mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS), thẩm quyền của Tòa án (TA) các cấp là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Với tầm quan trọng đó, các quy phạm pháp luật về thẩm quyền của TA luôn luôn được chú ý từ khi ban hành pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) của nước ta quy định tương đối đầy đủ các quy phạm pháp luật
220 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về thẩm quyền của TA các cấp. Việc áp dụng chúng hơn 10 năm qua tạo điều kiện cho TA các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, một số quy định về thẩm quyền của TA các cấp bộc lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp gây khó khăn cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND). Đó là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh không hợp lý, vẫn giao cho TA cấp tỉnh xét xử sơ thẩm quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang năm khác còn nhiều. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn xét xử vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của TA cấp phúc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chưa thống nhất.
Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy có nhiều tội phạm ít nghiêm trọng, người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ rõ ràng rất cần thiết phải được giải quyết theo thủ tục rút gọn, nhiều vụ án qua xét xử sơ thẩm bị cáo đã nhận tội, không kháng cáo kêu oan chỉ xin giảm nhẹ, Viện kiểm sát (VKS) không kháng nghị, người bị hại không kháng cáo theo hướng tăng nặng nên không cần triệu tập người tham gia tố tụng đến phiên tòa mà chỉ cần xét xử dựa trên hồ sơ, giảm bớt một số thủ tục trong xét xử để vụ án được kết thúc nhanh, tiết kiệm công sức mà vẫn đảm bảo tính công minh, chính xác, đúng pháp luật của bản án. Nhưng pháp luật tố tụng không quy định thủ tục rút gọn, thủ tục xét xử phúc thẩm dựa trên hồ sơ vụ án nên những vụ án đó vẫn được tiến hành theo thủ tục thông thường dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án một cách không cần thiết. Để nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, tiết kiệm thời gian và công sức cần nghiên cứu quy định thủ tục rút gọn và xét xử phúc thẩm theo thủ tục bút lục trong pháp luật TTHS.
Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các cơ quan tư pháp cũng được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu quả, chất lượng hoạt động. Đối với TAND, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng đã có chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng "từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ cho TA cấp này. Kiện toàn đến đâu, mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó" [1]. Các Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khóa VII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết hội nghị lần 3 BCHTW Đảng khóa VIII đều chỉ rõ phương hướng củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định phải "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp... sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của TA các cấp". Vì vậy, việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền của TA các cấp để nâng cao chất lượng xét xử là một yêu cầu cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp... sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp", đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở những mức độ khác nhau đề cập đến các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TA, thủ tục tố tụng, thẩm quyền của TA mỗi cấp... Trong số các công trình nghiên cứu khoa học phải kể đến Đề tài khoa học cấp Bộ "Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) năm 1997 đã đề cập nhiều về thực trạng xét xử giám đốc thẩm; đề án "Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tư pháp" của Bộ Tư pháp về vấn đề đào tạo Thẩm phán. Các công trình khoa học: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" của VKSNDTC năm 1995; "Tư pháp hình sự so sánh" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, 1999; "Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền" của tập thể tác giả Viện Nhà nước và Pháp luật do PGS.TSKH Đào Trí úc làm chủ biên. Các bài viết của GS.TS Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước"; PGS.TS Trần Ngọc Đường "Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân" trong cuốn "Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994... đã nêu bật cơ sở lý luận của việc tổ chức nhà nước, thẩm quyền của TA và cơ quan tư pháp. Một số luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành hình sự được công bố trong thời gian qua đã nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về thẩm quyền của TA các cấp. Đó là luận văn của ThS. Đàm Văn Dũng về "Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự" năm 1998, luận văn của ThS. Trần Văn Tín về "Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự" năm 1997, luận văn của ThS. Nguyễn Văn Tiến về "Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự" năm 1998, luận văn của ThS. Nguyễn Văn Trượng về "Giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự" năm 1996. Đối với thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND và TAQS các cấp, chúng tôi cũng có dịp nghiên cứu và đã viết luận văn thạc sĩ về vấn đề này từ năm 1996.
Về những vấn đề liên quan đến đề tài đã có các bài viết của TS. Nguyễn Đình Lộc: "Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở nước ta", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/1995; Phạm Hưng: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân", Tạp chí Cộng sản, số 16/1997; TS. Nguyễn Văn Hiện: "Về thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp", "Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân", Tạp chí TAND, số 4/1997 và 8/1999; TS. Đặng Quang Phương: "Tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về rút truy tố", Tạp chí TAND, số 4/1992; TSKH. Lê Cảm: "Các đặc điểm của tội phạm và tính quyết định xã hội của chúng", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7/2000; PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa: "Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận", Tạp chí TAND, số 1/1993; PGS.TS Kiều Đình Thụ: "Một số vấn đề về phân loại tội phạm trong phần chung của luật hình sự", Tạp chí TAND, số 2/1992; TS. Võ Khánh Vinh: "Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi quyết định hình phạt", Tạp chí TAND, số 12/1990; TS. Trần Văn Độ: "Một số vấn đề về tái thẩm", "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp", Tạp chí Luật học, số 3/1995 và 3/1997; TS. Phạm Hồng Hải: "Một số nét lịch sử và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 50 năm qua", "Bàn về quyền công tố", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/1995 và 12/1999 và một số bài khác. Các công trình đã phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau về tổ chức và hoạt động của TA, lịch sử phát triển, thủ tục tố tụng trong xét xử, thẩm quyền xét xử.
Mặc dù đã có một số công trình, bài viết được công bố, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về thẩm quyền của TA các cấp. Các công trình, bài viết mới dừng lại ở những nội dung khác nhau, phân tích theo từng góc độ nhất định về thẩm quyền của TA. Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn vấn đề "Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam".
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn xét xử của TA, mục đích của luận án nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của chế định thẩm quyền của TA các cấp, chỉ ra những điểm không hợp lý, những vướng mắc khi áp dụng chúng, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA các cấp, kiện toàn về tổ chức và cán bộ, tăng cường các biện pháp bảo đảm để thực hiện thẩm quyền.
Để đạt được mục đích trên luận án có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền của TA trong TTHS; luận giải những căn cứ để quy định thẩm quyền của TA. Đây là cơ sở khoa học để dựa vào đó phân định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Phân tích quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp trước khi ban hành BLTTHS làm tiền đề cho việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật TTHS sau này.
- Phân tích các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử, giới hạn, phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp; làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định đó, chỉ ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện, những bất cập của pháp luật cần bổ sung, sửa đổi.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định của BLTHS về thẩm quyền của TA các cấp.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận án
Thẩm quyền của TA là một chế định lớn trong luật TTHS. Tính phức tạp và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của nó ở các giai đoạn xét xử không cho phép trong phạm vi của một luận án tiến sĩ xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề. Do vậy, luận án chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp (riêng thẩm quyền tái thẩm, luận án chỉ nghiên cứu những nét khái quát nhất). Việc nghiên cứu thẩm quyền: áp dụng biện pháp ngăn chặn; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xem xét chứng cứ và thẩm quyền xử lý hành chính của TA, chúng tôi hy vọng được nghiên cứu tiếp về sau.
Với phạm vi trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là thẩm quyền xét xử, giới hạn, phạm vi xét xử và thẩm quyền quyết định của TA các cấp, trong đó luận án tập trung nghiên cứu nhiều hơn về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vì nó là cơ sở xác định thẩm quyền của TA các cấp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền về cải cách tư pháp và cải cách nền hành chính quốc gia.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử của TA các cấp trên cơ sở khảo sát nghiên cứu một số lượng lớn các vụ án do các TAND, Tòa án Quân sự (TAQS) xét xử, các số liệu thống kê về xét xử, về tổ chức cán bộ của các cơ quan chức năng như TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp v.v... để đánh giá, chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Phương pháp nghiên cứu đề tài cụ thể là đi từ cái chung đến cái riêng và các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, tiếp cận hệ thống, lịch sử, điều tra xã hội học và phương pháp thống kê v.v...
6. Những vấn đề mới của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học TTHS nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về thẩm quyền của TA các cấp. Luận án có những điểm mới sau:
- Luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền của TA; góp phần thống nhất nhận thức về nội dung, bản chất chế định thẩm quyền của TA. Luận án đã luận giải những căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc phân định thẩm quyền của TA các cấp. Những căn cứ này giúp cho các nhà lập pháp có điều kiện lựa chọn, cân nhắc để tìm ra phương án tối ưu khi quy định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Luận án phân tích lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp trước khi ban hành BLTTHS làm tiền đề cho việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật TTHS sau này.
- Luận án phân tích các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thẩm quyền của TA khi xét xử và chỉ ra những bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi.
Trên cơ sở nghiên cứu, luận án đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA, những biện pháp kiện toàn tổ chức và cán bộ, bảo đảm cơ sở vật chất để các TA thực hiện thẩm quyền. Các giải pháp mà luận án đưa ra góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực của TA các cấp và việc sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS trong thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng vào lý luận về thẩm quyền của TA, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung chế định thẩm quyền của TA. Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá khoa học thấy rõ những mặt được, những điểm còn tồn tại bất cập của các quy định về thẩm quyền của TA trong pháp luật TTHS.
Dựa vào những căn cứ khoa học đề cập trong luận án, các nhà làm luật có điều kiện cân nhắc để tìm ra một phương án tốt nhất khi sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA.
Bằng các kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định chủ trương, quan điểm của Đảng về kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của TA các cấp theo hướng từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử của TA cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ để việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở TA cấp này, TA cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các TA các địa phương áp dụng thống nhất pháp luật là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với sự trưởng thành, phát triển của TA cấp huyện, phù hợp với thực tiễn xét xử, yêu cầu của xã hội và pháp luật quốc tế.
