Lời nói đầu
N
gày nay trên phạm vi toàn cầu, sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế đang phát triển mạnh mẽ không những làm khối lượng hàng hoá dịch vụ tăng lên mà còn làm cho sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước phát triển. Theo đà phát triển đó, sự liên hệ kinh tế giữa các nước ngày càng mật thiết và dần dần hình thành nên một thị trường thế giới thống nhất. Những mối quan hệ thường xuyên này giữa các nước đã làm phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thương mạ
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thanh toán quốc tế & Một số phương thức thanh toán quốc tế được vận dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i và tiền tệ của nước này đối với nước khác, do đó tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của thanh toán quốc tế. Nói một cách khác, mỗi một quốc gia độc lập phải thực hiện nhiều mối quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, hợp tác khoa học kỹ thuật...Trong đó quan hệ về kinh tế chiếm vị trí quan trọng, nó là cơ sở cho các quan hệ khác. Trong quá trình hoạt động, các quan hệ nêu trên cần thiết phải chi tiêu, liên quan đến tài chính. Kết thúc từng kỳ, từng niên hạn, tất cả các quan hệ quốc tế phải được đánh giá kết quả hoạt động, do đó liên quan mật thiết đến công tác thanh toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh toán quốc tế trong đề án môn học Lý thuyết Tài chính tiền tệ, em muốn tìm hiểu và trình bày một số vấn đề khái quát về công tác thanh toán quốc tế qua đề tài “Thanh toán quốc tế và một số phương thức thanh toán quốc tế được vận dụng ở Việt Nam”. Đề án của em trình bày về một số nội dung như sau:
Chương I: Lý thuyết chung về thanh toán quốc tế và một số phương thức thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế
Một số phương thức thanh toán quốc tế
Chương II: Thực trạng vấn đề thanh toán quốc tế ở Việt Nam
Các phương thức thanh toán quốc tế đang được áp dụng ở Việt Nam
Đánh giá
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam.
Với trình độ có hạn của mình, chắc chắn trong đề án này của em còn nhiều tồn tại, thiếu sót không thế tránh khỏi. Nhưng đây cũng là sự nỗ lực hết mình của bản thân. Chính vì vậy em mong nhận được sự nhận xét phê bình đánh giá của thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn của cô giáo Phạm Hồng Vân cùng các thầy cô giáo trong bộ môn LTTCTT đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn em trong việc hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ.
I. THANH TOÁN QUỐC TẾ( TTQT)
Khái niệm và phân loại
1.1Khái niệm
TTQT là một phạm trù rộng, có nhiều khái niệm, sau đây là một số khái niệm theo em là khá đầy đủ và rõ ràng.
* TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiên tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các các nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng .
* TTQT là việc thực hiện chi trả bằng tiền liên quan đến các dịch vụ mua bán hàng hoá hay cung ứng lao vụ... giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Khác với thanh toán nội địa (trong phạm vi một nước) TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này với đồng tiền của một nước khác. Nội tệ, với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn biên giới quốc gia nếu như hai bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận cụ thể về vấn đề nào đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng...các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán, của nước người mua hay của một nước thứ ba.
Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như đô la Mỹ (USD), bảng Anh (GBP), frăng Pháp (FRF), yên Nhật (JPY) bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch này.
Hiện nay, phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu điện, mang swift hoặc qua các Uỷ nhiệm thu chi hộ nhau giữa các ngân hàng, tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong thanh toán quốc tế chiếm một phần không đáng kể.
Thanh toán quốc tế có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoaị là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Phân loại
Dưới giác độ kinh tế, các quan hệ quốc tế được phân chia thành hai loại: quan hệ mậu dịch và quan hệ phi mậu dịch.
+ Thanh toán mậu dịch phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và các dịch vụ thương mại, theo giá cả quốc tế. Thông thường trong nghiệp vụ thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hoá kèm theo. Các bên mua bán bị ràng buộc với nhau bởi hợp đồng thương mại hoặc bằng một hình thức cam kết khác (thư, điện giao dịch). Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải quy định rõ cách thức thanh toán dịch vụ thương mại phát sinh.
+ Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính chất thương mại. Đó là những chi phí ngoại giao, ngoại thương ở các nước sở tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn khách nhà nước, các tổ chức hay của từng cá nhân.
Xét về mặt hình thức, TTQT có một số hình thức cơ bản sau:
+ Phương thức thanh toán chuyển tiền
+ Phương thức thanh toán ghi sổ
+Phương thức thanh toán nhờ thu
+ Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
2. Ý nghĩa của hoạt động thanh toán quốc tế với hoạt động kinh doanh đối ngoại
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ gữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động TTQT thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại với các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu được là phải thiết lập quan hệ TTQT.
Thanh toán là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nếu việc tổ chức TTQT được tiến hành nhanh chóng, an toàn chính xác sẽ làm cho các nhà sản xuất kinh doanh yên tâm và đẩy manh hoạt động xuất nhập khẩu của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển đặc biệt là hoạt động ngoại thương. TTQT trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thanh toán quốc tế hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của các bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính , khả năng thanh toán của người mua, của con nợ. Đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, hơn nữa trong cơ chế thị trường tình trạng lừa đảo ngày càng nhiều vì vậy rủi ro trong các hoạt động kinh tế đối ngoại càng cao. Tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ hạn chế được rủi ro trong thực hiện các hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại và kinh tế nói chung.
3. Các điều kiện thanh toán quốc tế
3.1 Điều kiện tiền tệ:
3.1.1 Khái niệm và phân loại
Khái niệm:
Điều kiện tiền tệ là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào đó để tính toán và thanh toán trong hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động.
Phân loại:
+Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ, chia ra làm 3 loại tiền sau đây:
Tiền tệ thế giới (world currency): là vàng. Hiện nay chưa có vật nào khác có thể thay thế vàng chấp hành các chức năng của tiền tệ thế giới.
Tiền tệ quốc tế (international currency) là các đồng tiền hiệp định phụ thuộc các khối kinh tế và tài chính quốc tế như SDR, EURO...
Tiền tệ quốc gia (national money) là tiền tệ của từng nước như USD, GBP, FRF, DEM, VND...
+Căn cứ vào sự chuyển đổi của tiền tệ, chia ra làm 3 loại sau:
Tiền tệ tự do chuyển đổi (free convertible currency) là những đồng tiền quốc gia có thể được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền khác.
Tiền tệ chuyển nhượng (transferable currency) là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này qua người khác qua hệ thống tài khoản mở ở ngân hàng.
Tiền tệ clearing ( clearing currency) là tiền tệ ghi sổ trên tài khoản và không được chuyển dịch sang một tài khoản khác.
+Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ, chia làm 2 loại tiền sau đây:
Tiền mặt (cash) là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt, tỷ trọng tiền mặt trong TTQT rất không đáng kể.
Tiền tín dụng (credit currency) là tiền tài khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tại của tiền tín dụng là các phương tiện thanh toán quốc tế như hối phiếu, séc, T/T, M/T...Tiền tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong TTQT.
+Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền tệ trong thanh toán, chia làm 2 loại:
Tiền tệ tính toán (account currency) là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng trị giá hợp đồng.
Tiền tệ thanh toán (payment currency) là tiền tệ được dùng để thanh toán nợ nần, thanh toán trong hoạt động mua bán ngoại thương.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng đồng tiền thanh toán:
+ Sự tương quan lực lượng ngoại thương của hai bên mua và bán.
+ Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế.
+ Tập quán thương mại quốc tế áp dụng đối với một số mặt hàng nhất định hay với những nước nhất định. Ví dụ: mua bán hàng kim loại mày và cao su thanh toán bằng đồng bảng Anh; dầu hoả và lúa mì thanh toán bằng đô la Mỹ.
+ Phụ thuộc vào đồng tiền đã được thống nhất trong khu vực (như khu vực đồng bảng Anh, frăng Pháp, đô la Mỹ).
