Tài liệu Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) chi nhánh Ba Đình: ... Ebook Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) chi nhánh Ba Đình
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Danh mục các bảng sử dụng trong bài:
Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Ba Đình
Bảng 1.2:Tính hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh giai đoạn 2005 – 2008
Bảng 1.3: Chất lượng tín dụng theo nhóm nợ qua các năm của Chi nhánh
Bảng 1.4:Tình hình kết quả nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm vừa qua
Bảng 1.5: Các hạng mục xây dựng nhà máy bao gồm
Bảng 1.6: Chi phí xây dựng
Bảng 1.7: Bảng giá thành máy móc thiết bị
Bảng 1.8: Doanh thu của nhà máy qua các năm
Bảng 1.9: Chi phí nguyên vật liệu cho 1 m2 sản phẩm
Bảng 1.10: Chi phí lương
Bảng 1.11: Số tiền nợ gốc thu hồi các năm đề xuất như sau
Bảng 1.12: Chi phí vốn bình quân WACC
Danh mục các chữ cái viết tắt:
DN: Doanh nghiệp.
DAĐT: Dự án đầu tư.
TĐTC: Thẩm định tài chính.
NN: Nhà nước.
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
NHCT: Ngân hàng công thương.
NHNN: Ngân hàng nhà nước.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NH: Ngân hàng.
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
TĐTC: Thẩm định tài chính.
KV: Khu vực.
KHCB: Khấu hao cơ bản
Lời nói đầu.
Hiện nay nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp ngày càng tăng, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn nhưng lại không có, hoặc không đủ tài sản thế chấp nên gặp khó khăn trong kinh doanh bị rủi ro các Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc sử lý. Về phía Ngân hàng phải thừa nhận rằng trong những năm vừa qua các Ngân hàng trong nưóc chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp đặc biệt là vốn trung và dài hạn cho các dự án lớn và nhỏ. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ lên các Ngân hàng không giám mạnh dạn đầu tư. Mặt khác nếu Ngân hàng không đầu tư thì việc các doanh nghiệp bị ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến việc làm của người lao động là điều không tránh khỏi. Chính vì thế trong thời gian thực tập tai ngân hàng công thương Ba Đình em đã chọn đề tài sau: “Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình”.
Đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình.
Chương II: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn của các doanh nghiệp và nhỏ tại ngân hàng công thương Ba Đình.
Với mong muốn đóng góp ý kiến của mình để góp phần nâng chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Trong điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, do cũng còn nhiều thiếu sót, rất mong được các Thầy cô giáo góp ý, giúp đỡ. Em xin chân thành cám ơn.
Chương I
Thưc trạng TĐTC DAĐT vay vốn của các DN vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình.
1.1- Tổng quan về chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình.
1.1.1- Lịch sử hình thành và phát triển.
Ngày 01/07/1988, thực hiện nghị định 53 của Hội đồng bộ trưởng ( nay là chính phủ ) ngành Ngân hàng chuyển hoạt động từ cơ chế hành chính, kế hoạch hoá sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình quản lý Ngân hàng hai cấp ( Ngân hàng nhà nước - NHTM ) lấy lợi nhuận làm mục tiêu trong hoạt động kinh doanh, các NHTMQD lần lượt ra đời ( NHCT - NHNT - NHĐT&PT - NHNN&PTNT ). Trong bối cảnh chuyển đổi đó, Ngân hàng Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một chi nhánh NHTM quốc doanh với tên gọi Chi nhánh Ngân hàng Công thương quận Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh thực sự, thông qua việc đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ, lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh, cùng với việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường, đưa thêm các sản phẩm dịch vụ mới vào kinh doanh. Lúc này Ngân hàng Công thương Ba Đình hoạt động theo mô hình quản lý NHCT ba cấp ( TW - Thành phố - quận ). Với mô hình quản lý này, trong những năm đầu thành lập ( 7/88 - 3/93 ) hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một chi nhánh NHTM trên địa bàn thủ đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT Thành phố Hà Nội, cùng với những khó khăn, thử thách của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo lối đổi mới của Đảng. Trước những khó khăn vướng mắc từ mô hình tổ chức quản lý, cũng như từ cơ chế, bắt đầu từ 01/04/1993, Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện thí điểm mô hình tổ chức NHCT hai cấp ( Cấp TW - quận ), xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng công thương Thành phố Hà Nội, cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ. Do vậy, ngay sau khi nâng cấp quản lý cùng với việc đổi mới cơ chế hoạt động, tăng cường đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình đã có sức bật mới, hoạt động kinh doanh theo mô hình một NHTM đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường. Nhanh chóng tiếp cận được thị trường và không ngừng đổi mới, hoàn thiện mình để thích nghi với các môi trường kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường.
Kể từ khi chuyển đổi mô hình quản lý mới cho đến nay, hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Khu vực Ba Đình không ngừng phát triển theo định hướng “ổn định - an toàn - hiệu quả và phát triển” cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động cũng như về cơ cấu - màng lưới, tổ chức bộ máy. Cho đến nay , bộ máy hoạt động của chi nhánh NHCT Khu vực Ba Đình có trên 300 cán bộ - nhân viên ( trong đó trên 85% có trình độ đại học và trên đại học, 10% có trình độ trung cấp và đang đào tạo đại học, còn lại là lao động giản đơn ) với 12 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 12 quỹ tiết kiệm, hoạt động trên một địa bàn rộng bao gồm các quận: Ba Đình - Hoàn Kiếm - Tây Hồ. Từ năm 1995 đến nay hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Khu vực Ba Đình liên tục được NHCT Việt Nam công nhận là một trong những Chi nhánh xuất sắc nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam .
Trong hơn 10 năm qua chi nhánh Ba Đình đã không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng, thể hiện mình là 1 trong những chi nhánh lớn mạnh và hoạt động hiều quả nhất của hệ thống ngân hàng công thương.
1.1.2- Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức các phòng ban của NHCT Ba Đình
khối
kinh doanh
Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn
Phòng khách hàng vừa và nhỏ
Phòng
khách hàng cá nhân
Ban giám đốc
Khối quản lý
rủi ro
rủi ro
Khối
Tác nghiệp
Khối
hỗ trợ
Phòng
quản lý rủi ro
Phòng kế toán giao dịch
Phòng tổng
hợp
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng thanh
toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng thông tin điện toán
1.1.3- Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những năm gần đây.
1.1.3.1- Công tác huy động vốn.
Nhìn chung trong những năm gần đây, tăng trưởng huy động vốn của chi nhánh đều đạt mức trên 14%.
Đến 31/12/2005 tổng nguồn vốn huy động đạt 4.164 tỷ đồng tăng 14.43% so với cuối năm 2004 trong đó huy động vốn VND 3.469 tỷ tăng 16.25% huy động ngoại tệ quy VND 695 tỷ tăng 6.1%.
Đến 31/12/2006 tổng nguồn vốn huy động đạt 4.350 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước tăng 4,47%, trong đó tiền gửi VND là 3.497 tỷ, tăng 0,8%, tiền gửi ngoại tệ 853 tỷ, tăng 23%.
Cuối năm 2007 tổng nguốn vốn huy động tăng 12.6% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó tiền gửi VNĐ là 4.030 tỷ đồng, tăng 15,24%, tiền gửi ngoại tệ là 869 tỷ, tăng 0.2%
Ngày 31/12/2008 tổng nguồn vốn huy động được là 4.490 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước đã giảm đi 12.6%, trong đó tiền gửi VND là 3400 tỷ đồng giảm 15.4%, tiền gửi ngoại tệ là 1082 tỷ giảm 1.73%.
Cơ cấu nguồn vốn.
Bảng 1.1 Cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Ba Đình.
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Đơn vị
Giá trị
Giá trị
Đơn vị
Tốc độ tăng liên hoàn
Đơn vị
Giá trị
Đơn vị
Tốc độ tăng liên hoàn
NV huy động từ các TCKT
Tỷ đồng
2050
1962
%
-4
Tỷ đồng
2582
%
+31,6
Tỷ trọng
%
49,2
45
%
52,7
NV huy động từ dân cư
Tỷ đồng
2114
2388
%
13
Tỷ đồng
2317
%
-3
Tỷ trọng
%
50,8
55
%
47,3
Tổng NV
Tỷ đồng
4164
4350
%
+4,5
Tỷ đồng
4899
%
+12,6
(Nguồn từ báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh)
Năm 2006 nguồn vốn huy động từ dân cư tăng 13% so với năm 2005, nhưng đến năm 2007 lại giảm 3% so với năm 2006. Nguồn vốn huy động từ dân cư giảm là do nhiều nguyên nhân, lạm phát tăng cao làm cho đồng tiền mất giá nên đối với các nhà dầu tư gửi tiền tiết kiệm không còn là sự lựa chọn hấp dẫn.Trong khi đó Thị trường bất động sản, thị trường Vàng lại đang khởi sắc, hấp dẫn các khách hàng dân cư.Chính vì vậy nhiều khách hàng đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi vào thị trường bất động sản và thị trường vàng thay vì gửi Ngân hàng nên làm cho nguồn huy động của dân cư giảm
Năm 2006 nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế giảm 4% so với năm 2005, nhưng đến năm 2007 lại tăng đột biến 31,6% so với năm 2006. Nguồn tiền gửi từ các TCKT là những nguồn tiền lớn, do đó Chi nhánh đã rất quan tâm đến việc huy động được nguồn tiền từ các TCKT này.
1.1.3.2- Hoạt động tín dụng.
Bảng 1.2 Tính hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh giai đoạn
2005 – 2008
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng dư nợ tín dụng
Tỷ đồng
2816
2360
2645
3200
Dư nợ VNĐ
Tỷ đồng
1950
1710
1844
2130
Tỷ trọng
%
69,2
72,5
69,7
69.4
Dư nợ ngoại tệ
Tỷ đồng
866
650
801
980
Tỷ trọng
%
30,8
27,5
30,3
30.6
Năm 2006 tổng dư nợ cho vay là 2360 tỷ giảm 16,2% so với năm 2005. Trong đó dư nợ cho vay VND là 1710 tỷ(giảm 13,31% so với năm 2005), dư nợ ngoại tệ quy ra VND là 650 tỷ (giảm 25% so với năm 2005).
Năm 2007 tổng dư nợ cho vay đạt 2645 tỷ, tăng 12,1% so với năm 2006. Trong đó dư nợ cho vay VNĐ là 1844 tỷ đồng (tăng 7,8% so với năm 2006), dư nợ ngoại tệ quy ra VNĐ là 801 tỷ đồng (tăng23,2% so với năm 2006).
Năm 2008 tổng dư nợ cho vay đạt 3200 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2007.Trong đó dư nợ cho vay VND là 2.130 tỷ đồng, tăng 15.51%, dư nợ ngoại tệ quy ra VND là 980 tỷ, tăng 22.3%.
Chất lượng tín dụng
Tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn, làm ăn kém hiệu quả gây tình trạng nợ nần dây dưa ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của của chi nhánh. Do đó, Chi nhánh rất chú trọng công tác thẩm định tín dụng. Cùng với việc đánh giá thực trạng và chất lượng của từng đơn vị vay vốn, Chi nhánh đã áp dụng một loạt các giải pháp khác như rà soát lại các doanh nghiệp, bổ sung tài sản thế chấp cầm cố trong các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh đầu tư cho vay các thành phần kinh tế khác, tiếp tục xử lý nợ tồn đọng, bám sát tình hình thanh toán vốn để thu nợ, xác định mức tín dụng đối với từng doanh nghiệp vay vốn.
+ Nợ nhóm II : dư nợ nhóm II tăng dần qua các năm. Năm 2006 dư nợ nhóm II đạt 183 tỷ chiếm 7,75% tổng dư nợ và tăng 24% so với năm 2005, phát sinh chủ yếu ở doanh nghiệp xây dựng giao thông: Tổng công ty XDCTGT I 64 tỷ, công ty CPXDCTGT 134 nợ 54 tỷ, Công ty CPXDCTGT 810 nợ 19,9 tỷ, công ty gạch ốp lát Hà nội 31,8 tỷ, Công ty CPXDCTGT I nợ 7,24 tỷ…
Bảng 1.3 Chất lượng tín dụng theo nhóm nợ qua các năm của Chi nhánh
Chỉ tiêu
Đơn vị
2005
2006
Đơn vị
Tốc độ tăng liên hoàn
Đơn vị
2007
Đơn vị
Tốc độ tăng liên hoàn
Tổng nợ
Tỷ đồng
2.816
2.36
%
-16.2
Tỷ đồng
2.645
%
12,1
-nhóm I
Tỷ đồng
2.590
2.177
%
-15.9
Tỷ đồng
2.494
%
14,56
Tỷ trọng
%
92,98
92,25
%
94,25
-nhóm II
Tỷ đồng
148,639
183
%
24
Tỷ đồng
110
%
40
Tỷ trọng
%
5,3
7,75
%
4,2
( Nguồn báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh)
1.1.3.3- Hoạt động tài trợ thương mại.
