
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tốc độ tăng bình quân 1997 – 1999
Doanh số (tỉ $)
13,0
33,5
69,3
137,1
243,3
435,1
74,35%
Theo dự báo của APEC thì đến cuối năm 2002, doanh số thương mại điện tử toàn cầu có thể lên tới 1.000 tỉ đôla (http:// www.canadianbusiness.com/ outlook/ 021299/ outp.12htm).
2. TMĐT phát triển mạnh ở châu Âu và Mỹ
Ngày nay, ở Mỹ và châu Âu, thương mại điện tử ngày càng trở nên phổ biến. Mỹ là thị trường thương mại điện tử lớn nhất, chiếm một nửa doanh số thương mại điện tử toàn cầu, với số lượng người truy cập và tham gia vào mua bán qua mạng Internet lớn nhất. Năm 1999, số người Mỹ mua hàng trên mạng là 39 triệu người, tăng gấp đôi so với 17 triệu người năm 1998. Theo nguồn số liệu điều tra của EIU, qua khảo sát 331 công ty hàng đầu về buôn bán qua mạng trong nghành công nghiệp của các nước thuộc châu á, châu âu, Bắc Mỹ thì có tới 44% là của Hoa Kỳ, 18% của Anh, 18% của các nước châu âu khác và 19% của châu á. Theo dự tính, thị trường điện tử của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng và sẽ chiếm khoảng 36% tổng mức bán lẻ của nước này vào 2005 ( http:// EIU.com/bestpactice/321609).
3. TMĐT dự báo sẽ phát triển mạnh ở châu á
Tại châu á, có khoảng 39 triệu nguời tham gia mạng Internet, đang tụt hậu trong cuộc đua với các nước Mỹ và châu âu. Các chuyên gia cho biết trong 5 năm tới, số người truy cập mạng của châu á có thể tương đương hoặc vượt quá tổng số Bắc Mỹ và châu âu cộng lại. Dự kiến, châu á sẽ thu được từ thu nhập thương mại Internet khoảng 1,4 nghìn tỉ vào năm 2003.
4. TMĐT B2B phát triển nhất trong các hình thái TMĐT
Trong các hình thái TMĐT, thì TMĐT giữa các doanh nghiệp tỏ ra phát triển nhất, chiếm tổng giá trị giao dịch lớn nhất và trong tương lai TMĐT B2B vẫn tiếp tục phát triển.
Theo sự dự đoán của công ty ngiên cứu thị trường eMarketer, TMĐT B2B toàn cầu sẽ đạt tổng trị giá 823,4 tỷ USD vào cuối năm 2002 và mức tăng trưởng mạnh sẽ tiếp tục duy trì đến hết năm 2004. “Bất chấp xu hướng khó khăn chung của nền kinh tế và năm 2001, nhiều công ty vẫn thúc đẩy những sáng kiến TMĐT, tiếp tục thiết kế làn sóng kinh doanh TMĐT”, ông Steve Butter, nhà phân tích cấp cao của eMarketer cho biết. Các công ty cung cấp EDI hàng đầu và những giao dịch được hỗ trợ bởi nền công nghiệp hiện nay đang trợ giúp cho các doanh nghiệp lớn đưa các nhà cung cấp nhỏ hơn của họ lên trực tuyến, đánh dấu thời kì tăng trưởng TMĐT đáng kể .
EMarker ước tính, TMĐT trực tuyến chiếm dưới 2% tổng giá trị trao đổi thương mại B2B của Mĩ trong năm 2001, có hơn 2200 thị trường dựa trên Internet trên toàn thế giới và có dấu hiệu hiện rõ ràng chứng tỏ thị trường này có nhiều khả năng để tăng trưởng chỉ có 11% các doanh nghiệp báo cáo chiến lược TMĐT được thực hiện hoàn toàn.
Những số liệu dự đoán về TMĐT B2B của công ty Dữ liệu quốc tế (IDC) còn tỏ ra “tham vọng” hơn những số liệu eMarketer đưa ra. IDC dự đoán, tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ toàn cầu được bán qua các công ty bằng giải pháp TMĐT sẽ tăng từ 282 tỷ USD năm 2000 lên 4,3 nghìn tỷ năm 2005.
Theo IDC, Mỹ sẽ vẫn là khu vực lớn nhất đối với TMĐT B2B, với tỷ lệ tăng trưởng lũy kế hàng năm của giá trị mua hàng là 68% từ năm 2001 đến năm 2005. Đi theo sát là Tây Âu, nơi việc mua hàng B2B sẽ tăng với tỉ lệ tăng trưởng lũy kế hàng năm là 91% từ năm 2001 đến năm 2005. Châu á-Thái Bình Dương sẽ là nơi dẫn đầu về mức tăng trưởng với tỷ lệ tăng trưởng lũy kế hàng năm là 109% trong giai đoạn này.
Cũng theo nguồn số liệu của Tập đoàn máy tính IBM, doanh số của hình thức giao dịch giữa các doanh nghiệp trên toàn cầu sẽ lên tới gần 320 tỉ $ vào cuối năm 2002. Có thể nói, hình thức thương mại điện tử B2B chiếm tỉ trọng lớn nhất, trên 80%; hình thức B2C chiếm khoảng 20%.
Nói chung, sự phát triển của thương mại điện tử ngày càng trở nên mạnh mẽ do những lợi ích vô cùng to lớn của nó và trong tương lai, thương mại điện tử sẽ còn tiến xa hơn nữa, đó là điều mà các nước đều đang nỗ lực để thực hiện, mà trong đó Mỹ là nước đứng đầu trong số đó, một đất nước luôn hiểu rõ, kỹ thuật công nghệ cao có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp bá chủ, người khổng lồ của thế giới. Chỉ có điều, đối với các nước đang phát triển, để có thể tiến lên theo kịp sự phát triển tốc độ phát triển của công nghệ thông tin quả là một bài toán khó cần giải quyết.
Những điều trình bày vừa qua cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về thương mại điện tử và đây sẽ là trợ lực lớn để nghiên cứu và tìm hiểu kĩ hơn nội dung chính mà ta bàn trong khoá luận này, thanh toán trong thương mại điện tử, một bộ phận không tách rời của TMĐT. Vì, nếu TMĐT không phát triển thì sẽ không thể mở đường đi lên của TTĐT được, cũng như thế, nếu TTĐT có hạn chế sẽ lại cản trở sự phát triển của TMĐT.
Chương 2
Thanh toán trong TMĐT
I. Khái quát TTĐT
1. Khái niệm của TTĐT và lợi ích của TTĐT
1.1. Khái niệm thanh toán điện tử (TTĐT)
TTĐT là việc tiến hành các hoạt động thanh toán được hỗ trợ bởi các phương tiện điện tử. Nghĩa là, thông qua các phương tiện điện tử, việc thanh toán tiền hàng có thể thực hiện được giữa người mua và người bán mà không cần phải gặp gỡ nhau. Việc thanh toán thông qua mạng cũng được tiến hành trải qua các giai đoạn như phương thức thanh toán truyền thống, nhưng được thực hiện nhờ vào hệ thống máy tính nối mạng rộng khắp.
Thông thường hệ thống TTĐT được liên kết với mạng thanh toán riêng của các ngân hàng hay các mạng thanh toán khác như mạng thanh toán thẻ được điều hành bởi các tổ chức Visa và Master Card. Do vậy, người ta có thể tiến hành thanh toán bằng các phương tiện sẵn có của họ như thẻ tín dụng hay thanh toán trực tiếp trên tài khoản của họ tại ngân hàng.
TTĐT không chỉ giới hạn trong hoạt động thanh toán giữa cá nhân và ngân hàng, cá nhân với doanh nghiệp hay doanh nghiệp với ngân hàng mà nó còn cho phép tiến hành hoạt động thanh toán giữa ngân hàng với ngân hàng.
1.2 Lợi ích của thanh toán điện tử
Việc TTĐT đem lại rất nhiều lợi ích cho người sử dụng nói chung và tiết kiệm được nhiều chi phí xã hội nói riêng.
Tính tiện lợi: nếu người chuyển tiền dùng dịch vụ e-banking của ngân hàng thì, chỉ cần soạn lệnh chuyển tiền tại nhà theo mẫu có sẵn của chương trình rồi tự động gửi đi mà không cần phải đích thân đến ngân hàng điền đơn chuyển tiền phức tạp và chỉ với vài cái nhắp chuột, người sử dụng có thể dễ dàng chuyển tiền cho người khác một cách nhanh chóng.