3.1.2 Điều kiện đảm bảo hối đoái:
Trong tình hình hệ thống tiền tệ thế giới thường xuyên biến động dẫn đến rủi ro về ngoại hối gây tổn thất quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để tránh khỏi hoặc hạn chế những tổn thất đó trong các hợp đồng mua bán ngoại thương, thường được quy định các điều kiện bảo lưu nhằm đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập khi tiền tệ lên xuống bất thường, đó là điều kiện đảm bảo hối đoái, gồm có:
Điều kiện đảm bảo vàng
Hình thức đơn giản nhất của điều kiện đảm bảo vàng là giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng mua bán được trực tiếp quy định vằng một số lượng vàng nhất định. Nhưng trong thực tế mua bán quốc tế, thông thường giá cả hàng hoá được biểu hiện bằng tiền chứ không phải bằng số lượng vàng và trong thực tế người ta sử dụng phương tiện thanh toán, tín dụng để thanh toán bù trừ. Vì vậy hình thức thông thường của điều kiện đảm bảo vàng là quy định giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng bằng một đồng tiền nào đó và xác định giá trị vàng của đồng tiền này. Đến thời điểm thanh toán, nếu giá trị vàng của đồng tiền đó thay đổi thì giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng cũng được điều chỉnh lại một cách tương ứng. Điều kiện này được áp dụng phổ biến ở chế độ bản vị vàng. Hiện nay vàng không còn được sử dụng trong lưu thông tiền tệ nữa thì điều kiện đảm bảo vàng cũng không còn phù hợp.
Điều kiện đảm bảo ngoại hối
Có hai trường hợp cụ thể:
Trong hợp đồng quy định đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán là một loại tiền, đồng thường xác định tỷ giá của đồng tiền đó với một đồng tiền khác (đồng tiền tương đối ổn định) làm cơ sở. Đến khi thanh toán nếu tỷ giá giữa hai đồng tiền có thay đổi thì giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng phải được điều chỉnh lại một cách tương ứng.
Trường hợp hợp đồng quy định hai đồng tiền: đồng tiền tính toán (là đồng tiền tương đối ổn định) và đồng tiền thanh toán. Khi trả tiền căn cứ vào tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán hình thành ở thị trường. Đây là điều kiện thường được sử dụng trong TTQT hiện nay.
Điều kiện đảm bảo theo “rổ” tiền tệ.
Sau khi hệ thống tỷ giá cố định tan vỡ, tỷ giá hối đoái của các đồng tiền bị thả nổi tự do, trên thị trường quốc tế biến động dữ dội, sức mua của tiền tệ các nước phương Tây giảm sút nghiêm trọng. Người ta phải dựa vào nhiều đồng tiền của nhiều nước để đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập bằng ngoại tệ trong hợp đồng, các đảm bảo đó gọi là đảm bảo hối đoái theo rổ tiền tệ. Điểm đáng lưu ý là khi áp dụng điều kiện đảm bảo này, các bên phải thống nhất lựa chọn những đồng tiền nước nào đề đưa vào “rổ” và quy định tỷ giá hối đoái của các đồng tiền đó so với một đồng tiền được đảm bảo vào lúc ký hợp đồng và vào lúc thanh toán, để điều chỉnh tổng giá trị của hợp đồng mua bán.
Điều kiện đảm bảo căn cứ vào sự biến động của giá cả.
Ngoài những điều kiện đảm bảo nêu trên, trong hợp đồng người ta còn có thể sử dụng cách quy định điều kiện đảm bảo:
Căn cứ vào tình hình biến động của chỉ số giá cả mà điều chỉnh số tiền trả trong hợp đồng cho hợp lý.
Hoặc dựa vào giá linh hoạt, số tiền phải trả căn cứ vào tình hình biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường hay giá thành sản xuất loại hàng hoá đó. Trong tình hình lạm phát tiền tệ thường xuyên thì điều kiện này có lợi cho người xuất khẩu (nhất là khi ký kết các hợp đồng dài hạn) và không có lợi cho người nhập khẩu.
3.2 Điều kiện thời gian thanh toán (thời hạn trả tiền)
Điều kiện thời gian thanh toán có liên quan chặt chẽ đến việc luân chuyển vốn, phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy người được thu tiền muốn thu về nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố:
+ Tình hình thị trường
+ Đối tượng hàng hoá
+ Mối quan hệ giữa các bên hữu quan
Thông thường có ba cách quy định:
3.2.1 Trả tiền trước
Người mua phải trả một phần hay toàn bộ số tiền hàng trước khi nhận hàng hoá. Thực chất là người mua đã cấp tín dụng cho người bán. Vì vậy trả tiền trước thường được áp dụng đối với loại hàng hoá lớn, thời gian để sản xuất ra hàng hoá này dài, người bán không đủ vốn...hoặc áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán chưa thật sự tin tưởng nhau, việc trả tiền trước nhằm mục đích đảm bảo thực hiện hợp đồng của người mua và bán nên thời gian trả tiền trước tương đối ngắn và số tiền trả trước không lớn lắm.
3.2.2 Trả tiền ngay
Nghĩa là toàn bộ giá trị hàng hoá được thanh toán trong khoảng thời gian kể từ lúc hàng được chuẩn bị xong để xếp lên tàu đến lúc hàng được đến tay người nhập khẩu. Cụ thể:
+ Trả tiền ngay khi nhận đựợc điện báo của người xuất khẩu là hàng hoá đã sẵn sàng để xếp lên tàu hoặc khi nhận được điện của thuyền trưởng báo hàng đã xếp xong trên tàu tại cảng đi. Hoặc:
+ Trả tiền khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá gửi đến khi hoàn thành việc giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu gửi tới ngân hàng để đòi tiền người nhập khẩu. Nếu chứng từ hàng hoá phù hợp thì người nhập khẩu phải trả tiền ngay (hối phiếu trả tiền ngay), hoặc phải chấp nhận trả tiền (nếu là trái phiếu có thời hạn).
+ Hoặc người nhập khẩu trả tiền vào lúc đã nhận được hàng hoá tại cảng đến.
3.2.3 Trả tiền sau
Là sau khi giao hàng một thời gian nhất định người xuất khẩu mới thu được tiền của người nhập khẩu. Thực chất trường hợp trả tiền của người xuất khẩu cấp tín dụng cho người nhập khẩu. Trong thực tế buôn bán quốc tế, tuỳ thuộc vào tính chất, đối tượng hàng hoá hay dịch vụ cung ứng mà áp dụng một trong những cách trả tiền trên, hoặc có thể kết hợp 3 cách trả tiền này.
Ví dụ: Trong các hợp đồng mua bán thiết bị toàn bộ hay mua bán tàu biển việc trả tiền thường được tiến hành:
20% giá trị hợp đồng được thanh toán trước
70% giá trị hợp đồng được thanh toán ngay khi hàng được gửi đi, hay ngay khi chuyến hàng cuối cùng đã được giao xong
10% giá trị hợp đồng được thanh toán sau một thời gian nhất định, khi máy móc công trình đó bắt đầu hoạt động
3.3 Điều kiện địa điểm thanh toán
Điều kiện địa điểm thanh toán phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết. Địa điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu, hoặc ở nước người nhập khẩu và cũng có thể ở một nước thứ ba. Trong thanh toán, bên nào cũng muốn việc thực hiện trả tiền tại nước mình vì:
+ Nếu là người xuất khẩu thì họ sẽ thu được tiền hàng nhanh, nên luân chuyển vốn nhanh
+ Nếu là người nhập khẩu thì đỡ bị đọng vốn
+ Ngân hàng nước đó cũng thu được phí phục vụ
+ Tạo điều kiện thuận lợi nâng cao uy tín của thị trường tiền tệ nước mình trên thế giới
Thông thường trong mậu dịch quốc tế, sử dụng đồng tiền thanh toán nước nào thì địa điểm thanh toán cũng sẽ ở nước đó.