Hoạt động thanh toán quốc tế
Về hoạt động thanh toán quốc tế, khối lượng thanh toán quốc tế ngày càng tăng cả về số món và giá trị thanh toán. Chi nhánh đã đảm bảo được quyền lợi cho các bên mua bán trong thanh toán hàng nhập, hàng xuất và chuyển tiền. Các giao dịch thanh toán được thực hiện kịp thời, chính xác, không để xảy ra sai xót. Ngoài ra, Chi nhánh còn tư vấn cho khách hàng lựa chọn các phương thức thanh toán thích hợp, phối hợp với các phòng khách hàng để áp dụng các chính sách phí dịch vụ và lãi suất phù hợp, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ theo quy định của Ngành, của Nhà nước.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ, doanh số mua bán ngoại tệ ngày càng tăng cao. Ngoài thu đổi mua bán ngoại tệ của các đại lý, qua thị trường tự do và thị trường liên Ngân hàng, Chi nhánh còn khai thác, thu mua từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đơn vị có nguồn ngoại tệ lớn, đồng thời theo dõi sát sao chặt chẽ luồng tiền đi - đến, tỷ giá, hạn mức, điều chuyển vốn…Do vậy không có rủi ro, trạng thái ngoại tệ được khắc phục, tuân thủ theo đúng qui định của NHCTVN.
Nghiệp vụ bảo lãnh :
Bảng 1.4 Tình hình kết quả nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm vừa qua.
(Đơn vị tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
2007
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
Số món
1374
1907
+39
2415
+16
Giá trị
308
491,85
+60
544
+10
Số dư bảo lãnh
tính đến 31/12
496
611,34
+23
644
+5
( Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Ba Đình)
1.2- Thực trạng TĐTC DAĐT vay vốn của các DN vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương Ba Đình.
1.2.1- Đặc điểm của các DAĐT của các DN vừa và nhỏ ảnh hưởng tới công tác TĐTC tại ngân hàng
DNVVN có lượng vốn đầu tư ít nên việc thành lập không đòi hỏi cao, bộ máy tổ chức sản suất kinh doanh và quản lý gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó, việc hoạt động của doanh nghiệp khá độc lập tự chủ do có ít công nhân, họ có thể thoả thuận dễ dàng tiền lương và điều chỉnh hoạt động sản xuất.
“DNVVN có quy mô nhỏ so với các doanh nghiệp lớn”.Đặc điểm này giúp cho DNVVN linh hoạt, thích ứng với biến động của thị trường, có khả năng tiếp cận và đáp ứng được nhu cấu nhỏ lẻ tốt hơn các doanh nghiệp lớn. Đồng thời có thể thường xuyên thay đổi công nghệ mới hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như theo kịp nhu cầu của thị trường .
DNVVN có năng lực tài chính hạn chế, bất lợi cho sản xuất kinh doanh. Muốn quá trình sản xuất được thuận lợi thì doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động tín dụng. Nguồn tín dụng chủ yếu là từ Ngân hàng và vay trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ, thiếu tài sản thế chấp, năng lực tài chính chưa cao nên việc vay vốn ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn.
Do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên không hấp dẫn các lao động có trình độ. Do đó năng suất lao động tại các DNVVN thấp hơn các doanh nghiệp lớn. Bù lại, bộ phận doanh nghiệp này góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động nhàn rỗi trong xã hội, giải quyết tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
1.2.2- Thực trạng thẩm định tại ngân hàng công thương Ba Đình.
1.2.2.1- Mục đích của hoat động thẩm định.
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư là khâu cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhưng lại là khâu then chốt để quyết định đầu tư và do đó quyết định sự thành công hay thất bại của dự án. Mục đích của thẩm định dự án là giúp các chủ đầu tư, các cơ quan tham gia hoạt động đầu tư lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất, quyết định đầu tư đúng hướng đạt hiệu quả tài chính và lợi ích kinh tế xã hội. Xuất phát từ quan điểm và mục tiêu khác nhau, các chủ thể sẽ có cách tiếp cận thẩm định dự án không giống nhau, và do đó kết quả thẩm định còn có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi chủ thể.
Đối với nhà đầu tư: Thẩm định dự án trước hết là kiểm tra khả năng sinh lời về mặt tài chính cho doanh nghiệp mình, sau đó xem xét, phân tích các yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: thẩm dịnh dự án đầu tư để xem xét ra quyết định về chủ trương đầu tư, thông qua đánh giá tác động của dự án đến các trương trình, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và của cả nước trên các mặt: Mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
Đối với các NHTM: Ngân hàng thẩm định dự án nhằm mục đích tìm ra những khách hàng có đủ tiêu chuẩn về pháp lý còn như tài chính để quyết định có đầu tư vốn hay khồng. Bên cạnh đó, thông qua thẩm định chi tiết NHTM có thể phát hiện ra những thiếu xót, bất hợp lý trong các luận cứ và tính toán của dự án, từ đó cùng với chủ đầu tư tìm ra những phương hướng và biện pháp giải quyết kịp thời, đảm bảo tính khả thi của dự án. Thực tế, trong công tác thẩm định của nhiều NHTM cho thấy những cán bộ thẩm định làm việc lâu năm, tiếp xúc với nhiều dự án thuộc nhiều nghành nghề và lĩnh vực thường có nhận xét rất sắc sảo và chính xác về các dự án. Với những kinh nghiệm này, cán bộ thẩm định không những giúp ngân hàng tài trợ vốn cho dự án được an toàn, hiệu quả mà còn giúp chủ đầu tư có những giải pháp thích hợp khắc phục những thiếu xót trong dự án để công cuộc đầu tư mang lại kết quả như mong muốn.
Ngoài ra, thông qua thẩm định các nội dung của dự án, nhất là trên khía cạnh tài chính, NHTM có thể tính toán được tổng vốn đầu tư, doanh thu và chi phí hàng năm của dự án còn như các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án như NPV, NFV, IRR, thời gian hoàn vốn… những chỉ tiêu này là cơ sở để NHTM tính toán số vốn cho vay, khả năng trả nợ của dự án, đảm bảo cung cấp vốn kịp thời cho chủ đầu tư, đồng thời có thể thu nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
1.2.2.2- Quy trình thẩm định.
1-Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ dự án xin vay vốn: Nộp hồ sơ vay vốn chưa đủ hồ sơ để thẩm dịch thì chuyển lại để cán bộ tín dụng hường dẫn khách hàng hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ , nếu đã đủ cơ sở thẩm định thì kí giao nhận hồ sơ, vào sổ theo rõi và giao hồ sơ cho cán bộ trực tiếp thẩm định.
2- Trên cơ sở đối chiếu các quy định, thông tin có liên quan và các nội dung có yêu cầu (Hoặc tham khảo) Được quy định, Cán bộ thẩm định tổ chức xem xét ,
Thẩm định Dự án đầu tư và khách hàng vay vốn. Nếu cần thiết đề nghị. Cán bộ tín dụng hoặc khách hàng bổ sung hồ sơ hoặc giải trình sơ thẩm định.
3- Cán bộ thẩm định lập báo cáo Thẩm định Dự án đầu tư, tình huống phòng thẩm định xem xét .
4- Trưởng phòng thẩm định kiểm tra, Kiểm soát về nghiệp vụ, Thông qua hoặc yêu cầu Cán bộ thẩm định chỉnh sửa, làm sổ các nội dung.
5- Cán bộ thẩm định hoàn chỉnh nội dung báo cáo thẩm định, chương trình phòng thẩm định ký thông qua, lưu hồ sơ, tài liệu cần thiết và gửi trả hồ sơ kèm báo cáo thẩm định cho phòng tín dụng .
Phòng tín dụng tiến hành phân tích pháp lý mà hồ sơ vay vốn, tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp, phân tích dự án đầu tư, trực tiếp theo rõi, thu hồi nợ gốc , lãi, kiểm tra định kỳ để phòng ngừa rủi ro. Sau khi tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng phòng tín dụng tiến hành xem xét tính đầy đủ, hợp lệ hợp pháp của hồ sơ vay vốn, phân tích tình hình tài chính của khách hàng xem xét phân tích dự án đầu tư, lập tờ trình cho vay đồng thời chuyển hồ sơ sang phòng thẩm định, cán bộ thẩm định tiếp nhận hồ sơ và chịu trách nhiệm Thẩm định Dự án.
QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA SƠ ĐỒ SAU
Phòng tín dụng
Cán bộ thẩm định
Trưởng phòng thẩm định
Đưa yêu cầu, giao hồ sư vay vốn
Tiếp nhận hồ sơ
Kiểm tra
Sơ bộ hồ sơ
Nhận hồ sơ để thẩm định
Thẩm định
Bổ sung, giải trình
Lập báo cáo thẩm định
Kiểm tra, kiểm soát
Lưu hồ sơ / tài liệu
Nhận lại hồ sơ và kết quả thẩm định
Chưa đủ điều kiện thẩm định
Chưa
rõ
rõ
Chưa đạt yêu cầu
Đạt
1.2.2.3- Nội dung thẩm định dự án đầu tư.
Khi tiến hành thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định dựa vào những thông tin đã thu thập được từ nhiều nguồn để xử lý, phân tích và đánh giá thông tin bằng nhiều phương pháp đa dạng, song vẫn phải tuân thủ nguyên tắc khoa học thống nhất và chính xác. Từ đó, đưa ra quyết định cuối cùng có nên tài trợ cho dự án hay không. Để đảm bảo phân tích dự án khách quan, khoa học và toàn diện, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định dự án theo các nội dung sau:
Một là, thẩm đinh sự cần thiết phải đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư trước hết phải xem xét có cần thiết cho ra đời dự án hay không. Để giải quyết vấn đề này, cán bộ thẩm định cần trả lời được các câu hỏi sau:
-Sự ra đời của dự án có phù hợp và đáp ứng được những mục tiêu phát triển của nghành của địa phương, của đất nước?.
-Khi dự án đi vào hoạt động sẽ góp phần vào sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như thế nào? Xét về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì dự án sẽ đem lại những gì, ngân hàng và chủ đầu tư sẽ có lợi gì?.
-Quan hệ cung - cầu trên thị trường về sản phẩm hàng hóa cùng loại ở hiện tại và dự đoán trong tương lai như thế nào. Khi sản phẩm, hàng hóa của dự án ra đời thì khả năng cạnh tranh trên thị trường ra sao, nó sẽ chiếm lĩnh được bao nhiêu thị phần?.
Hai là, thẩm định phương diện thị trường của dự án
Thị trường là nơi khởi đầu của mọi phương án sản xuất kinh doanh đồng thời là nơi cuối cùng khẳng định chất lựợng thực sự của một dự án. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng chiếm lĩnh và tiêu thụ thị phần quyết định đến sự thành, bại của dự án. Do đó thẩm định thị trường của dự án là nội dung hết sức cần thiết.
Mục đích của thẩm định thị trường là đánh giá mức độ tham gia vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường mà dự án có thể đạt được. Nếu kết quả phân tích cho thấy triển vọng thị trường mang tính nhất thời hay đang dần thu hẹp lại, cần thận trọng trong việc xem xét đầu tư cho dự án.
Nôi dung thẩm định thị trường của dự án bao gồm:
-Thẩm định về lựa chọn sản phẩm và dịch vụ cho dự án
-Xác định khu vực thị trường và thị hiếu khách hàng
-Phân tích tình hình cạnh tranh sản phẩm trong tương lai trên thị trường và chỉ ra những lợi thế cạnh tranh của dự án.
Ba là, thẩm định phương diện kỹ thuật, công nghệ
Đảm bảo kỹ thuật cho dự án là một nội dung quan trọng, quá trình nghiên cứu trong điều kiện nhất định về vốn, thị trường, xã hội cho phép lựa chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp thỏa mãn các yêu cầu kinh tế, kỹ thuật mà dự án đề ra, tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật công nghệ phải xem xét các nội dung chính sau:
- Thẩm định về địa điểm xây dựng công trình
- Thẩm định về qui mô công suất của dự án
- Thẩm định công nghệ và trang thiết bị
- Thẩm định về việc đảm bảo cung cấp nguyên, nhiên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác
-Kiểm tra về qui mô, giải pháp xây dựng, tiến độ thực hiện dự án
Bốn là, thẩm phương diện tổ chức, quản lý nhân sự:
Con người và bộ máy tổ chức hoạt động của nó là những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công của hoạt động kinh doanh. Bởi vậy, tính khả thi của dự án phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức điều hành dự án, vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ tác nghiệp giữa các bộ phận. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào số lượng, chất lựơng và cơ cấu nhân sự xác định cho dự án. Chính vì thế, cán bộ thẩm định phải nghiên cứu nghiêm túc nội dung tổ chức quản trị và nhân sự của dự án bao gồm:
-Hình thức kinh doanh
-Cơ chế điều hành
-Giải pháp bố chí và đào tạo nhân sự
Năm là, thẩm định phương diện tài chính Dự án đầu tư:
Thẩm định tài chính là một nội dung rất quan trọng của dự án, thể hiện được hiệu quả của hoạt động đầu tư thông qua các chỉ tiêu tài chính. Do đó, nội dung thẩm định tài chính của dự án được chủ đầu tư và ngân hàng tài trợ vốn đặc biệt quan tâm. Việc xác định được tiến độ bỏ vốn cho dự án giúp quá trình điều hành vốn của ngan hàng được thuận lợi trong khâu lập kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn, đồng thời theo dõi tốt hơn các hoạt động của dự án, qua đó đánh giá được hiệu quả của những đồng vốn đã bỏ ra. Kết quả thẩm định tài chính dự án là một căn cứ quan trọng để các nhà quản trị ngân hàng đưa ra quyết định có nên đầu tư cho dự án hay không
1.2.2.4- Nội dung thẩm định tài chính dự án cho vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thẩm định về tổng vốn đầu tư của dự án.