Tiết kiệm thời gian: Thanh toán điện tử có thể giúp khách hàng cũng như ngân hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Với hình thức thanh toán điện tử, nếu người chuyển tiền và người nhận có quan hệ với cùng một ngân hàng thì cho dù bất kì đâu, chỉ cần vài phút sau là người nhận có thể nhận được tiền trong tài khoản của mình.
Tính chính xác cao: Với việc chuyển tiền truyền thống, khách hàng sẽ phải điền vào một mẫu đơn có sẵn và tiếp tục phải soạn những lệnh qua telex thì mới gửi được cho các tổ chức đại lý nước ngoài. Quá trình trên có nhiều công đoạn lặp lại và cần xử lý bằng tay, nên dễ xảy ra sai sót. Nhưng với việc thanh toán qua mạng thì do mọi việc đều được xử lý thông qua máy tính, tự động, ít có sự tham gia xử lý bằng tay của con người, nên sai sót sẽ ít hơn, tạo độ chính xác cao.
Giá thành rẻ: Giá thành được hiểu là chi phí người dùng phải trả khi tiến hành giao dịch thanh toán. Chi phí người dùng phải trả khi thanh toán qua hệ thống TTĐT sẽ rẻ hơn so với thanh toán thông qua hệ thống thanh toán ngân hàng, vì nhiều lí do:
Thứ nhất: là do các khâu trong hệ thống thanh toán điện tử hoàn toàn tự động, trong khi đó dịch vụ thanh toán của ngân hàng mới chỉ tự động một phần, vì thế, chi phí dành cho việc chi trả lương cho nhân viên ngân hàng tốn một khoản rất lớn.
Thứ hai: Các ngân hàng phải thuê các đường truyền thông để thiết lập mạng riêng thanh toán liên ngân hàng. So với hệ thống TTĐT dựa trên nền Internet thì chi phí thuê và duy trì đường truyền riêng sẽ tốn kém hơn.
Thứ ba là: khi tiến hành việc thanh toán thông qua mạng, thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho việc in ấn các chứng từ, giấy tờ, cũng như tiết kiệm thời gian tiến hành việc thanh toán, mà trong kinh doanh, thời gian là vàng.
Vì những lý do trên mà hệ thống thanh toán điện tử có thể cạnh tranh được với hệ thống thanh toán của ngân hàng về phí thanh toán. Đây cũng là điểm hấp dẫn các cá nhân, các doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán giá trị lớn và thường xuyên.
2. Cơ chế thanh toán trong TMĐT
Ngày nay, khi TMĐT phát triển ở mức độ cao, người tiêu dùng có thể từ một máy tính cá nhân thông qua mạng Internet để truy cập vào các cửa hàng ảo của các doanh nghiệp và tiến hành lựa chọn hàng hoá ngay trên màn hình. Sau khi lựa chọn, họ điền tất cả thông tin cần thiết vào một đơn mua hàng và gửi nó qua Internet về hộp thư của người chủ cửa hàng. Người bán hàng sau khi nhận được các thông tin đầy đủ của người mua sẽ tiến hành xác nhận lại đơn hàng của người mua về những thông tin cần thiết như mặt hàng đã chọn, số phiếu đã đặt hàng...và gửi lại cho người mua. Trên cơ sở đó, người mua kiểm tra lại tính chính xác của đơn xác nhận. Nếu không có vấn đề gì thì người mua sẽ tiến hành hoàn trả lại thông tin cho người bán đồng thời đưa các thông tin cần thiết về phương tiện thanh toán (những thông tin này ở dạng khác nhau tùy theo hệ thống thanh toán).
Người bán nhận và lưu trữ thông tin đặt hàng và thông tin thanh toán như số thẻ tín dụng, ngày đáo hạn, chủ thẻ,...đến máy chủ của trung tâm cung cấp dịch vụ xử lý thẻ trên mạng Internet. Thông tin đó được mã hoá nhanh chóng nhằm bảo mật cho khách hàng thậm chí đối với cả người bán hàng.
Trung tâm xử lý thẻ khi nhận được thông báo thanh toán sẽ giải mã thông tin và xử lý giao dịch đằng sau tường lửa (firewall) và tách rời mạng Internet nhằm mục đích bảo mật tuyệt đối cho các giao dịch thương mại, định dạng và chuyển tiếp đến tổ chức xử lý thanh toán của người bán (thường là ngân hàng) qua đường dây truyền dữ liệu riêng. Tổ chức xử lý thanh toán của người bán sẽ chuyển thông điệp tới tổ chức đảm nhận thanh toán của người mua-gọi là ngân hàng người mua. Sau đó ngân hàng của người mua sẽ phản hồi là đồng ý hay không tới Trung tâm xử lý trên mạng Internet. Trung tâm xử lý này sẽ lại chuyển những thông tin đó về tổ chức đảm nhận thanh toán của người bán (thường là ngân hàng người bán) và tùy theo đó mà người bán báo cho người mua là đơn đặt hàng có được đáp ứng hay không. Tất nhiên, toàn bộ thời gian cho các bước nêu trên sẽ không quá 15 giây.
Sơ đồ 1: Quá trình thanh toán bằng TMĐT
Tổ chức thanh toán phục vụ người mua
Người mua
Hệ thống thanh toán của ngân hàng
Khu vực thương mại điện tử trên Internet
Người bán
Chỉ dẫn thanh toán
Chỉ dẫn thanh toán
Tổ chức thanh toán phục vụ người bán
Trên đây là cơ chế thanh toán chung cho các giao dịch thương mại điện tử. Tuy nhiên, để phục vụ cho thương mại điện tử thì phải có nhiều phương thức thanh toán khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu của từng khách hàng, yêu cầu của từng giao dịch và mỗi phương thức đó lại có một cơ chế thanh toán riêng.
3. Tiền điện tử và các loại tiền điện tử
3.1. Tiền điện tử
Tiền điện tử là phương tiện chi trả thay tiền mặt bằng phương thức điện tử. Về cơ bản nó là ý tưởng cho rằng mọi người tiêu dùng hay các hãng kinh danh sẽ cung cấp thông tin trực tuyến để thông tin này có thể chuyển đổi sang tiền tệ hoặc được sử dụng để cấp các quỹ tiền.
Tiền điện tử cho phép những người mua hàng trực tuyến hoặc qua các phương tiện di động để có thể trả tiền cho các doanh nghiệp một cách trực tiếp bằng cách ghi nợ vào tài khoản ngân hàng của mình thông qua một hệ thống thanh toán điện tử, bao gồm các giao dịch thanh toán cá nhân – cá nhân (person- to –person), ví tiền kỹ thuật số (digital wallet) và tiền Internet (Internet currency).
3.2. Các loại tiền điện tử
3.2.1. Tiền điện tử Person to Person
Dịch vụ thanh toán này cho phép chuyển một khoản tiền lấy ra từ trong hộp đựng tiền của khách hàng (lưu trữ trực tuyến) - tiền trong tài khoản ngân hàng hoặc thẻ tín dụng, và gửi kèm tiền đó qua thư điện tử cho bất kỳ ai có địa chỉ email, tiền này sẽ đến trực tiếp tài khoản của người nhận. Điều này làm giảm đáng kể thời gian việc thanh toán và rất tiện lợi cũng như không mất chi phí mấy cho việc tiến hành thanh toán.
3.2.2. Vi thanh toán (micropayment)
Là một giải pháp tiền điện tử mới dành cho những mặt hàng kỹ thuật số (thường là vi vật thể) có giá trị thấp có giá dưới 10$, chẳng hạn như một bài báo, một bản nhạc…Đây còn được cho là giải pháp hữu hiệu đối với vấn đề mọi người tự do thu âm nhạc từ trên trang Web. Người dùng chỉ phải đăng kí với nhà cung cấp dịch vụ
một lần và các khoản chi phí nhỏ sẽ được cộng dồn và gửi hoá đơn đến cuối tháng.
3.2.3. Tiền mặt Internet
Bên cạnh đó còn có một loại tiền tệ mới gọi là “tiền mặt Internet” – cho phép người tiêu dùng Internet có thể kiếm tiền và chi tiêu riêng biệt trên Internet. Người sử dụng dùng một số tiền thật để mua một số tiền ảo do công ty Flooz cung cấp, dùng tiền đó để mua sắm ở những nơi là đối tác của Flooz. Beenz là loại tiền cho phép người dùng kiếm tiền bằng cách thực hiện công việc điện tử (ework) và có thể dùng Beenz này để mua sắm tại các Website của Beenz. Hiện nay, công ty có tới 5 triệu người dùng và có khoảng 35 triệu giao dịch (kiếm hoặc tiêu tiền Beenz).