Với những đề xuất, kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật, kiện toàn tổ chức và cán bộ, tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền của TA, luận án có những đóng góp nhất định vào công cuộc cải cách tư pháp đang được thực hiện ở nước ta.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo luật và nghề tư pháp.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia thành 3 chương, 8 mục.
Chương 1: một số vấn đề chung về thẩm quyềncủa Tòa án các cấp
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
Từ thời kỳ cổ đại đã xuất hiện các quan niệm về Nhà nước pháp quyền ở những nhà tư tưởng. Các quan niệm này được đưa ra để chống lại sự mơ hồ ấu trĩ cho rằng sự công bằng, pháp luật là do trời định, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh... Họ mơ ước xây dựng một nhà nước gắn liền với xã hội công dân mà ở đó bộ máy quyền lực được hình thành trên cơ sở của luật, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, các thành viên trong xã hội hành động phù hợp với pháp luật; luật pháp là cơ sở cho việc phân công, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Để thực hiện được sự mơ ước đó, các nhà tư tưởng kêu gọi mọi người phải đấu tranh loại bỏ chế độ nhà nước độc đoán chuyên quyền, xây dựng Nhà nước có pháp luật. Nhà tư tưởng cổ đại Hêraclit đã nói: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ luật như bảo vệ chỗ nương thân của mình thể hiện sự tôn trọng luật" [90, tr. 6].
Cùng với việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật, các nhà tư tưởng cổ đại còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý hệ thống quyền lực nhà nước, tổ chức các cơ quan nhà nước với sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của các cơ quan đó. Theo họ cần phải tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân quyền. Arixtôt cho rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng đều có ba yếu tố: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lập pháp là quyền của cơ quan làm ra luật, hành pháp là quyền thi hành pháp luật, còn tư pháp chỉ thực hiện xét xử theo quy định của luật. Ông cho rằng ba yếu tố trên tạo thành cơ sở của Nhà nước. Quan niệm của ông hoàn toàn đối lập với cách tổ chức nhà nước mà quyền lực chỉ tập trung trong tay một người. Theo ông cách tổ chức thực hiện quyền lực đó khó tránh khỏi sự lạm quyền và tùy tiện trong quản lý và điều hành xã hội. Nhận xét về sự tùy tiện trong chế độ quân chủ chuyên chế C.Mác đã viết: "Sự tùy tiện là quyền lực của nhà Vua" hay "quyền lực của Vua là sự tùy tiện" [10, tr. 319]
Sau khi cuộc cách mạng tư sản nổ ra, giai cấp tư sản lên nắm chính quyền thì một yêu cầu cấp bách đặt ra là tổ chức lại bộ máy nhà nước thay cho hình thức quân chủ chuyên chế. Trước yêu cầu đó, nhà xã hội học người Pháp Montesquieu thế kỷ XVIII đã nêu ra học thuyết "Tam quyền phân lập". Theo học thuyết này thì quyền lực nhà nước phải được phân chia để quyền lực hạn chế quyền lực. Mỗi một loại cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện một loại quyền lực (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) để chúng ràng buộc lẫn nhau, không cho phép cơ quan nào được lạm dụng quyền lực. Theo ông, "cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; tư pháp nhập với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp" [44, tr. 101].
Học thuyết của Montesquieu về phân quyền có ảnh hưởng lớn đến các quan điểm về tổ chức nhà nước, quá trình lập hiến và thực tiễn pháp luật của nhiều nước tư sản. "ảnh hưởng đó được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp Mỹ năm 1787, trong tuyên ngôn của Pháp về quyền con người và của công dân năm 1789. Đặc biệt, tuyên ngôn 1789 nêu rõ ở Điều 16: Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp" [90, tr. 37]. Học thuyết về phân quyền được nhiều nhà tư tưởng và xã hội học của chế độ tư sản ủng hộ. Kant (1724-1804) là người đã lập luận về mặt triết học cho lý luận về Nhà nước pháp quyền cũng triệt để tán thành áp dụng thuyết phân quyền. Theo ông thì ở đâu có sự phân quyền thì ở đó có Nhà nước pháp quyền còn nếu không thì là chuyên quyền. Hegel cũng cho rằng tư tưởng về tự do tồn tại dưới chính thể quân chủ lập hiến dựa trên cơ sở của nguyên tắc phân quyền. Ông cho rằng, "sự phân quyền trong Nhà nước là sự bảo đảm của tự do công cộng" [90, tr. 14]. J.Locke (1632-1704) thì đưa ra tư tưởng về khế ước xã hội ủng hộ thuyết phân quyền và nói về vai trò chủ đạo của quyền hành pháp trong Nhà nước.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi xây dựng học thuyết của mình về Nhà nước kiểu mới đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết chính trị và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm đấu tranh giai cấp để đưa ra quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền lực ấy cho cơ quan đại diện cao nhất của mình là Quốc hội như V.I. Lênin đã nói: "Đó không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp... các nghị sĩ tự mình cộng tác, tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình" [83, tr. 33]. Nhưng cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước không trực tiếp làm tất cả mà phân công cho các cơ quan nhà nước khác, mỗi cơ quan có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Toàn bộ hoạt động của các cơ quan đó đều nhằm thực hiện một chu trình quản lý nhà nước, trong đó cơ quan quyền lực (Quốc hội) có thẩm quyền tối cao thực hiện chức năng lập pháp và giám sát tối cao, còn các cơ quan khác (Chính phủ, TA, VKS) thực hiện chức năng hành pháp và tư pháp. Theo GS.TS Hoàng Văn Hảo thì "sự phân công nói trên thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Tập quyền không mâu thuẫn với sự phân công và sự phân biệt chức năng giữa các loại cơ quan nhà nước" [72, tr. 16]. PGS.TSKH Đào Trí úc khẳng định:
Sự thống nhất đó không phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào một "nhánh" quyền lực nào theo kiểu phân lập quyền lực mà là sự thống nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc... sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước [81, tr. 4-5].
Trong nhà nước pháp quyền, mỗi một loại cơ quan nhà nước có chức năng nhiệm vụ riêng. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó. Ph.Ăngghen viết: "Phân quyền xét cho cùng không phải là cái gì đó khác hơn là phân công lao động thiết thực, được áp dụng trong cơ chế nhà nước nhằm mục đích giản đơn và kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước" [72, tr. 11].
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì "thẩm quyền" được hiểu là "tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định" [75, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền" gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định. Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép. Giáo trình Luật tố tụng hành chính Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001 cũng định nghĩa: "Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định [79, tr. 29]. Từ sự phân tích trên, ta có thể hiểu thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước được thực hiện công việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định.
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia, nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền Tư pháp theo nghĩa rộng bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ tư pháp được giao cho các CQĐT, VKS, TA thực hiện. Trong đó "TA là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp - nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa v.v. được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra những phán quyết cuối cùng mang tính chất quyền lực nhà nước; nơi phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta..." [29, tr. 1]. GS.TS Hoàng Văn Hảo cho rằng: "TA là cơ quan xét xử, là chức năng trung tâm của quyền tư pháp" [91, tr. 117]. TA là cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội. Bởi vậy, quyền tư pháp theo nghĩa hẹp còn được hiểu là quyền xét xử của TA. Thực hiện chức năng này, TA có thẩm quyền xét xử và nhân danh Nhà nước để ra bản án giải quyết vụ án. Như vậy hoạt động xét xử của TA có vai trò hết sức to lớn trong việc bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Nhà nước, tập thể và công dân tránh những xâm hại của tội phạm. PGS.TS Trần Ngọc Đường nhận xét: "Hơn bất kỳ một dạng hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước. Sai lầm của TA trong việc giải quyết vụ án chính là sai lầm của Nhà nước. Vì thế đòi hỏi xét xử phải chính xác công minh, thể hiện được ý chí nguyện vọng của nhân dân" [72, tr. 103].
Việc nghiên cứu để đưa ra một khái niệm khoa học, chính xác về thẩm quyền của TA có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định quyền hạn thụ lý và giải quyết từng vụ án cụ thể của TA các cấp. Khái niệm này cũng được đề cập trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Tuy cách hiểu có khác nhau nhưng điểm chung về thẩm quyền đều được các nước thừa nhận là quyền xét xử và quyền quyết định của TA. ở Pháp, thẩm quyền được hiểu là quyền của một cơ quan nhà nước, một quan chức nhà nước hay tư pháp được làm những việc và có quyền quyết định về những vấn đề trong phạm vi được pháp luật cho phép. Theo Lemeunier, tác giả cuốn từ điển pháp luật thì thẩm quyền của TA được hiểu là "khả năng của một TA xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép" [34, tr. 74].