Căn cứ vào bảng dự trù vốn. Ngân hàng cần kiểm tra mức vốn tương xứng với từng khoản mục chi phí có so sánh với qui mô công suất và khối lượng xây lắp phải thực hiện, số lượng chủng loại thiết bị cần mua sắm. Cần tính toán sát với nhu cầu thực tế.
Vấn đề đảm bảo về vốn lưu động khi đưa dự án vào hoạt động cũng cần đặc biệt chú ý vì nếu không đảm bảo nguồn này vốn đầu tư vào tài sản cố định sẽ không phát huy được tác dụng.
Điều đặc biệt có ý nghĩa trong thẩm định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm định phải đảm bảo tính chính xác, hợp lý và độ tin cậy của các số liệu đưa vào tính toán chứ không nên căn cứ vào số liệu sẵn có trong dự án một cách máy móc rập khuôn...thực chất chỉ là tính toán lại các phép tính mà chủ đầu tư đã làm.
- Thẩm định về nguồn vốn và sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ dự án.
Cần thẩm định rõ những nguồn nào đảm bảo cho dự án, với tỷ trọng mỗi nguồn là bao nhiêu ( vốn tự có, vốn vay...) tính đảm bảo của các nguồn vốn đó như thế nào.
Ví dụ: Vốn góp liên doanh, vốn vay ngân hàng khác có thể cần đảm bảo bằng văn bản, hoặc hợp đồng sơ bộ. Đối với nguồn vốn tự có của chủ đầu tư có thể đánh giá mức độ đẩm bảo thông qua quá trình theo dõi các tài khoản tiền gửi ở ngân hàng, theo dõi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp...Nhìn chung tỷ lệ vốn tự có trên tổng vốn đầu tư phải đạt được từ 40-50% trở lên thì dự án mới được coi là an toàn.
- Thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu và thu nhập hàng năm của dự án.
Cần xác định giá thành của từng loại sản phẩm, đánh giá các khoản mục chi phí tạo nên giá thành sản phẩm cao hay thấp, có hợp lý hay không ?
Vì sao ? So sánh với giá thành sản phẩm của các loại sản phẩm tương tự trên thị trường từ đó rút ra kết luận
Doanh thu cần được xác định rõ từng nguồn dự kiến theo năm. Thông thường trong những năm đầu hoạt động doanh thu đạt thấp hơn những năm sau ( 50-60% doanh thu khi ổn định).
Dự kiến lợi nhuận gộp và lợi nhuận ròng hàng năm (chi phí vận hành, doanh thu và lợi nhuận năm cần lập vào một bảng tổng hợp những chỉ tiêu chính để thấy mối quan hệ ).
Xác định dòng tiền dự kiến hàng năm ( tháng, quý )
Dòng tiền ròng = Thu nhập trong kỳ - Chi phí trong kỳ
NCFi = Bi - Ci
Thu nhập trong kỳ ( ký hiệu là Bi ): Gồm tất cả các khoản thu của dự án như doanh thu bán hàng, vốn đi vay, tiền thu của các hoạt động khác.v.v.
Chi phí trong kỳ (ký hiệu là Ci ) : chi vốn đầu tư , chi vốn lưu động thường xuyên trả gốc và vốn vay ngân hàng.v.v.
- Tính toán Chỉ tiêu chi phí vốn của dự án (Weighted Average Cost of Capital)
Để tính được các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, đặc biệt là những chỉ tiêu hiệu quả tài chính có chiết khấu, ta cần tính được chi phí sử dụng vốn bình quân.
- Tính toán chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (Payback Period)
Khái niệm:
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian cần thiết để cho thu nhập ròng từ dự án vừa đủ bù đắp số vốn đầu tư ban đầu.
Thời gian hoàn vốn có thể được tính theo hai cách:
+ Thời gian hoàn vốn giản đơn( không chiết khấu).
+ Thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
Chỉ tiêu này cho phép tính toán nhanh nhưng không xét đến thời giá của đồng tiền nên tính chính xác thấp.
Ưu điểm và nhược điểm chung của Thời gian hoàn vốn:
Ưu: Cho biết thời gian hoàn vốn để ra quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro vì dữ kiện trong những năm đầu đạt độ tin cậy cao. Chỉ tiêu này được các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( thiếu vốn, đoản vốn ), các nước chậm phát triển quan tâm nhiều vì khả năng tài chính và dự báo thị trường kém.
Nhược: Không cho biết thu nhập lớn hay nhỏ sau kỳ hoàn vốn, trong thực tế đây cũng là mối quan tâm lớn của nhà đầu tư. Có những dự án thời gian đầu mang lại thu nhập rất thấp( dự án mới hoặc thâm nhập thị trường mới , sản phẩm mới, đầu tư hạ tầng...) nhưng triển vọng lâu dài tốt đẹp. Nếu tính Thời gian hoàn vốn thì thường khá dài, có thể gây băn khoăn cho nhà đầu tư và NH.
Nếu 2 dự án có T1 = T2 thì rất khó lựa chọn ( cần kết hợp với các chỉ tiêu khác)
-Tính chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (Return on In vestment)
Đây là chỉ tiêu hiệu quả tài chính giản đơn (không chiết khấu)
ROI cho ta biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có được mấy đồng lợi nhuận sau thuế. ROI là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư cũng như của dự án nói chung.
ROI tính xong được đem so sánh với ROI của các doanh nghiệp, các dự án khác cùng nghành nghề và lĩnh vực.
- Tính chỉ tiêu NPV ( hiện giá ròng )
NPV cho ta biết quy mô tiền lời của dự án sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư, khi tính toán chỉ tiêu này phải dựa trên cơ sở xác định giá trị hiện tại, tức là phải chiết khấu các dòng tiền xảy ra vào các năm khác nhau của đời dự án.
NPV cho ta biết tổng lợi ích của dự án đem lại tính ở thời điểm hiện tại sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư.
Điều kiện để dự án được lựa chọn theo NPV : NPV>0 .
Phương pháp tính: dùng bảng tính hoặc Computer.
- Tính chỉ tiêu tỷ suất nội hoàn (IRR Internal Rate of Return).
Tỷ suất nội hoàn là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó tổng giá trị hiện tại thu nhập bằng tổng giá trị hiện tại chi phí ( tức NPV = 0 ).
Phương pháp tính: Dùng nội suy toán học theo 3 bước sau:
+ Lập công thức tính NPV với r là ẩn số
+ Chọn r1 và r2 sao cho r2 > r1 và r 2 - r1 < 5%.
Thay vào để tìm NPV1và NPV2 sao cho NPV1 >0 và NPV2 <0
+ Dùng công thức nội suy toán học để tìm IRR.
+ IRR cho biết khả năng sinh lợi của chính dự án đầu tư ( khả năng đem lại nguồn thu để cân bằng với vốn đầu tư và các chi phí bỏ ra ) do dó nó cũng cho biết chi phí vốn tối đa mà đự án có thể chịu đựng được.
Chọn dự án khi IRRda >MARR (Minimum Attractive Rate of Return)
+ MARR gọi là suất thu hồi tối thiểu hấp dẫn chủ yếu được chọn dựa vào kinh nghiệm của người chủ đâù tư hoặc ngân hàng thẩm định. Thông thường, MARR được lấy bằng chi phí thực của vốn đầu tư hoặc chi phí cơ hội. Trường hợp dự án được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn thì MARR đựoc tính theo phương pháp bình quân gia quyền.
ĐỒ THỊ THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA NPV VÀ IRR
Xác định điểm hoà vốn của dự án (Break even Point)
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu của dự án vừa đúng bằng tổng chi phí hoạt động. Điểm hoà vốn được biểu hiện bằng số đơn vị sản phẩm hoặc giá trị của doanh thu.
Cách tính:
Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán được.
Gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn.
f là chi phí cố định ( định phí ) .
v là chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm( biến phí ).
v.x là tổng biến phí.
p là đơn giá sản phẩm.
Ta có hệ phương trình sau:
yDT = px
yCF ._.= vx + f
Tại điểm hoà vốn thì px0 = vx0 + f suy ra :
Sản lượng hoà vốn:
F
x0 = -------------
p - v
Doanh thu hoà vốn:
F
DT0 = -----------
V
1 - ----
p
Nếu điểm hoà vốn càng thấp ( tức x0 hoặc DT0 càng nhỏ) thì khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao rủi ro thua lỗ càng thấp. Ta có thể xác định mức hoạt động hoà vốn bằng x0 chia x. Thời gian phân tích hoà vốn thường được tính cho từng năm hoạt động, cho một năm đại diện nào đó hoặc cho cả thời gian hoạt động của dự án.
-Thẩm định về khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
Xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ đầu tư) phải hoàn trả Ngân hàng đầy đủ và đúng hạn số vốn gốc và lãi vay để NHTM có thể trả lại cho bên được huy động vốn hoặc cho vay đối với dự án khác. Trong quá trình thẩm định DAĐT, NHTM đậc biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của chủ đầu tư khi đến kỳ hạn trả nợ. Khả năng trả nợ cuả một Doanh nghiệp chủ đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Dự án đang xin vay là dự án đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu, nguồn trả nợ chủ yếu trông đợi vào khả năng sản xuất kinh doanh của dự án hay còn có những nguồn bổ sung nào khác. Hiện nay, các NHTM đang xác định mức trả nợ từng lần theo công thức sau:
Tổng số nợ gốc phải trả
Số kỳ trả nợ dự kiến = ---------------------------------
Số gốc trả mỗi kỳ
Tổng số nợ gốc phải trả
Số kỳ trả nợ dự kiến = -------------------------------------------------------------
Lợi nhuận ròng + KHCB tài sản CĐ + Các nguồn
dành trả nợ từ vốn vay khác
Từ công thức trên, nếu sau khi đã dự kiến số kỳ trả nợ và biết tổng số nợ gốc phải trả mỗi kỳ, NHTM có thể so sánh cân đối các nguồn thu từ dự án như lợi nhuận ròng, KHCB TSCĐvà các nguồn khác xem khả năng trả nợ có đảm bảo không.
Việc phân tích dòng tièn ròng hàng năm của DAĐT sẽ cho ta biết nhiều thông tin quan trọng về khả năng trả nợ NH của DAĐT.
1.2.2.5- Phương pháp thẩm định tài chính.
Phương pháp thẩm định các dự án.
Trong những năm qua đầu tư ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ. Rất nhiều dự án lớn hoạt động có hiệu quả. Công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn trung và dài hạn đã có nhiều đổi mới thích ứng với vốn cơ chế mới. Bên cạnh đó chúng ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm thẩm định dự án của nhà đầu tư nước ngoài làm cho phương pháp định ngày càng hoàn thiện.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong tác thẩm định tài chính dự án vay vốn trung và dài hạn và hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao, việc cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng thấp chủ yếu cho vay đối với Doanh nghiệp Nhà nước và còn nhiều tồn tại trong phương pháp thẩm định. Nhìn chung hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính đang được sử dụng hiện nay trong thẩm định dự án tại Ngân hàng là: Mức sinh lời của dự án: Khả năng hoàn trả vốn vay và độ an toàn của dự án. Thực tế hiện nay ba chỉ tiêu trên đều đã được đề cập tới tuy nhiên mức độ chưa sâu và còn nặng về hình thức.
Về mức sinh lời thì thường được xét theo chỉ tiêu lợi nhuận ròng hàng năm. Về khả năng hoàn vốn thì Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới mức hoàn trả vốn vay mà ít quan tâm tới việc hoàn trả vốn đầu tư. Do đó hiệu quả của hoạt động đầu tư bị xem nhẹ so với vấn đề thu hồi vốn của ngân hàng.Còn về độ an toàn Ngân hàng chỉ xét độ an toàn của món vay thông qua việc đánh giá tài sản thế chấp cầm cố, bảo lãnh...
Hiện nay trong công tác thẩm định các dự án nói chung thường sử dụng các phương pháp như:
+ Phương pháp so sánh: Thường sử dụng hai chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng NPV và suất thu hồi nội bộ IRR để so sánh và có kết quả khả quan nhất. ngoài ra phương pháp này còn sử dụng một số chỉ tiêu như:
Lợi nhuận trước thuế(LNTT) : Là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất của các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ .
Lợi nhuận sau thuế : là chỉ tiêu trên sau khi đã trừ đi phần đóng thuế lợi tức theo tỷ lệ qui định
Lợi nhuận dùng để trả nợ : là phần lợi nhuận sau thuế trích ra dùng để trả nợ.