Mọi người đều thích tính tiện lợi của hệ thống này và bắt đầu tin tưởng vào hiệu quả của chúng. Do có nhiều phương thức để trả tiền cho các mặt hàng bằng hình thức điện tử, các giao dịch thương mại điện tử đang ngày càng thu hút nhiều khách hàng hơn bởi tính linh hoạt của nó và điều này cũng hấp dẫn các doanh nghiệp Internet nhận thức được xu hướng tiền điện tử mới này.
Tuy nhiên cũng còn một số vấn đề chủ chốt phải giải quyết.
Trước hết, mặc dù việc mua hàng từ các Website sử dụng tiền điện tử tỏ ra hấp dẫn với người dùng, bởi trong một số truờng hợp nó tỏ ra nhanh hơn là gõ vào tất cả các dữ liệu của thẻ tín dụng, các công ty Internet cần làm cho việc mua bán trên mạng thật thuận tiện. Theo nghiên cứu của công ty Forrester Research, 40% đến 60% các cuộc mua sắm trên mạng đã bị bỏ dở giữa chừng vì khách hàng không muốn điền vào các biểu mẫu, để lộ thông tin cá nhân hay e ngại về sự an toàn cho thông tin tài chính của họ.
Sự thờ ơ của người tiêu dùng là một tình huống khó xử đối với các doanh nghiệp điện tử. Mặc dù các công ty biết rằng người dùng sẽ dễ dàng mua sắm trên mạng hơn khi dùng tiền điện tử và điều này sẽ làm tăng doanh số nhưng họ lại có xu hướng gắn việc sử dụng tiền điện tử với việc thu thập dữ liệu khách hàng để tìm cơ hội tiếp thị lớn hơn, thực hiện các chương trình chăm sóc khách hàng hoặc các sáng kiến để thu hút khách hàng quay trở lại. Vì lý do đó và vì tính chất phổ biến và có uy tín của thẻ tín dụng mà hiện nay hơn 90% các thanh toán trên Internet được thực hiện nhờ thẻ tín dụng (theo nghiên cứu của công ty Granner Group về việc sử dụng phương tiện thanh toán qua mạng, năm 2001).
Rất nhiều công ty đã tham gia vào dịch vụ cung cấp tiền điện tử, chủ yếu là các công ty nhỏ, với tuyên bố rằng các sản phẩm của họ đạt độ an toàn cao, song thuyết phục được khách hàng không phải là chuyện dễ. Và đây cũng chính là lối ngỏ cho các công ty chuyên cấp thẻ tín dụng bởi người dùng đã có sẵn lòng tin với họ.
4. Phương thức thanh toán
4.1. Sự khác biệt giữa B2B và B2C
Giữa thanh toán B2B và thanh toán B2C, có một sự khác biệt hết sức rõ ràng về khách hàng, đó là: Khách hàng của B2B là các công ty, còn khách hàng của B2C là các cá nhân. Song ngoài ra còn có hai sự khác biệt lớn nữa, đó là :
* Quá trình đàm phán.
Trong thương mại điện tử B2B, bán hàng cho một doanh nghiệp khác là bao gồm cả việc đàm phán giá cả, các điều kiện giao hàng và về đặc tính kỹ thuật của sản phẩm, hoàn toàn không đơn giản như việc bán hàng cho người tiêu dùng. Điều này giải thích tại sao các công ty bán lẻ có thể đưa cactaloge sản phẩm lên mạng trực tuyến dễ dàng hơn so với các công ty triển khai B2B. Đó cũng chính là lý do tại sao những ứng dụng B2B đầu tiên thường chỉ áp dụng cho quá trình mua bán hàng hoá mà khâu mô tả và định giá là tương đối đơn giản.
* Tích hợp
Hệ thống của người bán lẻ không phải tích hợp với hệ thống của khách hàng. Trong khi phần lớn các công ty bán hàng cho các doanh nghiệp đều phải tiến hành tích hợp hệ thống của mình với hệ thống của doanh nghiệp đối tác vì hệ thống của họ phải có khả năng giao kết với hệ thống của khách hàng. Tức là, việc thanh toán B2B phức tạp hơn và cần một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh hơn.
4.2. Vài nét về EDI, XML
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) bắt đầu ứng dụng từ đầu những năm 1980 nhằm mục đích tự động hoá những hệ thống mang tính thủ công như nhập số liệu hàng tồn kho, đơn đặt hàng, nhằm giảm bớt những rủi ro sai sót do con người gây ra, tăng tốc độ giao dịch, cải thiện hiệu quả và thực sự, EDI trở thành một phần không thể thiếu được trong việc triển khai hoạt động thương mại B2B. Nhưng EDI đã không được mở rộng đại trà cho nhiều người sử dụng. Mặc dù đã có hai thập kỷ hoạt động nhưng đa số những đối tượng được EDI hỗ trợ là những tập đoàn lớn, Chính phủ_ những nơi sử dụng nó để giao dịch với những đối tác lớn, nổi tiếng hoặc có hợp đồng buôn bán.
Do vậy, ngày nay, các nhà cung cấp mạng đã bắt đầu đưa ra những ngôn ngữ mới như XML, là một ngôn ngữ đánh dấu mở rộng, gồm các nguyên tắc mô tả dữ liệu trên trang Web, như một chuẩn cho việc trao đổi dữ liệu, và người ta bắt đầu đặt ra câu hỏi, liệu giữa trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) hoặc XML, chuẩn nào thích hợp với thương mại điện tử B2B và đem lại hiệu quả hơn, dù rằng, hiện nay vẫn có rất nhiều các công ty đang thu lợi từ việc đầu tư EDI, và không có lý do gì khiến họ từ bỏ nó.
EDI cũng có những hạn chế, đó là một phương thức không linh hoạt và nó có thể gây ra những khó khăn trong quá trình triển khai. Nhiều công ty nhỏ không bao giờ áp dụng phương thức kinh doanh EDI vì chi phí cao và phức tạp trong việc lắp đặt, quản lý các phương tiện vận hành cho một địa chỉ của người sử dụng EDI, trong khi XML có thể tạo ra sự linh hoạt và đa dạng trong quá trình trao đổi thông tin giữa các công ty và được xây dựng cho các mạng mở.
Những dự đoán về việc XML sẽ trở thành một chuẩn vượt trội so với các chuẩn khác trong quá trình trao đổi dữ liệu đang ngày càng nhiều. Tuy nhiên quá sớm để nói rằng chuẩn XML sẽ được ứng dụng nhanh chóng và phổ biến như thế nào. Có một số ít các công ty đã quyết định dù thế nào đi nữa thì cũng nên triển khai chuẩn XML nhưng nhiều nhà phân tích cho rằng, cả hai chuẩn sẽ song song tồn tại trong tương lai, các công ty có thể vẫn sử dụng đồng thời chuẩn EDI ở những nơi nó phù hợp và chuẩn XML ở nơi mà EDI có nhiều hạn chế.
Tất nhiên, các công ty sẽ phải quyết định xem hệ thống EDI và XML của họ có thể kết nối được thì kết nối thế nào.
4.3. Thanh toán B2C
4.3.1. Thanh toán thẻ tín dụng
Từ quan điểm của khách hàng, thực hiện một cuộc mua hàng trên mạng không có gì đơn giản hơn. Chỉ cần điền các thông tin cá nhân (họ tên, địa chỉ) và các thông tin giao dịch (số thẻ tín dụng, ngày hết hạn của thẻ) vào một biểu mẫu có sẵn (đơn đặt hàng) là bạn đã có thể dùng giỏ mua hàng điện tử để bắt đầu chọn các mặt hàng cần mua. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét khi tiến hành một giao dịch qua mạng sử dụng thẻ tín dụng. Đó là một tiến trình gồm nhiều giai đoạn liên quan chặt chẽ với nhau và nhiều chủ thể tham gia.