ở Anh, thuật ngữ Jurisdiction được dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền phán quyết về một vụ việc nào đó của TA trong phạm vi pháp luật cho phép. Theo TS. Wolf Ruecliger Schenke, Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Mannheim - Cộng hòa Liên bang Đức sau khi nghiên cứu thẩm quyền của TA đã đặt vấn đề là: "Đối với thẩm quyền của TA thì cần phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền vụ việc, địa điểm và thẩm quyền phẩm cấp" [20, tr. 227]. ở nước ta thẩm quyền của TA được hiểu theo những góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích của việc nghiên cứu. Chẳng hạn, trong tố tụng dân sự, thẩm quyền chung về dân sự của TA được hiểu là "tổng hợp các loại việc về dân sự mà TA có thẩm quyền thụ lý giải quyết" [77, tr. 39]. Thẩm quyền chung về dân sự của TA phân biệt thẩm quyền của TA với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức khác; phân biệt thẩm quyền của TA trong việc giải quyết các loại việc về dân sự với thẩm quyền của TA trong việc giải quyết các loại việc khác. Trong tố tụng kinh tế, thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế được hiểu là "quyền và nghĩa vụ của TA kinh tế trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh tế" [78, tr. 422]. Trong tố tụng hành chính, thẩm quyền của TA là "phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước của một chủ thể (Tòa hành chính) để giải quyết những tranh chấp hành chính giữa một bên là công dân và bên kia là cơ quan công quyền theo thủ tục tố tụng hành chính mà pháp luật tố tụng hành chính đã quy định" [79, tr. 30]. Trong TTHS, ThS. Nguyễn Đức Mai cho rằng, thẩm quyền của TA là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của TA (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của TA đối với những vấn đề đã được xem xét [39, tr. 2]. ThS. Nguyễn Văn Tiến quan niệm phạm vi - giới hạn hoạt động của TA và quyền năng pháp lý của TA có mối liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành thẩm quyền của TA. Thẩm quyền của TA bao gồm: thẩm quyền xét xử, phạm vi - giới hạn xét xử và quyền hạn quyết định của TA [71, tr. 8]. Khi nghiên cứu thẩm quyền giám đốc thẩm các vụ án hình sự, TS. Nguyễn Văn Hiện đưa ra khái niệm thẩm quyền giám đốc thẩm là:
Tập hợp các quy phạm pháp luật TTHS liên quan đến việc giao vụ án mà bản án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị cho TA cấp nào giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra các quyết định của TA cấp giám đốc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đạt được yêu cầu và mục đích của giám đốc thẩm [27, tr. 1].
Dưới một góc độ chung hơn, Từ điển tiếng Việt định nghĩa thẩm quyền của TA là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [86, tr. 890]
Như vậy, thẩm quyền của TA là một khái niệm có nội dung rất rộng bao gồm nhiều quyền của TA khi giải quyết vụ án. Đó là quyền xét xử đối với từng vụ án cụ thể, trong một phạm vi (giới hạn) do pháp luật quy định (gọi là thẩm quyền xét xử), là quyền ra các quyết định khi xét xử vụ án (gọi là thẩm quyền quyết định hay quyền hạn của TA). Thẩm quyền quyết định hay quyền hạn là một nội dung quan trọng của thẩm quyền. Nói đến thẩm quyền của TA không thể không đề cập đến quyền hạn. Thiếu nội dung quyền hạn thì quyền xét xử của TA cũng trở thành vô nghĩa. TA xét xử nhưng không có quyền ra các quyết định cụ thể thì vụ án chưa được giải quyết. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì quyền hạn là "quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ" [86, tr. 786] Từ điển Pháp luật cũng định nghĩa, quyền hạn là "quyền được xác định lại trong phạm vi không gian, thời gian, lĩnh vực hoạt động" [75, tr. 402]. Các định nghĩa trên đều xác định nội dung quyền hạn của TA chỉ trong những phạm vi, mức độ do pháp luật quy định. ở các thủ tục xét xử khác nhau, phạm vi, mức độ quyền hạn của TA cũng khác nhau và được gọi là phạm vi xét xử và giới hạn xét xử. Theo Từ điển Tiếng Việt thì "giới hạn" là sự hạn chế trong một mức độ nhất định, là ranh giới phải dừng lại không được phép vượt qua còn "phạm vi" là lĩnh vực được giới hạn cho một hành động, sự việc [86, tr. 390-738]. Trong TTHS khái niệm "phạm vi xét xử" được dùng khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để giới hạn TA cấp phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ xét xử những vấn đề đã được TA cấp dưới xét xử (có thể toàn bộ hoặc từng phần của vụ án); còn "giới hạn xét xử" dùng để hạn chế TA cấp sơ thẩm chỉ được xét xử trong nội dung bản cáo trạng do VKS truy tố. Xác định đúng quyền xét xử của TA trong giới hạn và phạm vi pháp luật cho phép sẽ tạo điều kiện thuận lợi để TA thực hiện quyền quyết định đối với các vấn đề cụ thể của vụ án. Thẩm quyền xét xử và thẩm quyền quyết định của TA là hai nội dung quan trọng có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của TA. Có thể nghiên cứu thẩm quyền của TA theo hai góc độ khác nhau: góc độ hành chính và góc độ tố tụng. Dưới góc độ hành chính nghiên cứu thẩm quyền của TA theo cách tổ chức hệ thống TA bao gồm: Thẩm quyền của TANDTC, thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thẩm quyền của TAND cấp huyện và thẩm quyền các TAQS. Dưới góc độ tố tụng nghiên cứu thẩm quyền của TA theo cấp xét xử bao gồm: thẩm quyền của TA cấp sơ thẩm, thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo góc độ hành chính, nếu chỉ nghiên cứu thẩm quyền xét xử của TA các cấp sẽ rất thuận lợi, nhưng nghiên cứu cả thẩm quyền quyết định của TA khi xét xử lại khó khăn vì BLTTHS chỉ quy định quyền hạn của HĐXX sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mà không quy định quyền hạn khi xét xử cho TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TANDTC hoặc TAQS. Còn dưới góc độ tố tụng sẽ có điều kiện làm rõ cả thẩm quyền xét xử và thẩm quyền quyết định của TA các cấp. Một mặt phân biệt được thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TAND cấp tỉnh với TAND cấp huyện, giữa TAQS cấp quân khu với TAQS khu vực; phân biệt thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm giữa TAND cấp tỉnh với TANDTC, giữa TAQS cấp quân khu với Tòa án quân sự trung ương (TAQSTW). Mặt khác, cũng làm rõ được thẩm quyền quyết định của từng cấp xét xử, theo đó các TA khác nhau nhưng xét xử một thủ tục giống nhau đều có thẩm quyền quyết định như nhau. Như vậy, dưới góc độ tố tụng thì sẽ có điều kiện nghiên cứu toàn diện cả thẩm quyền xét xử và thẩm quyền quyết định của TA nên luận án nghiên cứu thẩm q._.uyền của TA theo góc độ này.
1.1.1. Thẩm quyền xét xử
Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức TA năm 1992 quy định TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS và các TA khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của pháp luật thì chỉ có TA mới có thẩm quyền xét xử các vụ án mà không một cơ quan nhà nước nào có được quyền này. Để bảo đảm cho TA thực hiện tốt chức năng xét xử, Nhà nước trao cho TA nhiều quyền năng pháp lý, theo đó giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính đều thuộc thẩm quyền của TA.
Trong lĩnh vực hình sự, thẩm quyền xét xử của các TA ở mỗi quốc gia cũng có sự quy định khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố như hệ thống pháp luật nói chung và luật vật chất (luật hình sự) nói riêng, bộ máy tổ chức của các cơ quan tư pháp, năng lực Thẩm phán, điều kiện kinh tế - xã hội. Qua tìm hiểu pháp luật của một số nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa và hệ thống luật án lệ thì thấy các TA được tổ chức theo cấp xét xử: TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm và TA tối cao. Tương ứng với các cấp xét xử đó luật quy định thẩm quyền xét xử cho từng cấp TA. Ví dụ: ở nước Pháp hệ thống TA được tổ chức thành TA cấp sơ thẩm (Tòa vi cảnh) có thẩm quyền xét xử các vụ tiểu hình, TA cấp sơ thẩm (Tòa Hình sự hoặc Tòa cải tạo) có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự về tội ít nghiêm trọng và có thể xử phạt mức án đến 5 năm tù, TA cấp sơ thẩm (Tòa đại hình) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội phạm nghiêm trọng và tuyên hình phạt đến tù chung thân, TA cấp phúc thẩm (các Tòa phúc thẩm) có thẩm quyền xét xử các vụ án của TA cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng nghị, TA cấp phúc thẩm (Tòa Thượng thẩm - Tòa phúc thẩm tối cao) có thẩm quyền làm vô hiệu bản án đã có hiệu lực pháp luật khi TA cấp dưới sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. ở nước Anh hệ thống TA gồm có: TA cấp sơ thẩm (Tòa vi cảnh) xét xử các tội phạm ít nghiêm trọng, TA cấp sơ thẩm (TA Hoàng gia) xét xử các tội phạm nghiêm trọng, TA cấp phúc thẩm (TA phúc thẩm) xét xử phúc thẩm tất cả các vụ án đã xét xử sơ thẩm nhưng bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm (TA tối cao) xét xử các vụ án bị kháng cáo vì có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. ở Nigeria hệ thống TA bao gồm TA tối cao liên bang, TA liên bang khác và hệ thống của TA bang. Thẩm quyền xét xử cũng được phân định rõ cho các TA tương ứng: các Tòa vi cảnh, Tòa phúc thẩm liên bang và TA tối cao [89, tr. 207-217]. ở nước ta các TA được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, các TAND cấp huyện và TAQS khu vực (gọi chung là TA cấp huyện) chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm còn các TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu (gọi chung là TA cấp tỉnh) và TA tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền xét xử là "sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các TA với nhau" [75, tr. 459]. Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TA các cấp theo luật TTHS của nước ta và một số nước trên thế giới thì thấy tuy có sự quy định khác nhau nhưng pháp luật các nước đều có điểm chung là dựa vào một số dấu hiệu của vụ án để phân định thẩm quyền xét xử. Đó là dấu hiệu về tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm, địa điểm phạm tội và người thực hiện tội phạm. Muốn xác định một vụ án xảy ra có thuộc thẩm quyền xét xử của một TA hay không phải xem xét đến các dấu hiệu này. Chỉ trên cơ sở xem xét từng dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác.
Khi đã xác định chính xác thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì có thể dễ dàng xác định được thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Vì xét xử theo các thủ tục này đều do các TA cấp trên của TA cấp sơ thẩm thực hiện. Xét ở một góc độ khác, khi VKS đã truy tố bị cáo trước TA và xét thấy có đủ căn cứ để xét xử thì vụ án được xét xử sơ thẩm, nhưng chưa hẳn vụ án này sẽ được xét xử theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm. Việc xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ đặt ra khi có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu. Xét xử theo thủ tục phúc thẩm, nhất là thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gọn nhẹ hơn, một số thủ tục ở cấp sơ thẩm được lược bỏ.
Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của TA các cấp, trước hết phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định thẩm quyền của TA các cấp.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, trong khoa học luật TTHS thẩm quyền xét xử thường được phân loại. Việc phân loại giúp cho người áp dụng pháp luật xác định đúng thẩm quyền của TA. Có nhiều cách phân loại dựa trên những căn cứ và mục đích nghiên cứu khác nhau. Đối với những người áp dụng pháp luật thì cách phân loại sau đây nhằm phân biệt rõ thẩm quyền xét xử của TA các cấp là phổ biến nhất:
- Dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm để phân biệt thẩm quyền của TA cấp huyện với TA cấp tỉnh, thẩm quyền của TAQS khu vực với TAQS quân khu.
- Dựa vào địa điểm hoặc không gian thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi tố tụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của các TA cùng cấp (TA huyện này với huyện khác, tỉnh này với tỉnh khác). Trong trường hợp có bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì cách phân loại này cũng là căn cứ để phân biệt thẩm quyền xét xử của TA các cấp.
- Dựa vào người thực hiện tội phạm để phân biệt thẩm quyền xét xử giữa TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền của TA đặc biệt.
1.1.2. Thẩm quyền quyết định của Tòa án các cấp
Dựa vào những quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử, có thể xác định một vụ án xảy ra thuộc thẩm quyền của TA nào; nếu có tranh chấp thì căn cứ các dấu hiệu về sự việc, lãnh thổ và người thực hiện tội phạm để xác định thẩm quyền xét xử. Nhưng chỉ có quy định về thẩm quyền xét xử, các TA sẽ gặp khó khăn khi phải quyết định những vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án. Cùng với việc quy định thẩm quyền xét xử, Nhà nước giao những quyền năng (quyền quyết định) cho TA các cấp. Các TA sử dụng những quyền này để ra các phán quyết khi xét xử. Nhưng thẩm quyền ra quyết định không phải là vô hạn, các TA chỉ xem xét và quyết định những vấn đề trong giới hạn, phạm vi pháp luật cho phép. Thẩm quyền quyết định của TA bao gồm:
a) Thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề về nội dung vụ án
Thẩm quyền này được TA thực hiện sau khi xét xử vụ án. ở thủ tục xét xử sơ thẩm, TA ra bản án giải quyết mọi vấn đề của vụ án như: Quyết định bị cáo phạm tội hay không phạm tội (nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, nếu bị cáo không phạm tội thì ra bản án tuyên bố bị cáo vô tội); quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt; quyết định áp dụng hình phạt đối với bị cáo; quyết định xử lý vật chứng; quyết định bồi thường thiệt hại; TA cũng có thể ra quyết định đình chỉ vụ án nếu có căn cứ do luật quy định.
ở thủ tục phúc thẩm, TA xét xử trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, chỉ trong những trường hợp cần thiết TA cấp phúc thẩm mới xem xét những phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị. Vì không phải vụ án nào cũng yêu cầu xem xét lại mọi vấn đề mà TA cấp sơ thẩm đã giải quyết nên TA cấp phúc thẩm cũng không có quyền quyết định về mọi vấn đề của vụ án như khi xét xử sơ thẩm. Khi xét xử, TA cấp phúc thẩm có quyền quyết định: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
ở thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án. Với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, xét xử giám đốc thẩm kiểm tra tính hợp pháp của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Do đó, Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét và quyết định những vấn đề mà kháng nghị yêu cầu. Đối với những phần của vụ án không bị kháng nghị nhưng có liên quan đến kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm cũng phải xem xét vì xét xử giám đốc thẩm là một hoạt động của giám đốc xét xử nên có trách nhiệm xem xét toàn bộ vụ án. Khi xét xử, Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra các quyết định: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
b) Thẩm quyền quyết định đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
Cùng với việc ra bản án hoặc quyết định để giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án, TA còn có quyền ra quyết định đảm bảo cho việc xét xử. Thực hiện thẩm quyền này, trong khi chuẩn bị xét xử, TA ra các quyết định sau: Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (bắt để tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm); quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Ngoài thẩm quyền ra quyết định giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử, để thực hiện các nhiệm vụ khác của TTHS, khi xét xử TA còn có quyền ra quyết định khởi tố vụ án, ra các quyết định xử lý hành chính như cảnh cáo, phạt tiền đối với những người vi phạm trật tự phiên tòa.
Như vậy, thẩm quyền của TA là một chế định lớn trong TTHS bao gồm những nội dung chính như sau:
- Thẩm quyền xét xử để xác định TA được xét xử những vụ án nào;
- Giới hạn và phạm vi xét xử để xác định quyền của TA được xem xét những vấn đề gì khi xét xử;
- Thẩm quyền quyết định để xác định quyền hạn giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc xét xử hoặc các vấn đề khác của TTHS liên quan đến hoạt động xét xử.
Trong các nội dung trên, thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là cơ sở để xác định thẩm quyền quyết định của TA vì TA chỉ có thể quyết định những vấn đề trong phạm vi cho phép và đã được xem xét. Mặt khác, những vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét của TA cũng chỉ có ý nghĩa khi được giải quyết bằng những quyết định của Hội đồng xét xử (HĐXX).
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thẩm quyền của TA như sau: Thẩm quyền của TA là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho TA được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định.
1.2. Những căn cứ để quy định thẩm quyền của Tòa án
Muốn quy định thẩm quyền được chính xác phải dựa vào những căn cứ (cơ sở) có tính khoa học được đúc rút từ thực tiễn. Việc xác định các căn cứ này có ý nghĩa quan trọng khi phân định thẩm quyền. Dựa vào những căn cứ để quy định thẩm quyền của TA, các nhà làm luật tính toán cân nhắc đến mọi khả năng, dự liệu các tình huống để quy định thẩm quyền cho mỗi cấp TA. Các căn cứ này càng cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng chính xác. Qua nghiên cứu khảo sát thực tiễn thì đã có một số bài viết trực tiếp hay gián tiếp nghiên cứu về vấn đề này nhưng các tác giả thường tập trung vào các căn cứ: trình độ, năng lực của Thẩm phán, số lượng án tồn đọng hàng năm ở TA cấp này hay cấp khác để đề nghị phân định thẩm quyền. Chúng tôi cho rằng, phân định thẩm quyền của TA mà chỉ dựa trên cơ sở về tổ chức, con người thôi là chưa đầy đủ mà còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nữa. Theo chúng tôi, có thể dựa vào các căn cứ sau đây để quy định thẩm quyền của TA các cấp.
1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng
Pháp luật là một trong những hình thức thể hiện của chính trị. Cụ thể hơn, pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành những quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội. ở nước ta, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ qua. Đường lối, chính sách của Đảng thể hiện nguyện vọng của toàn thể nhân dân trong đó có yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Là một công cụ hữu hiệu trong đấu tranh chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự phải thể hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng. Có như vậy, mỗi quy định được ban hành mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Nếu văn bản pháp luật tố tụng hình sự xa rời hoặc đi chệch quan điểm của Đảng thì nó sẽ không được nhân dân đồng tình, xã hội chấp nhận và không được thực hiện. Thực tiễn hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung và chế định thẩm quyền của TA nói riêng cho thấy đường lối, chính sách của Đảng luôn luôn là một căn cứ quan trọng để xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể.
Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành nhằm đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Để góp phần thực hiện mục tiêu “làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước; đẩy lùi và xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực hiện công bằng xã hội” [24, tr. 146], BLTTHS đã nâng thẩm quyền của TA các cấp lên một bước đáng kể so với trước đây. Nếu như năm 1960 TA cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các tội có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống, đến năm 1981 được xét xử các tội có khung hình phạt đến 5 năm tù thì BLTTHS đã nâng thẩm quyền cho TA cấp huyện được xét xử những tội phạm mà BLHS quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống. Điều đó hoàn toàn phù hợp với chủ trương xây dựng cấp huyện vững mạnh về mọi mặt của Đảng ta.
Những thay đổi lớn lao của tình hình kinh tế - xã hội và thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy những quy định về thẩm quyền của TA các cấp trong BLTTHS không còn phù hợp. Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết về công tác tư pháp trong đó nhấn mạnh yêu cầu phân định hợp lý thẩm quyền của TA các cấp. Cụ thể là Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khoá VII, Nghị quyết hội nghị lần thứ 3, hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các Nghị quyết của Đảng đã định hướng việc phân định thẩm quyền của TA các cấp là thực hiện hai cấp xét xử, tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp quận, huyện theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở TA cấp này, TA cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các TA địa phương thực hiện xét xử thống nhất pháp luật. Mới đây, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới lại khẳng định cần khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho TA cấp huyện, đổi mới tổ chức của TANDTC để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn các TA áp dụng pháp luật thống nhất. Những định hướng chiến lược nêu trên là kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng ta. Nó đã phản ánh đúng đắn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, tạo tiền đề cho những nghiên cứu cụ thể về thẩm quyền của TA các cấp. Chính vì vậy, tuân theo đường lối, chính sách của Đảng là một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng và sửa đổi các quy định về thẩm quyền của TA các cấp.