Lợi nhuận ròng : là tổng lợi nhuận thu được trong thời gian hoạt động của dự án.
+ Phương pháp phân tích độ nhạy: Trong phân tích độ nhạy người ta dự kiến một số tình huống thay đổi, những rủi ro trong tương lai làm cho giá nguyên vật liệu tăng, giá thuê nhân công tăng, sản lượng giảm, doanh thu giảm...rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả như: T, NPV, IRR,...nếu các chỉ tiêu đó sau khi tính lại vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn định và được chấp thuận. Ngược lại dự án bị coi là không ổn định ( độ nhạy cảm cao ) buộc phải xem xét điều chỉnh tính toán lại mới được đầu tư.
+ Phương pháp phân tích tình huống: Phân tích tình huống là kỹ thuật phân tích rủi ro kết hợp cả hai nhân tố là tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với trường hợp cơ sở.
Phương pháp thẩm định tài chính các dự án ở ngân hàng Công thương.
Thẩm định hiệu quả về mặt tài chính được thực hiện thông qua việc tính toán rất nhiều các chỉ tiêu về lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn... Hiện nay, để thực hiện công việc này người ta thường sử dụng hai phương pháp so sánh các chỉ tiêu:
Phương pháp tài chính giản đơn :
Phương pháp này được sử dụng khá rộng rãi trong công tác thẩm định dự án của ngân hàng.
Phương pháp này thường tính toán các chỉ tiêu sau :
Lợi nhuận trước thuế(LNTT) : Là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất của các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ .
Lợi nhuận sau thuế : là chỉ tiêu trên sau khi đã trừ đi phần đóng thuế lợi tức theo tỷ lệ qui định
Lợi nhuận dùng để trả nợ : là phần lợi nhuận sau thuế trích ra dùng để trả nợ.
Lợi nhuận ròng : là tổng lợi nhuận thu được trong thời gian hoạt động của dự án.
Nếu gọi :
åD : là tổng doanh thu của dự án
åC : là tổng chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ
åT : là tổng thuế dự kiến phải nộp (gồm cả thuế lợi tức)
Công thức :
LN = åD - åC - åT
Khi tính toán, nếu LN > 0 là dự án có lãi và ngược lại.
Tuy nhiên, do không tính đén yếu tố thời gian của tiền tệ nên chỉtiêu này có tính chính xác không cao, thường được áp dụng cho những dự án có thời gian hoạt động ngắn, trong môi trường kinh doanh và đồng tiền thanh toán ổn định .
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định bằng công thức :
åV
T =
LN + KH
Trong đó :
T : thời gian thu hồi vốn đầu tư .
åV: tổng vốn đầu tư .
LN : lợi nhuận ròng trước thuế hàng năm của dự án .
KH : khấu hao hàng năm của dự án .
Tỷ số trả nợ của dự án (TSTN): chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án với nghĩa vụ hoàn trả vốn vay .
Lợi nhuận của dự án (chưa tính lãi vay) + Khấu hao cơ bản
TSLN =
Các khoản nợ dài hạn đến hạn trả + Lãi vay dài hạn
Theo kinh nghiệm thẩm định tỷ số này > 1,5 thì dự án mới được coi là có khả năng trả nợ vững chắc .
Tỷ suất lợi nhuận giản đơn (TSLNGĐ) :
Lợi nhuận ròng bình quân + Khấu hao cơ bản bình quân
TSLNGĐ =
Tổng vốn đầu tư
Tỷ suất này phải cao hơn lãi suất vay vốn dài hạn ở ngân hàng mới được coi là có hiệu quả .
Thời gian trả nợ của dự án (TTN) :
Tổng số vốn vay trung và dài hạn
TTN =
KHTSCĐ hình + Lợi nhuận dành + Nguồn khác
thành từ vốn vay trả nợ cho dự án để trả nợ
Thời gian trả nợ càng ngắn càng tốt .
Nếu chủ dự án không có nguồn trả lãi vay hàng năm, phần tỷ số của công thức trên cộng thêm lãi suất vay phát sinh theo diễn biến của dự án.
Ngoài ra trong trường hợp doanh nghiệp có khả năng tài chính vững vàng, có nhiều nguồn tích lũy khác dùng để tham gia trả nợ cho dự án thì mẫu số được cộng thêm phần vốn này .
Khả năng sinh lời và mức độ an toàn của dự án thường được diễn đạt bằng phương pháp phân tích điểm hòa vốn cụ thể bằng các chỉ tiêu sản lượng hòa vốn và doanh thu hòa vốn. Điểm hòa vốn được tính cho một năm và thường được tính ở năm đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định .
Phân tích điểm hòa vốn là phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất biến và chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được nhằm mục đích lập ra lợi nhuận thu được trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập, luôn đảm bảo doanh thu cao hơn chi phí bỏ ra, khi thẩm định dự án người ta thường xác định điểm hòa vốn như sau :
f
x=
p - v
Trong đó : x là số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn.
f là tổng định phí cả đời dự án.
p là giá bán bình quân của một đơn vị sản phẩm.
v là biến phí một đơn vị sản phẩm.
Điểm hòa vốn lý thuyết (ĐLT) :
Đ
ĐLT =
D - B
Trong đó :
Đ : chi phí bất biến
D : doanh thu
B : chi phí khả biến
Sản lượng hòa vốn lý thuyết (SLHVLT) :
Đ
SLHVLT =
p - b
Trong đó :
p : giá bán một đơn vị sản phẩm
b : biến phí cho một đơn vị sản phẩm
Doanh thu hòa vốn lý thuyết (DTHVLT) :
Đ
DTHVLT =
1 - B/Đ
Công suất hòa vốn :
Sản lượng hoà vốn.
Công suất hoà vốn =
Công suất hoạt động.
Điểm hòa vốn tiền tệ (ĐTT) : xác định mức doanh thu dự trù khả năng của dự án có tiền để trả nợ vay .
Đ - KH
ĐTT =
D - B
Trong đó : KH : khấu hao cơ bản hàng năm
Điểm hòa vốn trả nợ (ĐTN) : xác định mức sản lượng, doanh thu có thể trả nợ và đóng thuế
Đ - KH + Nợ gốc + TLT
ĐTN =
D - B
Trong đó : TLT : thuế lợi tức
Điểm hòa vốn càng thấp thì khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao, rủi ro về thua lỗ càng thấp.
Tuy nhiên trên thực tế, điểm phân tích điểm hòa vốn trên đây thương chỉ phù hợp với những dự án nhỏ mà sự xuất hiện của dự án đó thường không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến giá trị đầu vào và đầu ra. Trong trường hợp ngược lại, phân tích điểm hòa vốn cho kết quả có độ chính xác thấp.
Đánh giá độ nhậy cảm của dự án đầu tư :
Đánh giá độ nhạy có mục đích xác định tính giới hạn an toàn của dự án khi có sự thay đổi các yếu tố đầu tư và hoạt động xét theo hiệu quả của nó. Từ ý nghĩa đó, độ nhạy của dự án đầu tư được đặc trưng bằng tỷ lệ mức độ thay đổi các chỉ tiêu đánh giá dự án(khả năng sinh lời, khả năng hoàn vốn, ...) so với mức độ thay đổi các yếu tố xác định của dự án. Tổng quát, độ nhạy của dự án đầu tư được xác định như sau:
Trong đó: E là độ nhạy.
dci là mức biến đổi của nhân tố ảnh hưởng.
dFj là mức biến đổi của chỉ tiêu đánh giá dự án.
Khi thẩm định tài chính dự án đầu tư, việc ngân hàng phân tích độ nhạy của dự án được thực hiện với một số khoản mục được chọn lọc để thử xem khi ngân hàng muốn thay đổi những giả thiết trong Kế hoạch tài chính thì nó ảnh hưởng như thế nào đối với hoạt động của dự án đầu tư. Lợi ích của việc phân tích độ nhạy của dự án đầu tư là nó cung cấp cho ngân hàng một con số về hiệu quả tài chính ngay lập tức cho những sai lầm có thể có trong những giả thiết được dùng để lập Kế hoạch tài chính của dự án.
Vì vậy, ngân hàng thương mại thương kiểm tra một vài yếu tố cơ bản nhất trong các tình huống thích hợp, chẳng hạn như :
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong trường hợp xác định thi trường chưa chắc chắn.
Chi phí xây dựng trong trường hợp khối lượng công tác xây dựng và giá đầu tư chưa cụ thể .
Chi phí sản xuất trong trường hợpgiá cả và điều kiện cung cấp các yếu tố đầu vào thường biến động...
Phân tích các tỷ lệ tài chính :
Tỷ lệ khả năng thanh toán
Tỷ lệ về thanh toán hiện hành.
Tỷ lệ về khả năng thanh toán nhanh.
Tỷ lệ khả năng cân đối vốn
Vốn riêng / tổng số vốn đầu tư
Vốn riêng / tổng số nợ
Tổng số nợ / tổng số vốn đầu tư
Tỷ lệ về khả năng hoạt động
Vòng quay tiền
Vòng quay dự trữ
Kỳ thu tiền bình quân
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Tỷ lệ về khả năng sinh lãi
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Doanh lợi vốn tự có
Doanh lợi vốn
Các chỉ tiêu trên sẽ được tính toán từ bảng dự trù tổng kết tài sản và bảng dự trù lỗ lãi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư. Trong quá trình phân tích, các chỉ tiêu này được so sánh qua các năm để thấy được xu hướng thay đổi của các tỷ lệ tài chính, đánh giá tình hình tài chính của dự án qua các năm được cải thiện hay trở nên yếu kém để có biện pháp khắc phục kịp thời. Các chỉ tiêu này được so sánh với các dự án cùng loại để xác định vị thế của dự án mà ngân hàng đang xem xét tài trợ.
Phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại :
Đây là phương pháp thẩm định tính khả thi của dự án dựa vào các chỉ tiêu :
Lãi kép và giá trị kép
Giá trị hiện tại thuần
Tỷ suất doanh lợi nội bộ
Các chỉ tiêu trên đây về thực chất được tính theo nguyên tắc có tính đến yếu tố thời gian của tiền tệ, nghĩa là khi sử dụng phương pháp này, toàn bộ thu nhập và chi phí của dự án trong suốt đời hoạt động của dự án được qui đổi thành một giá trị tương đương ở hiện tại.
b.1. Lãi kép và giá trị kép :
Lãi kép là lãi sinh sôi qua các năm và lãi thu được ở năm trước Ngân hàng Công thương nộp vào làm vốn để làm cơ sở tính lãi cho năm tiếp theo. Để tính giá trị lãi kép năm thứ n, dùng công thức :
Tn = V( 1 + r)n
Trong đó :
Tn : giá trị lãi kép năm thứ n
V : tổng vốn đầu tư hàng năm
n : Lãi suất / năm
r : số năm dự án đã hoạt động
Thẩm định dự án đầu tư qua việc đánh giá chỉ tiêu lãi kép và giá trị kép có ý nghĩa rất lớn bởi đó chính là cái mốc đánh giá hiệu quả tối thiểu mà dự án phải đạt được khi bỏ vốn đầu tư. Tiền vốn đầu tư bỏ ra luôn phải sinh lời. Hai chỉ tiêu này là nền tảng để tính các chỉ tiêu sau.
b.2. Giá trị hiện tại thuần (hay giá trị hiện tại ròng) (Net Present Value- NPV).
NPV của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
Sử dụng: Chỉ chấp nhận các dự án có NPV >o. Nếu có nhiều dự án loại trừ nhau thì ta chọn dự án có NPVmax.
Lợi ích là tổng lợi ích hay thu nhập của một dự án đầu tư gồm toàn bộ doanh thu từ việc bán sản phẩm và dịch vụ của dự áncùng với các khoản phụcấp nhận được. Ngoài ra trong năm cuối cùng dự án có thể có một nguồn thu đặc biệt là giá trị còn lại. Rất nhiều tài sản của dự án như máy móc, thiết bị đất đai... vẫn còn có thể sử dụng hay đem bán, tức là chúng vẫn còn có một giá trị nào đosau khi dự án chấm dứt. Phần giá trị đó được tính như một khoản thu nhập vào năm cuối cùng của dự án.
Chi phí là khoản chi phí của dự án, thông thường có : chi phí đầu tư ban đầu, chi phí hoạt độngvà bảo dưỡng, đầu tư thay thếvà các chi phí sản xuất.
Lợi ích thuần được xác định bằng cách lấy toàn bộ thu nhập trừ đi các khoản chi phí.
Với tiêu chuẩn giá trị hiện tại thuần, ta sẽ chấp nhận mọi dự án có giá trị hiện tạithuần dương khi được chiết khấu ở lãi suất thích hợp. Lúc đó, tổng lợi ích được chiết khấu lớn hơn tổng chi phíđược chiết khấu và dự án có khả năng sinh lời. Ngược lại, khi giá thành hiện tại thuần âm, dự án không bù đắp được chi phí bỏ ra và bị bác bỏ.
