Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Thanh Xuân

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay xu thế toàn cầu hoá,quốc tế hoá đang trở thành xu hướng chủ đạo chi phối mọi hoạt động kinh tế thế giới.Qua đó đang xoá dần đi cách biệt về không gian,thời gian trong nền kinh tế. Điều này khiến sự cạnh tranh trở nên ngày càng gay gắt trong mọi lĩnh vực.Sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính thì còn quyết liệt hơn.Việc các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày nay cũng đang tích cực tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ của ngân hàng khiến cho các ngân hàng gặp nhiều khó kh

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn, để tồn tại các ngân hàng không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ. Thẩm định tài chính dự án là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng thương mại.Kết quả của quá trình thẩm định dự án cho vay sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định có cho các doanh nghiệp vay vốn hay không,nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp,từ đó cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Ngay khi Việt Nam vừa bước chân vào cánh cửa WTO,thì đã có hàng loạt các dự án,hàng loạt kế hoạch được vạch ra nhằm đưa Việt Nam tiến một bước dài về kinh tế.Các doanh nghiệp thì luôn muốn mở rộng sản xuất nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực về tài chính,vì thế trong một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như nước ta hiện nay,việc sử dụng đòn bẩy kinh tế sẽ làm tăng hiệu quả của việc sử dụng vốn. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì công tác thẩm định tài chính dự án vẫn còn là khá mới mẻ.Mặc dù những năm gần đây,công tác này đã được quan tâm hơn trước rất nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Là một sinh viên được đào tạo theo chuyên ngành Ngân hàng-Tài chính,em nhận thấy việc nghiên cứu công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế.Chính vì vậy,sau một thời gian thực tập tại chi nhánh ngân hàng Công Thương Thanh Xuân,em đã tìm hiểu về công tác thẩm định tài chính dự án và nhận thấy vai trò rất quan trọng của công tác này.Chính vì những lý do đó mà em đã quyết định lựa chọn đề tài : “ Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Ngân hàng InComBank Thanh Xuân “. Nội dung của báo cáo chuyên đề bao gồm : Chương I : Những vấn đề cơ bản về thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại Chương II : Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Incombank Thanh Xuân. Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Incombank Thanh Xuân. Do thời gian còn hạn hẹp,cũng như kinh nghiệm còn ít nên bài viết của em còn có những thiếu xót.Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thày giáo. PGS Đàm Văn Huệ cùng sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng khách hàng doanh nghiệp ngân hàng Incombank Thanh Xuân, đã tạo điều kiện cho em hoàn thành bài viết này.Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại Như chúng ta đều biết Ngân hàng là một tổ chức có lịch sử hình thành từ rất lâu đời (vào khoảng thế kỷ thứ 15).Sự hình thành của Ngân hàng là kết quả tất yếu của sự phát triển trao đổi mua bán giữa các vùng,làm nảy sinh các nhu cầu trực tiếp như gửi tiền, đổi tiền,giữ hộ tiền và vay vốn…Kể từ khi ra đời cho đến nay,các ngân hàng không ngừng phát triển và nhanh chóng trở thành một trong các tổ chức tài chính quan trọng hàng đầu của nền kinh tế,ngân hàng có rất nhiều loại,tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính.Tuy nhiên,một loịa ngân hàng hiện đang có số lượng lớn nhất và có vị trí vô cùng quan trọng, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của nền kinh tế đó là ngân hàng thương mại. Để có thể hiểu về ngân hàng thương mại,ta xem xét một số khái niệm : Theo luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam “Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại ngân hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng chính sách,ngân hàng hợp tác và loại hình ngân hàng khác.” Theo các nhà kinh tế học hiện đại : “Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp”nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt vì chu trình của nó là T-T (T’=T+Δt) nghĩa là tiền “đẻ” ra tiền thay vì chu trình của một doanh nghiệp thông thường là T-H-T’”. “Ngân hàng thương mại là các rổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” 1.1.2.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại : Theo điều 49 luật các tổ chức tín dụng, “tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho các tổ chức,cá nhân dưới các hình thức : cho vay,chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác,bảo lãnh,cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước”.Như vậy,ta thấy hoạt động tín dụng bao gồm rất nhiều nghiệp vụ, đây chính là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính cho mỗi ngân hàng.Nhưng nó cũng có tính rủi ro rất cao,rủi ro có thể xuất phát từ nhiều phía như: ngân hàng,khách hàng,môi trường khách quan…Và như ta biết, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có hậu quả rất lớn,nhẹ thì có thể gây tổn thất cho chính ngân hàng,còn nặng thì có thể gây sụp đổ ngân hàng và khủng hoảng dây truyền đối với các ngân hàng khác,gây tác động xấu cho nền kinh tế.Chính vì vậy,các biện pháp đảm bảo an toàn tín dụng nói riêng và an toàn hoạt động nói chung luôn được các ngân hàng đặt lên hàng đầu.Ngay trong văn bản pháp luật của nhà nước cũng có những điều khoản nhằm phòng tránh rủi ro như : Các ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư đối đa 30% vốn tự có và phải nhỏ hơn 10% tổng nguồn vốn. Không được cho vay đối với 1 khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng Ngoài ra còn nhiều quy định khác về quy trình phân tích tín dụng,cấp tín dụng và theo dõi tín dụng… Hoạt động cho vay đối với dự án đầu tư : Như đã trình bày ở trên,nội dung hoạt động tín dụng bao gồm nhiều nghiệp vụ,trong đó có nghiệp vụ cho vay. Đây là một trong các nghiệp vụ kinh doanh cở bản nhất của mỗi ngân hàng thương mại,thông qua nghiệp vụ này,các ngân hàng thương mại đã trực tiếp hỗ trợ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh,nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Đồng thời,về phía các ngân hàng thì nghiệp vụ này cũng chính là nguồn tạo ra thu nhập ổn định và rất lớn, đóng góp vào sự tăng trưởng của ngân hàng.Ngày nay,với sự phát triển của nền kinh tế,hoạt động cho vay đã đa dạng hơn rất nhiều,nhằm đáp ứng một cách linh hoạt các nhu cầu của khách hàng.Ta có thể kể ra một số hình thức cho vay : Theo thời gian : cho vay ngắn hạn,trung và dai hạn. Theo mục đích vay vốn : cho vay theo dự án đầu tư,cho vay tiêu dùng… Theo tài sản đảm bảo : cho vay có tài sản đảm bảo,cho vay không có tài sản đảm bảo… Để phục vụ cho việc nghiên cứu,ta sẽ tìm hiểu hoạt động cho vay theo dự án đầu tư. Như ta đã biết, đối với mỗi doanh nghiệp thì nhu cầu đầu tư là một hoạt động diễn ra thường xuyên,nó góp phần nâng cao năng suất lao động hay mở rộng sản xuất,nhằm làm gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu.Tuy nhiên,trên thực tế không phải bất cứ khi nào doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư đều sẵn vốn để thực hiện,một trong các nguồn mà doanh nghiệp thường xuyên sử dụng và khá quen thuộc đó là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.Khi các doanh nghiệp đến vay vốn,ngân hàng thương mại thường yêu cầu các doanh nghiệp phải xây dựng các dự án,thể hiện mục đích,kế hoạch đầu tư và tiến trình thực hiện cụ thể. Đồng thời các ngân hàng cũng phải thẩm định dự án mà doanh nghiệp đưa ra nhằm xác minh và khẳng định tính hiệu quả của dự án.Quá trình này ngày càng được các ngân hàng chuẩn hóa và xây dựng thành các phương pháp,quy trình cụ thể. Điều này vừa đảm bảo tính khoa học trong công tác thẩm định vừa tránh được các sai sót do yếu tố chủ quan gây nên,làm ảnh hưởng đến tính an toàn của nguồn vốn cho vay. 1.2. Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại 1.2.1. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.2.1.1. Khái niệm Trong nền kinh tế hiện đại,khi nói đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của doanh nghiệp.Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Có thể hiểu DNVVN theo nghĩa như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân vì mục đích lợi nhuận có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định theo các tiêu thức vốn,lao động,doanh thu,giá trị gia tăng thu được trong những thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. Như vậy,có thể nhận thấy một số tiêu thức chung,phổ biến nhất thường xuyên được sử dụng để phân loại các doanh nghiệp đó là: Số lao động thường xuyên Vốn sản xuất Doanh thu Lợi nhuận Giá trị gia tăng Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào,còn tiêu thức về doanh thu,lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh vào quy mô theo kết quả đầu ra.Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng.Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dung các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra của doanh nghiệp,hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó. Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế giới có những đặc điểm chủ yếu sau : Các nước dùng tiêu thức khác nhau.Trong số các tiêu thức đó,hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động.Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau.Có nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nhiều nước sử dụng đồng thời hai hoặc nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN Lượng hoá các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ,hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế , định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNVVN có thể rất lớn hoặc nhỏ tùy theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước. Khái niệm DNVVN mang tính tương đối,nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội nhất định và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng nước,từng thời kỳ cụ thể,từng nghành nghề khác nhau…. Từng thời kỳ,các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho phù hợp đường lối,chính sách,chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia.Những tiêu thức phân loại DNVVN được dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển,hỗ trợ DNVVN của các Chính phủ. Từ những phân tích khìa niệm chung về DNVVN,các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn,tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới,kết hợp với điều kiện cụ thể,những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách,quy định phát triển kinh tế của nước ta.Chúng ta có thể nêu ra khái niệm như sau : Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất-kinh doanh có tư cách pháp nhân,không phân biệt thành phần kinh tế,có quy định về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của Chính Phủ đối với từng nghành nghề tương ứng với từng thời ký phát triển của nền kinh tế. Theo nghị định 90 ngày 23/11/2001 : “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất,kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hang năm không quá 300 người. “ (Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của nghành, địa phương,trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên ) 1. 