Các bên trong một giao dịch:
Các bên liên quan tới một giao dịch trực tuyến qua thẻ tín dụng gồm người tiêu dùng (khách hàng), công ty bán hàng (nhà cung ứng sản phẩm dịch vụ), ngân hàng của người mua (ngân hàng phát hành thẻ tín dụng), ngân hàng của người bán (nơi tiền thanh toán của khách hàng được chuyển tới và thanh toán cho công ty bán hàng). Ngoài ra, còn một thành phần rất quan trọng khác – ngân hàng thu nợ hay còn gọi là ngân hàng xử lí giao dịch. Ngân hàng này có chức năng phối hợp các tác vụ liên quan và đóng vai trò là trung tâm xử lý giao dịch xử lí thẻ tín dụng có liên quan tới công ty bán hàng.
Các bên liên quan nói trên được “nối” với nhau thông qua 2 mạng truyền thông riêng biệt. Mạng thứ nhất là Internet, là trung gian giữa người tiêu dùng và công ty bán hàng. Mạng thứ hai là mạng riêng của các công ty thẻ tín dụng lớn, ngân hàng thu nợ sử dụng mạng này để liên kết với ngân hàng phát hành thẻ tín dụng và ngân hàng phía người bán trong quá trình thực hiện các thanh toán trực tuyến.
Tiến trình thanh toán dùng thẻ tín dụng
Một tiến trình đặc thù sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng trực tuyến có thể được phân chia thành 3 giai đoạn cơ bản: xác nhận hợp lệ, yêu cầu thanh toán và chuyển khoản thanh toán. Một tiến trình không phải chỉ bắt đầu khi khách hàng điền các thông tin vào đơn đặt hàng mà sớm hơn, ngay khi họ kết nối với trang đặt hàng của công ty. Ngay thời điểm đó, trình duyệt Web trên máy tính của khách hàng và máy chủ Web được bảo mật của công ty bắt đầu phối hợp để thực hiện chu trình mã hoá - giải mã các thông tin về giao dịch sắp được thực hiện nhằm giữ bí mật và an toàn các thông tin này ở mức cao nhất.
* Xác nhận hợp lệ
Sau khi thực hiện kết nối với máy chủ được bảo mật của công ty bán hàng, khách hàng đã bắt đầu đi vào tiến trình với thao tác đầu tiên là điền các thông tin cá nhân và các thông tin về thẻ tín dụng để thực hiện thanh toán. Các thông tin này sau đó được gửi tới máy chủ của công ty bán hàng và phần mềm trên máy chủ của công ty sẽ nhận được các thông tin chi tiết như tên, lượng đặt mua, số thẻ tín dụng, ngày hết hạn của thẻ, địa chỉ hoá đơn và tiếp tục gửi tất cả những thông tin nhận được đến ngân hàng thu nợ qua mạng Internet. Phần mềm tại ngân hàng thu nợ nhận được thông tin sẽ gửi tiếp đến công ty thẻ tín dụng qua mạng truyền thông được bảo mật của các công ty này. Sau đó, những thông tin trên lại tiếp tục được gửi tới ngân hàng phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng.
Đây là nơi các công việc quan trọng nhất được hoàn thành. Phần mềm tại ngân hàng phát hành sẽ phân tích để kiểm tra tính hợp lệ của các thông tin nhận được. Nó sẽ kiểm tra số thẻ để đảm bảo đó là thẻ tín dụng do chính ngân hàng phát hành và vẫn có hiệu lực thanh toán. Nó cũng xác nhận tên, địa chỉ của khách hàng, kiểm tra tài khoản của khách hàng xem liệu hạn mức tín dụng còn đủ để thanh toán. Sau khi tiến hành kiểm tra, tuỳ thuộc vào kết quả của xác nhận hợp lệ, phần mềm của ngân hàng sẽ phát hành lệnh chấp nhận hoặc không chấp nhận tới ngân hàng thu nợ và ngân hàng của công ty qua mạng truyền thông của công ty thẻ tín dụng. Nếu các thông tin không được ngân hàng phát hành chấp nhận, công ty bán hàng sẽ gửi lại thông điệp báo lại, tiến trình kết thúc tại đây và không có gì để bàn thêm. Ngược lại, tiến trình sẽ chuyển sang giai đoạn mới.
* Yêu cầu thanh toán:
Sau khi nhận đựơc xác nhận về tính hợp lệ của các thông tin giao dịch từ ngân hàng phát hành, phần mềm của công ty bán hàng sẽ gửi một thông điệp mới tới ngân hàng thu nợ để yêu cầu thanh toán. Một lần nữa những thông tin này lại được gửi tiếp tới ngân hàng phát hành thông qua mạng của công ty thẻ tín dụng. Phần mềm của ngân hàng phát hành sẽ cộng thêm số tiền của giao dịch vào tổng số tiền ngân hàng còn nợ ngân hàng thu nợ đối với các giao dịch thực hiện trong ngày.
* Chuyển khoản
Các ngân hàng sẽ thực hiện chuyển khoản và cân đối số dư tài khoản vào cuối ngày giao dịch. Ngân hàng phát hành sẽ chuyển cho ngân hàng thu nợ. Ngân hàng thu nợ, đến lượt mình sẽ chuyển tiền vào tài khoản của công ty bán hàng tại ngân hàng của họ sau khi đã trừ đi một số phần trăm gọi là chi phí giao dịch. Đồng thời, ngân hàng phát hành ghi nợ vào tài khoản của khách hàng. Thông tin về các giao dịch (gồm tên công ty bán hàng, số tiền thanh toán, số tham chiếu để kiểm tra lại về sau nếu cần thiết) sẽ được gửi tới khách hàng. Khách hàng sẽ trả tiền cho ngân hàng phát hành thẻ tín dụng sau khi nhận được hóa đơn hàng tháng.
* Các tiến trình khác
Trên đây là những tiến trình cơ bản của một giao dịch trực tuyến sử dụng thẻ tín dụng. Tuy nhiên, có thể còn một số tiến trình đặc biệt khác, liên quan tới việc xác định thời gian của các giai đoạn trong một giao dịch và cân đối số dư tài khoản của các ngân hàng liên quan. Những vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn đối với phía người bán hàng nhưng ít có tầm quan trọng đối với người mua hàng.
Cũng có thể có khả năng một công ty dịch vụ tài chính bên ngoài ngân hàng phát hành xử lý các công việc của ngân hàng phát hành. Trong trường hợp này, thẻ tín dụng của khách hàng có thể do ngân hàng ABC nào đó phát hành nhưng tất cả hóa đơn gửi tới khách hàng lại từ một trung tâm dịch vụ thẻ XYZ được ngân hàng ABC ủy nhiệm.
4.3.2 Thanh toán thẻ ghi nợ (Debit Transacsion)
Xuất phát từ nhu cầu của khách hàng có thể dễ dàng tiến hành việc chi trả tiền hàng tại các siêu thị, thì người ta đã đưa ra ngoài thị trường một loại thẻ cho phép người sử dụng tiện lợi trong việc mua hàng. Đó chính là thẻ ghi nợ. Loại thẻ này nhằm cung cấp tiền mặt qua mạng lưới đổi tiền tự động (ATM). Chúng cho phép người mua hàng có thể thanh toán ngay tại nơi mua bằng cách nhét thẻ vào các máy đổi tiền loại nhỏ có sẵn tại các cửa hàng. Tất nhiên, người dùng thẻ do có được lợi ích từ sự tiện dụng của thẻ mang lại, đó là, người sử dụng thẻ không phải mang lượng tiền lớn kồng kềnh, cho nên, phải trả phí cho giao dịch đó. Hiện nay,
các khách mua hàng rất ưa thích loại hình này.
Có thể tóm tắt cách hoạt động của thẻ ghi nợ như sau: Đầu tiên, người mua hàng nhét thẻ nợ vào máy đổi tiền tự động (ATM), sau đó anh ta đọc số mật mã cá nhân vào máy. Bộ phận xử lý trên máy sẽ chuyển cho bộ phận xử lý khu vực, và bộ phận này sẽ chuyển giao dịch đó về cho ngân hàng phát hành thích hợp hoặc chuyển cho hệ thống hoán đổi quốc gia. Ngân hàng phát hành sẽ xem mã số cá nhân và quyết định xem người tiêu dùng kia còn đủ tiền trong tài khoản để thanh toán hay không. Lệnh cho phép thanh toán, sẽ đi theo chiều ngược lại từ ngân hàng phát hành tới máy trả tiền tự động, và khi đó, máy sẽ tiến hành trừ tiền hàng và một khoản phí nhỏ từ tài khoản của thẻ ghi nợ.