3.4 Điều kiện về phương thức thanh toán
Khái niệm:
Phương thức thanh toán tức là chỉ người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán, người ta có thể lựa chọn về một phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và đúng; và xuất phát từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
Đây là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện TTQT, để đi sâu hơn, bài viết sẽ đề cập chi tiết hơn về hai vấn đề này ở phần sau.
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ CHỦ YẾU
Phương thức chuyển tiền (Remittance)
Khái niệm:
Là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Các bên tham gia:
Người trả tiền (người mua, người mắc nợ) hoặc người chuyển tiền (người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra ngoài nước) là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
Người thụ hưởng (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư) hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.
Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người thụ hưởng.
Nội dung
Khi cần đến chuyển tiền trả cho người hưởng, người chuyển tiền phải viết giấy uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền, ghi rõ:
Tên và địa chỉ người chuyển tiền
Số tiền xin chuyển (số lượng, loại tiền)
Tên và địa chỉ người nhận tiền
Lý do chuyển tiền
Ngân hàng sau khi nhận được giấy uỷ nhiệm này sẽ nhờ đại lý hoặc chi nhánh của mình ở nước ngoài để chuyển trả cho người nhận tiển.
Các hình thức chuyển tiền
Chuyển tiền có thể được thực hiện bằng:
Điện báo (Telegraphic Transfer – T/T): ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền điện ra lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
Thư (Mail Transfer – M/T): ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền viết thư (có thể là lệnh chuyển tiền hoặc là giấy báo có) ra lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
Chuyển tiền bằng cách nào là do yêu cầu của khách hàng. Chuyển tiền bằng điện nhanh hơn bằng thư, người chuyển tiền bằng điện không bị đọng vốn lâu ngày, nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá ngoại tệ trong thư hối.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
Ngân hàng đại lý
Ngân hàng chuyển tiền
(3)
(2) (4)
Người chuyển tiền
Người thụ hưởng
(1)
Giao dịch thương mại trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau
Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ nhiệm chi (nếu có mở tài khoản tại ngân hàng)
Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng
Chuyển tiền cho người thụ hưởng
Trường hợp áp dụng:
Trả tiền hàng nhập khẩu với nước ngoài, cần chú ý:
+ Lúc nào thì chuyển tiền, thường là sau khi nhận xong hàng hoá, hoặc sau khi nhận được chứng từ hàng hoá.
+ Số tiền được chuyển dựa vào: trị giá của hoá đơn thương mại, hoặc kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy ra số tiền phải chuyển.
+ Chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển bằng điện.
+ Không áp dụng trong thanh toán hàng xuất khẩu với nước ngoài vì dễ bị người mua chiếm dụng vốn.
Thanh toán trong lĩnh vực phi mậu dịch và các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.
Chuyển vốn ra bên ngoài để đầu tư hoặc chi tiêu phi mậu dịch
Chuyển kiều hối
Các yêu cầu về chuyển tiền.
Muốn chuyển tiền phải cso giấy phép của Bộ chủ quản hoặc Bộ Tài chính. Chuyển tiền thanh toán trong ngoại thương phải có:
+ Hợp đồng mua bán ngoại thương
+ Giấy phép nhập khẩu và quota nhập khẩu
+ Uỷ nhiệm chi ngoại tệ và phí chuyền tiền
Viết đơn chuyển tiền đến Vietcombank hoặc một ngân hàng thương mại được phép TTQT , cần ghi đủ:
+ Tên địa chỉ của người thụ hưởng, số tài khoản nếu người thụ hưởng yêu cầu
+ Số ngoại tệ xin chuyển cần ghi rõ bằng số và bằng chữ, loại ngoại tệ
+ Lý do chuyển tiền
+ Và những yêu cầu khác
+ Ký tên, đóng dấu
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán trực tiếp giữa người mắc nợ với người chủ nợ. Phương thức này rất đơn giản, ở đây ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện việc thanh toán theo uỷ nhiệm, hưỏng hoa hồng, không bị ràng buộc gì về trách nhiệm Khi áp dụng phương thức này thì giữa 2 bên mua bán phải có tín nhiệm nhau rất cao. Vì vậy chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán hàng hoá ngoại thương mà thường sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc chi phí phi mậu dịch.
Ưu- nhược điểm của phương thức chuyển tiền.
Ưu điểm:
Đây là một phương thức đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, có phí tổn thấp. Ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo uỷ nhiệm chi để được hưởng hoa hồng, không bị ràng buộc gì với cả người mua và người bán.
Nhược điểm:
Việc trả tiền hoàn toàn phụ thuộc vào người nhập khẩu, nếu bên nhập khẩu cố tình dây dưa kéo dài việc thanh toán sẽ gây ra tình trạng chiếm dụng vốn của người xuất khẩu, giảm vòng quay vốn, quyền lợi của người bán không được đảm bảo.
Phương thức nhờ thu (uỷ nhiệm thu – Collection of Payment)
2.1 Khái niệm:
Nhờ thu là một phương thức thanh toán mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ ký phát một hối phiếu đòi tiền người mua, nhờ ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên tờ hối phiếu đó.
Như vậy, trong phương thức thanh toán này thường có 4 bên liên quan:
Người bán hàng (người xuất khẩu) là người gửi giấy nhờ thu (remitter)
Ngân hàng chuyển chứng từ (remetting bank) là ngân hàng phục vụ bên người xuất khẩu
Ngân hàng thu tiền (collecting bank) là ngân hàng phục vụ bên người nhập khẩu
Người mua (người nhập khẩu) là người trả tiền (drawee)
Các giai đoạn chủ yếu của phương thức thanh toán nhờ thu
Giai đoạn 1: Thiết lập các điều khoản nhờ thu trên cơ sở các quy định về điều kiện thanh toán trong hợp đồng (hay trong đơn chào hàng). Sau khi giao hàng người xuất khẩu tập hợp bộ chứng từ, ghi rõ những khoản mục nhờ thu vào trong đơn.
Giai đoạn 2: Phát hành nhờ thu và chuyển chứng từ.
Trên cơ sở giấy yêu cầu nhờ thu và các chứng từ người bán gửi đến, ngân hàng phục vụ bên bán phát hành nhờ thu, chuyển các chứng từ và những chỉ thị cụ thể tới ngân hàng bên người nhập khẩu để thu tiền.
Giai đoạn 3: Xuất trình chứng từ và thanh toán:
Ngân hàng bên người nhập khẩu thông báo cho người mua về việc chứng từ đã tới và những điều kiện của nó. Người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu và chứng từ. Sau đó ngân hàng chuyển số tiền đã thu được cho ngân hàng bên người nhập khẩu, ngân hàng này tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu (bằng cách ghi có số tiền thu được vào tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng).
Các loại uỷ nhiệm thu và trình tự thực hiện.
Có nhiều cách phân loại uỷ nhiệm thu.
Căn cứ vào cách thực hiện, chia ra 2 loại:
Uỷ nhiệm thư bằng thư
Người nhập khẩu sau khi hoàn thành việc giao hàng (theo hợp đồng) cho nhà nhập khẩu, lập bộ chứng từ hàng hoá và hối phiếu uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình đòi tiền người nhập khẩu, thông qua ngân hàng nước nhập khẩu bằng thư uỷ nhiệm (giấy nhờ thu). Người nhập khẩu sẽ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán ngay khi ngân hàng nhập khẩu trao chứng từ.
Uỷ nhiệm thư bằng điện
Loại này ít được sử dụng, thường áp dụng đối với số tiền thu lớn. Người xuất khẩu uỷ nhiệm cho ngân hàng nước mình thông qua ngân hàng nước ngoài nhập khẩu để đòi tiền người nhập khẩu bằng cách điện báo thu tiền. Căn cứ vào điện báo đó người nhập khẩu sẽ trả tiền ngay hoặc chấp nhận khi được ngân hàng phục vụ mình báo tin mà không căn cứ vào chứng từ hàng hoá (chứng từ hàng hoá được gửi đến sau bằng đường bưu điện, hoặc thông qua ngân hàng, hoặc do người xuất khẩu gửi trực tiếp cho người nhập khẩu).