2.1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Hiện nay ở nước ta,các DNVVNchiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước.Các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô.Các doanh nghiệp chủ yếu gặp phải khó khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh,mô hình quản lý,tiến độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động,phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính,vốn đầu tư….Có thể nhận thấy rất rõ đặc điểm chủ yếu của các DNVVN ở Việt Nam như sau : Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất,kinh doanh và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn yếu. Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay,các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ,máy móc,thiết bị,các phương pháp,bí quyết sản xuất.Thế nhưng,hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay lại chủ yếu là công nghệ đã lạc hâu,lỗi thời,chủ yếu là đồ phế phẩm của các nước phát triển.Chính vì thế mà sản phẩm,chất lượng cũng như uy tín hay thương hiệu đều không đảm bảo chất lượng quốc tế và khó có thể cạnh trạnh được với những doanh nghiệp nước ngoài và có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, nói đến DNVVN ở Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các DNVVN,theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh.Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam. Thứ ba, DNVVN Việt Nam khó tiếp cận dịch vụ Ngân hang.Có thể nói,hầu hết các dịch vụ Ngân hang(huy động vố,dịch vụ cho vay, đầu tư,thanh toán,bảo lãnh,cho thuê tài chính,tư vấn,quản lý tài sản…) đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp.Tuy nhiên,khó khăn lớn nhất,bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn Ngân hang còn gặp rất nhiều rào cản.Các DNVVN có tính tự chủ cao nhưng quy mô thấp. Ở các doanh nghiệp này,chủ sở hữu cũng thường là ngừơi quản lý.Họ phải tự bươn trải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình.Do vậy,ngừơi quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh. Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú.Các doanh nghiệp này thâm nhập hoạt động vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương mại dịch vụ,sản xuất,gia công chế biến….Nhờ vậy,việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Do quy mô nhỏ bé,nên khi diễn biến thị trường bất lợi,một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy sẽ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi.Tuy nhiên,nhìn dưới giác độ khác,tính chất “đa dạng,phong phú” lại trở thành “ nhỏ lẻ manh mún”.Có những doanh nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục khoản mục từ xuất nhập khẩu,cung cấp dịch vụ thiết kế,tư vấn,…nên tính chuyên nghiệp không cao.Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ,thường xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng,sản phẩm,dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng. 1.2.2. Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại. Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của một Ngân hàng thương mại,nó tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất song cũng là hoạt động mạng lại nhiều rủi ro nhất.Tín dụng thực chất là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, đặc biệt là đối với các DNVVN. Với một doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là điều mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đặc biệt quan tâm,bởi lẽ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng sản xuất,duy trì và phát triển doanh nghiệp. Để có được một nguồn vốn lớn,doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là đi vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với một ngân hàng thương mại,thì việc cho vay đối với các DNVVN là một vấn đề hết sức quan trọng,vì đó là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng và đó cũng sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các DNVVN là hoạt động diễn ra thường xuyên.Hiện nay,số lượng DNVVN là rất lớn,nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp cũng rất lớn.Do đó,nếu ngân hàng có thể huy động vốn,cho vay thì có thể đem lại một khoản thu nhập không nhỏ cho ngân hàng.Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay hoạt động rất đa dạng,trên nhiều phương diện, đòi hỏi có một số lượng vốn lớn và khó có thể tự huy động được,vì thế việc đi vay từ ngân hàng là điều cần thíêt đối với họ để có thể mở rộng sản xuất,quy mô và tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp Tuy nhiên thì không phải bất cứ một doanh nghiệp nào khi vay vốn đều làm ăn có lãi.Cũng có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, để lại cho ngân hàng một khoản nợ khó thu hồi.Chính vì thế,ngân hàng phải quan tâm đến dự án của doanh nghiệp,giúp cho doanh nghiệp tìm được phương án tối ưu đồng thời cũng làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Tóm lại,với bất kỳ một ngân hàng nào cũng đều phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Vì đây là nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng và nó cũng tiềm ẩn đem lại nhiều rủi ro cho ngân hàng.Do đó nó phải được quan tâm đúng mức. 1.3. Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3.1. Khái niệm về thẩm định tài chính dự án Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án.Cùng với thẩm định kinh tế,thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có nhưng thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách toàn diện và khoa học mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư . Nếu như Chính phủ,các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến khả năng sinh lãi của dự án. Song đối với ngân hàng thương mại,khi tiến hành thẩm định tài chính dự án thường quan tâm hớn đến khả năng trả nợ của dự án,hay nói cách khác chính là ngân hàng có thể thu hồi cả gốc và lãi vay của mình sau khi tài trợ cho dự án hay không.Có thể ngay cả lúc mà ngân hàng thấy dự án của doanh nghiệp có NPV <0 nhưng vẫn cho vay vì thấy doanh nghiệp vẫn có thể trả cả gốc và lãi.Trong trường hợp này thì doanh nghiệp đang bỏ lỡ một cơ hội đầu từ khác tốt hơn mà không biết,ngân hàng cần tư vấn thêm cho doanh nghiệp. 1.3.2. Sự cần thiết về thẩm đinh tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại. Đối với bất kì một ngân hàng thương mại nào thì việc cho vay theo dự án là hoạt động truyền thống có khả năng sinh lợi cao nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro.Vì thế, để hạn chế tới mức tối đa các rủi ro có thể xảy ra,các ngân hàng thương mại phải tiến hành thẩm định dự án mà trong đó quan trọng nấht là thẩm định tài chính dự án. Đây là căn cứ mang tính quyết định giúp cho ngân hàng đưa ra quyết định của mình.Thẩm định tài chính dự án hết sức quan trọng đối với ngân hàng thương mại bởi những lý do chính như sau: Thẩm định tài chính dự án là cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định hiệu quả vốn đầu tư,khả năng hoàn vốn của dự án và khả năng trả nợ của nhà đầu tư.Trên cơ sở đó,ngân hàng có thể đưa ra quyết định tài trợ cho dự án ở mức độ nào như : giá trị khoản vay,thời hạn,lãi suất cho vay,hình thức thu nợ,các biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các phương án khác nhằm hạn chế rủi ro. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ để ngân hàng có biện pháp kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng mục đích , đúng đối tượng hay không,góp phần để dự án thực hiện có hiệu quả. Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng lường trước các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến quá trình triển khai,thực hiện dự án như các yếu tố về công nghệ,sự biến động của thị trường nguyên liệu đầu vào,sản phẩm đầu ra,sự thay đổi về công suất sản xuất,doanh số bán hàng,chi phí sản xuất,các yếu tố về môi trường,chính sách quản lý…Từ đó,ngân hàng phải xem xét các yếu tố nhằm đưa ra các giải pháp đối với chủ đầu tư,các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước,hạn chế các rủi ro và nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án Đối với các dự án phụ thuộc,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng có thể đưa ra các quyết định quan trọng như : chấp nhận cho vay với dự án nào thì có hiệu quả hơn. Nhìn tổng thể,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng tích luỹ được những kinh nghiệm và rút ra được những bài học quý báu để hoàn thiện các nguồn cho vay, đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Có thể nói thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng và cần thiết đối với các ngân hàng thương mại.Công tác này đòi hỏi sự tổng hợp tất cả các biến cố tài chính,kỹ thuật,thị trường…đã được lượng hóa trong các nội dung thẩm định trước nhằm phân tích,tạo ra các bảng dự trù tài chính,những chỉ tiêu tài chính phù hợp và có ý nghĩa. Chính vì thế,cán bộ đảm nhiệm thẩm định dự án phải có đầy đủ trình độ,khả năng giải quyết các tình huống nhằm đem lại những lợi ích lớn nhất cho ngân hàng đồng thời tránh những thiệt hại có thể xảy ra cho ngân hàng. 1.3.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với nhau. Những nội dung chủ yếu được ngân hàng chú trọng khi thẩm định là: Thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn và tiến độ bỏ vốn. Thẩm định vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn đến việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng tài trợ của dự án. Thẩm định tổng vốn đầu tư là việc xem xét dự án đã được tính toán đầy đủ các khoản chi phí cần bỏ ra ban đầu để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động hay chưa. Tổng vốn đầu tư thường được chia làm hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Vốn đầu tư vào tài sản cố định: bao gồm chi phí mua sắm, lắp đặt, chạy thử thiết bị và chi phí dự phòng hợp lý kèm theo. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động: với các dự án sản xuất kinh doanh, để máy móc, dây chuyền sản xuất có thể đi vào hoạt động bình thường trong chu kỳ sản xuất đầu tiên thì cần phải có các tài sản lưu động ban đầu. Chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu này gọi là vốn lưu động, là một bộ phận của tổng vốn đầu tư khi dự toán. Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được tiến hành trên cơ sở các thông tin về thị trường, ngành và các dự án tương tự đã biết. 1.3.3.2. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án. Một dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định mức cho vay của ngân hàng Số tiền cho vay = Tổng vốn đầu tư của dự án - Các nguồn tài trợ cho dự án Trong đó, các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm: - Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: được lấy từ phần khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ thặng dư… mà khách hàng có thể dùng để tài trợ cho dự án. Ngân hàng cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định phần nguồn vốn chủ sở hữu trên thực tế có thể tham gia tài trợ dự án của doanh nghiệp. - Nguồn vốn ngân sách cấp: một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Khi đó, ngân hàng cần xem xét bảo đảm của cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách. - Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác: Một số dự án có nhu cầu vay vốn lớn đòi hỏi sự đồng tài trợ của nhiều ngân hàng. Trong trường hợp đó ngân hàng phải kiểm tra độ tin cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay của các nguồn tài trợ dự án từ các tổ chức tín dụng khác dựa trên các cam kết băng văn bản của chủ thể cho vay. Bên cạnh việc thẩm định tính khả thi, ngân hàng còn xem xét thời điểm mà doanh nghiệp nhận được khoản tài trợ đó, để có kế hoạch giải ngân vốn phù hợp với tiến trình của dự án. Nhằm hạn chế rủi ro của mình và nâng cao trách nhiệm của chủ dự án, ngân hàng thường yêu cầu tỷ lệ nhất định vốn tự có của doanh nghiệp tham gia tài trợ cho dự án và thường chỉ muốn giải ngân vốn vay một cách song song hoặc sau khi khách hàng sử dụng vốn tự có. Theo quy định hiện hành mức vốn tự có tối thiểu của doanh nghiệp tham gia vào dự án tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình là 30%. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án tránh cho ngân hàng rơi vào thế bị động khi cho vay khi các nguồn tài trợ khác không khả thi, giúp ngân hàng đưa ra mức tài trợ hợp lý cũng như kế hoạch đầu tư của mình đối với dự án, nhằm đảm bảo cho dự án không bị thiếu vốn và nguồn vốn của ngân hàng cũng được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. 1. 3.3.3. Thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của dự án Về bản chất, việc thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của dự án là một phần trong thẩm định dòng tiền của dự án nhưng các ngân hàng thường tách công việc này thành một bước riêng để tiện cho việc đánh giá và tính toán. Và vì vậy bước này có trách nhiệm đảm bảo đầu vào để việc thẩm định dòng tiền được chính xác. Doanh thu của dự án bao gồm các khoản lợi ích thu được từ việc vận hành tài sản cố định được đầu tư bởi dự án, gồm doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ, doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Khi thẩm định yếu tố này ngân hàng phải xem xét tính hợp lý của hai yếu tố giá cả và sản lượng sản phẩm. Chi phí của dự án gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi. - Chi phí cố định gồm chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, khấu hao máy móc thiết bị, lãi vay…thường được tính theo phần trăm trên doanh thu - Chi phí biến đổi gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương… được tính toán dựa trên sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Vì doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh, mà doanh thu lại phụ thuộc vào giá bán, trong khi giá bán phải dựa trên cơ sở chi phí thực tế và giá của các sản phẩm thay thế. Như vậy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, chi phí đều ảnh hưởng đến doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy ngân hàng cần thẩm định tính chính xác và hợp lý của các yếu tố chi phí như khách hàng đã đưa đủ chi phí vào giá thành chưa? Các mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu của dự án có hợp lý không (nên so sánh với các dự án còn lại), tỷ lệ trích khấu hao vào giá thành hợp lý không? 1.3.3.4. Thẩm định dòng tiền của dự án Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu, chi được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch giữa các khoản thu chi này tạo ra dòng tiền ròng của dự án tại từng thời điểm. Thẩm định dòng tiền của dự án là việc ngân hàng xác định dòng tiền của dự án được phát sinh tại các thời điểm khác nhau để làm cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, xây dựng kế hoạch trả nợ hợp lý và tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án. Thẩm định dòng tiền của dự án cần chú ý một số điểm sau: Một là, phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền. Vì tiền có giá trị thời gian nên chúng ta không thể so sánh dòng tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau với nhau mà phải quy chúng về cùng một mốc thời gian để so sánh bằng cách sử dụng lãi suất chiết khấu. Hai là, cần phân biệt dòng tiền thực và dòng lợi nhuận kế toán. Dòng lợi nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận, còn dòng tiền của dự án xác định trên cơ sở thu nhập và chi phí có thật bằng tiền. Ví dụ như khấu hao là một khoản chi phí cố định của dự án. Tuy nhiên đây không phải là một khoản chi phí thực bằng tiền nên không được tính vào dòng tiền chi ra của dự án. Ngược lại, vì khấu hao tác động gián tiếp đến lợi nhuận, nó làm giảm thuế thu nhập nên phải được coi là khoản thu nhập của dự án. Ba là, cần nắm vững nguyên tắc xác định dòng tiền phù hợp. Dòng tiền dự án là dòng tiền phù hợp. Một dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Dòng tiền phù hợp còn được gọi là dòng tiền chênh lệch vì nó chính là chênh lệch của dòng tiền ròng của doanh nghiệp khi không thực hiện và có thực hiện dự án. Do đó các dòng tiền mà sự tồn tại của nó không liên quan đến việc thực hiện hay không thực hiện dự án thì phải loại bỏ khi tính dòng tiền dự án: - Chi phí chìm: là chi phí đã xuất hiện từ trước cho dù dự án có được thực hiện hay không. Do đó khi phân tích dòng tiền cần loại bỏ chi phí này. - Chi phí cơ hội: là cơ hội thu nhập tốt nhất bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã sở hữu sẵn một số tài sản hữu dụng cho việc thực hiện dự án. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra để mua những tài sản này nữa. Chẳng hạn doanh nghiệp đang sở hữu một khu đất thích hợp cho việc xây dựng một toà cao ốc làm văn phòng. Liệu giá trị khu đất trên có được tính vào chi phí đầu tư không? Khi sử dụng mảnh đất vào việc xây dựng toà nhà cao ốc, doanh nghiệp đã phải từ bỏ một dòng tiền mà lẽ ra nó đã có thể có bằng việc cho thuê khu đất đó. Nhưng dòng tiền này không được đưa vào dự án vì chi phí cơ hội đã được tính đến trong lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên giá trị thị trường của mảnh đất phải được đưa vào chi phí đầu tư vì mảnh đất cũng là một tài sản có khả năng sinh lợi cho doanh nghiệp khi tham gia vào dự án. - Tác động phụ: Vì dòng tiền chênh lệch của một dự án bao gồm tất cả các sự thay đổi luồng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp việc chấp nhận thực hiện dự án mới có thể gây ra tác động phụ kể cả tốt và xấu đối với luồng tiền của doanh nghiệp. Tác động này cần được tính vào luồng tiền của dự án. - Vốn lưu động ròng: là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định. Thông thường, một dự án yêu cầu phải đầu tư vào vốn lưu động ròng bên cạnh đầu tư vào tài sản cố định. Để dự án đi vào hoạt động thường cần một lượng vốn lưu động ban đầu như tiền để đáp ứng nhu cầu chi trả, hàng tồn kho ban đầu cần thiết để._. bắt đầu sản xuất…Tuy nhiên nhu cầu này được tài trợ bởi các khoản nợ ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào phần vốn lưu động ròng. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và được thu hồi khi dự án kết thúc. Trong tính toán dự án, đầu tư vào vốn lưu động ròng được coi là đầu tư ban đầu, và được thu hồi khi dự án kết thúc. Vốn lưu động ròng được đưa vào dòng tiền của dự án. - Phân bổ chi phí quản trị chung: chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt động không liên quan trực tiếp tới bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào như chi phí quản lý, chi phí hành chính, văn phòng,…Sự chênh lệch của những chi phí này trước và sau thời điểm có dự án mới nên được tính vào dòng tiền. Một cách tổng quát, dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận sau: dòng chi phí đầu tư, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thu hồi sau đầu tư. - Dòng chi phí đầu tư gồm: chi phí mua tài sản cố định; chi phí lắp đặt, vận chuyển, chạy thử; chi phí dự phòng và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có). Dòng chi phí đầu tư được gọi là dòng tiền ra của dự án (COF). - Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh: = LNST +KH = DT – CF - THUẾ = ( DT – chi phí không kể khấu hao)*(1-T) + KH*T - Dòng tiền thu hồi sau đầu tư: gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ thanh lý tài sản cố định, trong đó: Thu hồi từ thanh lý TSCĐ = thu thanh lý – (thu thanh lý – GTCL)*T Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền thu hồi sau đầu tư tạo thành dòng tiền vào của dự án (CIF). Chênh lệch giữa dòng ra và dòng vào của dự án tạo nên dòng tiền ròng của dự án, là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án: NCF = CIF - COF Đây là ba bộ phận cơ bản để xác định dòng tiền của dự án. Tuy nhiên đứng trên các góc độ thẩm định khác nhau, dòng tiền của dự án có thể có những hiệu chỉnh nhất định như trừ đi dòng trả nợ gốc hàng năm (nếu người thẩm định là chủ đầu tư) hoặc cộng trở lại lãi vay (nếu người thẩm định là ngân hàng). 1.3.3.5.Thẩm định lãi suất chiết khấu Xuất phát của việc đưa lãi suất chiết khấu vào tính toán trong dự án được bắt nguồn từ nguyên lý giá trị thời gian của tiền. Đồng tiền xuất hiện có giá trị cao hơn cũng đồng tiền đó vào một thời điểm trong tương lai. Để có thể đánh giá hiệu quả tài chính của dự án một cách chính xác trên cơ sở có tính đến giá trị thời gian của tiền, ngân hàng cần chiết khấu dòng tiền của dự án trong tương lai về hiện tại theo một tỷ lệ hợp lý, tỷ lệ đó gọi là lãi suất chiết khấu. Cơ sở tính lãi suất chiết khấu gắn liền với khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án. Đứng trên các quan điểm, vị trí khác nhau của người thẩm định, lãi suất chiết khấu được xác định một cách khác nhau: - Quan điểm nhà đầu tư: lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với phần vốn đầu tư hay thực chất là chi phí cơ hội của chủ đầu tư. Khi đó lãi suất chiết khấu được tính dựa trên mô hình CAPM hoặc APT. - Quan điểm của nhà tài trợ: lãi suất chiết khấu chính bằng lãi suất cho vay - Quan điểm của doanh nghiệp: lãi suất chiết khấu là chi phí bình quân của dự án Việc xác định lãi suất chiết khấu hợp lý là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Các dự án khách hàng trình lên ngân hàng có lãi suất chiết khấu thường là lãi suất cho vay trung dài hạn của ngân hàng hoặc lãi suất huy động trung dài hạn của ngân hàng cộng với phần chênh lệch nhất định. Dựa trên những đánh giá về khả năng sinh lời và mức rủi ro của dự án, ngân hàng tiến hành điều chỉnh lại tỷ lệ này trên góc độ của ngân hàng. 1.3.3.6. Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án là những căn cứ rất quan trọng để các cán bộ thẩm định đưa ra các quyết định đối với việc thực hiện dự án. Để Phân tích và đánh giá hiệu quả tài chính dự án các cán bộ thẩm định thường sử dụng các chỉ tiêu : Giá trị hiện tại ròng NPV;tỷ suât hoàn vốn nội bộ IRR;chỉ số doanh lợi PI;thời gian hoàn vốn PP.Theo các cán bộ thẩm định thì một dự án được coi là khả thi và có hiệu quả khi các chỉ tiêu tài chính đảm bảo ít nhất là đạt được mức tối thiểu có thể chấp nhận được. 1.3.3.6.1.. Giá trị hiện tại ròng NPV Khái niệm. NPV-giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0. Đây là chỉ tiêu đựơc sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định dự án. Ý nghĩa. NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư.NPV có thể mang giá trị dương, âm hoặc bằng không.NPV>0 có nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư tức tính sinh lợi của sự đầu tư lớn hơn tỷ lệ chiết khấu.Do đó ột dự án với NPV dương có thể coi là chấp nhận được.NPV=0,tính sinh lợi tương đương với tỷ lệ chiết khấu.Nếu NPV<0 thì dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư và điều đó có nghĩa là tính sinh lợi của dự án nhỏ hơn tỷ lệ chiết khấu,dự án cần phải được hủy bỏ. Cách xác định. Công thức tình NPV được xác định như sau : NPV = - Trong đó : CFo : Vốn đầu tư ban đầu bỏ ra,giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần vào đầu năm thứ nhất của dự án. CFt : Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n n : Số năm thực hiện dự án k : Lãi suất chiết khấu,giả định là không đổi trong các năm. Tiêu chuẩn lựa chọn dự án : Đứng trên quan điểm của các cán bộ thẩm định trong ngân hàng thì dự án có NPV≥0 sẽ được lựa chọn nếu như các chủ đầu tư vẫn thực hiện đúng kế hoạch trả nợ và dự án có NPV<0 sẽ bị loại bỏ. NPV có một lợi thế như một phương tiện phân biệt so sánh với thời gian thu hồi vốn đầu tư và tỉ suất lợi nhuận hàng năm vì nó tính đến toàn bộ thời gian của dự án và thời điểm các dòng tiền của dự án.Nhược điểm của NPV là sự khó khăn trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu thích hợp và NPV không chỉ ra tính sinh lợi chính xác của dự án.Mặt khác,trên thực tế việc sử dụng tiêu chuẩn NPV để đưa ra quyết định đầu tư có thể không hoàn toàn đúng như lý thuyết.Một dự án cso NPV dương nhưng NPV quá nhỏ so vơi tổng vốn đầu tư thì việc quyết định tài trợ cho dự án cũng như cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng.Tiêu chuẩn NPV tỏ ra bất lợi khi so sánh những dự án có vốn đầu tư khác nhau hay thời gian khác nhau.Do vậy, để thẩm định hiệu quả tài chính dự án cần thiết phải nghiên cứu thêm các chỉ tiêu khác. 1.3.3.6.2. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR). Khái niệm Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu mà ở đó NPV=0.Hay nói cách khác đó là tỷ lệ chiết khấu mà ở đó giá trị hiện tại của dòng tiền vào tương đương với giá trị hiện tại của dòng tiền ra. Ý nghĩa IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án,dựa trên giả định dòng tiền thu được qua các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng IRR. Cách xác định Phương pháp hay dùng để tính IRR là thử và điều chỉnh.Lần lượt thử các giá trị của lãi suất chiết khấu làm cho NPV=0,chọn lãi suất chiết khấu nào cho giá trị của NPV gần 0 nhất thì đó chính là IRR. Ngoài ra phương pháp nội suy cũng được dùng để tính IRR.Phương pháp này được tính dựa trên tam giác đồng dạng.Chọn 2 giá trị của lãi suất chiết khấu sao cho một giá trị cho NPV>0 và một giá trị cho NPV<0. IRR chính là giá trị nằm giữa 2 giá trị vừa chọn làm cho NPV=0.Công thức xác định IRR như sau : IRR = + Tiêu chuẩn lựa chọn dự án Chọn dự án có IRR lớn hơn LSCK IRR cần phải được áp dụng cẩn thận trong các trường hợp các dòng tiền âm lớn xuất hiện lặp đi lặp lại trong thời gian cuối của dự án.Trong trường hợp này IRR sẽ có nhiều giá trị và phương pháp IRR có thể đem lại những kết quả vô nghĩa. IRR khắc phục được nhược điểm của NPV ở chỗ nó có thể so sánh được các dự án có thời gian khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau. Rõ ràng,việc áp dụng cả hai phương pháp NPV và IRR trong việc thẩm đinh hiệu quả tài chính dự án là rất cần thiết.Thế nhưng vấn đề ở chỗ số liệu nào đáng tin cậy hơn để đánh giá một dự án,và so sánh giữa các dự án với nhau.Về mặt khoa học thì NPV và IRR chỉ là 2 góc nhìn của hiệu quả tài chính dự án.NPV đưa ra giá trị tuyệt đối, IRR đưa ra giá trị tương đối.Về mặt toán học,khi LSCK dùng để tính NPV bằng với IRR thì NPV=0.Do vậy giá trị NPV còn phụ thuộc vào LSCK áp dụng,nếu chọn không khách quan sẽ làm kết quả NPV thiếu tin cậy. Về nguyên tắc một dự án có hiệu quả là dự án có NPV>0 hoặc IRR lớn hơn lãi suất ngân hàng.Tuy nhiên,tuỳ theo quan điểm và mục đích đầu tư mà chỉ số nào đáng được quan tâm hơn. 1.3.3.6.3. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh (MIRR) IRR phản ánh giá trị hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên, giả định này là không thuyết phục vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong các năm thể hiện chi phí cơ hội của chủ đầu tư trong từng năm thay đổi. Để khắc phục nhược điểm này, ngân hàng sử dụng kết hợp với chỉ tiêu MIRR. MIRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương đương với giá trị hiện tại của giá trị cuối cùng của dự án. Giá trị cuối cùng là tổng giá trị tương lai của những luồng tiền vào theo lãi suất chiết khấu ( chi phí của vốn) 1.3.3.6.4.Chỉ số doanh lợi (PI) Khái niệm Chỉ số doanh lợi PI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án,tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư ban đầu.PI cho biết một đồng vốn bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra. Cách xác định PI = Tiêu chuẩn lựa chọn dự án PI ≥1 thì dự án sẽ được chấp nhận.PI<0 thì quyết không tài trợ cho dự án. PI càng cao thì dự án càng dễ được chấp nhận nhưng tối thiểu phải bằng LSCK. PI khắc phục được nhược điểm của những dự án có thời hạn khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau vi nó phản ánh khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu tư của cả vòng đời dự án.Tuy nhiên vì PI là số tương đối nên nó không phản ánh được quy mô gia tăng cho chủ đầu tư như NPV. Thời gian hoàn vốn (PP) Khái niệm Thời gian hoàn vốn là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư vào dự án. Ý nghĩa: PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án,nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư.Do vậy,PP cho biết khả năng tao thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn.Tuy nhiên,PP lại không xem xét đến khả năng tạo thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư. Chỉ tiêu PP giúp cho các cán bộ thẩm định có một cái nhìn tương đối chính xác về mức độ rủi ro của dự án.Chỉ tiêu này được các nhà tài trợ ưa thích vì thời gian thu hồi vốn đầu tư càng dài thì nhà tài trợ càng phải đương đầu với rủi ro trong việc thu hồi vốn. Cách xác đinh : PP = n + (số vốn đầu tư còn lại càn được thu hồi / dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn) Trong đó n : năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư. Chỉ tiêu PP có ý nghĩa trong thẩm định tài chính dự án nhưng nó phải được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác chứ khó có thể sử dụng một cách độc lập để đưa ra quyết định đầu tư. 1.3.3.6.6. Chỉ tiêu cân đối lợi ích – chi phí (B/C) Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Về bản chất chỉ tiêu này có ý nghĩa tương tự NPV khi đánh giá một dự án vì NPV >0 thì B/C >1, NPV = 0 thì B/C = 1 và NPV < 0 thì B/C <1.Tuy nhiên vì là số tương đối nên chỉ tiêu này tuy không phản ánh được quy mô giá trị tăng thêm của dự án nhưng lại có thể so sánh được các dự án có thời hạn khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau. Vì B/C khắc phục được nhược điểm của NPV nên nó thường được sử dụng bổ trợ cho chỉ tiêu NPV khi phải so sánh nhiều dự án có thời hạn và vốn đầu tư khác nhau. B/C không ảnh hưởng nhiều đến các quyết định tài trợ của ngân hàng. 1.3.3.6.7. Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân ( APP) Là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án. APP cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận kế toán bình quân trong từng năm thực hiện dự án. Do vậy APP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập cho chủ đầu tư. Tuy nhiên APP không xem xét đến giá trị thời gian của tiền do vậy nó không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án. Do đó APP cũng thường được sử dụng kết hợp với NPV như một chỉ tiêu bổ trợ. 1.3.3.6.8. Điểm hoà vốn ( BP) Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư Nếu PP phản ánh thời gian thu hồi đủ vốn thì BP cho biết phải sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm để thu hồi đủ vốn dựa trên chi phí biến đổi, chi phí cố định và giá bán sản phẩm. BP góp phần giúp ngân hàng đánh giá về khả năng hoàn vốn của dự án. BP không quan tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi đủ vốn đầu tư, không tính đến giá trị thời gian của tiền nên không chính xác như các chỉ tiêu tài chính khác, vì vậy chỉ được sử dụng như một chỉ tiêu bổ trợ. 1.4.Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.4.1 Quan điểm về chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thẩm định tài chính dự án được coi là có chất lượng tốt khi nó thoả mãn được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra. Yêu cầu của ngân hàng trong TĐTCDA là thời gian ngắn và chi phí thẩm định thấp, đánh giá được chính xác hiệu quả tài chính của dự án, làm căn cứ chính yếu nhất để ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn: cho vay hay không, cho vay bao nhiêu, thời hạn vay bao lâu, phương thức giải ngân, hình thức thu nợ thế nào cho phù hợp…nhằm hạn chế tối đa rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ hội đầu tư với những dự án tốt. Yêu cầu của khách hàng là được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời hạn và lãi suất phù hợp, thời gian thẩm định càng ngắn càng tốt để không bị lỡ thời cơ kinh doanh, được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính,… Vì dự án vừa là cơ hội đầu tư của khách hàng vừa là cơ hội đầu tư của ngân hàng nên việc thẩm định tài chính dự án được đánh giá là có chất lượng tốt khi nó đáp ứng đồng thời yêu cầu của cả hai bên. Do đó, nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng chính là nâng cao sự thoả mãn hai yêu cầu nói trên. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án là các chỉ tiêu thể hiện mức độ thoả mãn yêu cầu đặt ra của ngân hàng và khách hàng. 1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án Chất lượng thẩm định tài chính dự án thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: - Thời gian thẩm định - Chi phí thẩm định - Chất lượng của báo cáo thẩm định - Chất lượng các quyết định cho vay - Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng 1.4.2.1. Thời gian thẩm định Để thẩm định một dự án trước hết cần thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và tổng hợp các thông tin đó nhằm đưa ra kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Để thực hiện được những công việc trên đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định. Trong điều kịên cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chi phí cơ hội của dự án là rất lớn, thời gian đối với chủ đầu tư là vàng là bạc, các khách hàng khi đến với ngân hàng luôn mong muốn được ngân hàng trả lời sớm nhất dù cho vay hay không cho vay. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng là cần phải tổ chức thẩm định và thiết lập hệ thống công nghệ hỗ trợ phù hợp sao cho thời gian thẩm định phải đủ để tổ chức khâu thẩm định được kỹ càng nhưng không được quá dài sẽ làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Có như vậy mới đảm bảo cơ hội đầu tư cho cả ngân hàng và khách hàng. 1.4.2.2. Chi phí thẩm định Chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi trả cho việc tiến hành thẩm định dự án.Hơn nữa trong cùng một thời gian, ngân hàng phải trả lời cho vay hay không cho vay đối với nhiều dự án khác nhau vì vậy chi phí thẩm định của ngân hàng còn bao gồm cả chi phí cơ hội đối với việc xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm. Thu nhập của ngân hàng từ dự án là tiền lãi vay và các khoản phí dịch vụ cung ứng. Là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy khi tiến hành thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải so sánh thu nhập và chi phí thẩm định dự án. Trường hợp chi phí thẩm định mà quá lớn so với thu nhập nhận được từ dự án thì ngân hàng vẫn có thể từ chối cho vay dù dự án hiệu quá. 1.4.2.3. Chất lượng báo cáo thẩm định Báo cáo thẩm định là văn bản tổng kết lại toàn bộ các kết quả cuối cùng của quá trình thẩm định dự án. Báo cáo thẩm định là căn cứ hàng đầu để ngân hàng ra các quyết định cho vay, là cơ sở để tiến hành tái thẩm định, do đó nó có vai trò rất quan trọng. Là sự tổng kết của toàn bộ quá trình thẩm định nên chất lượng của báo cáo tài chính thể hiện chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án. Bản báo cáo thẩm định có chất lượng tốt phải đạt yêu cầu trình bày khoa học, đầy đủ, chính xác và khách quan, sát với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Báo cáo thẩm định tốt phải giúp người đọc nắm bắt được những thông tin cơ bản nhất về hiệu quả tài chính của dự án, phải thể hiện được các quyết định và chứng minh được tính hợp lý của các quyết định tài trợ cho dự án. 1.4.2.4. Chất lượng các quyết định cho vay Vì mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là để ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay một cách hợp lý nên chất lượng các quyết định cho vay cũng phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chất lượng các quyết định cho vay thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động của các dự án được ngân hàng tài trợ và kết quả hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng. Khi bỏ vốn tài trợ cho một dự án, ngân hàng bao giờ cũng mong muốn dự án hoạt động có hiệu quả để đảm bảo thu hồi được cả vốn và lãi. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay không. Điều đó có nghĩa là các dự án được ngân hàng tài trợ vốn là các dự án được ngân hàng thẩm định là có hiệu quả. Vì vậy các dự án đã được xét duyệt cho vay mà hoạt động tốt theo đúng dự kiến chứng tỏ ngân hàng đã ra quyết định đúng đắn hay chất lượng thẩm định tài chính dự án tốt. Ngược lại, nếu dự án được ngân hàng cho vay hoạt động không hiệu quả - điều đó thể hiện sự yếu kém trong chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Hiệu quả hoạt động của các dự án tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng, hay nói cách khác kết quả hoạt động cho vay theo dự án phần nào cũng phản ánh chất lượng các quyết định cho vay. Nếu các quyết định cho vay đúng đắn, dự án hoạt động có hiệu quả sẽ làm tăng dư nợ, giảm tỷ lệ nợ quá hạn của hoạt động cho vay theo dự án. Nếu các quýêt định cho vay không hợp lý, dự án hoạt động không có hiệu quả sẽ làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn, có thể làm cho ngân hàng bị mất vốn,… 1.4.2.5. Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng Thẩm định tài chính dự án có chất lượng tốt sẽ mang lại cho cán bộ ngân hàng cái nhìn sâu sắc về dự án, từ đó có thể tư vấn cho khách hàng nhiều vấn đề liên quan như kế hoạch kinh doanh phù hợp, phương án về nguồn vốn sao cho hiệu quả,…Những tư vấn này sẽ giúp doanh nghiệp tiên hành dự án được tốt hơn, đồng thời ngân hàng cũng , an toàn hơn, có lợi ích hơn khi cho vay các dự án hiệu quả. 1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Để có được kết quả tốt nhất về thẩm định tài chính dự án đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Các nhân tố này được chia thành hai nhóm chính: nhóm nhân tố về phía ngân hàng và nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng. 1.4.3.1. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng. Tổ chức công tác thẩm định Nếu công tác này được tổ chức một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân phù hợp với năng lực và trình độ chuyên môn, có kiểm tra giám sát chặt chẽ, chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ tốt hơn. Chất lượng của đội ngũ cán bộ: Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Do tính chất phức tạp, hàm chứa nhiều vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực trong công tác thẩm định tài chính dự án, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng, sự hiểu biết toàn diện về những vấn đề cần thẩm định như: hiểu biết về lĩnh vực doanh nghiệp đầu tư, hiểu biết về sự phát triển chung của nghành, của nền kinh tế,…cũng như phải nắm vững các quy định, quy chế liên quan đến hoạt động cho vay. Chất lượng đội ngũ cán bộ là hết sức quan trọng nhưng nếu số lượng cán bộ thẩm định quá ít so với yêu cầu tất yếu xảy ra hiện tượng mỗi cán bộ phải thực hiện khối lượng công việc quá tải, từ đó dẫn đến việc thẩm định thiếu kỹ càng, kém hiệu quả. Do đó số lượng cán bộ quá ít cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thông tin Thẩm định tài chính dự án được thực hiện trên cơ sở phân các thông tin trực tiếp và gián tiếp liên quan đến dự án. Thông tin càng đầy đủ, chính xác bao nhiêu thì việc thẩm định càng thuận lợi và chất lượng bấy nhiêu. Nếu thông tin sai lệch thì kết quả thẩm định tài chính sẽ bị hạn chế, có thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, gây tổn thất lớn và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy, yếu tố thông tin có một vai trò rất quan trọng đối với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Và vị trí của yếu tố này đang ngày càng được coi trọng trong thời đại thông tin hiện nay. Phương pháp thẩm định Phương pháp thẩm định thể hiện thông qua hệ thống chỉ tiêu và cách áp dụng khi thẩm định tài chính dự án. Tùy theo đặc điểm tính chất của từng dự án mà cán bộ thẩm định bên cạnh phải sử dụng kết hợp các chỉ tiêu cần phải biết chỉ tiêu nào là quan trọng trong viêc phân tích, ra quyết định cho vay. Trang thiết bị, công nghệ của ngân hàng: Đây là nhân tố ảnh hưởng tới thời gian và độ chính xác của kết quả thẩm định tài chính dự án. Với trang thiết bị hiện đại, việc thu thập và xử lí các thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác, dự báo nhanh nhiều phương án, các cơ hội đầu tư sẽ được nắm bắt kịp thời. Nhờ vậy chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án sẽ được nâng cao. 1.4.3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng: Môi trường pháp lý : Môi trường pháp lý có những ảnh hưởng nhất định đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Với môi trường pháp lý rõ ràng,chặt chẽ sẽ có tác động tích cực đến quá trình thẩm định và thực hiện dự án.Ngược lại,những sai sót,khiếm khuyết,không chặt chẽ trong các văn bản pháp lý,chính sách quản lý của Nhà nước sẽ tác động tiêu cực đến chất lượng thẩm định.Vì khi đó các chủ đầu tư sẽ dựa vào những chỗ sơ hở,thiếu sót của luật định để có những việc làm sai trái,gây trở ngại trong quá trình thẩm định. Ngoài ra,sự mâu thuẫn,chồng chéo của các văn bản luât,dưới luật về các lĩnh vực,sự thay đổi liên tục về quy chế quản lý tài chính,tính không đồng bộ của kế toán thống kê…sẽ làm thay đổi tính khả thi của dự án theo thời gian cũng như khó khăn cho ngân hàng trong việc đánh giá,dự báo rủi ro và có thể làm mất cơ hội đầu tư cho những dự án tốt của Ngân hàng. Môi trường kinh tế : Mức độ phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia quy định kinh nghiệm,năng lực của chủ thế trong nền kinh tế, đồng thời quy định độ tin cậy của các thông tin.Do đó,môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định.Một môi trường kinh tế lành mạnh, ổn định,với các thông tin đầy đủ,chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định đạt kết quả cao.Trái lại,nếu nền kinh tế chưa phát triển,cơ sở kinh tế thiếu đồng bộ cũng với sự bất ổn của điều kiện kinh tế vĩ mô đã hạn chế trong việc cung cấp thông tin xác thực,dẫn đến phản ánh sai lệch diễn biến,mối quan hệ thị trường về giá cả,cung-cầu,dự báo xu hướng của nền kinh tế…nên sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư và như vậy cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG INCOMBANK THANH XUÂN. 2.1. Vài nét về Ngân hàng Công thương Thanh Xuân 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. Ngân hàng công thương chi nhánh Thanh Xuân có trụ sở tại số 275 đường Nguyễn Trãi là một trong hơn 130 chi nhánh thuộc mạng lưới chi nhánh của NHCT Việt Nam . Tiền thân của NHCT Thanh xuân là phòng giao dịch Thượng Đình thuộc NHCT Đống Đa , với mục đích mở rộng mạng lưới chi nhánh nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn và dịch vụ ngân hàng của các tầng lớp xã hội trên địa bàn thì chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã được thành lập theo quyết định số 17/HĐQT-QĐ ngày 08/03/1997 của Chủ tịch HĐQT-NHCT Việt Nam . Khi mới thành lập NHCT Thanh Xuân chỉ có 4 phòng là : Phòng tổ chức hành chính , Phòng kế toán tài chính , Phòng kinh doanh , Phòng tiền tệ kho quỹ,với tổng cộng 52 nhân viên . Đến năm 1998 thành lập thêm hai tổ : Tổ kiểm tra và Tổ kinh doanh đối ngoại . Năm 1999 Ngân hàng đã tách khỏi NHCT Đống Đa , thực hiện hạch toán trực thuộc NHCT Việt Nam theo Quyết định số 13/QĐ/HĐQT/NHCT1 ngày 20/02/1999 đánh dấu bước trưởng thành về mọi mặt của chi nhánh với 127 cán bộ công nhân viên , 7 phòng ban và các quỹ tiết kiệm . Đến năm 2003 chi nhánh đã có 169 cán bộ công nhân viên và đến năm 2005 tăng đến 197 cán bộ công nhân viên trong đó có 3 thạc sỹ , 86 người trình độ đại học , còn lại là cao đẳng và trung học . Có thể nói sự hình thành và phát triển của NHCT chi nhánh Thanh Xuân đã góp phần giải quyết nhu cầu vốn và các dịch vụ ngân hàng nói chung trên địa bàn , mặc dù thời gian hoạt động chưa phải là dài nhưng NHCT Thanh Xuân đã có được mối quan hệ rất tốt và nhận được sự ủng hộ của Chính quyền địa phương trên địa bàn Quận Thanh Xuân như UBND Quận , Phường ,Đoàn thanh niên , Hội phụ nữ ... Có được thành quả bước đầu đó là nhờ những nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên và sự chỉ đạo hợp lí của các cấp lãnh đạo NHCT Thanh Xuân Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công Thương Thanh Xuân NHCT Thanh Xuân có bộ máy tổ chức gọn nhẹ bao gồm: 1 giám đốc , 3 phó giám đốc và 9 phòng ban nghiệp vụ.Cơ cấu tổ chức được thể hiện trong sơ đồ sau : Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của NHCT Thanh Xuân Phó giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc P. Khách hàng cá nhân P. Tiền tệ kho quỹ P. Thông tin kế toán P. Tài trợ thương mại P. Kế toán P. Tổ chức hành chính P. Tổng hợp tiếp thị P. Khách hàng doanh nghiệp Giám đốc Nguồn :Sổ tay tín dụng NHCT Thanh Xuân 2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của Incombank trong thời gian qua. 2.1.3.1 Công tác huy động vốn Trong những năm gần đây việc huy động vốn đối với các ngân hàng thương mại nói chung cũng như NHCT Thanh Xuân nói riêng là rất khó khăn. Trước sức ép về nhu cầu vốn , các ngân hàng thương mại trên địa bàn liên tục mở rộng quy mô cũng như mạng lưới hoạt động cùng với việc tăng lãi suất huy động , kết hợp với nhiều chính sách khuyễn mãi chăm sóc khách hàng hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng . Bên cạnh đó , chênh lệch lãi suất huy động giữa các NHTMCP và NHTMNN luôn ở mức rất cao từ 0.05% đến 0.09% đã gây rất nhiều khó khăn đối với các NHTMNN trong đó có NHCT Thanh xuân . Trước tình hình đó Chi nhánh NHCT Thanh xuân đã kịp thời đưa ra nhiều giải pháp có hiệu quả như : Điều chỉnh lại địa điểm giao dịch của các quỹ tiết kiệm theo hướng tập trung vào các khu vực đông dân cư , thay đổi các hình thức huy động vốn cho phù hợp với từng thời kỳ , thường xuyên nghiên cứu đổi mới các hình thức các quỹ tiết kiệm nhằm tạo sự hấp dẫn , gây được lòng tin với khách hàng , đẩy mạnh việc tuyên truyền , quảng cáo thông qua hệ thống thông tin