Chỉ tiêu NPV chỉ xác định lợi nhuận thực của dự án mà chưa cho biết tỷ lệ và giá trị tuyệt đối đó trên tổng vốn đầu tư cần phải bỏ ra để đạt được chúng. Người ta xác định thêm một chỉ tiêu nữa gọi là tỷ lệ giá trị hiện tại ròng : NPVR
NPV
NPVR =
åV
Trong đó : åV là tổng vốn đầu tư của dự án qui về thời điểm bắt đầu đầu tư
Tỷ lệ NPVR cho biết một đồng vốn bỏ ra đầu tư sẽ đem lại bao nhiêu đồng giá trị hiện tại khi thực hiện dự án.
b.3. Chỉ số doanh lợi(Profitarilyty Index – PI).
PI được tính dựa vào mối quan hệ giữa tỷ số thu nhập ròng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu. Công thức xác định như sau:
Về nguyên tắc, dự án khả thi thì phải là dự án có PI >1, tức là giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong thời kỳ phân tích tại thời điểm bắt đầu vận hành dự án phải lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra. Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ chấp nhận những dự án có PI nào đó mà chỉ số này đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng thương mại đối với chủ đầu tư.
b.4. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (Interal Rate of Return-IRR).
IRR đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án, nó là suất chiết khấu mà với giá trị này thì giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0.
Sử dụng: Nếu các dự án đầu tư là độc lập với nhau thì dự án có IRR ³ r sẽ được lựa chọn.
Nếu các dự án là loại trừ nhau thì ta chọn dự án nào có IRR lớn nhất.
Chỉ tiêu IRR có ưu điểm là cho ta biết được dự án có sinh lời hay không. Nhưng việc tính toán còn Ngân hàng Công thương gặp nhiều khó khăn. Có nhiều dự án khi tính toán có nhiều giá trị IRR để đánh giá dự án. Cũng có trường hợp khi đầu tư khôi phục sản xuất kinh doanh nào đó NPV tăng khi tỷ suất chiết khấu tăng. Do đó, chúng ta sẽ không xác định được IRR. Trong những trường hợp như vậy thì NPV sẽ là chỉ tiêu đúng đắn nhất cho ta quyết định về dự án.
1.2.3- Minh hoạ cụ thể về thẩm định tài chính dự án cho vay tại ngân hàng ( Dự án xây dựng nhà máy sản xuất bao bì Corton).
Mô tả khoản vay:
Tên dự án: Xây dựng nhà máy sản xuất bao bì corton công suất 28.512.000 m2/ năm
Chủ đầu tư: Công ty cổ phần Ngọc Diệp
Hình thức đầu tư: Xây dựng và mua sắm mới.
Địa điểm đầu tư: Đường 206, khu B, khu công nghiệp Phố Nối A, tỉnh Hưng Yên
Sản phẩm của dự án: Sản xuất bao bì carton.
Tổng mức vốn đầu tư: 95.108.761.621 đồng
Nguồn vốn đầu tư: Bằng vốn tự có, huy động và vốn vay Ngân hàng
Vốn tự có và huy động: 34.575.044.601 đồng
Vốn vay Ngân hàng: 60.553.717.020 đồng.
* Quy mô, công suất thiết kế của dự án:
Bìa carton 5 lớp: 46.080 m2/ngày
Bìa carton 3 lớp: 57.600 m2/ngày
A- Thẩm định về khách hàng vay vốn.
A.1- Giới thiệu khách hàng:
Tên khách hàng: Công ty Cổ phần Ngọc Diệp.
Địa chỉ: Đường 206, Khu B, Khu công nghiệp Phố Nối A, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Giấy chứng nhận đầu tư số 052031000025 do BQL các khu công nghiệp Hưng Yên cấp ngày 18/04/2007.
Điện thoại:
Tài khoản tiền gửi: 102010000516880 tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
Ngành nghề sản xuất kinh doanh chính:
Sản xuất bột giấy, giấy và bìa
Đại lý mua b án, ký gửi hàng hoá
Dịch vụ thiết kế nội thất
Sản xuất đồ nội thất gia dụng, văn phòng, trường học.
Xây dựng các công trình dân dụng
Xây dựng các công trình công nghiệp
Mua bán thiết bị văn phòng( máy tính, phần mêm máy tính, thiết bị ngoại vi như máy in, photocopy, két sắt, vật tư ngành in)
Sản xuất đồ gia dụng dùng điện
Sửa chữa, bảo hành hàng điện, điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, điều hoà không khí
In bao bì, nhãn mác.
Vốn điều lệ đến thời điểm gần nhất: 10.000.000.000 đồng.
Vốn đăng ký kinh doanh đến thời điểm gần nhất: 10.000.000.000 đồng.
Người đại diện: Ông Bùi Bích Ngọc Chức vụ: Tổng giám đốc.
Cơ cấu, mô hình tổ chức:
Loại hình khách hàng: Công ty cổ phần.
Số lượng lao động dự kiến: 350 người.
A.2- Hồ sơ, tài liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính
Do công ty mới được thành lập đầu năm 2007 nên chưa có báo cáo tài chính tuy nhiên hiện nay công ty đã có các chứng từ chứng minh vốn góp và phần vốn đã đưa vào để triển khai dự án.
B- Thẩm định dự án đầu tư.
B.1- Hồ sơ pháp lý.
Giấy chứng nhận đầu tư số 05203100025 do ban quản lý các khu công nghiệp Hưng Yên cấp ngày 18-04-2007.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Biên bản họp hội đồng thành viên về việc:
Thành lập công ty cổ phần Ngọc Diệp để quản lý và triển khai dự án đầu tư
Bổ nhiệm giám đốc là ông Bùi Bích Ngọc.
Phê duyệt dự án đầu tư nhà máy sản xuất và in bao bì carton Ngọc Diệp.
Cam kết góp vốn của các cổ đông để thực hiện dự án.
Điều lệ công ty cổ phần Ngọc Diệp.
B.2- Sự cần thiết thực hiện dự án:
Hiện nay, cùng với hàng loạt các thành tựu về ngoại giao, kinh tế, chính trị như việc trở thành thành viên của WTO, ASEAN, … và các tổ chức quốc tế khác, Việt nam đã tạo ra hàng loạt các cơ hội về phát triển và hợp tác kinh tế quốc tế. Trong những năm sắp tới, sẽ có hàng loạt các nhà máy mới sản xuất hàng hoá trong lĩnh vực tiêu dùng và công nghiệp được ra đời. Điều đó làm tăng lên nhu cầu về bao bì của thị trường cả về số lượng, chất lượng bao bì và mẫu mã in ấn. Hà Nội là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước với số lượng các dự án đầu tư nhiều, nhất là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp hình thành các khu CN lớn bao quanh thủ đô như khu CN Thăng Long, Khu CN Nội Bài, Khu CN Sài Đồng, Khu CN Đài Tư ...., kéo theo sự mở rộng các khu CN ra các tỉnh giáp ranh như Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng ....Từ sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến tại khu vực Hà Nội và các tỉnh lân cận đã dẫn đến nhu cầu về bao bì, đặc biệt là bao bì CARTON dùng để đóng gói sản phẩm, hàng hoá tăng lên rất lớn. Việc thực hiện dự án xây dựng nhà máy sản xuất và in bao bì carton Ngọc Diệp sẽ đáp ứng nhu cầu về bao bì carton trong khu vực.
Dự kiến sau khi nhà máy được xây dựng, sẽ giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 300 lao động trong khu vực, và nộp ngân sách mỗi năm (sau thời gian được hưởng ưu đãi về thuế TNDN) từ 3 đến 4 tỉ đồng.
Việc thực hiện dự án, đối với chủ đầu tư, là công ty cổ phần Ngọc Diệp, sẽ mang lại những lợi ích sau đây:
Tiền thân của công ty cổ phần Ngọc Diệp là công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp hoạt động trong 02 lĩnh vực là kinh doanh thiết bị nội thất, điện lạnh, thiết bị văn phòng và sản xuất, in bao bì carton. Do yêu cầu mở rộng sản xuất, để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán kinh tế, ban điều hành của công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp đưa ra phương án tách mảng kinh doanh. Theo đó Công ty cổ phần Ngọc Diệp sẽ hoạt động riêng biệt trong mảng sản xuất và kinh doanh bao bì carton.
Hiện nay, nhà máy sản xuất và in bao bì Ngọc Diệp đang hoạt động hết công suất, nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu về sản phẩm bao bì carton của khách hàng. Mặt khác, một số thiết bị sản xuất trọng yếu như dàn máy sóng, dàn máy in… được đầu tư từ năm 2001, tuy vẫn đáp ứng được phần lớn yêu cầu về sản phầm của khách hàng, nhưng vẫn có những sản phẩm công ty không thể đáp ứng do yêu cầu về chất lượng sản phẩm quá cao, vượt quá khả năng sản xuất của công ty. Việc thực hiện dự án sẽ giúp nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất, đáp ứng nhu cầu của thị trường hiện nay, và theo xu hướng phát triển của thị trường trong tương lai.
B.3- Thẩm định phương diện thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm.
Thị trường đầu vào:
Nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất nhà máy bao gồm: Giấy Kraft, giấy sóng, bột hồ và ghim kẽm, mực in.
Nguồn nguyên vật liệu đầu vào của dự án đều được cung cấp bởi các nhà cung cấp lớn, có uy tín, đã có quan hệ bạn hàng lâu năm với công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Do đó, khi nhà máy mới đi vào hoạt động, với bộ máy điều hành và nhân sự ít thay đổi so với nhà máy cũ hiện nay, nguồn nguyên vật liệu đầu vào là được đảm bảo. Một số nhà cung cấp có đã có quan hệ lâu năm với công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp:
Nhập ngoại:
Công ty SiAM Kraft – Thái Lan
Công ty Marubeni - Nhật Bản
Công ty P and M – Hàn Quốc
Công ty Chuen hua – Trung Quốc
…
Mua trong nước:
Công ty giấy Việt Trì – Phú Thọ
Công ty giấy Sông Lam - Nghệ An
Công ty giấy Lam Sơn – Thanh Hoá
Công ty giấy Hoàng Hà – Hà Nội
Công ty giấy Hưng Hà – Hà Nội
….
Thị trường tiêu thụ:
Tổng quan về nhu cầu bao bì carton trong khu vực: Cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới; nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng. Bên cạnh ưu thế về giá nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu phong phú, các chính sách của nhà nước luôn khuyến khích Nhà đầu tư trong và ngoài nước đã tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực: thiết bị điện tử, điện lạnh, hàng lương thực thực phẩm, hàng may mặc, hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng ở nước ta liên tục tăng trưởng. Từ sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến tại khu vực Hà Nội và các tỉnh lân cận đã dẫn đến nhu cầu về bao bì, đặc biệt là bao bì CARTON dùng để đóng gói sản phẩm, hàng hoá tăng lên rất lớn.
Đối tượng khách hàng và phương án tiêu thụ:
+ Đối tượng khách hàng: Nguồn khách hàng của công ty cổ phần Ngọc Diệp là nguồn khách hàng lớn của công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp – chi nhánh Hưng Yên, đã thực hiện cung cấp trong nhiều năm qua. Khách hàng của công ty hoạt động trong nhiều lĩnh vực như: thiết bị văn phòng, thiết bị điện tử, điện lạnh, hàng lương thực, thực phẩm, giấy dép, may mặc, thiết bị vệ sinh…
Lĩnh vực thiết bị văn phòng: Công ty nội thất Hoà Phát, chiếm khoảng 15% đầu ra.
Lĩnh vực sản xuất hàng lương thực, thực phẩm: Cty dầu thực vật Cái Lân, Công ty dầu thực vật Tường An, công ty sữa Vinamilk, công ty Cổ phần sữa quốc tế IDP, công ty sữa Hanoimilk, công ty Acecook Việt Nam…
Lĩnh vực nước giải khát: công ty Bia Sài gòn, công ty Lavie, Vital…
Nhu cầu về sản phẩm bao bì carton của riêng khu vực thị trường truyền thống nêu trên đã ở mức khoảng 12 triệu m2/năm và ngày càng tăng do sản lượng hàng hoá của các đơn vị hiện nay liên tục tăng trưởng.
Hiện nay, nhà máy sản xuất và in bao bì thuộc công ty TNHH thương mại và sản xuất Ngọc Diệp luôn hoạt động hết công suất (khoảng 16 triệu m2/năm).
+ Phương án tiêu thụ: Trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế về kinh nghiệm sản xuất và uy tín trên thị trường đã tích luỹ được sau nhiều năm, dự án xác định phương châm bán hàng chủ đạo là tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các khách hàng tiêu thụ truyền thống, ký hợp đồng cung cấp sản phẩm ổn định cho khách hàng trong thời gian dài. Để sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường, dự án chủ trương tận dụng triệt để năng lực sản xuất lớn của công nghệ hiện đại của nhà máy để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Tình hình cạnh tranh trên thị trường:
Sau khi xây dựng công ty cổ phần Ngọc Diệp, thì nhà máy sẽ là nhà máy sản xuất và in bao bì lớn nhất miền Bắc. Nhờ quy mô lớn, sức cạnh tranh của nhà máy sẽ là áp đảo trên thị trường cung cấp sản phẩm bao bì carton.