1.2.2. Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
Trong hệ thống các quy phạm TTHS, nguyên tắc TTHS chiếm một vị trí quan trọng. Nó thể hiện bản chất của TTHS, là cơ sở cho mọi hoạt động TTHS. Các nguyên tắc của TTHS liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất để hướng các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực hiện đúng mục đích của tố tụng. Các nguyên tắc của TTHS là cơ sở để xây dựng các chế định của luật TTHS. Thẩm quyền của TA là một chế định lớn của luật TTHS, nên khi quy định phải căn cứ vào các nguyên tắc của TTHS, đặc biệt là những nguyên tắc làm cơ sở cho hoạt động xét xử của TA.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của TA là những nguyên tắc dân chủ trong luật TTHS, tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo đưa ra chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, giúp cho việc xử lý vụ án đúng đắn, tránh được những oan sai không đáng có. Vì thế quy định thẩm quyền của TA phải cân nhắc đến các nguyên tắc này. Khi xét xử, nếu TA không chứng minh được bị cáo thực hiện tội phạm thì phải tuyên bố họ vô tội; tất cả những nghi ngờ về trách nhiệm hình sự của bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo; việc xét xử phúc thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo phải có kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc kháng nghị của VKS; TA cấp giám đốc thẩm không thể tự mình quyết định sửa tăng hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn đối với bị cáo.
Nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên tắc giám đốc việc xét xử là những nguyên tắc cho phép Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án; cho phép Hội đồng giám đốc thẩm được ra quyết định nhằm bảo đảm cho việc xét xử của TA đúng pháp luật.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử, đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào được can thiệp vào việc xét xử của TA làm cho việc xét xử không công bằng. TA cấp trên cũng không có quyền buộc TA cấp dưới phải xét xử theo ý kiến chủ quan của mình. Sau khi xét xử nếu bản án có sai sót sẽ được giải quyết theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nếu quy định thẩm quyền của TA không chú ý đến nguyên tắc “xét xử độc lập” thì TA cấp trên có thể buộc TA cấp dưới phải xét xử theo mình và như vậy sẽ làm cho việc xét xử không chính xác. Quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm đã cân nhắc và bảo đảm nguyên tắc "xét xử độc lập". Ví dụ: Khoản 3 Điều 222 BLTTHS quy định rõ: "Khi hủy án sơ thẩm để xét xử lại, TA cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà TA cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản BLHS và hình phạt mà TA cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng".
Các nguyên tắc khác của luật TTHS ở những mức độ khác nhau cũng ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của TA. Do vậy, khi quy định thẩm quyền của TA phải căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS.
1.2.3. Căn cứ vào tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm
Theo Điều 8 BLHS, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Khái niệm này cho thấy cơ sở quan trọng để xác định tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Khi nghiên cứu các đặc điểm của tội phạm, TSKH. Lê Cảm khẳng định: "Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong luật hình sự mới có thể bị coi là tội phạm - khi nó được thực hiện một cách có lỗi bằng xử sự cụ thể (dưới dạng hành động hoặc không hành động) của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định" [12, tr. 6]. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xem xét ở hai mặt: mặt thực tế (tức đã gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại) cho một hay nhiều khách thể nhất định và mặt xã hội (tức xem xét tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải được đặt trong những điều kiện xã hội nhất định) [87, tr. 161]. Đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của một loại tội phạm, theo TS. Võ Khánh Vinh phải xem "tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội do tội phạm đó xâm hại" [85, tr. 15]. Hành vi phạm tội xâm hại đến những quan hệ xã hội, khách thể quan trọng sẽ gây nguy hại lớn cho xã hội thì tội phạm càng nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật thể hiện thông qua mức chế tài quy định với tội phạm đó. Vì "hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm" [69, tr. 10] nên tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng cao. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai, khi phân định thẩm quyền xét xử cho TA các cấp phải căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm. Theo đó loại tội càng nghiêm trọng càng đòi hỏi cơ quan và người tiến hành tố tụng có năng lực cao hơn. BLTTHS đã quy định thẩm quyền xét xử theo hướng này.
Cùng với việc căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm, khi quy định thẩm quyền xét xử còn phải căn cứ vào tính phức tạp của từng loại tội phạm. Tính phức tạp của tội phạm được xem xét cả dưới góc độ Luật hình sự và luật TTHS. Dưới góc độ luật hình sự tính phức tạp của tội phạm được xem xét ở khách thể tội phạm và đường lối xử lý tội phạm đó. Còn dưới góc độ TTHS, tính phức tạp của tội phạm được xem xét ở khả năng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Sở dĩ quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và phức tạp của tội phạm vì tính nghiêm trọng và tính phức tạp của tội phạm là hai khái niệm không đồng nhất. Thông thường tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là phức tạp, tội phạm ít nghiêm trọng là đơn giản. Nhưng cũng nhiều trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng lại phức tạp. Tính phức tạp của tội phạm được xem xét ở nhiều khía cạnh:
- Về chủ thể tội phạm: Đó là tội phạm do người nước ngoài hoặc người giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, là người có chức sắc cao trong tôn giáo, có uy tín cao trong dân tộc ít người thực hiện. Vì giải quyết vụ án do các chủ thể trên thực hiện có nhiều phức tạp nên cần phải quy định thuộc thẩm quyền của TA cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu.
- Về khả năng chứng minh tội phạm và người phạm tội: Đó là các vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, do việc xử lý các vụ án này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hữu quan khác. Hoặc những trường hợp phạm tội gây thiệt hại cho quân đội, phạm tội trong các khu vực cấm, liên quan đến bí mật quân sự thì việc chứng minh tội phạm có liên quan nhiều đến quân đội. Vì thế các tội này phải do các cơ quan tiến hành tố tụng có khả năng, điều kiện chứng minh tội phạm, đánh giá chứng cứ mới đảm bảo tính chính xác khách quan của vụ án. Pháp lệnh Tổ chức TAQS năm 1993 đã quy định thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS.
1.2.4. Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền của Tòa án với các chế định khác của TTHS
Trong TTHS các chế định pháp lý có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự hình thành, phát triển của một chế định này luôn tác động đến những chế định khác. Là một chế định quan trọng của luật TTHS, thẩm quyền của TA có liên quan tới nhiều chế định khác. Khi thay đổi thẩm quyền của TA cấp này hay cấp khác sẽ tác động đến những chế định đó. Sự tác động này có thể thúc đẩy nhưng cũng có thể hạn chế việc thực hiện các chế định khác, như thẩm quyền điều tra, truy tố, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, sự có mặt của những người tham gia tố tụng khi được triệu tập, thời hạn và hiệu quả kinh tế của các hoạt động tố tụng. Vì thế, quy định thẩm quyền của TA các cấp phải cân nhắc kỹ xem có thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố cũng như thực hiện các chế định khác hay không; xem khả năng của cơ quan điều tra, VKS cùng cấp có thể thực hiện tốt nhiệm vụ điều tra, truy tố theo thẩm quyền xét xử của Tòa án hay không. Nếu một vụ án thuộc thẩm quyền của TA cấp huyện nhưng quy định là thẩm quyền của TA cấp tỉnh thì vụ án đó sẽ thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp tỉnh và thẩm quyền truy tố của VKS cấp tỉnh. Trường hợp này, việc thực hiện các hoạt động điều tra, kiểm sát điều tra sẽ khó khăn hơn. CQĐT cấp tỉnh phải tiến hành các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng ở một địa điểm cách xa trụ sở CQĐT rất nhiều lần so với việc CQĐT cấp huyện điều tra. Việc triệu tập người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ án cũng khó khăn hơn. Vì xa xôi, đi lại mất nhiều thời gian nên có thể họ vắng mặt, CQĐT phải triệu tập đến lần thứ hai hoặc phải đến chỗ ở của họ để lấy lời khai. Nếu vụ án được xét xử ở TA cấp huyện thì bảo đảm được sự tham gia của những người này ngay từ giai đoạn điều tra. Tại đây họ sẽ trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu không đồng ý với quyết định của cơ quan điều tra, VKS, họ có điều kiện khiếu nại ngay các quyết định đó. Do vậy quyền, lợi ích hợp pháp của họ được đảm bảo hơn. Quy định vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp tỉnh thì việc tham gia vào các hoạt động tố tụng của những người tham gia tố tụng sẽ khó khăn hơn. Một số người do nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào vụ án như người giám định, người làm chứng cũng có thể vắng mặt tại phiên tòa. Nếu TA cứ xét xử thì không bảo đảm sự thật vụ án, nếu hoãn phiên tòa thì kéo dài thời gian xét xử ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Mặt khác, trong mối liên hệ giữa thẩm quyền của TA với các chế định khác của TTHS cũng cần tính đến hiệu quả kinh tế của các hoạt động tố tụng khi quy định thẩm quyền của TA các cấp sao cho vừa đạt được kết quả nhưng chi phí lại thấp. Có thể xem xét hiệu quả kinh tế của các hoạt động tố tụng trên những vấn đề sau:
Thứ nhất, chi phí cho các hoạt động điều tra. Nếu vụ án do CQĐT cấp huyện điều tra thì ít tốn kém, nếu do CQĐT cấp tỉnh điều tra thì chi phí nhiều hơn. Ví dụ: khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, khám xét... CQĐT, VKS cấp tỉnh phải đi xa, gặp nhiều khó khăn đặc biệt ở địa bàn miền núi; việc vận chuyển các đồ vật thu giữ về CQĐT; việc dẫn giải người phạm tội dọc đường đi... tất cả đều phải chi phí lớn hơn nhiều so với CQĐT cấp huyện điều tra.
Thứ hai, chi phí cho hoạt động xét xử. Nếu vụ án được xét xử ở TA huyện, chi phí sẽ thấp hơn khi xét xử ở TA tỉnh. Vụ án xét xử ở TA huyện khi có kháng cáo, kháng nghị sẽ do TA cấp tỉnh xét xử phúc thẩm. Việc xét xử phúc thẩm có thể được tiến hành tại trụ sở TA tỉnh đó hoặc được xét xử lưu động tại địa bàn nơi xảy ra tội phạm. Khoảng cách từ tỉnh xuống nơi xảy ra tội phạm cũng không xa nên chi phí đi lại tổ chức phiên tòa xét xử cũng không lớn. Nhưng vụ án này nếu do TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm thì khi có kháng cáo hoặc kháng nghị sẽ do Tòa phúc thẩm TANDTC xét xử phúc thẩm. Hiện nay cả nước chỉ có ba Tòa phúc thẩm (tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố (Tp.) Hồ Chí Minh). Mỗi Tòa phúc thẩm phải phụ trách nhiều tỉnh khác nhau. Với phạm vi như vậy, các Tòa phúc thẩm khi tổ chức xét xử lưu động tại các địa phương phải chi phí cho xét xử nhiều hơn so với cấp tỉnh xét xử phúc thẩm.