Như vậy uỷ nhiệm thư bằng điện là phương thức thanh toán áp dụng trong điều kiện hai bên mua bán tin tưởng nhau ở mức độ cao, đảm bảo cho người bán thu tiền nhanh.
Căn cứ vào nội dung các chứng từ thanh toán uỷ nhiệm thư được chia ra làm hai loại
Nhờ thu phiếu trơn (clean collection)
Trình tự thực hiện phương thức thanh toán này như sau:
Ngân hàng xuất khẩu
Ngân hàng nhập khẩu
(3)
(6)
(2) (7) (5) (4)
Người xuất khẩu
Người nhập khẩu
Hợp đồng
(1)
Người xuất khẩu sau khi giao hàng lập bộ chứng từ gửi hàng, gửi thẳng cho người nhập khẩu.
Người xuất khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền người nhập khẩu nhờ ngân hàng thu hộ.
Ngân hàng bên xuất khẩu chuyển hối phiếu sang ngân hàng bên nhập khẩu và nhờ ngân hàng này thu hộ tiền ở người nhập khẩu.
Ngân hàng bên người nhập khẩu chuyển hối phiếu cho người nhập khẩu và yêu cầu trả tiền.
Người nhập khẩu trả tiền hoặc từ chối trả tiền, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của họ, nhìn chung họ chỉ trả tiền sau khi đã nhận được hàng hoá.
Ngân hàng bên nhập khẩu chuyển tiền hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối thanh toán cho ngân hàng xuất khẩu.
Ngân hàng bên xuất khẩu chuyển tiền hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối trả tiền cho người xuất khẩu.
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức mà người xuất khẩu chỉ đưa hối phiếu hoặc hoá đơn nhờ ngân hàng thu hộ tiền hàng, còn các chứng từ hàng hoá thì người xuất khẩu gửi thẳng cho người nhập khẩu để họ đi nhận hàng
Trong phương thức thanh toán này, chứng từ hàng hoá tách rời trong quá trình thanh toán. Nếu như người nhập khẩu không thiện chí thì họ có thể nhận hàng nhưng lại gây khó khăn trong việc trả tiền. Vì vậy phương thức thanh toán nhờ thu phiếu trơn chỉ được áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán tin cậy lẫn nhau hoặc hai bên cùng ở trong nội bộ của một công ty. Nhìn chung phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán mậu dịch mà chủ yếu chỉ dùng để thanh toán tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, hợp đồng, lợi tức...
Nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection)
Nhờ thu kèm chứng từ là một phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi hoàn thành việc giao hàng, lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu (gồm chứng từ hàng hoá và hối phiếu), nhờ ngân hàng thu hộ số tiền trên tờ hối phiếu, với điều kiện người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận thì ngân hàng mới trao chứng từ để người nhập khẩu đi nhận hàng.
Căn cứ vào thời gian trả tiền, uỷ nhiệm thư chia làm hai loại:
+ Uỷ nhiệm thư trả tiền trao chứng từ (documents against payment -D/P)
Người xuất khẩu sau khi giao hàng, lập đầy đủ bộ chứng từ thanh toán (chứng từ hàng hoá và hối phiếu) gửi đến ngân hàng pphục vụ mình nhờ thu hộ. Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu tiến hành thu tiền ở người nhập khẩu với điều kiện người nhập khẩu phải trả tiền thì mới trao chứng từ cho họ để đi nhận hàng.
Phương thức thanh toán này thường được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay (hối phiếu trả tiền ngay)
Trình tự thực hiện thanh toán như sau:
Ngân hàng xuất khẩu
Ngân hàng nhập khẩu
(2)
(4)
(1) (5) (3) (3)
Người xuất khẩu
Người nhập khẩu
Giao hàng theo
hợp đồng
Người xuất khẩu sau khi giao hàng cho người nhập khẩu (theo hợp đồng), lập bộ chứng từ thanh toán (gồm có chứng từ hàng hoá và hối phiếu) gửi tới ngân hàng ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền.
Ngân hàng bên người xuất khẩu chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá và nhờ thu sang ngân hàng bên người nhập khẩu, để nhờ thu tiền.
Ngân hàng bên người nhập khẩu yêu cầu người nhập khẩu trả tiền hối phiếu để nhận chứng từ. Nếu người nhập khẩu nhất trí trả tiền thì ngân hàng mới trao chứng từ, nếu họ từ chối trả tiền thì nhân hàng cầm giữ chứng từ lại và báo cho ngân hàng bên người xuất khẩu biết.
Ngân hàng bên xuất khẩu chuyển trả tiền (hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối) cho ngân hàng bên xuất khẩu.
Ngân hàng bên xuất khẩu chuyển trả tiền (hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối ) cho người xuất khẩu.
+ Uỷ nhiệm thư chấp nhận trả tiền trao chứng từ (documents against acceptance – D/A)
Phương thức này được áp dụng trong hợp đồng mua bán chịu (bằng hối phiếu có kỳ hạn thanh toán).
Trình tự thực hiện phương thức thanh toán D/A cũng tương tự như D/P, chỉ khác nhau ở khâu thanh toán. Theo phương thức này người nhập khẩu chỉ phải ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu (chưa trả tiền ngay) thì sẽ được ngân hàng trao chứng từ để đi nhận hàng. Khi đến hạn trả tiền ghi trên hối phiếu (30 ngày, 60 ngày hoặc 90 ngày...) người nhập khẩu phải có nghĩa vụ trả tiền cho người nhập khẩu.
So với phương thức nhờ thu phiéu trơn, phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ đựơc đảm bảo hơn vì ngân hàng đã thay mặt người xuất khẩu khống chế chứng từ.
Tóm lại: Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm giữa hai bên mua bán. Nói chung người bán không có lợi vì người mua có thể từ chối không nhận chứng từ ( ví lý do nào đó như giá hàng đó đã hạ xuống hoặc họ tìm mua được ở nơi khác rẻ hơn...) có nghĩa là từ chối việc thanh toán. Mặc dù lúc này hàng hoá vẫn thuộc quyền sỡ hữu của người xuất khẩu, nhưng hàng đã gửi đi mà không được tiêu thụ, giải quyết ra sao, có khi người xuất khẩu mất cả vốn...
Thời gian thu tiền hàng về còn quá chậm (nhờ thu bằng thư), do đó vốn của người xuất khẩu bị đọng, ảnh hưởng đến kết qủa kinh doanh.
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, ngân hàng tham gia với tư cách là trung gian và hưởng hoa hồng. Trên cơ sở giấy uỷ thác và bộ chứng từ hàng hoá của người xuất khẩu, ngân hàng tiến hành thu hộ tiền hàng. Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ và cũng không liên quan gì đến việc uỷ nhiệm thư đó có được người nhập khẩu chập nhận trả tiền hay không.
Vì tính chất của phương thức uỷ nhiệm thư như vậy nên nó thường được áp dụng trong những trường hợp: hàng mới bán lần đầu (mang tính chất chào hàng), hàng ứ đọng khó tiêu thụ, thu cước vận tải, phí bảo hiểm, tiền bồi thường khống; hoặc áp dụng trong trường hợp hàng được thanh toán theo phương thức thư tín dụng nhưng chứng từ không phù hợp với điều khoản của thư tín dụng nên phải chuyển sang phương thức nhờ thu.
Ưu – nhược điểm của phương thức nhờ thu.
Ưu điểm:
Khi sử dụng hình thức này, người xuất khẩu có ._.lợi hơn hình thức chuyển tiền vì được ngân hàng giúp khống chế và kiểm soát được chứng từ vận tải cho đến khi được đảm bảo thanh toán.
Còn đối với người nhập khẩu, trong một số trường hợp ( như khi kiểm tra trong một kho ngoại quan ), họ sẽ không có trách nhiệm trả tiền nếu chưa có cơ hội để kiểm tra chứng từ và hàng hoá.