4.3.3 Thẻ thông minh (Smard Card)
Thẻ thông minh (TTM) là một tấm thẻ có kích thước bằng một chiếc thẻ tín dụng (Visa Card, Master Card ), trên đó có gắn một bộ vi xử lý. Bộ vi xử lý này có thể lư._.iên tiến này đang được thử nghiệm tại 3 thành phố Hải Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến sẽ chính thức đưa ra thị trường vào cuối năm 2002. Những công nghệ mới sẽ dần dần thay đổi diện mạo của Internet Việt Nam. Nền băng thông rộng, tốc độ cao chắc chắn sẽ là mảnh đất tốt lành cho nhiều dịch vụ gia tăng giá trị như “Video theo yêu cầu”, các chương trình trò chơi trực tuyến và các nội dung tương tác khác.
Khó khăn, thách thức
2.1. Yếu tố con người
Yếu tố con người thực sự có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển TTĐT, bởi vì khách hàng, nhân viên ngân hàng và các chuyên gia công nghệ là những người tham gia trực tiếp vào hoạt động của TTĐT.
* Khách hàng
Hiện nay, nhu cầu sử dụng Internet ở Việt Nam vẫn chưa cao. Điểm qua các dịch vụ truy cập Internet công cộng, hầu hết giới trẻ đều nối mạng với mục đích chính là gửi và nhận thư điện tử, chơi game và đặc biệt nhiều quan tâm đến “chat”. Ngoài ra, hầu hết các độc giả Việt Nam cũng chỉ lướt qua những trang Web thông tin như , Giải thích cho thực tế này, ngoài lý do chủ quan từ nhu cầu của độc giả trẻ tìm đến với Internet với mục đích tìm bạn, trao đổi trò chuyện, còn có lý do khác là các Website của Việt Nam chưa thực sự thu hút hoặc quá khó tìm kiếm. Hầu hết, chỉ có một bộ phận nhỏ người Việt Nam sử dụng Internet với mục đích tìm kiếm các mặt hàng, tức là quan tâm đến việc mua sắm trên mạng, đến việc tìm kiếm bạn hàng, còn hầu hết, họ chỉ quan tâm đến việc giải trí vào các trang báo thông tin. Nguyên nhân là do, trình độ sử dụng và khai thác công nghệ trên mạng của người dùng Internet Việt Nam còn khá thấp, việc sử dụng Internet trong nghiên cứu và học tập mới chỉ thể hiện ở một số ít người sử dụng, chủ yếu là những người đã có quá trình tiếp xúc lâu dài với công nghệ thông tin hoặc các chuyên gia nghiên cứu.
Hơn nữa, nhiều người Việt Nam có tâm lý không muốn tiến hành thanh toán qua mạng, tức là không muốn mua hàng mạng với hình thức TTĐT, do cảm giác không an tâm; người mua lo các chi tiết về thẻ tín dụng của mình bị lộ và kẻ xấu sẽ lợi dụng mà rút tiền.
* Doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp có trình độ công nghệ thông tin còn thấp, nhận thức còn hạn hẹp so với sự tiến bộ vượt bậc của nền khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Khái niệm TTĐT đối với một số doanh nghiệp vẫn còn rất mới lạ. Có nhiều doanh nghiệp trang bị máy tính chỉ làm những công việc đơn thuần tính toán, lưu sổ sách hoặc chỉ áp dụng TMĐT ở mức sơ đẳng nhất, đó là gửi e-mail và nhận e-mail. Mặt khác, các doanh nghiệp vẫn quen với cách thức thanh toán truyền thống, chưa thấy hết được những lợi ích to lớn của việc tham gia vào việc TTĐT. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp không thích việc ký hợp đồng bán hàng thanh toán theo kiểu điện tử , do người bán lo việc thanh toán qua Web không được thực hiện khi các văn bản pháp luật quy định chưa rõ ràng và đầy đủ.
*Cán bộ ngân hàng
Bản thân cán bộ ngân hàng cũng gặp những khó khăn với việc áp dụng những
phần mềm công nghệ hiện đại vào nghiệp vụ thanh toán, mặt khác, do trình độ quản lý của các ngân hàng còn yếu kém, còn xảy ra nhiều rủi ro thanh toán, vì vậy, các ngân hàng phải thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo cho các cán bộ ngân hàng về kiến thức cơ bản, các giải pháp đầu tư vào kĩ thuật-nghiệp vụ, các biện pháp quản lý và khai thác tốt nhất hệ thống kỹ thuật mới hiện đại.
* Cán bộ công nghệ
Hiện nay, ở Việt Nam, các chuyên gia chủ yếu nghiên cứu các phần mềm. Nhưng ngay trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt Nam chưa phải đã đủ năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng có quy mô lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong việc triển khai dự án “Thanh toán điện tử liên ngân hàng”, việc thực hiện toàn bộ dự án này đều do tập đoàn Huyndai Công nghệ thông tin Hàn Quốc cùng liên doanh với nhiều công ty tin học quốc tế là chính. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở hạ tầng công nghệ tin học toàn quốc chưa có nền tảng vững chắc, chưa tạo môi trường thuận lợi cho tin học ứng dụng và phát triển ở Việt Nam.
Mặt khác, nhiều chuyên gia tin học có năng lực ở Việt Nam thường được trả lương cao ở các công ty nước ngoài để thực hiện việc ứng dụng các phần mềm hiệu quả và quản lý hệ thống tin học của công ty, do đó, đã làm giảm một lực lượng nghiên cứu phần mềm đáng kể. Còn, một số kỹ sư tin học được nhận vào cơ quan nhà nước nhưng chủ yếu làm tiếp thị, văn phòng, sửa chữa những lỗi của máy tính một cách đơn giản, làm mai một dần kiến thức. Một số kỹ sư lại đứng ra mở cửa hàng kinh doanh thiết bị, linh kiện điện tử. Vì thế, việc tập hợp một lực lượng đã được đào tạo để tiến hành những dự án lớn là điều rất khó. Những điểm yếu trên của đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin đã thể hiện rõ phần nào hạn chế về nhân lực của Việt Nam trong việc phát triển TTĐT - một hình thức thanh toán hiện đại cần nhiều ứng dụng được công nghệ thông tin.
2.2. Cơ sở hạ tầng kinh tế cuả Việt Nam còn thấp
Khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển được dịch vụ Internet, phát triển TTĐT, thì một yêu cầu đặt ra đó là phải có sự kết hợp giữa Chính phủ và người sử dụng đầu tư một lượng tiền không nhỏ để mua sắm thiết bị máy móc, trả cước phí đường truyền...Nhưng hiện nay, thu nhập đầu người của Việt Nam còn rất thấp, đại bộ phận dân chúng là thành phần nông nghiệp cho nên họ “chưa cần dùng Internet”. Đối với những người dùng Internet, do thu nhập thấp, nên dù mức cước truy cập Internet trong thời gian qua đã liên tục giảm và sẽ còn giảm trong tương lai song dù giá cước có giảm đến mức bằng hoặc thấp hơn tại các nước khác trong khu vực, nhưng mức sống của người dân Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước đó thì xét về giá cước truy cập so sánh, người Việt Nam vẫn phải trả một mức cao hơn so với người dân nước khác, tức là, so với các nước khác chi phí sử dụng Internet chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số chi tiêu. Ví dụ: nếu như chi phí dùng Internet ở Mỹ chiếm 1,2% thu nhập/người, úc 1,25% thu nhập/người thì ở Việt Nam chiếm 4,5% thu nhập/người (đối với các đối tượng có thu nhập tương đối cao).
Tổng cục Bưu chính viễn thông cũng đã thực hiện lộ trình điều chỉnh cước viễn thông và Internet. Từ ngày 1/7/2002, cước hầu hết các dịch vụ viễn thông giảm trung bình 20-30 %, góp phần mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ tới những đối tượng có thu nhập thấp.
Thực sự, để có thể thúc đẩy nhu cầu sử dụng Internet ở Việt Nam, Chính phủ và các cơ quan, công ty hoạt động trên lĩnh vực liên quan đến cung cấp dịch vụ Internet cần phải nỗ lực rất nhiều.
Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì giá cước cao quả là đã hạn chế ít nhiều đối với sự tham gia vào TTĐT. Đối với một số công ty vừa và nhỏ, phí nối mạng là quá cao và không hợp lí, đối với một số khác vấn đề lại là thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Các công ty này hoặc không nhận thức đầy đủ được về môi trường kinh doanh trên mạng, hoặc thiếu kĩ năng cần thiết hay điều kiện tài chính cần thiết để thực hiện những bước đi đầu tiên áp dụng công nghệ mới.