Thứ ba, chi phí cho việc đi lại của những người tham gia tố tụng, tổ chức xã hội tham gia vào TTHS. Vụ án được xét xử ở cấp dưới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia tố tụng tham gia phiên tòa. Bởi vì họ không phải chi phí cho đi lại, chi phí cho ăn nghỉ nhiều. Nếu vụ án xét xử ở TA tỉnh thì việc đi lại, ăn nghỉ của họ thực sự khó khăn. Họ phải chi phí một khoản tiền không nhỏ cho việc đi lại, ăn nghỉ trong những ngày xét xử.
Từ những vấn đề trên đây cho thấy khi quy định thẩm quyền của TA các cấp phải căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền của TA với các chế định pháp lý khác của TTHS, nhất là chế định thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra, để đảm bảo sự phù hợp giữa cơ quan xét xử với cơ quan điều tra, truy tố.
1.2.5. Căn cứ tính chất các thủ tục xét xử
Để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, pháp luật quy định nhiều thủ tục xét xử: Xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Yêu cầu với mỗi thủ tục xét xử khác nhau nên tính chất của các thủ tục xét xử cũng khác nhau.
Đối với xét xử sơ thẩm, với tính chất là xét xử lần đầu nên TA cấp sơ thẩm được giải quyết toàn bộ mọi vấn đề của vụ án. Đối với xét xử phúc thẩm, với tính chất là TA cấp trên trực tiếp xét lại toàn bộ hay từng phần của vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định nên TA cấp phúc thẩm xem xét các vấn đề kháng cáo, kháng nghị đặt ra và xét xử lại về nội dung vụ án. Đối với xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm với tính chất là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án nên Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ xem xét việc áp dụng pháp luật, giải quyết vụ án của TA cấp dưới có đúng hay không, có tình tiết mới được phát hiện hay không để khắc phục các sai lầm, thiếu sót của cấp dưới mà không xét xử lại về nội dung vụ án.
Tính chất của các thủ tục xét xử do pháp luật quy định thể hiện bản chất của thủ tục xét xử đó. Nó là cơ sở để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp xét xử. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp xét xử không được trái với tính chất của cấp xét xử đó mà phải bao gồm các nội dung xác định rõ TA cấp đó được xét xử những vụ án nào, phạm vi (giới hạn) xét xử và quyền quyết định đến đâu. Chính các quyền năng này là nội dung thẩm quyền của TA các cấp. Vì thế phải căn cứ vào tính chất các thủ tục xét xử để quy định thẩm quyền của từng cấp xét xử cho phù hợp.
1.2.6. Căn cứ vào năng lực của đội ngũ cán bộ xét xử và cán bộ điều tra, truy tố cũng như khả năng thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng
Để thực hiện nhiệm vụ "bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân", các TA phải thực sự là người cầm cân nẩy mực, "trong công tác xử án phải công bằng liêm khiết trong sạch" [43, tr. 188]. Xã hội luôn đòi hỏi TA phải là biểu tượng của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi thể hiện bản chất của pháp luật, nơi mọi người tìm thấy lẽ phải, sự công bằng, tính nhân đạo của pháp luật. Nơi ấy thiện, ác phải được phân biệt rõ ràng, cái thiện phải được bảo vệ, cái ác phải bị trừng trị; công lý không thể bị uốn cong. Chỉ có đáp ứng được đòi hỏi đó TA mới thực sự là của dân, là TAND. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và vinh quang của mình, TA phải có đội ngũ những người xét xử có phẩm c._.u vực đồng bằng; 22 TA ở miền núi, hải đảo). Cần nhanh chóng xây dựng trụ sở để các TA có điều kiện làm việc. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp thì trong số 534 TA đã có trụ sở mới chỉ có 11 TA ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh là không phải đầu tư mở rộng diện tích. Còn lại 67 TA quận, thị xã, 255 TA khu vực đồng bằng, 201 TA khu vực miền núi cần cải tạo mở rộng diện tích mới đáp ứng được yêu cầu tăng thẩm quyền.
Mặc dù các trang thiết bị và phương tiện làm việc của cán bộ ở các TA đã được nâng lên một bước, nhưng "nhìn chung vẫn còn thiếu và lạc hậu, lại chậm được đổi mới" [84]. Cần trang bị cho mỗi TA cấp huyện tối thiểu một máy vi tính, một máy photo, một bộ loa, âm ly, micro ở hội trường xét xử để các TA này tiếp cận với sự phát triển của công nghệ thông tin. Cũng cần trang bị thêm cho mỗi TA một xe máy, bảo đảm đủ bàn ghế, tủ làm việc và các phương tiện làm việc cần thiết khác cho cán bộ. Ngoài việc đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở số kinh phí chi thường xuyên của các TA cũng phải được tăng thêm; tiền lương và các chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác xét xử phải được ưu tiên.
Từ phương hướng hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp, có thể rút ra những điểm chính sau đây:
1- Khi hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp phải bảo đảm các yêu cầu sau:
- Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phân định thẩm quyền của TA các cấp được đề ra trong các Nghị quyết thành các quy định của pháp luật.
- Phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội, gắn với việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam; phù hợp với yêu cầu đổi mới, cải cách tư pháp ở nước ta.
- Góp phần tháo gỡ và giải quyết những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn xét xử; tạo điều kiện thuận lợi để các TA hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao chất lượng xét xử.
- Góp phần mở rộng nền dân chủ XHCN, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
- Phù hợp với luật pháp quốc tế và khu vực.
Nếu không bảo đảm các yêu cầu trên, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA sẽ không đạt hiệu quả, những quy định mới sẽ không có tính khả thi.
2- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, luận án đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA. Đây là những đóng góp cần thiết để sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS trong thời gian tới, góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc trong áp dụng pháp luật của các TA; thực hiện việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND, nâng cao năng lực của TA các cấp.
3- Ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA. Luận án cũng làm rõ các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền. Đó là những biện pháp kiện toàn tổ chức TA các cấp; quy hoạch và từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ, bổ sung đủ Thẩm phán cho các TA; đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán để nâng cao chất lượng xét xử; dành khoản đầu tư thích đáng bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động xét xử của các TA.
4- Cùng với việc nâng cao năng lực hoạt động của TA thì CQĐT, VKS cũng phải có bước đổi mới về tổ chức, cán bộ và cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan này đạt hiệu quả cao.
kết luận
Qua việc nghiên cứu thẩm quyền của TA các cấp, luận án đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện ở những điểm chính sau đây:
1- Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm lý luận khác nhau về thẩm quyền nói chung và thẩm quyền của TA nói riêng, kết hợp với việc tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA, luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận của thẩm quyền, nêu rõ những nội dung thẩm quyền của TA, đưa ra khái niệm mang tính khoa học về thẩm quyền của TA. Khái niệm và cơ sở lý luận về thẩm quyền của TA đã góp phần thống nhất nhận thức trong các nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn về bản chất, nội dung chế định thẩm quyền của TA.
2- Dựa vào những căn cứ quy định thẩm quyền của TA do luận án đưa ra, các nhà làm luật có điều kiện lựa chọn, cân nhắc để tìm ra phương án tối ưu nhất khi quy định thẩm quyền cho TA các cấp.
3- Qua nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA hơn 55 năm, luận án làm nổi bật tính xã hội, tính lịch sử của các quy định. Từ đó chỉ rõ những điểm hợp lý cần phải được kế thừa như thủ tục rút gọn trong điều tra, truy tố, xét xử; loại bỏ những quy định không còn phù hợp với sự phát triển của đất nước như thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm; bổ sung thêm quy định xét xử phúc thẩm theo thủ tục bút lục...
4- Nghiên cứu thực tiễn xét xử thời gian qua, luận án nêu rõ sự trưởng thành của TA cấp huyện về các mặt tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất và chất lượng xét xử. Từ đó chỉ ra sự không hợp lý trong việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh, đề xuất giải pháp phân định lại thẩm quyền xét xử của các TA này.
5- Mặc dù quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA ngày càng được hoàn thiện nhưng trước những thay đổi lớn lao của đất nước, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đòi hỏi phải cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức, hoạt động của TAND và qua thực tiễn xét xử cho thấy một số quy định về thẩm quyền của TA như giới hạn xét xử sơ thẩm; tính chất, phạm vi xét xử phúc thẩm; thẩm quyền quyết định của HĐXX phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm... có nhiều điểm bất cập đã hạn chế hoạt động xét xử của TA nên cần phải được bổ sung, sửa đổi.
6- Dựa trên cơ sở lý luận với việc tổng kết thực tiễn xét xử, có tham khảo pháp luật TTHS của nước ngoài, luận án nêu rõ yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của TA các cấp, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quy định và bảo đảm thực hiện thẩm quyền của TA, đó là:
- Các giải pháp về sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp của BLTTHS về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm;
- Các giải pháp về kiện toàn tổ chức TA các cấp;
- Các giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ;
- Các giải pháp về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử.
Tiến hành đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thẩm quyền và nâng cao năng lực của TA các cấp.
Để những giải pháp hoàn thiện thẩm quyền của TA các cấp được thực hiện, chúng tôi đề nghị một số điểm sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước cần quan tâm sửa đổi một số quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND như: nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nhiệm vụ, quyền hạn giám đốc thẩm, tái thẩm của HĐTP TANDTC... để việc sửa đổi, bổ sung những quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA được phù hợp.