Nhược điểm:
Đối với người xuất khẩu, rủi ro lớn nhất là người nhập khẩu không chấp nhận hàng được gửi bằng cách từ chối bộ chứng từ. Ngoài ra, họ còn phải đối mặt với rủi ro tín dụng của người nhập khẩu, rủi ro chính trị ở nước người nhập khẩu và rủi ro hàng có thể bị hải quan giữ. Đi liền với các rủi ro này là tốc độ thanh toán chậm do các yếu tố khách quan và chủ quan của người nhập khẩu, khiến cho người xuất khẩu bị đọng vốn. Do đó người xuất khẩu phải theo dõi sát tình hình tín dụng của người nhập khẩu và tình hình chính trị cũng như môi trường thể chế của quốc gia đó để tiến hành các thủ tục một cách nhanh chóng, chính xác, hợp pháp.
Đối với người nhập khẩu, rủi ro lớn nhất của họ là chất lượng hàng hoá không đúng theo yêu cầu. Nhưng họ có thể tránh được rủi ro này bằng cách yêu cầu một giấy chứng nhận kiểm định trong bộ chứng từ.
Phương thức ghi sổ (open account)
3.1 Khái niệm.
Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền cho người bán.
Phương thức thanh toán này có một số đặc điểm cần chú ý:
Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của các ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh toán quyết toán giữa hai bên.
Chỉ có hai bên tham gia thanh toán: người bán và người mua.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ.
Ngân hàng bên bán
Ngân hàng bên mua
(3)
(3) (3)
Người bán
Người mua
(2)
(1)
Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá
Báo nợ trực tiếp
Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến đầu kỳ thanh toán.
3.3 Trường hợp áp dụng:
Thường dùng cho thanh toán nội địa
Hai bên mua bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau
Dùng cho phương thức mua bán hàng đổi hàng, nhiều lần, thường xuyên trong một thời kỳ nhất định (6 tháng, 1 năm)
Phương thức này chỉ có lợi cho người mua
Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài
Dùng trong thanh toán tiền phi mậu dịch như tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi cho vay và đầu tư.
3.4 Ưu- nhược điểm của phương thức ghi sổ.
Ưu điểm:
Cấp tín dụng cho người nước ngoài nhập hàng dưới dạng tín dụng thương mại.
Nhược điểm:
Quyền lợi của người xuất không được đảm bảo. Đối với người nhập phải mua hàng với giá cao hơn. Phương thức thanh toán này thực chất là một hình thức cấp tín dụng cho tổ chức mua. Nó thường đựơc áp dụng trong thanh toán nội địa nhưng ít được dùng trong thanh toán quốc tế bởi nó không có sự đảm bảo đầy đủ cho người xuất khẩu để có thể thu được kịp thời tiền hàng.
4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Trong buôn bán quốc tế, khoảng cách giữa người mua và người bán ở xa nhau, có khi rất xa; vì vậy không phải lúc nào hai bên cũng hoàn toàn hiểu biết tin tưởng nhau. Do đó, khi gửi hàng người xuất khẩu không được tự cho phép mình chỉ được trông chờ đơn thuần và tin rằng người mua ở cách xa họ luôn luôn sẳn sàng trả tiền. Khi xuất hàng với một hành trình xa như vậy thì rõ ràng đồng vốn của người xuất khẩu bị ứ đọng, điều này họ không muốn. Nhưng người xuất khẩu cũng không thể được đòi hỏi người mua phải trả tiền trước, chừng nào người mua chưa được cam kết rằng hàng hoá họ đã ký hợp đồng để mua đến địa điểm nhận hàng như họ mong muốn về mọi mặt. Tất cả những vấn đề nan giải này được ngân hàng giải quyết kịp thời qua việc sử dụng tín dụng chứng từ, mà kỷ thuật của nó hoàn toàn có thể đáp ứng yêu cầu của hai bên mua bán.
4.1. Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ.
Thư tín dụng ( Letter of Credit – L/C ) là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng ( ngân hàng mở thư tín dụng ) theo yêu cầu của khách hàng ( người yêu cầu mở thư tín dụng ) mở thư tín dụng uỷ nhiệm cho chi nhánh hay đại lý của mình ở nước ngoài trả tiền cho một người khác ( người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng – thường là người xuất khẩu ) ghi rõ trong thư tín dụng, một số tiền nhất định, trong phạm vi thời hạn nhất định với điều kiện là người được hưởng xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp các điều kiện quy định trong thư tín dụng.
Thư tín dụng trước hết là một phương tiện của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nó đóng vai trò chủ yếu quyết định sự tồn tại của phương thức thanh toán này vì nếu không lập được L/C thì tất yếu sẽ không có việc giao hàng và phương thức thanh toán này cũng không được xác lập. Như vậy tín dụng chứng từ là sự thu xếp của các ngân hàng để giải quyết các giao dịch thương mại quốc tế. Nó đưa ra một hình thức đảm bảo cho các bên tham gia, đảm bảo thanh toán với điều kiện các điều khoản của L/C đã được thực hiện và phù hợp.
4.2. Bản chất và đặc trưng của phương thức tín dụng chứng từ.
Bản chất:
+ Là một phương tiện thanh toán có tính độc lập với hợp đồng mua bán: một khi đã thoả thuận thời hạn của hợp đồng thương mại, tín dụng thư kèm chứng từ được lựa chọn như là một hình thức thanh toán có các điều khoản độc lập với các điều khoản quy định tại hợp đồng. Thật vậy, mặc dầu L/C được lập ra trên cơ sở hợp đồng thương mại giữa người mua ( người nhập khẩu ) và người bán ( người xuất khẩu ) để chi trả số tiền hàng người xuất khẩu đã chuyển giao cho người nhập khẩu, nội dung của L/C có đúng với hợp đồng không thì ngân hàng lại không phải chịu trách nhiệm, nghĩa là L/C có tính độc lập với hợp đồng mua bán. Trong điều 3 của UCP 500 đã ghi nhận: “ Về bản chất, tín dụng chứng từ là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các loại hợp đồng khác, mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở cho L/C, nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không liên quan tới, hoặc không ràng buộc với những hợp đồng đó, ngay cả khi L/C có dẫn chiếu đến hợp đồng đó.”
Vì thế, cam kết của ngân hàng về những thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu hay chiết khấu hoặc thực thi bất cứ nghĩa vụ nào của L/C không phụ thuộc vào khiếu nại hay biện hộ của người mở phát sinh từ mối quan hệ của người mở với ngân hàng phát hành hoặc đối với người đựoc hưởng.
Như vậy, L/C hoàn toàn độc lập với các hợp đồng giữa người mở và người đựơc hưởng, mặc dầu L/C cụ thể hoá quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên: Người mua yêu cầu ngân hàng đảm bảo thanh toán, người bán giao hàng đúng theo quy định trong hợp đồng, đúng thời hạn, thiết lập chứng từ hoàn chỉnh, hợp lệ, thông báo cho người mua... và những điều kiện khác đã thoả thuận. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với yêu cầu của L/C. Như vậy là việc thanh toán L/C không căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá. Nếu thực tế hàng hoá không khớp đúng với chứng từ thì hai bên mua bán tự giải quyết với nhau chứ ngân hàng không chịu trách nhiệm gì.
+ Là một hình thức tín dụng bằng chữ ký mà một ngân hàng dành cho một người nhập khẩu khi mở thư tín dụng mà không yêu cầu phải ký quỹ ( hoặc ký quỹ một khoản thấp hơn giá trị thực của hợp đồng ) nhưng ngân hàng sẽ giữ các chứng từ về sở hữu hàng hoá sau khi đã thanh toán tiền cho người xuất khẩu. Thư tín dụng là văn bản thể hiện loại tín dụng đó và là sự cam kết trực tiếp giữa ngân hàng với người xuất khẩu, do đó người ta dùng không phân biệt hai từ “ documentary credit.” ( tín dụng chứng từ ) với “ documentary letter of credit.” ( thư tín dụng kèm chứng từ ).