2.3. Hành lang pháp lý
Mặc dù hiện nay chúng ta đã có văn bản pháp lý điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến Internet, liên quan đến chữ ký điện tử, chứng từ điện tử nhưng chưa có luật điều chỉnh hoạt động thanh toán, quy định về an ninh bảo mật công nghệ thông tin, việc thực hiện hợp đồng thương mại điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách cụ thể. Theo điều 6 nghị định 55-CP thì vấn đề bảo vệ quyền sở hữu chỉ được ghi sơ qua: thông tin đưa vào lưu trữ, truyền đi và nhận đến trên Internet phải tuân thủ các quy định tương ứng của Luật Báo chí, Luật xuất bản, Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước và các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Mặt khác, các chính sách, đường lối quản lý hiện thời của Nhà nước hay các cơ quan có thẩm quyền liên quan còn bất cập, có hiện tượng quản lý chồng chéo và vấn đề liên quan đến tính pháp lý của loại hoá đơn điện tử được sử dụng trong phương thức thanh toán bằng hoá đơn điện tử chưa được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới cũng như ở Việt Nam nên việc đảm bảo, cưỡng chế thi hành có nhiều yếu tố rủi ro.
Tuy rằng QĐ44 /TTg là văn bản pháp lý đầu tiên công nhận chứng từ điện tử, chữ ký điện tử trong nghiệp vụ kế toán và thanh toán, nhưng nó chỉ áp dụng hạn chế đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, do đó, nó không thể đảm bảo pháp lý cho TMĐT nói chung. Mặt khác, đây là một vấn đề mới ở Việt Nam nên, khi triển khai không tránh khỏi những khó khăn và thiếu đồng bộ giữa cái cũ và cái mới.
Như vậy, sự hạn chế về hành lang pháp lý đối với TTĐT sẽ là một rào cản đối với triển vọng của hình thức thanh toán mới mẻ này, do vậy Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại điện tử một cách hoàn chỉnh.
III. Giải pháp cho TTĐT ở Việt Nam
Rõ ràng thương mại điện tử không những là cơ hội đối với các nước phát triển mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vì bằng các phương tiện điện tử thông qua Internet, các nước này có thể dễ dàng tiếp xúc với các thị trường rộng lớn trong và ngoài nước. Thương mại điện tử có khả năng giúp cho một số nước chuyển sang kinh tế số hoá - kinh tế tri thức; và bằng cách đó các nước đang phát triển có thể tạo một bước tiến nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong một thời gian ngắn hơn. Nhưng thương mại điện tử thực sự có hiệu quả cũng có những đòi hỏi phức tạp về hạ tầng cơ sở công nghệ, hạ tầng cơ sở nhân lực, bảo mật và an toàn, hạ tầng thanh toán tài chính tự động, khả năng bảo hộ sở hữu trí tuệ, tác động văn hoá xã hội của Internet, trình độ công nghệ…
Hiện nay, ở Việt Nam vấn đề áp dụng TMĐT đã được Đảng và Chính phủ kịp thời quan tâm và khuyến khích. Bước đầu, nước ta đã tham gia tiểu ban điều phối thương mại điện tử của ASEAN (CCEC), tham gia soạn thảo và thoả thuận các nguyên tắc chung cho TMĐT của tổ chức này. Khi gia nhập APEC (14/11/1998), Việt Nam đã thoả thuận tham gia vào “Chương trình hành động về thương mại điện tử APEC”. Hai tổ chức chuyên trách về thương mại điện tử của Việt Nam đã được thành lập năm 1998, đó là tổ công tác thương mại điện tử thuộc ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin và Ban thương mại điện tử trực thuộc Bộ thương mại.
Đến nay, ở Việt Nam, một số công ty đã bắt đầu triển khai hoạt động bán hàng qua mạng như công ty FPT, và một số cửa hàng ảo đã xuất hiện trên mạng. Siêu thị điện tử đầu tiên là Việt Nam Cybermall đã được khai trương vào cuối năm 1998, với sự cộng tác của VDC và công ty TNHH Thiên Phát. Người tiêu dùng có thể vào siêu thị này ngay tại nhà hoặc tại chỗ làm, miễn là nơi đó có máy tính kết nối mạng; có thể tìm trên mạng các loại hàng gia dụng, kim khí, điện máy, điện tử, điện lạnh và cả ôtô các loại. Bước đầu người dùng có thể nhận thấy sự thuận tiện của việc mua sắm trên siêu thị ảo như không mất công đi lại không phải mang vác nặng nề và hàng hoá có thể rẻ hơn đáng kể so với các siêu thị thật.
TTĐT là một khâu quan trọng trong TMĐT, trong bối cảnh TTĐT đã bắt đầu triển khai trên toàn thế giới, thì TTĐT ở Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực bị bỏ ngỏ. TTĐT là một giai đoạn phát triển cao của TMĐT, đó là giai đoạn khá phức tạp, và thương mại điện tử chỉ thực sự phát triển khi có sự áp dụng thanh toán thông qua hệ thống điện tử.
Như vậy, phát triển TTĐT là một yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế nói chung, do đó, chúng ta phải đưa ra những giải pháp để TTĐT sẽ trở thành một lĩnh vực gần gũi quen thuộc với chúng ta.
Mục tiêu cho TMĐT và TTĐT ở Việt Nam
1.1 Mục tiêu cho TMĐT
Việt Nam hiện nay có thuận lợi là đã tiếp cận được với công nghệ hiện đại, xác định được chủ trương và cả tiềm năng để phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Điều hạn chế là hiện nay quy mô còn rất nhỏ bé và cần phải được nhanh chóng đổi mới tổ chức quản lý, thúc đẩy cạnh tranh và đào tạo nguồn nhân lực. Theo ý kiến của các chuyên gia, cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề. Về viễn thông, mức độ số hoá của chúng ta chưa cao, băng thông mạng lưới chuyển mạch hẹp, truyền dẫn chưa dễ dàng mở rộng, mạng truy nhập băng hẹp, dịch vụ có tính tương tác và tính cá nhân hoá chưa cao. Trong khi đó, công nghệ thông tin và tin học cũng như dịch vụ thương mại điện tử và các dịch vụ trực tuyến của Việt Nam đều chưa phát triển. Nhìn chung, các dịch vụ của Việt Nam đều chưa đảm bảo được 4 tính chất theo như quan điểm của liên minh viễn thông thế giới (ITU).
Chính vì vậy, ngay từ giờ, Việt Nam cần phải xác định rõ quyết tâm phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia của mình. Mục tiêu đặt ra là phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội thông tin dựa trên tri thức. Đến năm 2005, Việt Nam phải cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia với các mục tiêu cụ thể bao gồm một mạng truyền thông vật lý hiện đại, phát triển tối đa thương mại điện tử. Thêm vào đó, với cơ sở hạ tầng thông tin trên, có thể nghiên cứu, giáo dục, chữa bệnh qua mạng, tạo môi trường pháp lý phù hợp và đào tạo thêm được nhiều việc làm mới.
Quyết tâm đổi mới cho sự phát triển được thể hiện ở một loạt các văn bản, nghị định quan trọng được ban hành, có tính hướng cho sự phát triển của Internet và mạng viễn thông Việt Nam. Nghị định 55 tiếp bước Nghị định 21 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet với những điều chỉnh mang tính khuyến khích, hỗ trợ Internet phát triển ở nước ta cũng đã qua 9 tháng đi vào cuộc sống. Bước tiến mới quan trọng trong Nghị định 21 CP chính là việc quản lý Internet, thay vì “khả năng quản lý đến đâu thì mở tới đó” như trước kia.
Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu tổng quát là đẩy nhanh việc phổ cập Internet trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng với chất lượng tốt, giá cả thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực. Chỉ tiêu phát triển cụ thể bao gồm: năm 2002-2003, tất cả các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề được kết nối Internet; đến năm 2005, đạt mật độ bình quân 1,3-1,5 thuê bao/100 dân, tỷ lệ số dân sử dụng Internet là 4%-5%, tiến tới đạt tỷ lệ này ở mức trung bình khu vực vào năm 2020; khoảng 50% số trường PTTH, 100% số bệnh viện trung ương và trên 50% bệnh viện tỉnh được kết nối Internet.