báo chí , truyền thanh , tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương như ủy ban nhân dân Phường , quận , đoàn thanh niên , hội liên hiệp phụ nữ để tuyên truyền , nhờ đó mà chi nhánh đã thực hiện tốt công tác huy động vốn trong thời gian qua . Kết quả tổng nguồn vốn huy động và đi vay bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ qui đổi đến 31/12/2006 đạt 3.581 tỷ VNĐ.Trong đó,năm 2004 là 2.915 tỷ VNĐ,năm 2005 là 3155 tỷ VNĐ,tăng 425 tỷ đồng so với thực hiện đến 31/12/2005 với tốc độ tăng là 13% bằng 112% chỉ tiêu kế hoạch năm 2006 Trong đó huy động ngoại tệ quy đổi đạt 546 tỷ đồng , tăng 50% so với cùng kỳ năm trước và bằng 120% so với kế hoạch năm 2006 . Biểu 1:Tổng nguồn vốn huy động trong giai đoạn 2004-2006 Đơn vị:Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/04 31/12/05 31/12/06 Tổng vốn huy động 2.915 3.155 3.581 Tốc độ tăng (%) 173.1 108.2 112 Nguồn:Báo cáo kết quả HĐSXKD tại Incombank năm 2006 Có được những thành quả đáng khích lệ đối với công tác huy động vốn trong thời gian qua là do nỗ lực của tập thể cán bộ CNV và sự chỉ đạo đúng đắn kịp thời của ban lãnh đạo chi nhánh : + Quán triệt toàn thể cán bộ nhân viên nâng cao tinh thần trách nhiệm , chấn chỉnh tác phong giao dịch văn minh , lịch sự nhằm nâng cao uy tín , tạo niềm tin cho khách hàng. + Tăng cường mối quan hệ với những tổ chức có nguồn tiền nhàn rỗi lớn như : Tổng công ty Xăng dầu , Công ty tài chính công nghiệp Tàu thủy , Cục tần số Việt Nam . Số dư tiền gửi doanh nghiệp đến 31/12/2006đạt 687 tỷ đồng , chiếm 19% trong tổng nguồn vốn và bằng 107% so với cùng kì năm trước . + Đặc biệt chú trọng khai thác nguồn tiền gửi dân cư . Đay là một kênh huy động có tính chiến lược , ổn định , bền vững đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh . Tuy nhiên , sự phát triển của thị trường chúng khoán một cách sôi động trong thời gian qua đã ảnh hưởng trực tiếp đến kênh huy động vốn vủa chi nhánh từ khu vực này . Chính vì vậy , việc đưa ra các biện pháp làm hạn chế sự ảnh hưởng của thị trường chứng khoán trong việc huy động vốn từ khu vực dân cư của chi nhánh là một việc làm hết sức cần thiết . Trong những năm gần đây , chi nhánh thường xuyên thực hiện các biện pháp như : + Tăng cường quảng bá hình ảnh của chi nhánh bằng nhiều hình thức đa dạng thông qua các hệ thống thông tin báo chí , truyền thanh , phát tờ rơi . Tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền địa phương các cấp như UBND Quận , các Phường , Đoàn thanh niên , Hội phụ nữ và các khách hàng của Chi nhánh để tuyên truyền quảng bá. + Tăng cường bám sát thị trường nhằm có những điều chỉnh lãi suất phù hợp + Thực hiện tốt công tác chăm sóc khách hàng như : Thông qua các chương trình tặng quà khuyến mại đối với khách hàng gửi tiền tiết kiệm cũng như gửi quà tặng ._. trả nợ,vì vậy quan đỉêm dòng tiền là nguồn trả nợ duy nhất là quan điểm cần được tiêu chuẩn hoá trong toàn ngân hàng.Do đó số liệu mà ngân hàng quan tâm là tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp và căn cứ để lập lịch trình trả nợ phải căn cứ vào chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp. Đặc biệt trong các phân tích tài chính ngân hàng cần quan tâm tới các chỉ tiêu về khả năng thanh toán,và hệ số nợ.Kết hợp với phân tích điểm mạnh, đỉêm yếu của doanh nghiệp,thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động để đánh giá xếp loại doanh nghiệp từ đó xác định mức rủi ro cao hay thấp khi đầu tư vào doanh nghiệp để xác định mức lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro. Ngân hàng chú trọng đến việc thẩm định mức độ rủi ro của dự án. Đối với phương pháp phân tích độ nhạy,ngân hàng cần đánh giá sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính công suất,giá bán sản phẩm,chi phí thay đổi.Quá trình phân tích độ nhạy của dự án cần được tiến hành qua các bước : Chọn biến số không an toàn Cho các biến số thay đổi từ 5%-20%. Tính lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Điều quan trọng trong phân tích độ nhạy được xu thế và mức độ thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng.Nếu dự đoán chính xác ngân hàng có thể xác định được độ an toàn của dự án đối với những rủi ro có thể xảy ra và điều chỉnh rủi ro trong suốt quá trình thực hiện và vận hành của dự án. Đối với việc phân tích tình huống : Ngân hàng và chủ đầu tư đưa ra các phương án khác nhau : tối ưu nhất,bình thường và xấu nhất để dự đóan khả năng có thể xảy ra của từng phương án sau đó tính toán lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của từng phương án sau đó so sánh các phương án đã dự tính để đánh giá mức độ rủi ro lớn nhất hoặc thấp nhất của dự án. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin Thông tin được cung cấp đầy đủ chính xác kịp thời sẽ nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án,hạn chết rủi ro cho ngân hàng.Thực tế cho thấy nguồn thông tin có được chủ yếu là do các chủ doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng,mà các nguồn thông tin này thường dựa vào ý chí chủ quan của các chủ doanh nghiệp do các doanh nghiệp(trừ các công ty cổ phần) chưa bắt buộc phải thực hiện các hoạt động kiểm toán độc lập về các thông tin tài chính của mình. Để có nguồn thông tin chất lượng tốt nhất thì ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp : Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng : Ngoài các thông tin mà doanh nghiệp đưa cho ngân hàng,ngân hàng phải đến tân doanh nghiệp để tìm hiểu thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,thông qua các nguồn thông khác nhau như : các ngân hàng mà doanh nghiệp vay vốn,các chi cục thuế mà doanh nghiệp có trụ sở để tìm hiểu kỹ càng các thông tin về doanh nghiệp. Thiết lập một hệ thống lưu trữ thông tin : Mở rộng hơn nữa bộ phận tin học của chi nhánh để đảm nhiệm những nhiệm vụ đơn giản như vào máy các kết quả kinh doanh của ngân hàng trong ngày và liên lạc kết nối với bộ phận tin học của ngân hàng Công Thương Việt Nam. Đảm bảo thông tin an toàn cho khách hàng, đồng thời cung cấp đầy đủ các thông tin,số liệu của doanh nghiệp nhanh chóng và kịp thời. Ngoài ra cần phải quan tâm tới một số thông tin như : Số lượng doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại,các doanh nghiệp sắp thành lập Nhu cầu về sản phẩm trong những năm qua Mức cung hiện tại trên thị trường Giá cả của sản phẩm cũng như nguyên vật liệu đầu vào Các chính sách liên quan tới tỷ giá hối đoái,hoạt động xuất nhập khẩu Quy hoạch,kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển do các Bộ,ngành xây dựng Tình hình dư nợ,số dư tiền gửi,quan hệ tín dụng,tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Thuê các công ty kế toán,kiểm toán tư vấn,các công ty chuyên môn về các lĩnh vực như xây dựng cơ bản, đánh giá máy móc thiết bị…thẩm định tính chính xác của dự án. 3.2.3. Giải pháp về nhân sự. 3.2.3.1. Nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định. Trong các nhân tố có ảnh hưởng tới kết quả của công tác thẩm định tài chính dự án thì yếu tố con người là yếu tố quan trong nhất,chi phối hầu hết kết quả thẩm đinh bởi vì cán bộ thẩm đinh là người trực tiếp tham gia vào thực hiện thẩm định tài chính dự án.Vì vậy,cán bộ thẩm định phải là người có chuyên môn,trình độ và am hiểu công việc.Người thẩm định phải là ngừơi có năng lực,trình độ thích hợp,phải được trang bị những kiến thức căn bản liên quan tới thẩm định dự án. Đặc bịêt cán bộ thẩm định phải nắm được kỹ năng thẩm định về phương diện tài chính của dự án.Không những thế,cán bộ thẩm định còn cần có một kiến thức rất tổng hợp, đa dạng về nhiều ngành nghề lĩnh vực để đáp ứng được với yêu cầu công việc.Vì lý do đó nên từng cán bộ phải không ngừng học tập nâng cao trình độ,kiến thức cho bản thân.Bên cạnh đó,chi nhánh cũng cần quan tâm đào tạo,bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ của mình,cần khuyến khích và tạo điều kiện để các cán bộ có điều kiện tham gai các chương trình đào tạo trong và ngoài nước,giúp họ tích luỹ và nâng cao kiến thức.Ngoài ra,chi nhánh có thể tổ chức các buổi nói chuyện bàn về hoạt động cho vay theo dự án, đây là nơi những cán bộ có kinh nghiệm trong công tác thẩm định dự án có thể truyền đạt,hướng dẫn những vấn đề khó khăn,khúc mắc cho những người mới. Cán bộ thẩm định dự án phải nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc thẩm định tài chính dự án. Đồng thời phải có một tư duy mới đó là trong thẩm định tài chính dự án thì tình hình tài chính doanh nghiệp phải đóng vai trò nền tảng còn hiệu quả tài chính dự án phải là yếu tố quyết định đến việc ngân hàng có đồng ý tài trợ cho dự án hay không. Điều này mang lại cho doanh nghiệp cơ hội thực hiện các dự án khả thi đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho vay của ngân hàng. Cán bộ thẩm định phải có trình độ đại học trở lên, được đào tạo một cách chính quy đồng thời phải có kiến thức cơ bản về nên kinh tế thị trường,về hoạt động ngân hàn tài chính, đặc biệt phải có kiến thức chuyên sâu về tài chính doanh nghiệp,thẩm định dự án,khả năng phân tích tính toán các chỉ tiêu,chỉ số tài chính,nắm bắt được vai trò ý nghĩa của từng chỉ tiêu,và có những kiến thức,phương pháp thẩm định tài chính hiện đại để ứng dụng vào thực tế của từng dự án.Bên cạnh đó,phải có kỹ năng phân tích đánh giá một cách tổng hợp,nhạy bén,các cán bộ thẩm định phải có kỹ năng sử dụng mày tính,các phần mềm hỗ trợ hiện đại vào phục vụ cho công tác thẩm định tài chính dự án. Cán bộ thẩm định của ngân hàng cần phải được thâm nhập thực tế,trực tiếp tham gia giám sát,theo dõi và quản lý tài chính một dự án của ngân hàng và phải có kinh nghiệm chuyên sâu về một số ngành,lĩnh vực mà mình phụ trách. Cán bộ thẩm định ngoài cần có trình độ chuyên môn còn cần phải có phẩm chất trung thực,có tinh thần trách nhiệm,tính kỷ luật cao,lòng nhiệt tình trong công việc, đạo đức nghề nghiệp,không được vì lợi ích cá nhân mà làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Chi nhánh cũng cần phải rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, đối với những cán bộ không đủ năng lực trình độ thì cần được đào tạo lại hoặc thay đổi công tác cho phù hợp với khả năng chuyên môn. Các giải pháp nâng cao trình độ thẩm định của cán bộ Nâng cao trình độ cán bộ thẩm định: Về khâu tuyển dụng : Tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp đại học,cao đẳng hệ chính quy ở các trường đại học,cao đẳng cơ chuyên ngành phù hợp Tổ chức tuyển dụng công khai dân chủ, đảm bảo lựa chọn những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt Những người thi tuyển vào phải có thời gian thử việc để kiểm tra khả năng ứng dụng các kiến thức vào trong thực tế Về việc tổ chức đào tạo : Tăng cường tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao trình độ thẩm định.Các khoá học phổ biến các chủ trương chính sách,mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước,ngành, địa phương,những quy định mới nhất liên quan đến nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư như: quy trình thẩm định,nghiệp vụ đảm bảo tiền vay…cuối khoá học cần kiểm tra đánh giá kết quả thu được để rút kinh nghiệm cho lần sau,buộc các cán bộ thẩm định có ý thức hơn trong học tập.Hằng năm ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn đào tạo ngắn hạn cho cán bộ thẩm định,có thể mời các chuyên gia về giảng dạy trực tiếp hoặc các cán bộ thẩm định có