+ Là một hình thức đảm bảo thanh toán: tín dụng chứng từ là một cam kết độc lập của ngân hàng mở L/C, đảm bảo thanh toán cho người xuất khẩu ( ngay cả trong trường hợp người xuất khẩu không đủ khả năng thanh toán ) khi người xuất khẩu làm đúng theo những điều quy định trong L/C và chuyển bộ chứng từ gửi hàng đến cho ngân hàng làm đảm bảo.
Đặc trưng:
+ Rõ ràng tín dụng chứng từ là một hình thức đảm bảo thanh toán của ngân hàng người mua. Như vậy, mục đích của tín dụng chứng từ không phải là để chuyển tiền từ nước người nhập khẩu sang nước người xuất khẩu mà để tiến hành việc trả tiền cho người xuất khẩu. Người hưởng thư tín dụng không phải là người mở L/C mà là người yêu cầu mở L/C. Thư tín dụng thì phải trao cho người hưởng chứ không trao cho người mở.
+ Chữ “ tín dụng” ở đây không có nghĩa là “khoản tiền cho vay” theo nghĩa thông thường mà có nghĩa là “ tín nhiệm”. Bởi vì trong trường hợp ngân hàng buộc người xuất khẩu phải ký quỹ 100% số tiền của L/C thì thực tế là ngân hàng không cho họ vay bất kỳ một khoản tiền nào mà chỉ cung cấp cho họ sự “tín nhiệm” trước bạn hàng của họ là người xuất khẩu về việc đảm bảo thanh toán. Lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa đảm bảo trả tiền của người xuất khẩu vì lời hứa của ngân hàng có giá trị hơn.
+ Việc chi trả có liên quan đến việc thể hiện chứng từ: sự tồn tại của chứng từ cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng tạo nên cơ sở nền tảng của tín dụng thư kèm chứng từ, bởi vì ngân hàng không nhìn thấy hàng hoá mà chỉ xét trên chứng từ thôi. Điều này được chỉ rõ trong UCP 500. Như vậy, vai trò của chứng từ là vô cùng quan trọng vì nó là cơ sở để định ra các nguyên tắc thanh toán tín dụng chứng từ, và thể hiện thực chất giá trị của hàng hoá.
+ Vai trò trung gian thanh toán và đại diện của ngân hàng: ngân hàng là đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu nếu bên xuất khẩu đảm bảo xuất trình bộ chứng từ trong thời gian phù hợp với thời hạn hiệu lực và các điều kiện, điều khoản của L/C. Đồng thời, ngân hàng cũng đảm bảo đối với người xuất khẩu là chỉ thanh toán ( trích tài khoản của người xuất khẩu) trong trường hợp hàng hoá được chuyển giao phù hợp về mặt giấy tờ ( nghĩa là các giấy tờ chứng minh được việc chuyển hàng là có thật). Còn người xuất khẩu, họ tin chắc là sẽ nhận được tiền thanh toán nếu tuân thủ đúng các điều kiện của L/C.
4.3.Các bên liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ :
a. Người yêu cầu mở thư tín dụng ( applicant for the credit )
Còn gọi là người mua người, người nhập khẩu ( importer ), người mở L/C ( opener ), người phải trích tài khoản để thanh toán ( accountee ), người uỷ thác ( principle ).
Khi trong hợp đồng mua bán, cả người mua và người bán đã thống nhất sử dụng phương thức tín dụng chứng từ để thanh toán thì người nhập khâủ trước hết phải mở L/C để giúp người xuất khẩu thực hiện hợp đồng. Người nhập khẩu căn cứ vào thời hạn của hợp đồng ngoại thương để xác định thời hạn hiệu lực của L/C. Đồng thời người mở cũng phải nộp một khoản lệ phí mở L/C nhất định cho ngân hàng và thường ký quỹ một khoản nhất định tuỳ theo giá trị mở. Người mở có quyền từ chối thanh toán L/C nếu thấy bộ chứng từ của người xuất không phù hợp với yêu cầu do L/C đặt ra. Khi đó ngân hàng mở sẻ chịu hoàn toàn trách nhiệm về thiếu sót của mình trong việc kiểm tra chứng từ.
Người hưởng lợi ( beneficiary )
Là người xuất khẩu, người bán hay người ký phát hối phiếu... được hưởng thư tín dụng do người nhập khẩu mở. Người xuất khẩu chỉ giao hàng khi biết L/C đã được mở đúng theo yêu cầu của mình như đã thoả thuận tronhg hợp đồng ngoại thương. Sau khi giao hàng, người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của L/C và nộp cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của L/C. Người bán chỉ nhận được tiền thanh toán khi bộ chứng từ mà họ xuất trình đáp ứng được yêu cầu phù hợp về mặt hình thức với quy định của L/C.
c. Các ngân hàng liên quan:
Ít nhất là có hai ngân hàng tham gia.
+ Ngân hàng mở thư tín dụng ( opening bank ) hay ngân hàng phát hành ( issuing bank ): là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu. Đây là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước thì người nhập khẩu có quyền lựa chọn.
Ngân hàng này nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, xét thấy đủ điều kiện, sẽ tiến hành mở L/C và tìm cách thông báo cho người xuất khẩu cùng với việc gửi bản gốc L/C đó cho người xuất khẩu. Thông thường, việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu. Không loại trừ, ngân hàng này gửi thẳng bản gốc L/C cho người xuất khẩu ( trường hợp này ít dùng ).
Ngân hàng này có thể sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C, của người xuất khẩu đối với L/C đã đựơc mở nếu có sự đồng ý của họ. Đồng thời, ngân hàng cũng chịu trách nhiệm kiểm tra sự phù hợp của các chứng từ do người xuất khẩu gửi đến, từ đó tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho người bán, hoặc trường hợp các chứng từ không phù hợp hay mâu thuẫn với những quy định trong L/C thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chịu trách nhiệm kiểm tra “bề ngoài” của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ, .v.v... Mọi sự tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết.
Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào đúng các bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất, hoả hoạn, .v.v... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những quy định dự phòng.
Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm. Khi giao bộ chứng từ cho người xuất khẩu để họ nhận hàng, ngân hàng tiến hành đòi tiền người nhập khẩu và thu thủ tục phí mở L/C từ 0,125% đến 0,5% trị giá của L/C.
+ Ngân hàng thông báo ( Advising bank ) có thể là một ngân hàng đại lý ( Correspondent bank ) hoặc chỉ là chi nhánh của ngân hàng mở L/C tại nước của người xuất khẩu. Ngân hàng này có trách nhiệm thông báo cho người xuất khẩu biết rằng người nhập khẩu đã mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng. Việc thông báo này được thực hiện như sau: khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngân hàng mở L/C.
Khi có yêu cầu từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo có thể xem xét các điều kiện để tiến hành xác nhận L/C và thanh toán L/C khi được xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Khi đó ngân hàng thông báo này vừa đóng vai trò ngân hàng xác nhận ( confirming bank ) vừa kiêm thêm vai trò của một ngân hàng thanh toán ( paying bank ). Ngân hàng thông báo trong trường hợp chỉ chịu trách nhiệm thông báo đơn thuần sẽ không phải chịu bất kỳ rủi ro nào và chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo là L/C chính xác và xác thực.
Ngân hàng thông báo chỉ thu một khoản phí của người xuất khẩu khi họ thông báo việc mở L/C cho người xuất khẩu.
Ngoài hai ngân hàng trên, có thể trong L/C còn quy định thêm:
Ngân hàng xác nhận ( confirming bank): là ngân hàng theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C đứng ra xác nhận cho L/C được mở. Sở dĩ có điều này là do người bán chưa hoàn toàn tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua và ngân hàng mở L/C. Ngân hàng xác nhận có cùng trách nhiệm với ngân hàng phát hành trong việc trả tiền hàng. Có nghĩa là, ngân hàng xác nhận phải cam kết thanh toán không thể huỷ bỏ cho người xuất khẩu trên cơ sở nhận được chứng từ đúng quy định và sẽ phải thanh toán giá trị L/C đã được xác nhận đó khi ngân hàng phát hành không đủ khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, ngân hàng cũng chịu rủi ro nếu không phát hiện được sự sai khác của chứng từ. Thường thì ngân hàng xác nhận là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế. Khi một ngân hàng mở L/C yêu cầu một ngân hàng khác xác nhận cho mình thì sẽ làm giảm uy tín của nó. Muốn xác nhận ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí ( Confirming charge ) rất cao và đôi khi còn phải ký quỹ, mức ký quỹ có thể đạt 100% trị giá của thư tín dụng.