Chủ trương tạo môi trường phát triển thông thoáng trong lĩnh vực viễn thông, Internet cũng thể hiện rõ trong Pháp lệnh Bưu chính viễn thông mới được ban hành. Theo đó, mọi thành phần kinh tế sẽ được khuyến khích tham gia kinh doanh các dịch vụ viễn thông, Internet. Các biện pháp chủ yếu sẽ được thực hiện nhằm đạt mục tiêu trên là: hoàn chỉnh hệ thống pháp lý, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về Internet; phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông phục vụ phát triển Internet; phát triển các dịch vụ ứng dụng truy nhập Internet; nâng cao nhận thức, thói quen sử dụng công nghệ thông tin và Internet. Kế hoạch được phê duyệt còn đề ra việc huy động các nguồn lực vào việc đầu tư, phát triển và phổ cập Internet.
1.2. Mục tiêu cho TTĐT ở Việt Nam
Thanh toán điện tử là một hình thức thanh toán mới, đã và đang được sự quan tâm rất nhiều của các Bộ, Ngành cũng như của Chính phủ. Vì vậy, Việt Nam đã đề những mục tiêu cơ bản cho việc tiếp cận hơn nữa và đẩy mạnh phát triển hình thức thanh toán điện tử này ở Việt Nam để phục vụ cho TMĐT.
-Nâng cao nhận thức về TTĐT cho các cán bộ, doanh nhân, và dân chúng.
-Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động TTĐT.
-Các ngân hàng tiến hành triển khai một số ứng dụng của TTĐT như dịch vụ e-banking và các phương thức TTĐT khác.
-Thu hút những khoản tài trợ nhất định (về thiết bị, giải pháp, hỗ trợ tài chính...) của nước ngoài hỗ trợ các ngân hàng đổi mới, hiện đại, phát triển hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng.
-Xây dựng cơ sở hạ tầng cho hệ thống TTĐT, mở rộng hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam - tiền đề cho việc đưa TTĐT vào phục vụ phát triển và hội nhập với các quốc gia khu vực và thế giới.
-Thúc đẩy sự phát triển Công nghệ thông tin trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế số hoá, kinh tế tri thức, từng bước xây dựng một xã hội thông tin ở nước ta.
2. Đề xuất cho việc phát triển TTĐT ở Việt Nam
Hiện nay, nước ta có hơn 70.000 doanh nghiệp và khoảng 1,4 triệu hộ kinh doanh, nhưng 90% trong số đó vẫn thờ ơ với thương mại điện tử. Số người đăng ký truy nhập Internet mới ở mức khoảng 130.000 thuê bao, thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Mặt khác hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông chưa đáp ứng được nhu cầu truy nhập Internet của người tiêu dùng và các doanh nghiệp, hơn nữa giá cước viễn thông cao cũng làm hạn chế số lượng người truy nhập Internet và ảnh hưởng đến sự phát triển của TTĐT. Hệ thống thanh toán điện tử qua các ngân hàng Việt Nam chưa phát triển đầy đủ để đáp ứng các yêu cầu của TTĐT. Thêm vào đó, nước ta chưa có một tổ chức chuyên trách thuộc Chính phủ có đủ khả năng, thẩm quyền và một cơ chế tài chính để điều hành hữu hiệu việc xây dựng và phát triển hoạt động TTĐT điện tử. Như vậy, để nhanh chóng xây dựng và phát triển TTĐT ở Việt Nam, chúng ta cần tập trung giải quyết hàng loạt vấn đề bức thiết như:
2.1 Nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông quốc gia lên ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực ASEAN
Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông quốc gia là bộ phận không thể tách rời của chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế–xã hội trong tương lai, nhằm mục đích rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa hiện đại và lạc hậu và giúp cho việc thanh toán trong TMĐT có thể thực hiện dễ dàng được.
Một đất nước nước muốn phát triển thì trước hết phải có một cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại, đó là một yếu tố cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế số hoá. Chính vì thế, việc nâng cao hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin thực sự là vấn đề cần được ưu tiên, chú trọng ở Việt Nam.
Tuy ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã có nhiều cố gắng để cải thiện tình trạng Internet hiện nay, song giá cả vẫn còn chưa phù hợp , kỹ thuật chưa đảm bảo. Trong năm 2002, giá cước và chất lượng của các dịch vụ Internet vẫn chưa thay đổi nhiều, do vậy, ngành Bưu chính Viễn thông cần phải có biện pháp để có những bước biến đổi tích cực, nhằm thúc đẩy dịch vụ Internet ngày càng tốt hơn.
Việt Nam nhất định phải tạo ra được sự bùng nổ Internet, sự đột biến Internet, thì mới có thể hòa nhập, sử dụng thương mại điện tử, tiến hành TTĐT, Chính phủ điện tử. Vấn đề này đã được Chính phủ Việt Nam cam kết với nguyên thủ các nước khối Đông Nam á phấn đấu có được một cơ sở hạ tầng Viễn thông Internet ngang bằng với khu vực. Đây thực sự là thách thức đối với Việt Nam, vì hiện nay, so hầu hết các nước trong Đông Nam á, cơ sở hạ tầng Internet và Bưu chính Viễn thông còn nhiều yếu kém.
2.2 Đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghệ thông tin (CNTT)
Cán bộ công nghệ thông tin là những người gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng và quá trình thanh toán điện tử. Những người này có vai trò quan trọng trong việc phát triển các phần mềm phục vụ thanh toán – là yếu tố đầu tiên để việc tiến hành hoạt động thanh toán điện tử có thể thực hiện được. Do vậy, việc nâng cao trình độ của các cán bộ công nghệ thông tin là một yêu cầu cấp thiết để phát triển việc TTĐT ở Việt Nam.
Theo kết quả của nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học trong nước cũng như nước ngoài đều thấy rằng Việt Nam có rất nhiều tiềm năng về công nghệ thông tin (CNTT). Tuy nhiên, cho đến giờ chúng ta vẫn phải chấp nhận một sự thật là Việt Nam vẫn ở trong nhóm thứ hai gồm Việt Nam, Myanma, Lào, Cămpuchia còn lạc hậu về CNTT của ASEAN. Hiện thực này phản ánh một sự thực là chúng ta có nhiều tiềm năng nhưng chưa biến thành khả năng có thể vận dụng để phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Trong mọi lĩnh vực, nguồn nhân lực là hết sức quan trọng,
nhưng nguồn nhân lực ấy mới ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng khai thác. Do vậy, để chuyển từ dạng tiềm năng thành khả năng cần có một chính sách đồng bộ, có thời gian, và biện pháp thiết thực thì mới có thể chuyển biến được để phục vụ cho sự phát triển KHCN đất nước. Điều này chỉ có thể thực hiện đựơc thông qua việc đào tạo một nguồn nhân lực có năng lực thật tốt bằng cách hợp tác đào tạo với các Chính phủ, các công ty CNTT hàng đầu của các nước phát triển CNTT như Nhật Bản... Hiện nay, Hội công thương và kinh tế Nhật Bản đã phối hợp
với Việt Nam thành lập trung tâm phát triển kỹ sư phần mềm và đã chuyển giao công nghệ đào tạo. Hệ thống đào tạo này sẽ cấp chứng chỉ cho các học viên theo học nếu đủ trình độ của Nhật Bản, trước hết có thể làm việc được với các công ty của Nhật Bản.
Ngoài ra, việc tổ chức đào tạo, nâng cao nhận thức về TTĐT cho các cán bộ, ngành, doanh nghiệp và xây dựng chương trình phổ cập về thương mại điện tử cho toàn dân là điều rất cần thiết.
2.3 Nhà nước hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và một số doanh nghiệp thử nghiệm áp dụng TTĐT trong quan hệ quốc tế
Việc Nhà nước hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là điều cần thiết vì các doanh nghiệp này hiểu rõ lợi ích và các thuộc tính của TTĐT. Các ISP cung ứng các dịch vụ làm trung gian thanh toán, kết hợp với các công ty phát hành các loại thẻ, cung cấp phần mềm thanh toán..., đó là các dịch vụ thúc đẩy sự phát triển của TTĐT. Hiện nay, các công ty cung cấp dịch vụ đều có những hướng đi riêng cho mình như: VDC, đơn vị chiếm thị phần lớn nhất trong thuê bao Internet, hợp tác với Công ty Tiền phong mở siêu thị sách trên mạng, tiến hành TTĐT. VDC cũng vừa khai trương siêu thị trên mạng hồi đầu tháng 9. Còn, công ty phát triển phần mềm VASC vừa đưa ra hệ thống chứng chỉ số VASC CA tương tự như chứng minh thư điện tử, được sử dụng khi giao dịch trên mạng nhằm bảo đảm sự nhận diện đúng đối tượng giao dịch và đảm bảo an toàn bảo mật cho các nội dung giao dịch.