Thứ hai, sau khi Hiến pháp và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được sửa đổi, bổ sung thì tiếp đến cần ưu tiên sửa đổi, bổ sung BLTTHS. Phạm vi sửa đổi, bổ sung lần này phải toàn diện về mọi vấn đề. Riêng thẩm quyền của TA các cấp, chúng tôi đề nghị:
- Sửa đổi Điều 145 BLTTHS phân định lại thẩm quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh;
- Sửa đổi Điều 170 BLTTHS về giới hạn xét xử sơ thẩm;
- Sửa đổi Điều 146 BLTTHS về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ;
- Sửa đổi Điều 204 và Điều 214 BLTTHS về tính chất và phạm vi xét xử phúc thẩm;
- Sửa đổi Điều 220, 221, 222 BLTTHS về thẩm quyền quyết định của TA cấp phúc thẩm;
- Sửa đổi Điều 248 BLTTHS về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Sửa đổi Điều 254, 256, 257, 268 BLTTHS về thẩm quyền quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của TA trong BLTTHS;
- Quy định thêm thủ tục rút gọn trong điều tra, truy tố, xét xử và xét xử phúc thẩm theo thủ tục bút lục.
Thứ ba, cần nhanh chóng kiện toàn tổ chức và cán bộ của TA các cấp, khắc phục dứt điểm tình trạng thiếu Thẩm phán ở một số TA; nâng cao năng lực cho đội ngũ Thẩm phán, thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm các Thẩm phán trước khi được bổ nhiệm phải qua đào tạo nghề, các Thẩm phán đương nhiệm phải được bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ tư, Nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho việc xây dựng trụ sở, mua sắm các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động xét xử để các TA có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, Nhà nước cần có những biện pháp để nâng cao năng lực hoạt động của VKS và CQĐT cấp huyện sao cho các cơ quan này có đủ điều kiện về tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất để hoàn thành nhiệm vụ khi tăng thẩm quyền xét xử cho TA cấp huyện.
những công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án
Nguyễn Văn Huyên (1996) "Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trong tố tụng hình sự", Luật học, (5), tr. 7 - 11.
Nguyễn Văn Huyên (1997), "Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án", Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 26 - 34.
Nguyễn Văn Huyên (1999), "Những căn cứ để quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự", Luật học, (2), tr. 45 - 52.
Nguyễn Văn Huyên (2000), "Tăng thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện", Dân chủ và pháp luật, (12), tr. 9 - 14.
Nguyễn Văn Huyên (2001), "Cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự", Đề tài khoa học cấp Bộ (Tòa án nhân dân tối cao): Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện thẩm quyền xét xử của TAQS, số đăng ký: 2000-98-043, tr. 77 - 102.
Nguyễn Văn Huyên (2001), "Bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán Tòa án cấp huyện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử", Đặc san Nghề Luật, (1) tr. 35 - 38.
danh mục tài liệu tham khảo
Ban chấp hành Trung ương Đảng (1996), Thông báo số 136/TB-TW ngày 15/01/1996 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, Hà Nội.
Báo Nhân Dân (2001), ra ngày 20/6/2001, "Viện trưởng VKSNDTC trả lời chất vấn trước Quốc hội".
Báo Pháp luật (2001), số 99 ngày 6/6/2001, "Tăng thẩm quyền cho TA cấp huyện có phù hợp và thực hiện được không?".
Báo Pháp luật (2001), số 61, ngày 13/4/2001.
Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh (2001), số 20 ngày 29/5/2001 "TA cấp huyện sẽ có thêm nhiều việc".
Nguyễn Thị Bắc (1997), "Quá trình hình thành và phát triển những quy định về giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS Việt Nam", Tạp chí Kiểm sát, (10), tr. 8.
Bộ luật tố tụng hình sự (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (1994), Đề án đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tư pháp, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (2000), Báo cáo tiếp thu, giải trình, trả lời ý kiến chất vấn của Đại biểu quốc hội tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X, Hà Nội.
Các Mác - Ph. Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 319.
Các Luật tổ chức nhà nước (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 116.
Lê Cảm (2000), "Các đặc điểm của tội phạm và tính quyết định xã hội của chúng", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (7), tr. 6.
Đỗ Văn Chỉnh (1999), "Về bắt buộc chữa bệnh và những thiếu sót cần khắc phục", Tạp chí TAND, (3), tr.2.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khóa VII, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 132-133.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 116.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 6.
Trần Văn Độ (1995), "Một số vấn đề về tái thẩm", Tạp chí Luật học, (3), tr. 6.
Trần Văn Độ (1997), "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của TA các cấp", Tạp chí TAND, (3), tr. 39.
Gustave Peiser (1994), Luật Hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 227.
Phạm Hồng Hải (1995), "Một số nét lịch sử và phát triển của luật TTHS Việt Nam trong 50 năm qua", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3), tr. 35-36.
Phạm Hồng Hải (1999), "Bàn về quyền công tố", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), tr. 31.
Phạm Hồng Hải (2001), "Một số ý kiến về sửa đổi Hiến pháp 1992 liên quan tới tổ chức và hoạt động của TAND", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (9), tr. 28.
Lê Mậu Hân (1998), Đảng Cộng sản Việt Nam các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 146.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiện (1997), "Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật từ năm 1945 đến nay", Tạp chí TAND, (6), tr. 15.
Nguyễn Văn Hiện (1997), "Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của TA các cấp", Tạp chí TAND, (4), tr. 1.
Nguyễn Văn Hiện (1999), "Vấn đề giới hạn xét xử của TAND", Tạp chí TAND, (8), tr. 1.
Phạm Hưng (1997), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành TAND", Tạp chí TAND, (10), tr. 1.
Phạm Hưng (1997), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành TAND", Tạp chí Cộng sản, (16), tr. 16.
Nguyễn Ngọc Hòa (1993), "Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận", Tạp chí TAND, (1), tr. 19.
Phạm Xuân Khánh (1999), "Việc TA cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm từ không có tội thành có tội theo khoản 3 Điều 221 BLTTHS", Tạp chí Kiểm sát, (7), tr. 24.
Vũ Tá Lân (1985), "Một số tư liệu về 40 năm xây dựng tổ chức và hoạt động của ngành TAND", Tập san TAND, (2), tr. 7.
Lemeunier (1988), Dictionnaire juridique, La maison du dictionnaire, Paris, page 74-75.
Nguyễn Đình Lộc (1995), "Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở nước ta", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (6), tr. 7.
Luật tổ chức TAND (1960), Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (số 32 ngày 3/8/1960), Hà Nội.
Luật tổ chức: Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, TAND, VKSND (1981), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Nguyễn Đức Lương (1999), "Cần sửa đổi quy định "giới hạn của việc xét xử" trong BLTTHS hiện hành", Tạp chí Kiểm sát, (9), tr. 25.
Nguyễn Đức Mai (1993), "Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm", Tạp chí TAND, (8), tr. 2.
Nguyễn Đức Mai (1994), "Thế nào là làm xấu hơn tình trạng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm", Tạp chí TAND, (8), tr. 15.
Nguyễn Đức Mai (1996), "Vai trò của TA trong việc thực hiện chức năng xét xử trong TTHS", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), tr. 31.
Phan Thị Thanh Mai (1998), Phúc thẩm trong TTHS Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 91.
Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr. 188.
Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 101.
Nhà pháp luật Việt - Pháp biên dịch (1998), BLTTHS của nước Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự (1989), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Pháp lệnh Tổ chức TAQS 1985 (1996), Công báo ngày 15/1/1986, Hà Nội.
Đặng Quang Phương (1992), "Tìm hiểu các quy định của BLTTHS về rút quyết định truy tố", Tạp chí TAND, (4), tr. 6.
Đinh Văn Quế (1998), Thủ tục phúc thẩm trong luật TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Kim Quế (1974), "Một số vấn đề về thực tiễn vận dụng thủ tục rút ngắn", Tập san TAND, (6), tr. 15.
Lê Kim Quế (1975), "Một số vấn đề về tăng thẩm quyền về hình sự của các TAND cấp huyện", Tập san TAND, (6), tr. 11.
Hoàng Thị Sơn (1997), "Quyền hạn của TA khi xét xử phúc thẩm", Tạp chí Luật học, (6), tr. 31.
TANDTC (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về TTHS, Hà Nội.
TANDTC (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội.
TANDTC (1996), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 1996, Hà Nội.
TANDTC (1997), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 1996 và phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 1997, Hà Nội.
TANDTC (1998), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 1997, phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 1998, Hà Nội.
TANDTC (1999), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 1998, phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 1999, Hà Nội.
TANDTC (2000), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 1999, phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 2000, Hà Nội.
TANDTC (2001), Báo cáo tổng kết công tác TA năm 2000, phương hướng nhiệm vụ công tác TA năm 2001, Hà Nội.
TANDTC (1996), Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự 1990-1995, Hà Nội.
TANDTC (2001), Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự 1996-2000, Hà Nội.
TANDTC (2001), Thống kê xét xử phúc thẩm hình sự của tòa án cấp tỉnh1996-2000, Hà Nội.
TANDTC (2001), Thống kê xét xử phúc thẩm hình sự của TANDTC 1996-2000, Hà Nội.
TANDTC (1996), Thống kê xét xử giám đốc thẩm hình sự của tòa án cấp tỉnh 1990-1995, Hà Nội.
TANDTC (2001), Thống kê xét xử giám đốc thẩm hình sự của tòa án cấp tỉnh 1996-2000, Hà Nội.
TANDTC (2001), Thống kê xét xử giám đốc thẩm hình sự của TANDTC 1996 - 2000, Hà Nội.
Kiều Đình Thụ (1992), "Một số vấn đề phân loại tội phạm trong phần chung của Luật hình sự", Tạp chí TAND, (2), tr. 10.