Ngân hàng chỉ định ( Nominated bank ): trong L/C ghi rõ ngân hàng được uỷ quyền để thanh toán, ngân hàng này sẽ tiến hành thanh toán chấp nhận hối phiếu. Nếu L/C có nói rõ chỉ ngân hàng mở mới có quyền chỉ định thì ngân hàng mở mới tiến hành chỉ định ngân hàng thanh toán. Còn nếu L/C thuộc loại có thể chuyển nhượng được, thì bất kỳ ngân hàng nào cũng sẽ là ngân hàng được chỉ định thanh toán. Một ngân hàng được chỉ định thường không bị ràng buộc trách nhiệm phải thanh toán L/C trừ khi đã xác nhận trách nhiệm thanh toán trong L/C và trở thành ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng thanh toán ( Paying bank ): có thể là ngân hàng mở L/C hoặc một ngân hàng được ngân hàng mở L/C uỷ thác trả tiền cho người bán. Nếu mở L/C tại nước của người xuất khẩu thì ngân hàng thanh toán thường là ngân hàng thông báo. Sau khi đã kiểm tra tính phù hợp của bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng này sẽ quyết định thanh toán hay không. Rủi ro của ngân hàng thanh toán là có thể có sai sót trong bộ chứng từ mà ngân hàng không phát hiện ra song vẫn tiến hành thanh toán. Trong trường hợp ngân hàng thanh toán không là ngân hàng mở L/C thì ngân hàng này có quyền từ chối thanh toán nếu họ không có đủ tiền và không cam kết xác nhận.
Ngân hàng chiết khấu ( Negotiating bank ): Là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C.Việc mua này thường đảm bảo là có thể truy đòi, nghĩa là nếu ngân hàng mở không thể thanh toán cho ngân hàng chiết khấu thì ngân hàng này có thể truy đòi lại khách hàng số tiền trên.
4.4. Mối quan hệ pháp lý của các bên tham gia:
* Ngân hàng phát hành và người yêu cầu mở L/C:
Bằng thư yêu cầu mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình, người nhập khẩu đã chính thức đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng để mình có thể thực hiện hợp đồng với bên đối tác. Thông qua việc chấp thuận yêu cầu mở thư tín dụng, ngân hàng mở và người yêu cầu mở đã có một quan hệ pháp lý. Có nghĩa là giữa người yêu cầu mở và ngân hàng mở đã có một hợp đồng ràng buộc phải tuân theo một cách vô điều kiện tất cả những điều khoản mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng. Một bộ phận cơ bản của thư yêu cầu mở L/C là điều kiện chung của các ngân hàng, trong đó quy định rằng việc thực hiện L/C phải tuân theo nội dung cơ bản của UCP 500. Khi thư tín dụng được mở, ngân hàng đòi hỏi người mua phải ký quỹ theo một tỷ lệ nào đó thì mối quan hệ đó trở thành mối tín dụng, vì số tiền đó được coi như là một khoản tiền gửi và được hưởng lãi suất như lãi suất vủa tiền gửi không kỳ hạn.
* Ngân hàng phát hành và người hưởng lợi:
Việc mở thư tín dụng cho người nhập khẩu của ngân hàng mở L/C đồng nghĩa với việc ngân hàng mở cam kết sẽ trả tiền cho người hưởng lợi sau khi các điều kiện nêu ra trong thư tín dụng được người hưởng lợi thoả mãn, ngay cả khi người mở thư tín dụng chưa trả tiền hay không muốn trả tiền cho ngân hàng. Rủi ro này thuộc về quan hệ tín dụng nên ngay khi xem xét thư yêu cầu mở thư tín dụng, ngân hàng phải xem xét kỹ tình hình tài chính của doanh nghiệp và nếu có thể, yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu ký quỹ một khoản tiền nhất định, tối đa là 100% giá trị yêu cầu trong thư tín dụng.
* Ngân hàng thông báo và người hưởng lợi:
Khi ngân hàng thông báo chỉ thực hiện việc thông báo tín dụng chứng từ mà không có một cam kết nào về thanh toán đối với tín dụng chứng từ thì mọi quan hệ giữa ngân hàng thông báo và người hưởng lợi không có sự ràng buộc về pháp lý. Nhưng ngân hàng thông báo, nếu đồng ý thông báo, phải kiểm tra một cách cẩn thận tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng mà mình thông báo. Bên cạnh đó, ngân hàng thông báo cũng phải thu phí dịch vụ từ người hưởng lợi.
* Ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi:
Với việc xác nhận tín dụng chứng từ, ngân hàng xác nhận đã cùng chịu trách nhiệm với ngân hàng phát hành trong việc trả tiền cho người hưởng lợi. Nếu thư tín dụng quy định “chấp nhận” bởi ngân hàng xác nhận thì ngân hàng xác nhận phải chịu trách nhiệm trả tiền các hối phiếu do người hưởng lơị ký phát đòi tiền và trả tiền các hối phiếu đó khi đến hạn.
* Ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận:
Sự xác nhận thư tín dụng không thể huỷ bỏ của một ngân hàng khác ( ngân hàng xác nhận ) theo yêu cầu hoặc theo sự uỷ nhiệm của ngân hàng phát hành là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng xác nhận cộng thêm vào sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành sẽ trả tiền trên của người hưởng lợi miễn là các chứng từ xuất trình chi ngân hàng xác nhận hoặc cho bất kỳ một ngân hàng chỉ định nào đó phải phù hợp với các quy định trong thư tín dụng. Khi xác nhận, ngân hàng xác nhận đòi ngân hàng phát hành phải ký quỹ một khoản xác định, khi đó quan hệ giữa hai ngân hàng này trở thành mối quan hệ tín dụng vì khoản tiền ký quỹ được coi như một khoản tiền gửi và được trả lãi. Nếu một ngân hàng khác được ngân hàng phát hành yêu cầu xác nhận một thư tín dụng mà không sẳn sàng làm việc đó thì phải thông báo ngay cho ngân hàng phát hành biết.
* Ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo:
Với yêu cầu thông báo tín dụng chứng từ từ phía ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo và ngân hàng phát hành có mối quan hệ ngang bằng đồng nghiệp vụ và ngân hàng thông báo không chịu bất cứ ràng buộc pháp lý nào.
* Ngân hàng phát hành và ngân hàng hoàn trả:
Với số tiền ký quỹ tại ngân hàng để thanh toán tín dụng chứng từ cho ngân hàng thông báo, hay ngân hàng xác nhận đã xuất hiện mối quan hệ đồng thực hiện nghiệp vụ mà không có sự đảm bảo nào từ phía ngân hàng hoàn trả. Chính vì thế, ngân hàng hoàn trả sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài khoản tiền gửi của ngân hàng phát hành không có đủ tiền để thanh toán.
4.5. Nội dung chủ yếu của một L/C:
+ Số hiệu của L/C ( L/C reference no ): mỗi L/C phải được đánh số để tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình thực hiện. Tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ điện tín có liên quan đến việc tực hiện thư tín dụng.Ngoài ra, số hiệu của L/C còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán L/C.
+ Địa điểm và ngày mở ( Place and date of issuing )
+ Loại thư tín dụng: các loại L/C khác nhau sẽ phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau giữa các bên.
+ Tên và địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ: có thể bao gồm người yêu cầu mở L/C, người hưởng lợi L/C, ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng thanh toán hay ngân hàng xác nhận.