Hiện nay trong khu vực Hưng Yên, Hà Nội, chỉ có một vài nhà máy sản xuất mặt hàng cùng loại, nhưng quy mô nhỏ, sản lượng không đáng kể, nên tính cạnh tranh so với sản phẩm của dự án rất thấp.
B.4- Thẩm định phương diện tổ chức quản lý:
+ Sơ đồ tổ chức: Toàn bộ hoạt động của Nhà máy sẽ do chủ đầu tư trực tiếp quản lý và điều hành. Mô hình tổ chức Nhà máy theo mô hình trực tuyến như sau:
Tổng giám đốc
Các phòng chức năng
P.kếtoán
P.Quản đốc
P.Xưởng
P. Kế hoạch Vật tư
P. Kinh doanh
Tổ máy
Tổ dập buộc
Tổ in
+ Cơ cấu tổ chức:
Lao động gián tiếp: 30 người
Trong đó: + Ban Giám đốc: 01 người
+ Các phòng chức năng: 29 người
Lao động trực tiếp: 300 người
Chế độ làm việc: 2 ca/ngày, 1 ca = 8 tiếng, số ngày làm việc trong năm 300 ngày.
B.5- Thẩm định phương diện kỹ thuật của dự án
B.5.1 Phương án xây dựng:
+ Quy mô công trình: Diện tích sử dụng cho dự án đã được ban quảnl ý các khu công nghiệp Hưng Yên, phê duyệt tại trong giấy chứng nhận đầu tư số 052 031 000025 ngày 18/04/2007 là: 22.544 m2.
Địa điểm: Khu B, khu công nghiệp Phố Nối A, Tỉnh Hưng Yên:
Phía Bắc giáp doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Phía Nam giáp doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Phía Đông giáp đường N3
Phía Tây giáp đường N2.
Bảng 1.5- Các hạng mục xây dựng nhà máy bao gồm.
Stt
Hạng mục
Số lượng
Đơn vị tính
1
Nhà xưởng sản xuất chính
4.316
m2
2
Khu xuất hàng
4.316
m2
3
Khu nhập hàng
4.316
m2
4
Khối văn phòng (3tầng x 800m2)
2.400
m2
5
Nhà bảo vệ
113
m2
6
Nhà để xe
114
m2
7
Nhà ăn (2tầng )
144
m2
8
Khu vực nước
72
m2
9
Kho hoá chất
36
m2
10
Kho xăng dầu
36
m2
11
Phòng khuân
48
m2
12
Phòng bảo trì
48
m2
13
Lò hơi
60
m2
14
Nhà vệ sinh
36
m2
15
Máy phát
48
m2
16
Trạm điện
48
m2
17
Hệ thống giao thông nội bộ
4.340
m2
18
Hệ thống tường rào, cổng nhà máy
1.500
m2
(Chi tiết xem sơ đồ mặt bằng và thiết kế sơ bộ đính kèm)
Bảng 1.6- Chi phí xây dựng.
TT
Hạng mục
Đvt
Số lượng
Đơn giá (USD/m2)
Giá trị
(USD)
1
Thuê đất Khu công nghiệp
m2
22.544
10,745
242.236
2
Nhà xưởng sản xuất chính
m2
4.316
70
302.120
3
Khu xuất hàng
m2
4.316
70
302.120
4
Khu nhập hàng
m2
4.316
70
302.120
5
Khối văn phòng (3tầng x 800m2)
m2
2.400
40
96.000
6
Nhà bảo vệ
m2
113
40
800
7
Nhà để xe
m2
114
40
8.000
8
Nhà ăn (2tầng )
m2
144
40
5.760
9
Khu vực nước
m2
72
40
8.880
10
Kho hoá chất
m2
36
40
1.440
11
Kho xăng dầu
m2
36
40
1.440
12
Phòng khuân
m2
48
40
1.920
13
Phòng bảo trì
m2
48
40
1.920
14
Lò hơi
m2
60
40
2.400
15
Nhà vệ sinh
m2
36
30
1.080
16
Máy phát
m2
48
40
1.920
17
Trạm điện
m2
48
40
1.920
18
Hệ thống giao thông nội bộ
m2
4.340
40
173.600
19
Hệ thống tường rào, cổng nhà máy
m2
1.500
20
30.000
Tổng cộng
1.485.676
Tỷ giá tạm tính : 16.100 VND/ USD
Tổng mức đầu tư nhà xưởng tạm tính: 23.918.417.600 đ.
B.5.2- Phương án về máy móc thiết bị.
Để đạt công suất 28.512.000 m2/ năm, nhà máy được lựa chọn các thiết bị cho các công đoạn sản xuất bao gồm:
+ Công đoạn ép giấy kraft thành bìa carton: Tuỳ theo yêu cầu về chất lượng của đơn đặt hàng, chất lượng giấy Kraft đầu vào sẽ được lựa chọn.Giấy Kraft được đưa vào giàn máy sóng để tạo sóng và ép thành bìa carton. Tuỳ theo yêu cầu, sẽ chạy số lượng các đầu máy tương ứng để sản xuất giàn bìa carton 3 lớp hoặc 5 lớp.
+ Công đoạn sấy nhiệt: Máy sấy nhiệt sẽ sấy các miếng bìa lớn vừa chạy ra khỏi giàn máy sóng để đảm bảo độ dính kết giữa các lớp bìa, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
+ Công đoạn cắt bìa carton thành kích cỡ theo đơn hàng: Bìa carton sau khi đưa ra khỏi giàn máy sóng, sẽ được đưa vào máy đo cắt để cắt các miếng bìa lớn thành các khuôn bìa carton theo đúng kích thước đã được đặt hàng.
Tất cả 3 công đoạn trên hiện nay được xử lý trong giàn máy sóng.
+ Công đoạn in màu: In mẫu mã trên bao bì carton.
Tuỳ theo mẫu mã trên bao bì carton, công nhân in sẽ lên thiết kế và khắc chữ, chụp phim để lên mẫu in.
Mẫu in được đưa vào máy in. Tuỳ theo yêu cầu chất lượng của sản phẩm, sẽ chạy máy in Flexo 1 màu, 2 màu hoặc 5 màu, hoặc máy in offset. Trong đó, chất lượng in từ máy in Offset là cao nhất, và đòi hỏi chi phí lớn nhất. Theo xu hướng phát triển của thị trường, nhu cầu về bao bì carton được in Offset hiện nay càng lúc càng tăng cao.
Các máy in hiện đại hiện nay được lắp thêm cả máy bổ. Máy có tác dụng chạy rãnh tạo đường gấp thành hộp để lên khuôn cho hộp carton.
+ Lên khuôn bìa carton: Công đoạn này sử dụng máy bế, có tác dụng gập nếp bìa carton để lên khuôn ._.g của công tác thẩm định dự án đầu tư nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung ta thấy việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là hết sức cần thiết nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
2.2- Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tại ngân hàng công thương Ba Đình.
2.2.1- Hoàn thiện về nội dung thẩm định tài chính của dự án.
Mục đích của phân tích tài chính là xác định chi phí và lợi ích của dự án từ xây dựng và xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án nhằm đem lại mức độ an toàn về tài chính cao. Trên thực tế, dự án đưa cho Ngân hàng được xây dựng trên cơ sở là có hiệu quả. Đứng về phía Ngân hàng cần kiểm tra lại tính hiệu quả của dự án bằng việc đánh giá lại việc tính đúng, đầy đủ các khoản chi phí, doanh thu hay khả năng trả nợ của dự án… bên cạnh đó phải thực sự chú ý đến những chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, đề cập đến giá trị thời gian của tiền như NPV, IRR, phân tích độ nhạy của dự án, coi như đây là chỉ tiêu bắt buộc trong thẩm định dự án đầu tư. Muốn vậy trước tiên Ngân hàng cần phải xem xét đánh giá tính đầy đủ hợp lý của các khoản chi phí và lợi ích của dự án. Có thể do vô tình hay cố tình mà các yếu tố này không được phản ánh đầy đủ, chính xác, bởi vậy Ngân hàng cần tiến hành đánh giá cẩn thận để đảm bảo độ chính xác các chỉ tiêu, có như vậy việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như NPV, IRR… mới chính xác, đồng thời nó giúp cho chủ đầu tư thấy rõ được hiệu quả của dự án.
2.2.1.1- Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV)
Với chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng, ta sẽ có quyết định đầu tư cho dự án có NPV lớn hơn 0 được chiết khấu ở lãi suất thích hợp. Lúc này, tổng lợi ích được chiết khấu lớn hơn tổng chi phí được chiết khấu dự án có khả năng sinh lời. Ngược lại khi NPV nhỏ hơn 0 dự án không phù đắp được chi phí bỏ ra và bị loại bỏ. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm là nó rất nhạy cảm với lãi suất. Sự thay đổi của lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị hiện tại của dòng tiền lợi ích và chi phí dự án thường phải chịu những khoản chi phí trong những năm đầu khi dự án đầu tư được thực hiện và các lợi ích chỉ xuất hiện khi dự án đi vao hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại ròng lợi ích sẽ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại ròng chi phí và do đó, giá trị hiện tại ròng để đánh giá sẽ phụ thuộc vào việc xác định được lãi suất chiết khấu hợp lý.
Lãi suất chiết khấu thường là hệ số tăng trưởng hàng năm của ngành. Dự án của các ngành khác nhau sẽ có lãi suất khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê này nên lãi suất chiết khấu được chọn có thể là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp hay lãi suất cho vay của Ngân hàng. Nhưng đứng trên góc độ là Ngân hàng cho vay vốn, Ngân hàng thường chọn lãi suất chiết khấu là lãi suất phải trả cho tín dụng chung và dài hạn. Do đó, để đưa ra một quyết định đầu tư có hiệu quả, cần xác định lãi suất chiết khấu hợp lý nhằm khắc phục hạn chế của chỉ tiêu NPV. Trên thực tế, các dự án ở Việt Nam thường được tài trợ bởi rất nhiều nguồn khác nhau mặc dù chủ yếu vẫn là vốn vay trung và dài hạn của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng nên áp dụng cách tính bình quân gia quyền các nguồn vốn để xác định lãi suất chiết khấu cho dự án. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất thay đổi để phản ánh các điều kiện kinh tế. Ví dụ, khi nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể dự tính chi phí vốn cao hơn bình thường sau đó sẽ điều chỉnh lại khi nguồn cung ứng vốn tăng lên.
Khi tính toán các dòng tiền của dự án để tính NPV, cán bộ thẩm định cần tính toán các dòng tiền cho từng năm của cả đời dự án chứ không nên dâng lại năm mà dự án đã trả hết nợ Ngân hàng để giúp cho Ngân hàng để giúp cho Ngân hàng thấy rõ hơn hiệu quả lâu dài của dự án.
2.2.1.2- Chỉ tiêu suất thu hồi vốn nội bộ (IRR):
Suất thu hồi vốn nội bộ là lãi suất mà tại đó giá trị hiện tại ròng lợi ích bằng giá trị hiện tại ròng chi phí hay nói cách khác giá trị hiện tại ròng bằng 0.
Suất thu hồi vốn nội bộ phản ánh mức lãi suất tối thiểu mà dự án có thể chấp nhận được. Điều đó có nghĩa là, dự án sẽ được chấp nhận nếu IRR lớn hơn lãi suất vay vốn. Lúc đó dự án có lãi suất cao hơn thực tế phải trả cho các nguồn vốn sử dụng trong dự án. Ngược lại, khi tỉ suất nội hoàn nhỏ hơn lãi suất vay vốn, dự án sẽ không được lựa chọn đầu tư.
2.2.2- Hoàn thiện về phương pháp thẩm định.
Thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư ở NHCT Ba Đình cũng như phần lớn các NHTM Việt nam hiện nay mới chỉ quan tâm chủ yếu đến phần thẩm định nội dung tài chính của DAĐT mà chưa tiến hành phân tích và thẩm định một cách đầy đủ nội dung về thị trường, về kỹ thuật của dự án. Trong quá trình nghiên cứu chọn lọc và phân tích các thông tin để lập dự án, chủ đầu tư phải xuất phát từ các yêu cầu thực tế của thị trường, từ các số liệu về giá bán cạnh tranh trên thị trường, đòi hỏi về chất lượng mẫu mã sản phẩm của khách hàng...Để từ đó, xây dựng các phương án công nghệ - kỹ thuật nhằm sản xuất ra sản phẩm với chất lượng thoả mãn các yêu cầu thương mại trên thị trường. Đối với mỗi phương án kỹ thuật, sẽ có một phương án về tài chính đi kèm, có thể nói các nội dung trong một dự án đầu tư có sự liên kết rất chặt chẽ, nội dung sau được xây dựng trên cơ sở của nội dung trước. Như vậy, việc thẩm định một dự án đầu tư mà chỉ tập trung vào phân tích tài chính như các NHTM Việt nam hiện nay đang làm là chưa đảm bảo tính toàn diện và tính hệ thống trong các yêu cầu của công tác thẩm định dự án. Để đảm bảo các kết luận thẩm định thực sự có giá trị, có ý nghĩa tham mưu cho cấp lãnh đạo và cán bộ tín dụng trong việc ra quyết định đầu tư đối với dự án, công tác thẩm định cần được đổi mới theo nguyên tắc thẩm định toàn diện tất cả các nội dung trong dự án xin vay mà khách hàng gửi đến ngân hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được yêu cầu này không phải là vấn đề có thể giải quyết được một sớm một chiều, nó đòi hỏi một quá trình làm quen nhất định và trong quá trình này chắc chắn các cán bộ thẩm định sẽ gặp phải một số khó khăn cơ bản, mà khó khăn lớn nhất là vấn đề thu thập và cách thức xử lý các thông tin để có thể đưa ra các kết luận có giá trị tham mưu cho cấp lãnh đạo. Một thực tế hiện nay là phần lớn cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định ở NHCT Ba Đình nói riêng và các NHTM Việt nam nói chung đều được đào tạo ở các trường thuộc khối kinh tế, do đó khả năng nắm bắt các vấn đề thị trường, kỹ thuật sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhất là đối với việc tài trợ các dự án lớn công tác nghiên cứu về thị trường và kỹ thuật rất chuyên sâu và phức tạp đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao. Về vấn đề này, chúng tôi xin khuyến nghị một giải pháp mang tính khả thi đó là ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ với các chuyên gia kỹ thuật - công nghệ hàng đầu của các Viện nghiên cứu, các Trường đại học...để từ đó, khi có nhu cầu thẩm định các nội dung thị trường, kỹ thuật... mang tính chuyên sâu, ngân hàng có thể thuê các chuyên gia này tiến hành thẩm định. Như vậy, với kiến thức chuyên môn của mình, chắc chắn các kết luận của các chuyên gia sẽ có độ tin cậy cao đảm bảo chất lượng thông tin tư vấn cho quyết định tài trợ dự án của ngân hàng. Mô hình trên đây thực tế đã được áp dung ở các NHTM tại hầu hết các nước tiên tiến theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên để công tác tư vấn nói trên đạt hiệu quả cao thì hoạt động này cần được đưa vào một khung pháp lý chắc chắn. Về vấn đề này, chúng tôi đã có khuyến nghị đối với Nhà nước trong việc sớm ban hành các văn bản pháp lý quy định về tư vấn và hành nghề tư vấn ( đã nêu ở phần trên ).
2.2.3- Hoàn thiện về số lương và chất lượng cán bộ thẩm định.
Trong mọi hoạt động, con người luôn là trung tâm điều hành và quyết định hiệu quả của hoạt động. Con người cũng là động lực phát triển của TĐ nên để nâng cao chất lượng TĐ DAĐT thì điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải quan tâm đến con người. Con người ở đây chính là đội ngũ cán bộ thẩm định, nhân viên điều hành hoặc trực tiếp thực hiện thẩm định các dự án đầu tư tại ngân hàng, để có được đội ngũ cán bộ thẩm định đáp ứng được yêu cầu, ngân hàng cần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ thẩm định về quy mô và chất lượng. Công tác thẩm định còn không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế cho thấy, cường độ làm việc của cán bộ thẩm định ở ngân hàng công thương Ba Đình là khá căng thẳng. Tình trạng làm thêm ngoài giờ và làm việc trong các ngày nghỉ là phổ biến. Dẫn đến hạn chế các hoạt động tiếp xúc với khách hàng, hạn chế trong thu nhập thông tin về khách hàng và dự án. Để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án, an toàn tín dụng, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới, việc tăng cường lực lượng cả về số lượng và chất lượng cán bộ thẩm định cần được coi là nhiệm vụ cấp thiết của ngân hàng công thương Ba Đình thời gian tới.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, điều kiện kiên quyết và tất yếu là phải quan tâm đến đội ngũ cán bộ, nhân viên điều hành trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hoạt động thẩm định. Vai trò quan trọng của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, kinh doanh, về hoạt động Ngân hàng, quản lý tài chính tín dụng, trong đó có kiến thức chuyên sâu về tài chính Doanh nghiệp, tài chính dự án, có khả năng phân tích các chỉ tiêu, các chỉ số tài chính… để từ đó có thể xem xét, phân tích một cách toàn diện về dự án và đánh giá, kết luận về hiệu quả của dự án.
Trên cơ sở hiểu biết cao, cán bộ thẩm định có thể đánh giá hiệu quả dự án một cách dễ dàng và chính xác hơn. Vì thế, để có được đội ngũ nhân viên đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định, ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ, Ngân hàng phải chú ý chỉ tuyển các cán bộ thực sự có năng lực, trình độ chuyên sâu. Muốn vậy, Ngân hàng cần có chính sách sắp xếp, sử dụng cán bộ hợp lý để thu hút những sinh viên giỏi của các trường kinh tế, tài chính, Ngân hàng, thương mại, kỹ thuật, pháp lý còn như những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về tín dụng và thẩm định dự án để làm việc hoặc cộng tác với Ngân hàng.
Đối với những cán bộ đáp ứng được yêu cầu của công việc, ngân hàng xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định một đội ngũ chuyên viên giỏi làm nòng cốt cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng và đội ngũ cán bộ này sẽ đảm nhận trách hiệm hướng dẫn, đào tạo đội ngũ cán bộ thẩm định trong ngân hàng.
Ngân hàng cũng cần phải có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm ý thức và tinh thần vươn lên của mỗi cán bộ thẩm định. Ngân hàng cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để thu hút đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng hoặc mời làm cố vấn hoặc mời làm cộng tác viên cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng có được chất lượng cao hơn nữa. Hàng năm ngân hàng thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ thẩm định, ngân hàng mời chuyên gia về giảng dạy hoặc trực tiếp cử cán bộ thẩm định củ chốt, có năng lực theo học những khóa đào tạo chuyên ngành về dụ án và thẩm định dự án đầu tư trong nước và ngoài nước.
Ngân hàng cũng nên tập hợp các sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị phổ biến và áp dụng trong thực tế thẩm định dự án đầu tư. Đặc biệt ngân hàng cần phải có chính sách khuyến khích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ như bố trí thời gian, trợ cấp học phí, tạo các điều kiện thuận lơi khác cho nhũng cán bộ thẩm định theo học các khóa đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Do đặc thù nghiệp vụ tín dụng rất phức tạp, lượng thông tin cần thiết để phân tích dự án rất lớn nên cán bộ thẩm định phải đi lại nhiều để gặp gỡ khách hàng, lấy thông tin từ các cơ quan, ban, nghành,… Vì vậy, Ngân hàng cần bố trí các phương tiện đi lại, giao dịch, hỗ trợ cung cấp điện thoại di động, máy tính xách tay… để tạo thuận lợi cho cán bộ thẩm định trong khi làm việc trong khi làm nhiệm vụ của mình. Với điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép cung cấp đầy đủ các phương tiện làm việc cho tất cả cán bộ tín dụng như hiện nay, trước mắt ưu tiên cấp cho lãnh đạo phòng hoặch cho một vài nhóm trong phòng thay nhau sử dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có quy định xử lý nghiêm khắc những trường hớp thiếu tinh thần trách nhiệm, gây lãng phí, thất thoát tài sản của ngân hàng.
Trong quá trình công tác, hàng quý, hàng năm, Ngân hàng tổ chức buổi tổng kết hoạt động trong quý, năm, các buổi nói chuyện chuyên đề. Các cán bộ tín dụng, thẩm định sẽ nêu những vướng mắc gặp phải trong quá trình xét duyệt dự án, từ đó đúc kết kinh nghiệm. Như vậy, các cán bộ nhân viên có thể học hỏi lẫn nhau, nâng cao trình độ, khả năng nghề nghiệp, trau dồi kiến thức mới nhất về thị trường, về khách hàng và có điều kiện sâu sát thực tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến những kiến thức mới nhất, chuyên sâu về thẩm định dự án. Đồng thời, đổi mới nội dung và phương thức đào tạo theo hướng: Đối với cán bộ thẩm định: nội dung đào tạo phải là những kiến thức cụ thể, chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án, thẩm định khoản vay vốn và bảo lãnh TDH; Đối với lãnh đạo phụ trách thẩm định, nội dung đào tạo là các phương pháp rà soát, kiểm tra kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng; Đối với lãnh đạo phụ trách tín dụng, nội dung đào tạo là khả năng quyết định khoản vay, bảo lãnh với độ chính xác cao nhất. Ngoài ra, cần thường xuyên phổ cập kiến thức công nghệ thông tin ứng dụng trong lập và thẩm định dự án cho các cấp, đặc biệt là các cấp lãnh đạo.
Tạo điều kiện thuận lợi và có chế độ để cán bộ được đi học tập, nghiên cứu dài hạn trong và ngoài nước, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng có uy tín trong khu vực về thẩm định dự án. Ngân hàng nên tập trung khuyến khích sự năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ trẻ, vì đây là lực lượng sẽ có đóng góp lâu dài cho Ngân hàng. Ngoài khuyến khích vật chất, Ngân hàng có thể ưu tiên cử các cán bộ trẻ có nhiều đóng góp tích cực cho Ngân hàng đi dự các khoá đào tạo nghiệp vụ. Tuy nhiên, về phía các cán bộ thẩm định còn phải tự mình học tập, nghiên cứu, tự trang bị kiến thức cần thiết phù hợp với nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời, trau dồi đạo đức, gièn luyện tính trung thực, tinh thần trách nhiệm và kỷ luật cao.
Một nội dung rất quan trọng nữa, đó là, cần gắn trách nhiệm vật chất với chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Quá trình xét và ký duyệt các dự án đầu tư đều căn cứ trên tài liệu do cán bộ thẩm định chuẩn bị. Vì thế, để làm tốt công tác trong điều kiện cán bộ gặp nhiều khó khắn khách quan từ cơ chế chung, từ khách hàng, từ dự án, từ môi trường còn như các áp lực từ bên ngoài, cán bộ tín dụng phải chíu trách nhiệm trước một dự án mà mình giải quyết. Ngân hàng cần thấy được vai trò và vị trí của cán bộ thẩm định đối với chất lượng của các dự án đầu tư nói riêng để đảm bảo quyến lợi gắn liền với trách nhiệm, có chế độ khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm minh.
2.2.4- Hoàn thiện hệ thống thông tin thẩm định dự án:
Thông tin chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành các bước phân tích, đánh giá, thẩm định dự án đầu tư. Thông tin đầy đủ, nhiều chiều với độ tin cậy cao là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết quả thẩm định đạt chất lượng.
Đối với công tác thẩm định dự án, thông tin bao gồm nhiều loại như: Thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và quá trình sản xuất kinh doanh, thông tin về công nghệ, về trình độ quản lý, trình độ sản xuất của chủ đầu tư… Việc hoàn thiện hệ thống thông tin đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa Ngân hàng và các ngành có liên quan. Ngân hàng Nhà nước với chức năng là Ngân hàng của các Ngân hàng phải tạo được một hệ thống thông tin phong phú, đầy đủ chính xác để cung cấp cho các NHTM và ngược lại, các NHTM phải cung cấp cho NHNN những thông tin mới nhất về khách hàng của mình để NHNN tổng hợp, sử dụng phục vụ chế độ thông tin báo cáo và giúp các NHNN có thông tin khi cần thiết.
Ngân hàng công thương Ba Đình cần phải nâng cao chất lượng và số lượng thông tin phục vụ công tác thẩm định bằng cách hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, tạo ra nguồn thông tin xuyên suốt trong toàn hệ thống Ngân hàng. Thông qua việc tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu thẩm định đã được chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các phòng, ban tại chi nhánh. Đồng thời, xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn hệ thống ngân hàng công thương Ba Đình bao gồm: Thông tin kinh tế, thị trường, pháp luật, thông tin tổng hợp định kỳ, thông tin hoạt động tín dụng của khách hàng… Hơn nữa, cần xây dựng hệ thống các ứng dụng hỗ trợ các cấp trong quản lý và điều hành kinh doanh của ngân hàng trong việc tận dụng, chia sẻ các nguồn thông tin vốn có trong nội tại Ngân hàng còn như những nguồn thông tin khác. Từ đó, hình thành kho dữ liệu về chủng loại hàng hoá, khách hàng, đáp ứng các yêu cầu:
- Phản ánh được tính đặc thù của ngành hàng và khách hàng trong nền kinh tế và đối với việc thay vốn của ngân hàng.
- Phản ánh được thực trạng của ngành hàng, khách hàng về hoạt động kinh doanh, tài chính.
- Những ảnh hưởng của cơ chế, chính sách và triển vọng phát triển của ngành hàng, khách hàng.
Ngoài ra cần thu thập các thông tin về các công ty, doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo các công ty bị phá sản. Thu nhập và tổng hợp các thông tin, Ngân hàng cần chú ý khai thác các nguồn sau:
Thông tin thu nhập được từ doanh nghiệp vay vốn:
Thông thường, cán bộ tín dụng căn cứ vào báo cáo tài chính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn, song rất khó xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính đó. Do yêu cầu về độ chính xác của thông tin trong công tác thẩm định tài chính, cán bộ thẩm định cần kết hợp điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng với việc xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính.