Nhưng để các công ty ISP có thể phát triển hơn nữa, thì Nhà nước cần phải có những chính sách ưu đãi, khuyến khích các công ty này.
Ngòai các ISP, nhóm thứ hai gồm một số doanh nghiệp hoạt động trong khu vực dịch vụ như du lịch, lữ hành, khách sạn, giải trí, công ty xuất – nhập khẩu cũng như một số đơn vị sản xuất có liên quan đến xuất – nhập khẩu (may mặc, thủ công mĩ nghệ...) cũng sẽ tạo cho TTĐT ở Việt Nam những bước tiến triển mới.
Đặc điểm của nhóm này là bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của TTĐT nhưng hầu hết chưa hiểu rõ hay nói chính xác hơn là chưa được thuyết phục rằng TTĐT đem lại lợi ích to lớn. Theo nhận xét của các chuyên gia WB, nhóm này sẽ tạo ra bước ngoặt cần thiết cho TTĐT và sẽ là thị trường lớn nhất trong giai đoạn đầu của TTĐT ở Việt Nam. Do vậy, Nhà nước cần hỗ trợ cho một số doanh nghiệp thử nghiệm áp dụng TTĐT như đào tạo, nâng cao kĩ năng và cung ứng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp ...
Việc Nhà nước hỗ trợ cho các công ty cung cấp dịch vụ Internet và các doanh nghiệp là một chương trình khá quan trọng, vì nó sẽ góp phần đảm bảo cho sự phát triển thành công của TTĐT ở Việt Nam.
Theo WB, chiến lược phát triển của TTĐT ở Việt Nam cần có một chương trình thúc đẩy, trong đó có hai nhân tố chính là nhà nước và công nghệ thông tin. WB đã cho 2,7 điểm trên thang điểm 4 về chính sách cho TTĐT ở Việt Nam. Điều này cho thấy tính khả thi của việc triển khai TTĐT ở Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng luật lệ, các chính sách của nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý đủ cơ sở cho TTĐT phát triển. Ngoài ra, Nhà nước phải có chính sách mở cửa đối với ngành viễn thông để giá cước viễn thông không còn là rào cản đối với sự phát triển của TTĐT. Bên cạnh đó,vai trò của Nhà nước, công nghiệp công nghệ thông tin cần đủ mạnh để cung cấp cho thị trường các phần cứng, phần mềm giá thấp, phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu, cần hình thành thị trường giao dịch điện tử (chứng từ, hàng hoá), từ đó khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng theo.
Các mục tiêu cụ thể trong giai đoạn tới, bao gồm hình thành các hiệp hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; hiệp hội của ISP. Đồng thời, cần có chương trình phát triển phần cứng, phần mềm hướng đối tượng đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một khâu quan trọng là nghiên cứu và áp dụng các giao dịch tài chính điện tử giữa các đơn vị của nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư doanh.
2.4 Xây dựng một số văn bản pháp lý cho TTĐT
Để thực hiện việc thanh toán điện tử một cách hiệu quả, an toàn, thuận lợi thì hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch thanh toán điện tử. Chính vì vậy mà, Nhà nước cần phải tiếp tục xây dựng các văn bản pháp lý nhằm bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử, bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ bí mật riêng, bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang Web, thâm nhập các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virus phá hoại v.v…, và các qui định pháp lý liên quan đến việc lập một hợp đồng thương mại điện tử và hiệu lực thực hiện hợp đồng này như : thời hạn hiệu lực của hợp đồng, sự cố đường truyền và khó khăn, cản trở trong việc truyền số liệu, năng lực pháp lý của các bên tham gia thương mại điện tử, những giao dịch không hợp pháp.., cũng như Nhà nước phải đưa ra các giải pháp giải quyết tranh chấp khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại điện tử như: kiện ở đâu, kiện như thế nào, sẽ được bảo vệ khi bị thiệt hại như thế nào...
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề pháp lý của TTĐT còn nhiều vấn đề khác mà Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định riêng trong đó xác định cụ thể:
-Đối tượng tham gia: cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, ngân hàng Nhà nước, cơ quan xác nhận và công chứng chữ kí điện tử.
-Các điều kiện pháp lý và kỹ thuật liên quan đến với các đối tượng tham gia các hệ thống thanh toán điện tử.
-Vấn đề tổ chức thanh toán, các loại phí...quản lý thanh toán, báo cáo thống kê, cạnh tranh lành mạnh, tranh chấp và xử lý.
-Vấn đề miễn giảm thuế VAT, thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, đơn giản hoá các thủ tục xác định giá trị tài sản vô hình là các giải pháp kĩ thuật hoặc phần mềm máy tính, chế độ trích khấu hao và sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý đối với các thiết bị và phần mềm máy tính...thừa nhận và có chính sách miễn thuế đối với nguồn vốn tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử và công nghệ.
Như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp lý liên quan đến TTĐT là điều cần thiết để việc thanh toán qua hệ thống điện tử có thể hình thành được. Đó là nền móng đầu tiên cho việc tiến hành TTĐT, một hình thức thanh toán trong tương lai.
Kết luận
Từ nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn hoạt động thanh toán điện tử, có thể đi
đến một số kết luận như sau:
Cùng với sự bùng nổ của Internet, sự phát triển TMĐT là một tất yếu khách quan, có tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của loài người. Việc tham gia vào TMĐT thực sự là cơ hội để các nước có thể thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ, do vậy, các nước cần phải nhanh chóng xúc tiến tham gia vào các hoạt động TMĐT, mà trước hết, cần thiết phải phổ cập những kiến thức liên quan đến TMĐT tới đông đảo người dân.
2. TTĐT là một khâu quan trọng trong việc tiến hành hoạt động TMĐT, do đó, các bên trong giao dịch cần phải hiểu biết về hoạt động TTĐT cũng như nắm vững luật liên quan đến TTĐT, có như vậy, việc thanh toán tiến hành qua mạng mới diễn ra suôn sẻ được.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Việt Nam cũng không thể đứng ngoài vòng xoáy phát triển của TTĐT, mà phải nỗ lực đưa ra những giải pháp để phát triển TTĐT tiến kịp với sự phát triển của TTĐT trên thế giới. Có như thế thì chúng ta mới không bị tụt hậu, mới tạo được bước phát triển nhảy vọt được.
Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng và yêu cầu phát triển kinh tri thức, phát triển thương mại điện tử. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đậi biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, phần IV - Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã nêu rõ:
“Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức...”
“Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải và các lọai hình vận tải khác, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. Sớm phổ cập sử dụng tin học và Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội”
Có thể thấy rõ ràng thương mại điện tử là một phương thức hoạt động trên quy mô rộng lớn tầm quốc gia và quốc tế, có tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Đây là một thành tố của nền kinh tế tri thức, nó vừa tạo ra cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thứcđối với Việt Nam. Chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội, nhưng cũng không được nóng vội, phi thực tế phát triển thương mại điện tử mà, cần phaỉ có quan điểm chiến lược, kế hoạch tổng thể quốc gia và sự chỉ đạo, quản lí thống nhất của nhà nước trong phát triển thương mại điện tử ,đồng thời, các đòi hỏi của TMĐT về môi trường pháp lý, về tính an toàn, bảo mật cần được ưu tiên đáp ứng. Việt Nam ủng hộ các sáng kiến về xúc tiến thương mại điện tử của ASEAN, nỗ lực thực hiện cam kết khu vực và quốc tế của mình về phát triển thương mại điện tử.
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn - Lê Thế Bình_ người đã chỉ bảo giúp đỡ em tận tình trong nhiều tháng qua kể từ những ý tưởng ban đầu cho đến khi hoàn thành khoá luận. Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn đối với những kiến thức quý báu mà thầy đã cung cấp cho em trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Ngoại Thương.
Do điều kiện và trình độ còn hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy em xin cảm ơn và rất mong nhận được những góp ý, phê bình của thầy cô giáo và bạn bè quan tâm đến đề tài này.
Hà nội, ngày 12 tháng 12 năm 2002
._.