+ Số tiền của L/C: số tiền phải được ghi cả bằng số và bằng chữ, đồng thời phải ghi rõ đơn vị tiền tệ. Đặc biệt là UCP 500 có quy định ghi số tiền của L/C ở dạng “khoảng chừng”, nghĩa là chênh lệch cho phép là ± 10%; còn nếu L/C không ghi số tiền ở dạng “khoảng chừng” thì chênh lệch cho phép là ± 5%.
+ Thời hạn hiệu lực của L/C ( Date of issue/ expiry day ): là thời hạn ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình đầy đủ bộ chứng từ trong thời hạn đó và bộ chứng từ đó phù hợp với các điều kiện, điều khoản của L/C.
+ Thời hạn trả tiền của L/C: liên quan đến việc trả tiền ngay ( D/P ) hay trả tiền sau ( D/A ), phụ thuộc quy định của hợp đồng.
+ Thời hạn giao hàng ( Date of delivery ): do hợp đồng ngoại thương quy định; thời hạn bên bán phải giao hàng cho bên mua trong thời hạn hiệu lực của L/C. Trong trường hợp hai bên mua bán thoả thuận kéo dài thời hạn giao hàng thì ngân hàng mở L/C cũng phải hiểu là kéo dài thời hạn hiệu lực của L/C.
+ Ngoài ra, trên L/C cũng phải ghi chi tiết các nội dung liên quan đến hàng hoá: tên hàng, số lượng hàng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu,...
+ Các nội dung liên quan đến vận chuyển, giao nhận hàng hoá: điều kiện gửi hàng ( FOB, CIF, C&F...), nơi gửi hàng, giao hàng, phương tiện vận chuyển, cách giao hàng.
4.6. Các hình thức của thư tín dụng:
4.6.1. Các hình thức cơ bản của thư tín dụng:
+ Thư tín dụng có thể huỷ ngang ( revocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C và tổ chức nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi. Loại thư tín dụng có thể huỷ ngang này ít được sử dụng bởi vì L/C có thể huỷ bỏ chỉ là lời hứa trả tiền chứ không phải là sự cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Do tính chất bấp bênh trong thanh toán của loại thư tín dụng này mà hiện nay nó rất ít được sử dụng.
+ Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( irrevocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho tổ chức xuất khẩu trong thời gian hiệu lực của L/C, không được quyền đơn phương tự sửa dổi hay huỷ bỏ thư tín dụng đó. Loại L/C không thể huỷ bỏ đảm bảo quyền lợi cho tổ chức xuất khẩu và hiện nay đang được sử dụng phổ biến. Nó có tính chất vững chắc, không thể sửa đổi hoặc huỷ đi nếu không có sự đồng ý của các bên có liên quan tham gia.
Trong điều khoản 3 của UCP 500, trong trường hợp thư tín dụng không ghi rõ là khả huỷ hay bất khả huỷ thì thư tín dụng đó là bất khả huỷ.
+ Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận ( Confermed irrevocable L/C ): là loại thư tín dụng không huỷ ngang và được một ngân hàng khác có uy tín hơn đứng ra đảm bảo việc trả tiền theo thư tín dụng đó cùng với ngân hàng mở L/C. Nghĩa là ngân hàng chịu trách nhiệm thanh toán cho tổ chức xuất khẩu nếu như ngân hàng mở L/C đó không thể trả tiền được. Nguyên nhân có loại L/C không thể huỷ bỏ có xác nhận là do tổ chức xuất khẩu không hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng mở L/C và L/C có giá trị tương đối lớn. Trong L/C này, trách nhiệm của ngân hàng xác nhận lớn hơn trách nhiệm của ngân hàng mở L/C. Do đó, để đảm bảo, có khi ngân hàng xác nhận yêu cầu ngân hàng mở L/C phải ký quỹ trước đó ( có thể là 100% gía trị của L/C ) và thủ tục phí cho ngân hàng hàng xác nhận thường rất cao. Thông thường ngân hàng mở L/C sẽ nhờ ngân hàng thông báo đóng luôn vai trò của ngân hàng xác nhận.
Trong trường hợp này, người xuất khẩu được đảm bảo hơn, người xuất khẩu chắc chắn thu hồi được tiền do được hưởng hai bảo lãnh: trước hết, đó là bảo lãnh của ngân hàng phát hành và thứ đến là bảo lãnh của ngân hàng xác nhận. Có thể nói, hình thức này tạo ra đảm bảo tối đa cho người thụ hưởng.
+ Thư tín dụng không thể huỷ ngang và miễn truy đòi ( Irrevocable without recourse L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ mà trong đó quy định ngân hàng mở L/C sau khi đã thanh toán cho người xuất khẩu thì không có quyền truy đòi lại số tiền trong bất cứ trường hợp nào. Khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu khi ký phát hối phiếu phải ghi câu “Không được truy đòi lại tiền người ký phát”(Without recourse to Drawers )
4.6.2.Các hình thức đặc biệt về kỷ thuật ngân hàng của thư tín dụng:
+ Thư tín dụng có thể chuyển nhượng ( Transferable L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định quyền được chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên, nhưng chỉ được phép chuyển nhượng một lần mà thôi. Chi phí chuyển nhượng thường là người được hưởng đầu tiên phải trả ( điều 48, 49 trong UCP 500 ).
Loại thư tín dụng này thường đựơc áp dụng trong trường hợp người hưởng lợi đầu tiên không thể tự cung cấp được hàng hoá mà họ chỉ là một nhà môi giới mà thôi. Họ muốn chuyển nhượng một phần hay toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình cho người cung cấp hàng hoá. Sự chuyển nhượng này phải tuân theo các điều khoản của L/C gốc.
+ Thư tín dụng tuần hoàn ( Revoling L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định rằng khi L/C sử dụng hết kim ngạch hoặc sau khi hêtài sản hạn hiệu lực của L/C thì nó tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
Loại L/C này được áp dụng khi cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ thường xuyên và đối tượng thanh toán không thay đổi. Khi áp dụng L/C tuần hoàn người nhập khẩu có lợi ở hai điểm lớn: không bị đọng vốn và giảm được phí tổn do mở L/C.
Có hai loại L/C tuần hoàn:
L/C tuần hoàn tích luỹ ( Revoling cumulative L/C ): L/C này cho phép chuyển số dư sang giai đoạn tiếp theo, cứ như vậy cộng dồn cho đến L/C cuối cùng.
L/C tuần hoàn không tích luỹ ( Revoling non- cumulative L/C ): L/C này không cho phép kết chuyển số dư của giai đoạn trước sang giai đoạn sau.
Thư tín dụng tuần hoàn theo ba cách:
Tuần hoàn tự động: L/C sau tự động có giá trị, không cần có sự thông báo của ngân hàng phát hành L/C.
Tuần hoàn không tự động: chỉ khi nào ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người bán thì L/C sau mới có hiệu lực.
Tuần hoàn hạn chế: nếu sau một vài ngày kể từ ngày L/C cũ hết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực.
+ Thư tín dụng giáp lưng ( Back to back L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được mở ra căn cứ vào một L/C khác làm đảm bảo. Theo L/C này, người xuất khẩu căn cứ vào thư tín dụng của người nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu khác hưởng.
Thư tín dụng giáp lưng chỉ được sử dụng trong các trường hợp:
L/C gốc ( Master L/C ): không cho phép chuyển nhượng.
Khi các chứng từ của L/C gốc không trùng khớp với các chứng từ của L/C thứ hai.
Khi người trung gian muốn giữ bí mật một số thông tin.
Khi áp dụng thư tín dụng giáp lưng, cần thoả mãn một số điều kiện sau:
Khi thư tín dụng giáp lưng phải thông qua một ngân hàng trực tiếp phục vụ người xuất khẩu.
Số tiền L/C thứ nhất phải bằng hoặc lớn hơn kim nghạch của L/C thứ hai, người xuất khẩu trung gian hưởng phần chênh lệch này.
L/C thứ nhất phải được mở sớm hơn L/C thứ hai và thời hạn giao hàng của L/C thứ hai phải lớn hơn L/C thứ nhất.
Lo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0685.doc