Phan Hữu Thức (1994), "Những gì cần rút kinh nghiệm qua 2 cấp xét xử", Tạp chí TAND, (8), tr. 4-5.
Nguyễn Văn Tiến (1998), Thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm trong TTHS, Luận án thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
Tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 1992 (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tùng (1998), "TA có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 88 BLTTHS không?", Tạp chí TAND, (1), tr. 37.
Trần Văn Tú (1992), "Những căn cứ để hủy án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại của TA cấp phúc thẩm", Tạp chí TAND, (7), tr.4.
Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.459.
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân(1995), Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Phạm Công Tuyến (2001), "Về thực trạng đội ngũ cán bộ TAND cấp huyện", Báo Pháp luật, (96), Hà Nội.
Đào Trí úc (2001), "Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7), tr. 4.
ủy ban thường vụ Quốc hội (2001), Báo cáo thẩm tra của ủy ban pháp luật về dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS, Hà Nội.
V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Hà Nội.
Phạm Quang Vinh (2001), "Cơ sở vật chất của TAND cấp huyện hiện nay với việc tăng thẩm quyền xét xử án hình sự", Báo Pháp luật, (89), Hà Nội.
Võ Khánh Vinh (1990), "Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi quyết định hình phạt", Tạp chí TAND, (12), tr. 15.
Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 161.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1995), Bình luận Khoa học BLTTHS, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 425.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Hà Nội, tr. 207-217.
Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1992), Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr. 6.
Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 117.
VKSNDTC (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của TTHS Việt Nam, Hà Nội, tr. 6.
VKSNDTC (1997), Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, Đề tài cấp Bộ, mã số 96-98-091/ĐT, Hà Nội, tr. 41.
VKSNDTC (2001), Tờ trình về Dự án luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTHS, Hà Nội.
VKSNDTC biên dịch (1993), BLTTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hà Nội.
VKSNDTC biên dịch (1993), BLTTHS Nhật Bản, Hà Nội.
VKSNDTC biên dịch (1995), BLTTHS Thái Lan, Hà Nội.
VKSNDTC biên dịch (1998), Tố tụng hình sự truyền thống Luật dân sự Châu Âu, Mỹ Latinh và châu á, Hà Nội.
VKSNDTC biên dịch (1999), BLTTHS Liên bang Nga, Hà Nội.
100.
VKSNDTC biên dịch (1999), BLTTHS Malaysia, Hà Nội.
phụ lục
Phụ lục số 1
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng của tòa án nhân dân các cấp
Năm 1946
Tòa
Thượng
thẩm
Xét xử việc kháng cáo
án sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp
Tòa án
đệ nhị
cấp
Sơ thẩm
- Việc tiểu hình: phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm. Phạt tiền trên 9đ.
- Việc Đại hình
Chung thẩm
án vi cảnh của Tòa án sơ cấp (phúc thẩm).
Tòa án
sơ cấp
Chung thẩm
- Phạt tiền 0,5 - 9đ.
- Bồi thường dưới 150đ.
Sơ thẩm
- án phạt giam 1-5 ngày.
- Bồi thường trên 150đ.
Ghi chú: đường là kháng cáo
Phụ lục số 2
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng của tòa án nhân dân các cấp
theo luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
Sơ - chung thẩm
Những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TANDTC và những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới nhưng thấy cần lấy lên để xét xử.
Phúc thẩm
Những bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.
Giám đốc thẩm
Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm.
Duyệt án tử hình
tòa án
nhân
dân
tỉnh,
thành
phố
Sơ thẩm
Những vụ án hình sự có thể xử phạt 2 năm tù trở lên và những vụ án thuộc thẩm quyền của TA huyện nhưng lấy lên để xét xử.
Phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Phân xử các vụ hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa.
Sơ thẩm
Những vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống.
tòa
án
nhân
dân
quận,
huyện
Ghi chú: Đường là kháng nghị
Đường là kháng cáo
Phụ lục số 3
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng của tòa án nhân dân các cấp
Theo luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm
Những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh.
Phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh.
Tòa án
nhân
dân
tỉnh,
thành
phố
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện.
Phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm của TA cấp huyện.
Tòa
án
nhân
dân
quận,
huyện
Sơ thẩm
Những vụ án hình sự, trừ những loại việc:
- Những tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả lớn.
Sơ thẩm
Những vụ án không thuộc thẩm quyền của TA cấp huyện và những vụ án thuộc thẩm quyền của TA đó nhưng lấy lên để xét xử.
Ghi chú: Đường là kháng nghị
Đường là kháng cáo
Phụ lục số 4
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng của tòa án nhân dân các cấp
Theo bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Tòa án nhân dân tối cao
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm
Những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.
Giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm
- Tòa hình sự: Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh.
- UBTP: Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa thuộc TANDTC.
- HĐTP: Những quyết định của UBTP TANDTC bị kháng nghị.
Phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Giám đốc thẩm, tái thẩm
Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
Phúc thẩm
Bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp huyện
Sơ thẩm
Những tội phạm mà BLHS quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, trừ những tội sau:
- Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội quy định tại các Điều 89, 90, 91, 92, 93, 101 (khoản 3), 102, 179, 231, 232 BLHS.
Sơ thẩm
Những vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của TA cấp đó mà lấy lên để xét xử.
Ghi chú: Đường là kháng nghị
Đường là kháng cáo
Phụ lục số 5
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng
của tòa án nhân dân các cấp
Theo luật SửA Đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng hình sự năm 2000
Tòa án nhân dân tối cao
Giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm
- Tòa hình sự: Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh.
- UBTP: Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa thuộc TANDTC.
- HĐTP: Những quyết định của UBTP TANDTC bị kháng nghị.
Phúc thẩm
Bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Giám đốc thẩm, tái thẩm
Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
Phúc thẩm
Bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp huyện
Sơ thẩm
Những tội phạm mà BLHS quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, trừ những tội sau:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội quy định tại các Điều 95, 96, khoản 1 Điều 172 và các Điều 222, 223, 263, 293, 294, 295, 296 BLHS.
Sơ thẩm
Những vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của TA cấp đó mà lấy lên để xét xử.
Ghi chú: Đường là kháng nghị
Đường là kháng cáo
Phụ lục số 6
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng
của Tòa án quân sự các cấp
Năm 1946
Các Tòa án quân sự và Tòa án binh
Chung thẩm
- Các TAQS xét xử: các vụ án hình sự đối với tất cả những người mà phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19/8/1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Các TA binh xét xử:
+ Các vụ án hình sự do các quân nhân phạm pháp về bất cứ một tội gì, trừ những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền của các Tòa án Tư pháp và những “thường tội” thuộc thẩm quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy quân đội.
+ Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những người làm việc trong quân đội khi phạm pháp có liên can đến quân đội; những người phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội.
Năm 1974
Các Tòa án quân sự
Chung thẩm
Các vụ án hình sự mà bị cáo là:
- Quân nhân phạm pháp (bao gồm cả quân nhân trù bị trong thời gian tập trung huấn luyện; những người được trưng tập phục vụ quốc phòng; công nhân viên chức quốc phòng;
- Thường dân phạm pháp gây thiệt hại cho Quốc phòng;
- Thường dân phạm pháp trong các doanh trại, bệnh viện, cơ quan, xí nghiệp của quân đội.
Phụ lục số 7
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng
của Tòa án quân sự các cấp
Theo pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự Năm 1985
Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công nhân viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
2. Thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân đội;
3. Những người khác được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
Phúc thẩm
Những bản án và quyết định sơ thẩm của các Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương.
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương.
TAQS cấp cao
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm
Những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; những vụ án mà bị cáo là Thiếu tướng hoặc là người có chức vụ từ Chỉ huy Trưởng sư đoàn, Cục trưởng và cấp tương đương trở lên; những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương nhưng Tòa án quân sự cấp cao lấy lên để xét xử.
Phúc thẩm
Những bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án quân sự khu vực.
Sơ thẩm
Những vụ án không thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực và những vụ án thuộc thẩm quyền của các tòa án đó nhưng Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương lấy lên để xét xử.
TAQS quân khu và tương đương
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự khu vực.
Sơ thẩm
Những vụ án hình sự mà bị cáo là Đại úy hoặc người có chức vụ từ Phó chỉ huy trưởng tiểu đoàn hoặc cấp tương đương trở xuống, trừ những loại việc sau đây:
1. Những tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia;
2. Những tội phạm có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả lớn.
TAQS khu vực
Ghi chú: đường là kháng cáo, đường là kháng nghị
Phụ lục số 8
sơ đồ về thẩm quyền và quan hệ tố tụng
của Tòa án quân sự các cấp
Theo pháp lệnh tổ chức TAQs Năm 1993 Và
Bộ LUậT Tố tụng hình sự ĐƯợc sửa đổi năm 2000
Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
2. Những người khác phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
TAQS Trung ương
Phúc thẩm
Những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của các TAQS cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị.
Giám đốc thẩm, tái thẩm
Những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dưới trực tiếp bị kháng nghị.
TAQS quân khu và tương đương
Sơ thẩm
Những vụ án không thuộc thẩm quyền của các Tòa án quân sự khu vực và những vụ án thuộc thẩm quyền của các Tòa án đó nhưng lấy lên để xét xử.
Phúc thẩm
Những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp dưới bị kháng nghị.
Tòa án quân sự khu vực
Sơ thẩm
Những vụ án hình sự về những tội phạm quy định tại Điều 145 BLTTHS (có hình phạt từ 7 năm tù trở xuống) mà bị cáo khi phạm tội hoặc bị khởi tố có quân hàm từ thiếu tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Phó chỉ huy trưởng trung đoàn hoặc tương đương trở xuống.
Ghi chú: đường là kháng cáo, đường là kháng nghị
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2626.DOC