trình độ,có kinh nghiệm của ngân hàng giảng dạy. Tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và các kiến thức tổng hợp.Khuyến khích các phong trào tự học,tự nghiên cứu của các cán bộ thẩm định bằng việc hỗ trợ vật chất cho các cán bộ theo học lớp đại học và sau đại học,có khen thưởng xứng đáng đối với các đề tài nghiên cứu khoa học có ứng dụng cao trong thực tế. Tổ chức kiểm tra,sát hạch định kỳ về trình độ chuyên môn cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ trong công việc nhằm phát hiện các khả năng thích hợp của từng người trong công việc, đặt họ vào đúng vị trí của mình nhằm tận dụng tối đa nguồn chất xám sẵn có của ngân hàng,thúc đẩy phong trào học tập nghiên cứu cập nhật thông tin của các cán bộ thẩm định.Rà soát lại đội ngũ thẩm định hiện nay của mình,xem xét thuyên chuyển một số cán bộ không đạt yêu cầu sang làm nhiệm vụ khác.Bố trí các cán bộ có trình độ tốt,có tinh thần trách nhiệm cao vào công việc thẩm định tài chính dự án. Có chính sách thu hút các chuyên gia giỏi về làm việc,với những cán bộ của ngân hàng chuyên môn cao,có các thành tích trong việc tìm tòi nghiên cứu thì ngân hàng phải có các chính sách khen thưởng động viên kịp thời,sắp xếp các công việc chức vụ hợp lý để họ cống hiến hết mình cho công việc.Và cũng nên có các hình thức kỷ luật thích đáng đối với cán bộ công nhân viên có sai phạm nhằm nâng cao tinh thần kỷ luật trong công tác cũng như thái độ trách nhiệm cao trong công việc. Số lượng cán bộ thẩm định Số lượng cán bộ thẩm định có ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng cũng như hiệu quả của công việc.Chính vì thế mà ngân hàng cần có một số lượng cán bộ thẩm định hợp lý,vừa đảm bảo hoàn thành tốt công việc,vừa đảm bảo chính sách tiền lương của ngân hàng.Do đó,việc xác định số lượng cán bộ thẩm định là rất quan trọng. Hiện nay,tại chi nhánh ngân hàng có 3 cán bộ thẩm định dự án và khoảng 5 cán bộ tín dụng có khả năng thẩm định dự án.Số lượng như vậy là hơi ít so với nhu cầu của công việc,tính chất quan trọng của công việc đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ,tổ chứ đông đảo để có thể giúp đỡ,chia sẻ hoàn thành công việc, đồng thời làm giảm bớt rủi ro trong công việc. Chi nhánh nên tăng số lượng cán bộ thẩm định lên khoảng 6 người có đầy đủ kiến thức và yêu thích công việc.Số lượng cán bộ cũng phải vừa đủ, đảm bảo chế độ tiền công trong ngân hàng. Ngân hàng hiện chưa có một đội ngũ cán bộ lành nghề chuyên sâu vào công việc.Do chưa quan tâm đúng mực đến công tác thẩm định nên số lượng cán bộ thẩm định còn tương đối ít.Cán bộ thẩm định phải làm hầu hết các món vay cần thẩm định.Do các doanh nghiệp kinh doanh là không giống nhau,nên tình hình tài chính,hàng hoá,tổ chức cũng như tài sản đảm bảo… là không giống nhau.Chính vì thế mà không phải lúc nào cán bộ thẩm định cũng có thể am hiểu hết tất cả các vấn đề xã hội.Do đó,ngân hàng phải tăng cường số lượng cũng như chất lượng cán bộ thẩm định.Phân chia công tác thẩm định chi tíêt và rõ ràng theo từng ngành.Ngân hàng nên có một phòng riêng về công tác thẩm đinh.Có như thế,công việc mới chuyên sâu,chính xác, đảm bảo chất lượng công việc và yêu cầu của khách hàng. Tóm lại,ngân hàng Công thương cần nghiên cứu,tìm hiểu và học hỏi các ngân hàng hoạt động có hiệu quả khác nhằm tìm ra số lượng cán bộ thực hiện công tác thẩm đinh nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong công việc. Đổi mới cơ chế quản lý Ngoài việc nâng cao chất lượng cũng như số lượng cán bộ thẩm định,ngân hàng cũng phải đi đôi với công tác tổ chức, điều hành hoạt động thẩm định.Tổ chức điều hành hoạt động thẩm đinh cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định.Nếu tổ chức điều hành tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định,kết hợp được năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm đinh trong ngân hàng. Tổ chức đội ngũ cán bộ thẩm định phải bố trí sao cho hợp lý,tránh sự chồng chéo, đảm bảo sắp xếp các cán bộ có đủ trình độ,năng lực,chuyên môn,trách nhiệm làm công tác này.Trong phân công cán bộ thẩm định cũng phải căn cứ vào trình độ,kinh nghiệm,thế mạnh của từng ngừơi để công tác thẩm định đạt kết quả cao nhất.Khi phân công công việc cho cán bộ thẩm định,chi nhánh cũng cần gắn quyền hàn và trách nhiệm trực tiếp của cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án.Chi nhánh cũng cần có những biệ pháp kiểm tra,kiểm soát thường xuyên đối với công tác thẩm định nhằm tránh những sai sót và nhât là ngăn ngừa những hành vi cố tình làm sai của các cán bộ thẩm định,tránh rủi ro đạo đức nghề nghiệp. Cần thương xuyên học hỏi cơ chế quản lý của các ngân hàng hiện đại,hàng đầu trên thế giới sao cho có thể áp dụng vào điều kiện ở nước ta nhằm đổi mới thay đổi các cơ chế quản lý, điều hành cũ bằng cơ chế mới hợp lý hơn nhằm đạt hiệu quả cao trong công việc. Ngân hàng cần cử các cán bộ ưu tú,có chất lượng đi đào tạo ở những nước phát triển nhằm học hỏi những chính sách,cơ chế quản lý khoa học và hiệu quả.Từ đó có thể phát triển ngân hàng ngày càng lớn mạnh hơn, đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn. Ngân hàng cần phải tổ chức các buổi hội thảo,bàn luận các vấn đề có liên quan tới công tác thẩm đinh,trưng cầu ý kiến của các cán bộ khác nhằm tìm ra các giải pháp tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất trong công việc. Đồng thời ,các cán bộ có thể giúp đỡ nhau trong chuyên môn,tạo điều kiện để hoàn thành tốt công việc. Do đó,có một cơ chế quản lý hợp lý tối ưu là điều mà bất kỳ một ngân hàng nào cũng đều mong muốn và cố gắng để có được. Như vậy,việc nâng cao chất lượng cán bộ thẩm đinh,giải pháp nhằm hoàn thiện về nhân sự là một vấn đề cần được ngân hàng Công thương quan tâm đúng mức nhằm đạt hiệu quả cao trong công việc. Nâng cao vai trò quản lý lãnh đạo của Ngân hàng. Vai trò của lãnh đạo quản lý trong ngân hàng là vô cùng quan trọng. Đối với bất kỳ một tổ chức nào thì việc phải có người đứng đầu,dẫn dắt đường lối là không thể thiếu được.Với ngân hàng Công thương Thanh Xuân cũng vậy.Việc cán bộ lãnh đạo,giám đốc,trưởng phòng…có trình độ,chuyên môn sẽ giúp cho Ngân hàng Công thương có được những bước đi đúng đắn trong công việc,khi đó sẽ làm giảm bớt các chi phí cũng như về thời gian công việc.Cán bộ quản lý lãnh nên có các chủ trương,phương hướng hoạt động đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của xã hội và nhu cầu của các doanh nghiệp. Công tác thẩm định cần phải sắp xếp theo hướng tính giảm,gọn nhẹ nhưng phải bảo đảm về số lượng chất lượng của công việc.Sắp xếo cán bộ căn cứ vào khả năng,năng lực của mỗi người, để phát huy được trình độ,kinh nghiệm của mỗi cán bộ trong việc thẩm định tài chính dự án,phải quy gần trách nhiệm cụ thể của cán bộ thẩm định với công việc và hiệu quả của dự án được thẩm định. Nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức và khả năng chuyên môn,việc tiến hành thẩm định nên tiến hành dưới hình thức tập thể,nhiều người cùng tham gia.Một mặt có thể hỗ trợ lẫn nhau,mặt khác có thể làm giảm thiểu rủi ro đạo đức,rủi ro do chuyên môn.Khi đó sẽ làm tăng tính chính xác cao trong công việc. Ngân hàng nên tăng cường khâu kiểm tra kiểm soát nội bộ nhàm ngăn ngừa những sai sót trong việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả dự án,trong ghi chép các báo cáo tài chính và việc tuân thủ các quy chế,thủ tục trong quá trình thẩm định.Việc tăng cường kiểm tra kiểm soát sẽ làm minh bạch hơn trong công tác thẩm định,bảo đảm tính khách quan trong công việc.Làm cho các tổ chức cũng như các doanh nghiệp tin tưởng tuyệt đối với ngân hàng. Hằng năm trên cơ sở kế hoạch chung ngân hàng cần phải lên một kế hoạch cụ thể,chi tiết cho công tác thẩm định.Hằng quý,hàng tháng chi nhánh nên có các báo cáo tổng hợp tình hình thẩm định,cuối năm ngân hàng tổ chức hội nghị báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm và các kết hoạch cho năm tiếp theo. Như vậy,ta có thể thấy rằng vai trò của quản lý lãnh đạo là vô cũng quan trong và cần phải được quan tâm đúng mực. Rút ngắn thời gian xét duyệt. Hiện nay, ở ngân hàng công thương, để giải quyết xong một bộ hồ sơ thẩm định là còn tương đối dài.Như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công của các doanh nghiệp.Thời gian xét duyệt lâu sẽ làm cho chủ đầu tư mất thêm nhiều chi phí,và làm giảm lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đồng thời có thể làm phát sinh thêm nhiều vấn đề. Đối với một ngân hàng thương mại hàng đầu như ngân hàng Công thương Thanh Xuân thì thời gian giải quyết một món vay phải được giải quyết nhanh chóng và chính xác.Cần giảm bớt các khâu trung gian rườm rà không cần thíêt làm chậm tiến độ công việc. Ngân hàng nên tăng cường công tác thẩm định để có thể rút ngắn thời gian xét duyệt.Thời gian xét duyệt càng lâu thì càng ảnh hưởng đến dự án.Khi đó chủ doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư cũng như ngân hàng mất thêm nhiều chi phí.Do đó, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp,ngân hàng nên rút ngắn thời gian xét duyện dự án. Đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo đúng thời gian mà hồ sơ mà doanh nghiệp đã yêu cầu. Đối với các doanh nghiệp cần vốn gấp,thì việc có vốn sớm ngày nào là doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí và tăng thêm lợi nhuận.Vì thế,công tác thẩm định phải được thực hiện thuần thục và chính xác nhằmg giảm thiểu thời gian thẩm định.Việc ngân hàng giải ngân sớm là điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn để doanh nghiệp có thế sớm tiếp tục được dự án. Hiện nay, để thực hiện xong một món vay,cán bộ thẩm định nên cố gắng hoàn thành công việc trong thời gian sớm nhất trong thời gian có thể.Cán bộ có liên quan nên tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thẩm đinh như phê duyệt,trình ký… nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt. Đồng thời,nội dung thẩm định cần được rút bớt những khâu không cần thíêt nhằm tạo điều kiện nhanh chóng trong công tác thẩm định Tóm lại,ngân hàng nên tăng cương công tác thẩm định tài chính dự án song song với các công tác khác để có thể rút ngắn thời gian xét duyệt,thời gian thẩm định tài chính dự án nhằm sớm đem vốn đến với các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng công nghệ đối với các cơ quan tổ chức. Thực tế cho thấy rằng ngay cả khi ngân hàng xây dựng được một quy trình thẩm định với những nội dung thẩm định khoa học và hợp lý thì chất lượng công tác thẩm định cũng chưa được đảm bảo chắc chắn.Vì nó còn phụ thuộc vào công tác tổ chức thực hiện và cơ sở vật chất phục vụ thẩm định.Do đó,phải hoàn thiện vào nâng cao công tác tổ chức,cơ sở vật chất,công nghệ đối với công tác thẩm định là biện pháp cần thíêt nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án. Chất lượng công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của ngân hàng.Với những Ngân hàng có công nghệ yếu kém thì rõ ràng độ chính xác,nhanh nhạy, uy tín của ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng.Từ đó sẽ làm giảm kết quả hoạt động kinh doanh trong ngân hàng.Với một cơ quan,tổ chức có trang thiết bị hiện đại thì công việc cũng sẽ được giải quyết nhanh chóng và chính xác hơn. . Chất lượng công nghệ đối với một ngân hàng là biểu hiện của sự hiện đại của ngân hàng đó.Nếu ngân hàng sử dụng trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cũng như khả năng thực hiện công việc của ngân hàng.Chất lượng công nghệ tốt sẽ góp phần làm lên bộ mặt đẹp cho ngân hàng trước các khách hàng.Tổ chức máy móc trang thiết bị hiện đại sẽ góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng Công thương.Hiện nay,Ngân hàng cũng đang sử dụng những công nghệ máy móc khá hiện đại,tạo ra niềm tin đối với khách hàng,góp phần nâng cao vị thế của Ngân hàng so với các ngân hàng thương mại khác. Do đó,việc cải tiến,nâng cao chất lượng công nghệ đối với các cơ quan tổ chức là điều hết sức quan trọng đối với ngân hàng Công Thương chi nhanh Thanh Xuân.Ngân hàng nên thanh lý một số máy móc đã sử dụng lâu năm và lạc hậu,và nên áp dụng một số công nghệ mới,tiên tiến hiện đại của nước ngoài vào các cơ quan tổ chức nhằm đạt hiệu quả cao. Ngân hàng cũng nên ứng dụng các công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả.Chẳng hạn như hệ thống thanh toán tự động,máy rút tiền cần được sử dụng nhiều hơn nữa.Mạng lưới máy rút tiền cần được sử dụng rộng rãi, đặt ở nhiều nơi công cộng như siêu thị,cơ quan,trung tâm mua sắm,trường học,bệnh viện….Khi đó người dân sẽ quen dần hơn với việc sử dụng thẻ thanh toán,thẻ tiết kiệm.Với một trang thiết bị hiện đại,cộng với đội ngũ cán bộ tài năng cũng như sự quản lý đúng đắn thì Ngân hàng Công Thương chi nhánh Thanh Xuân sẽ trở thành một ngân hàng thương mại hàng đầu ở nước ta. Một vài kiến nghị với các cơ quan tổ chức năng có liên quan. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Nên có biện pháp đẩy mạnh chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Về quy trình tín dụng,NHCT Việt Nam nên bám sát thực tiễn để hoàn thiện quy chế,quy trình nghiệp vụ cho vay,từ đó chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện quy trình,quy chế trước đó. Tổ chức thường xuyên các buổi hội thảo,các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ và lãnh đạo.Sở dĩ hoạt động này rất cần thiết vì cho vay trung và dài hạn chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố như kinh tế,chính trị,xã hôi…Các yếu tố này cần đưa ra để tranh luận về nguyên nhân,hậu quả tác động của nó đến chính sách tiền tệ mỗi nước như thế nào,từ đó những người tham gia hội nghị đi đến một quan điểm thống nhất chung khi xem xét cho vay dự án.Như vậy thông qua các buổi hội thảo,kinh nghiệm của các cán bộ được nâng lên đáng kể giúp cho ngân hàng thành viên hạn chế thấp nhất rủi ro để vốn đầu tư được an toàn và hiệu quả. Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa rủi ro thông tin. Nắm bắt được sự cần thiết của thông tin,NHCT Việt Nam là một trong những ngân hàng đi đầu về việc trang bị phòng thông tin để phòng ngừa rủi ro.Có thể nhìn nhận khách quan rằng đây là điểm mạnh của NHCT Việt Nam song cho đển nay vẫn chưa phát huy được hết tinh ưu việt.Tài Việt Nam hiện nay,các NHTM thường kiểm tra thông tin từ hai nguồn cơ bản là trung tâm CIC cảu NHNN và trung tâm phòng ngừa rủi ro của các NHTM.Thực chất nguồn thông tin này là do báo cáo từ các chi nhánh của các NHTM tập hợp lại nên thông tin mà các NHTM lấy để đối chiếu có thể khẳng định là chưa cập nhật,chưa khách quan và chưa có tính thuyết phục.NHCT Việt Nam cần trang bị mạng lưới thông tin hiện đại cho toàn hệ thống,từ cấp cơ sở lên trên.Nhờ đó mà thông tin của tưng khách hàng có quan hệ với Ngân hàng đều được kiểm tra thông qua mạng lưới máy tính.Nhưng đây mới chỉ giải quýêt được khâu tìm kiếm thông tin về khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng.Muốn biết về khách hàng có quan hệ lần đầu thì trung tâm phòng ngừa rủi ro phải có quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng thương mại khác đã có quan hệ với khách hàng hay các cơ quan từ pháp,các tổ chức phi ngân hàng khác…. NHCT Việt Nam phải tích cực phối hợp với các chi nhánh để thẩm định các dự án vay vốn vượt quyền phán quyết của chi nhánh.Giữa chi nhánh và NHCT Việt Nam cần tích cực trao đổi thông tin với nhau, đẩy nhanh thời gian thẩm định dự án,tránh tình trạng dự án đã được thông qua ở cấp chi nhánh nhưng khi trình lên NHCT Việt Nam lại bị chậm trễ trong khâu tái thẩm đinh… NHCT Việt Nam cần làm tốt công tác đào tạo cấn bộ NHCT Việt Nam cần không ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ của toàn thể hệ thống để đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hiện đại hoá ngân hàng.Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày để cán bộ ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn. Đi đôi với công tác đào tạo là công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp,tác phong,phương pháp làm việc nhằm tạo lập đội ngũ cán bộ toàn diện Đẩy mạnh nâng cao công tấc kiểm tra,kiểm soát Thực tế cho thấy rằng phòng kiểm tra,kiểm soát của NHCT Việt Nam chưa thực sự hoạt động hữu hiệu,kiểm soát hoạt động tín dụng của các chi nhánh trong hệ thống để các chi nhánh NHCT hoạt động hiệu quả. 3.2.2 Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà Nước Ngân hàng Nhà Nước cần cụ thể hoá các luật ngân hàng.NHNN cần phối hợp với các cơ quan hưu quan xây dựng các văn bản,quy phạm dưới luật(như Nghị định,Thông tư,các văn bản hướng dẫn)trong đó hướng dẫn cụ thể hơn nữa về hai luật Ngân hàng,cần sửa đổi những nội dung bất hợp lý,không phù hợp với thực tế hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro,cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề,lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại,xếp loại doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành quy trình và nội dung thẩm định dự án thống nhất trên cơ sở nội dung thẩm định dự án của các cơ quan khoa học,Bộ kế hoạch và đầu tư,của các NHTM cho phù hợp với thực tiễn của nước ta đồng thời hoà nhập với thông lệ quốc tế.Hiện nay,mỗi hệ thống NHTM đều thẩm định dự án theo một quy trình riêng,các tiêu chuẩn của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính là rất khác nhau….dẫn đến khi thẩm định cùng một dự án sẽ có những kết quả khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các NHTM khi tiến hành đồng tài trợ cho các dự án lớn.Vì vậy, để thuận tiện cho công tác thẩm định,NHNN cần nghiên cứu để đưa ra quy trình và nội dung thẩm định thống nhất cho hệ thống ngân hàng thương mại phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. NHNN cũng cần tư vấn cho các NHTM những thông tin về phương hướng nhiệm vụ,mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,những ngành kinh tế mũi nhọn,giúp có hướng đầu tư đúng đắn. NHNN hướng dẫn các NHTM trên toàn quốc nhằm tăng cường hợp tác trong công việc xử lý thông tin và đặc biệt trong công tác tín dụng đồng tài trợ cần có sự hướng dẫn chỉ đạo để hoạt động thẩm định được thống nhất. Kiến nghị đối với ngân hàng Công Thương Thanh Xuân. Ngân hàng cần chủ động hơn trong việc tíep cận với các doanh nghiệp để thẩm định các thông tin từ phía khách hàng,có như vậy mới thu thập được các thông tin chính xác của doanh nghiệp. Để chuyên môn hoá công tác thẩm định tài chính dự án,NHCT Thanh Xuân nên lập phòng “ Thẩm định dự án” để phụ trách riêng về công tác cho vay theo dự án.Phòng này cần lựa chọn những nhân viên có trình độ giỏi,có đạo đức nghề nghiệp,có kinh nghiệm về công tác thẩm định dự án.Nên phân thành những tổ thẩm định theo các loại dự án,ví dụ như tổ chuyên thẩm định về cho vay thương nghiệp,tổ chuyên thẩm định về cho vay xây dựng cơ bản,tổ về vay công nghiệp…. Cần mở rộng thị trường,tạo hình ảnh tốt về ngân hàng,gây dựng mối quan hệ bền vững giữa ngân hàng và khách hàng,giúp đỡ các doang nghiệp gặp khó khăn,thường xuyên theo dõi,kiểm tra tình hình thực hiện dự án,tình hình hoạt động của doanh nghiệp Nắm bắt kịp thời các chủ trương,kế hoạch của Nhà nước,của bộ ngành để xác định đúng đắn phương hướng hoạt động, đặc bịêt là đối với hoạt động cho vay các dự án mang tính chiến lược Tăng cường hoạt động Marketting,cải tiến phong cách làm việc,xây dựng các chính sách khách hàng hợp lý. KẾT LUẬN Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một vấn đề hết sức quan trọng của Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.Hơn nữa,trong giai đoạn đang phát triển kinh tế mạnh mẽ như nước ta hiện nay thì việc mở rộng quy mô sản xuất,vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một vấn đề hết sức nóng bỏng, diễn ra hàng ngày hàng giờ.Chính vì lẽ đó mà vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay càng được thế hiện rõ nét hơn,vì vậy đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc và nỗ lực thực hiện từ nhiều phía. Trong báo cáo thực tập này,các vấn đề chủ yếu đã được nhắc đến là : Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về thẩm định tài chính dự án,nội dung công tác thẩm định,chất lượng và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công Thương Thanh Xuân,kết quả đạt được, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Dựa trên định hướng hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại chi nhánh. Tuy nhiên,do hạn chế về thời gian,kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn lên bài báo cáo thực tập của em không tránh khỏi những khiếm khuyết.Do vậy,em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thày,cô giáo và những người có kinh nghiệm,quan tâm tới vấn đề này để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa,em xin chân thành cảm ơn thày giáo PGS. Đàm Văn Huệ cùng toàn thể các cô chú,anh chị cán bộ phòng Khách hàng doanh nghiệp-Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã giúp đỡ em tận tình để em có thể hoàn thành bài viết này. MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng, biểu, sơ đồ hình vẽ Danh mục tài liệu tham khảo 1.PGS.TS. Lưu Thị Hương (2005) “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp” Đánh giá dự tính NPV trang 105-113. 2.Giáo trình Ngân hàng thương mại trường KTQDtrang 6-9 3.Giáo trình Thẩm định dự án trường trang 62-70;92-98;130-139. 4.Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHCT Thanh Xuân năm 2004 5.Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHCT Thanh Xuân năm 2005 6.Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHCT Thanh Xuân năm 2006 7.Báo cáo tài chính CTCP Thủy Lợi 8.Sổ tay tín dụng NHCT Thanh Xuân trang 356-360. 9.Quy trình Thẩm định dự án NHCT Thanh Xuân trang 98-101. Danh mục các từ viết tắt CBTD : Cán bộ tín dụng DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng nhà nước TĐDA : Thẩm định dự án TSĐB : Tài sản đảm bảo TSCĐ : Tài sản cố định SXKD : Sản xuất kinh doanh NHCT : Ngân hàng Công Thương NHTMNN: Ngân hàng thương mại nhà nước ………………………………………………….. Danh mục các bảng,biểu,sơ đồ,hình vẽ. 1.Sơ đồ tổ chức ngân hàng công thương Thanh Xuân trang 30 2.Báo cáo các số liệu tài chính số liệu tài chính CTCP Thủy Lợi trang 45-46 3. Biểu1:Tổng nguồn vốn huy động trong giai đoạn 2004-2006 tại ICB Thanh Xuân trang 31 4. Biểu 2.Nguồn vốn huy động từ dân cư tại ICB Thanh Xuân trang 32 5. Biểu 3.Tổng dư nợ và cho vay trong giai đoạn từ 2004-2006 tại ICB Thanh Xuân trang33 6. Biểu 4.Cơ cấu cho vay trong giai đoạn 2004 – 2006 tại ICB trang 34 7. Biểu 5.Công tác tiền tệ kho quỹ năm tại ICB 2004-2006 trang 36 8. Biểu 6.Tình hình quan hệ tín dụng của CTCP Thủy Lợi trang 48 9. Biểu 7 : Tỷ trọng chi phí lắp đặt ở từng gói thầu tại CTCP Thủy Lợi trang 49 10. Biểu 8 : Kết quả trả nợ tại CTCP Thủy Lợi trang 49 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31954.doc
Tài liệu liên quan