Ngoài ra, có thể thu nhập thông tin thông qua pháng vấn khách hàng vay vốn. Nguồn thông tin này khá quan trọng, nếu biết cách khai thác và tận dụng nó, cán bộ thẩm định có thể thu được kết quả khả quan.
Thông tin thu thập được từ các nguồn khác:
Bên cạnh những thông tin có được do doanh nghiệp vay vốn cung cấp, cán bộ thẩm định có thể khai thác được nhiều thông tin từ Ngân hàng có quan hệ giao dịch với khách hàng, thông tin từ doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ, từ các Công ty kiểm toán, từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN hoặc từ Trung tâm công nghệ thông tin của ngân hàng công thương.
Hiện nay mạng thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp khá đầy đủ thông tin về tình hình quan hệ tín dụng của từng khách hàng với các thẩm định dễ dàng truy cập, sử dụng đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Ngân hàng cần phân tích và dự báo chính xác xu hướng diễn biến về thị trường các loại sản phẩm, hàng hoá quan trọng trên thị trường thế giới và thị trường trong nước của các dự án lớn chuẩn bị đầu tư.
Trong phần thẩm định kỹ thuật- công nghệ dự án, cán bộ thẩm định của ngân hàng công thương Ba Đình thường dựa vào các số liệu của dự án để đánh giá, điều này làm nhiều dự án không phản ánh đúng hiệu quả thực. Vì thế, ngoài việc tăng cường cán bộ am hiểu về kỹ thuật, công nghệ, các dự án quy mô lớn, phức tạp nên có sự phối hợp thẩm định của các chuyên gia.
Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và cơ cấu nguồn vốn: Ngân hàng không nên chỉ dựa vào hồ sơ mà chủ dự án đã đệ trình hoặc căn cứ hoàn toàn vào kết quả phê duyệt của các cơ quan nhà nước. Cần tham khảo thông tin từ những dự án trong lĩnh vực tương tự đã và đang đi vào hoạt động, từ đó phân tích, đánh giá tính hợp lý của cơ cấu tổng chi phí đầu tư của dự án.
Trong tính toán doanh thu, chi phí, luồng tiền dự án: Để tránh tình trạng một số cán bộ thẩm định không đánh giá đúng hiệu quả dự án do tính toán giá bán sản phẩm, giá nguyên vật liệu,… cố định trong cả đời dự án. Ngân hàng cần quan tâm tới những yếu tố thường xuyên biến động và có ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí như lạm phát, tỉ giá, biến động thị trường, tính ổn định của nguồn nguyên liệu, nhà cung cấp… Cần kiểm tra lại các số liệu để xác định mức độ tin cậy của nó, có thể xem xét đơn giá trong dự án với giá cả thị trường hiện hành, xem xét sản lượng tiêu thụ so với mức tiêu thụ hịên tại và năng lực cung cấp của đơn vị đang hoạt động, xem xét lại quy mô đầu tư và các giải pháp đầu tư đứng trên quan điểm cân đối giữa tính năng của thiết bị và vốn đầu tư. Ngoài ra còn cần xem xét giữa quy mô đầu tư với khả năng huy động vốn, có nhiều dự án không thể triển khai được do người lập mải mê chọn lựa các giải pháp hiện đại, quy mô lớn mà không cần biết đến khả năng tài chính đầu tư cho dự án.
Trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án, để áp dụng một cách có hiệu quả các phương pháp thẩm định hiện đại, Ngân hàng phải tìm ra được các hạn chế của chỉ tiêu thẩm định cũ, các lợi thế của các chỉ tiêu mới để từ đó chuẩn hoá phương pháp thẩm định dự án và xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích, đánh giá dự án. Ngân hàng công thương Ba Đình cần chú ý tới việc hoàn chỉnh quy chế, quy trình hoạt động thẩm định để đưa vào áp dụng tại ngân hàng. Một trong những giải pháp quan trọng và cụ thể là cán bộ Ngân hàng phải tuân thủ nghiêm túc các quy chế, quy trình thẩm định đã được xây dựng và thực hiện đồng bộ thống nhất những chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả dự án.
Đối với các dự án cho vay thương mại không có sự can thiệp của chính phủ (Ngân hàng cho vay trực tiếp), khi thẩm định phải chú ý tới các chỉ tiêu NOV, IRR, thời gian hoàn vốn, quan tâm đến giá trị theo thời gian của tiền và cần chú ý tới các nguyên tắc:
- Chỉ cho vay các dự án NPV >0, IRR > IRRđm
- Chọn dự án đầu tư có NPVmax
Sử dụng chỉ tiêu NPV đê đánh giá hiệu quả của dự án cần chú trọng tới việc lựa chọn tỉ lệ chiết khấu cho phù hợp: Với dự án mà vốn tự có chiếm ưu thế thì tỉ lệ chiết khấu nên lấy bằng lãi suất cho vay là tối thiểu (chi phí cơ hội). Với dự án mà vốn tự có nhỏ hay những dự án không cho vay theo kế hoạch Nhà nước thì tỉ lệ chiết khấu thường là lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước cộng thêm một phần bù rủi ro tương ứng trong lĩnh vực, ngành nghề của dự án. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trên thế giới trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, thị trường tài chính chưa hoàn toàn phát triển, lãi suất trái phiếu kho bạc không phải là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường vốn nên chưa phản ánh chính xác chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Hơn nữa, xác định mức độ rủi ro của từng lĩnh vực, ngành, nghề lại không đơn giản. Vì vậy, với dự án có tỉ lệ vốn vay cao, Ngân hàng nên chon tỉ lệ chiết khấu là lãi xuất cho vay dự kiến được điều chỉnh tăng một tỉ lệ phần trăm nhất định dự phòng rủi ro. Nếu lãi suất của các nguồn vốn khác nhau, có thể lấy lãi suất bình quân gia quyền của các lãi suất vay.
Về cách tính dòng tiền: Cần phải tính toán cho cả đời dự án mà không chỉ tính cho đến lúc dự án trả hết nợ Ngân hàng. Bởi vì, khi tính toán dòng tiền trả nợ là tính trong tương lai, nếu dự án không có hiệu quả trong cả đời dự án thì sự tồn tại của dự án đến khi Ngân hàng thu hết nợ là không chắc chắn.
Về thời gian hoạt động: Trong một dự án đầu tư, chủ đầu tư có thể đưa ra một số phương án có thời gian hoạt động khác nhau. Để so sánh và phân tích, Ngân hàng sẽ chọn thời gian hoạt động của dự án là bội số chung nhỏ nhất của các phương án và đưa về so sánh các phương án có thời gian hoạt động bằng nhau. Đối với các dự án đầu tư mà không xác định trước thời gian hoạt động thì Ngân hàng sẽ lấy thời gian khấu hao phần thiết bị chính để sử dụng làm thời gian hoạt động của dự án.
Trong tổng vốn đầu tư mà các cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt cho dự án có khoản lãi vay trong quá trình xây dựng. Khoản lãi vay này là cố định, nhưng thực tế các khoản đầu tư cho dự án của Ngân hàng đều có khả năng không trả nợ đúng thời hạn do nguồn thu của dự án phụ thuộc nhiêu vào thời điểm thuê đất, do vậy lãi phải trả Ngân hàng của dự án sẽ tăng lên so với dự kiến ban đầu. Mặt khác, nếu tổng vốn đầu tư trong dự án phê duyệt được tính bằng ngoại tệ thì khi Ngân hàng cho vay bằng đồng nội tệ (trừ khoản vay tài trợ xuất nhập khẩu) thì ảnh hưởng của sự biến động tỉ giá trong quá trình cho vay và đầu tư là không thể tránh khỏi. Điều này còn ảnh hưởng tới thời gian trả nợ dự án. Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân trong quá trình cho vay đầu tư ảnh hưởng đến nguồn trả nợ và thời gian trả nợ của dự án. Do đó, trong quá trình thẩm định dự án, Ngân hàng phải chú trọng vấn đề này. Việc thẩm định dự án một cách khách quan, khoa học và toàn diện sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng đầu tư vào những dự án có hiệu quả, thu hồi được nợ khi đến hạn, sử dụng hợp lý nguồn vốn vào việc kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.
Về phân tích rủi ro của dự án: Thực chất của phân tích rủi ro dự án đầu tư chính là việc đánh giá hiệu quả của dự án trong trạng thái động, găn liền với những biến động bất lợi có thể sảy ra từ thị trường, thiên nhiên, chính sách vĩ mô, yếu tố bên ngoài… Qua đó, giúp Ngân hàng có thể lường trước các rủi ro và có biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Trong phân tích rủi ro của dự án đầu tư tại ngân hàng công thương Ba Đình chưa chú trọng đến đánh giá độ an toàn của dự án khi xảy ra các tình huống sau:
Tình huống 1: Nhiều tình huống thay đổi (tốt, khá, trung bình, xấu) ứng với mức thay đổi (tăng, giảm) của những yếu tố nào đó trong dự án (chi phí đầu tư, giá bán… ). Với tình huống này, cần phân tích dự án theo trình tự sau:
- Xác định các yếu tố có thể xảy ra biến động trong tương lai.
- Xác định những tình huống có thể sảy ra đối với từng yếu tố.
- ứng với mỗi tình huống, xác định mức thay đổi của từng yếu tố.
- Tính toán lại các chỉ tiêu hiệu quả: NPV, IRR, B/C,… ứng với các giá trị mới của từng yếu tố khi xảy ra từng tình huống.
- Tính NPV, IRR, B/C,… bình quân, max, min của dự án. Từ đó đưa ra nhận xét về hiệu quả của dự án.
So với cách tính toán thông thường, cách tổ chức tính toán cho kịch bản trên sẽ mất rất nhiều công sức. Tuy nhiên, thông qua việc sử dụng kiến thức xác suất thống kê, các hàm và một số chức năng của Excel thì việc tính toán sẽ đơn giản hơn rất nhiều.
Tình huống 2: Dự đoán dòng tiền của dự án thay đổi ứng với những xác suất nhất định. Trường hợp này cần phân tích theo trình tự sau:
- Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án để phân tích.
- Tính toán chỉ tiêu đã lựa chọn theo các dòng tiền.
- Gắn cho mỗi giá trị của chỉ tiêu đó những xác suất tương ứng.
- Tính toán giá trị kỳ vọng và xác định độ lệch chuẩn của chỉ tiêu.
- Phân tích phân phối xác suất của chỉ tiêu được chọn.
Ví dụ: Đánh giá hiệu quả của dự án theo chỉ tiêu NPV khi dự đoán có n dòng tiền tệ ứng với n xác suất (tổng của các xác suất luôn bằng 1).
Ta tính các giá trị của chỉ tiêu NPV ứng với các dòng tiền tệ.
Khi đó, giá trị kỳ vọng của NPV của dự án là:
Độ lệch chuẩn:
Trong đó: n là số phương án
NPVi : Giá trị NPV tại dòng tiền i
Pi : Xác suất xảy ra dòng tiền i
- Phân tích phân phối xác suất của chỉ tiêu được chon:
Giả sử NPV tuân theo quy luật phân bố chuẩn tới kỳ vọng toán độ lệch chuẩn
- Khi đó xác suất để NPV lớn hơn hoặc nhỏ hơn số x nào đó được xác định như sau:
Với kết quả tính toán được cho ta thấy cái nhìn tổng thể và động về việc phân tích và thẩm định dự án. Từ đó, cho ra một sự ước lượng rất định lượng về tính khả thi của dự án và cho thấy các biến số rủi ro cần lưu ý trong quá trình thực hiện dự án. Phương pháp này tuỳ có độ chính xác cao nhưng cần phải có cơ sở dữ liệu phong phú để xác định được xác suất xảy ra và có phương tiện kỹ thuật để tính toán. Đây là phương pháp rất hiệu quả trong đánh giá độ rủi ro của dự án.
Kết luận.
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đó từng bước ổn định và đang trên đường phát triển. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế Việt Nam ngân hàng Công thương đã từng bước hoàn thiện và hiện đại hoá cơ sở vật chất, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ để hoà nhập vào sự đổi mới của đất nước. Xác định đúng đắn vai trò quan trọng của hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Ban lãnh đạo Ngân hàng Công thương Ba Đình đã chỉ đạo và cùng các phòng ban trong chi nhánh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngày càng đạt hiệu quả cao.
Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Ba Đình và được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn, cô Nguyễn Bạch Nguyệt, anh Tuệ và các anh chị phòng khách hàng số II em đã hoàn thành chuyên đề với đề tài “ Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình”. Có thể nói, sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và được viết về chuyên đề “ Thẩm định tài chính dự án vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình” em đã một lần nữa tìm hiểu sâu thêm về phương pháp thẩm định dự án đầu tư, với kiến thức rất còn hạn hẹp so với sự phát triển của ngành Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa thích ứng với những phương pháp thẩm định tiên tiến, nhưng không vì vậy mà bỏ qua phương pháp thẩm định đó mà cần thiết phải nắm vững nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2008 của ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình.
Sổ tay tín dụng của ngân hàng công thương.
Trang web:
Thời báo kinh tế Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21756.doc