Lời nói đầu
Trong thời kỳ hiện nay, đất nước ta đang thực hiện kế hoạch 5 năm (từ năm 2001 đến năm 2005) thời kỳ phát triển một nền kinh tế công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nền kinh tế của một đất nước tiếp tục phát triển với tốc độ cao và đang trên đà đạt được những thành tựu to lớn. Góp phần vào thành công đó, là quá trình vận động và phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển đó, đầu tư là phương pháp hữu hiệu được các nhà
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thẩm định Tài chính dự án tại Công ty cho thuê Tài chính 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh lựa chọn. Tuy nhiên, đứng trước những cơ hội đó, khả năng tài chính của những chủ thể kinh tế không phải lúc nào cũng đáp ứng được. Đặc biệt là khi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra ngày càng sôi động, những cơ hội đầu tư xuất hiện ngày càng nhiều, các chủ thể kinh tế càng phải tiếp cận với các hình thức tài trợ vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên, các hình thức tín dụng thông thường có những yêu cầu, ràng buộc nghiêm ngặt mà một số công ty nhỏ khó có thể đáp ứng. Cho thuê tài chính ra đời đã giải quyết được vấn đề này.
Với yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích ở Việt Nam, nhưng cho đến nay, khả năng tài trợ vốn cho những dự án đầu tư từ các ngân hàng thương mại trong nước và thị trường chứng khoán còn hạn chế. Trong bối cảnh như vậy, cho thuê tài chính sẽ là một phương thức hữu hiệu giúp các tổ chức kinh tế ở Việt Nam có thể thực hiện những dự án một cách hiệu quả.
Đối với các nhà đầu tư thì mong muốn của họ đó là, dự án đầu tư mang lại hiệu quả, hạn chế được rủi ro, làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Còn đối với hoạt động cho thuê tài chính nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung thì một vấn đề không thể không quan tâm đó là công tác thẩm định dự án đặc biệt là thẩm định tài chính dự án. Đây là khâu cơ bản dẫn đến quyết định cho thuê hay không cho thuê là khâu giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện dự án. Hoàn thiện công tác này sẽ tạo cơ sở cho việc ra các quyết định cho thuê an toàn, nhanh chóng, nâng cao hiệu quả hoạt động thuê mua tài chính, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu và đóng góp những đề xuất đối với công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho thuê tài chính, trong thời gian thực tập tại công ty cho thuê tài chính I - NHN0 & PTNT em đã thực hiện đề tài: "Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty cho thuê tài chính I - NHN0 & PTNT"
Kết cầu đề tài gồm 3 chương
Chương I: Những vấn đề cơ bản về dự án và thẩm định dự án đầu tư
Chương II: Thực trạng thẩm định tài chính dự án tại công ty cho thuê tài chính I -NHN0 &PTNT.
Chương III: Giải pháp đề nghị góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty cho thuê tài chính 1 - NHN0 &PTNT.
Đề tài được hoàn thành tại công ty cho thuê tài chính I-NHN0 &PTNT dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hồng Minh và sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên công ty cho thuê tài chính I-NHN0 &PTNT
Để bài viết được hoàn chỉnh hơn em mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè.
Em chân thành cảm ơn!
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về dự án
và thẩm định dự án đầu tư
1.1. dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư
1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư
Dự án đầu tư là tập hợp những ý tưởng, giải pháp, hành động cụ thể nhằm đạt được một mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định nào đó.
Dù được xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau:
- Các mục tiêu cần đạt đựoc khi thực hiện dự án:
Cụ thể là khi thực hiện, dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho chủ đầu tư. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể, mang tính định lượng rõ ràng.
- Các hoạt động của dự án:
Dự án phải nêu rõ những hoạt động cụ thể phải tiến hành, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành, và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hoạt động đó. Cần lưu ý rằng các hoạt động đó có mối quan hệ với nhau vì tất cả đề hướng tới sự thành công của dự án và các mối quan hệ đó diễn ra trong một môi trường không chắc chắn. Bởi vì môi trường dự án không phải là môi trường hiện tại mà là môi trường tương lai.
- Các nguồn lực:
Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người… Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án. Tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Mỗi dự án bao giờ cũng được xây dựng và thực hiện trong sự giới hạn về nguồn lực.
1.1.2. Thẩm định dự án đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm
Thẩm định tài chính dự án được xem là một nội dung kinh tế quan trọng. Nó nhằm đánh giá tính khả thi về mặt tài chính của dự án và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội. Vậy thẩm định tài chính dự án đầu tư là gì? Có thể định nghĩa một cách tổng quát như sau: "Thẩm định tài chính dự án của doanh nghiệp là việc xem xét đánh giá các bảng dự trù tài chính, trên cơ sở đó xác định các luồng lợi ích chi phí tài chính dự án, so sánh các luồng lợi ích tài chính này trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền với chi phí và vốn đầu tư ban đầu để đưa ra kết luận về hiệu quả và mức độ rủi ro của dự án để kịp thời khắc phục".
1.1.2.2. Sự cần thiết của thẩm định dự án
Như vậy, thẩm định tài chính dự án là việc xem xét các chỉ tiêu của dự án do chủ đầu tư để từ đó kiểm tra các chỉ tiêu này thông qua các phương pháp nghiệp vụ thẩm định trên cơ sở đã tính đủ các yếu tố tài chính của dự án.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư thực chất là tập hợp các hoạt động nhằm xác định luồng tiền của dự án như tổng mức đầu tư, nguồn tài trợ và tính toán, phân tích các chỉ tiêu trên cơ sở các luồng tiền nhằm đưa ra các đánh giá về hiệu quả tài chính của dự án đầu tư.
Việc thẩm định tài chính dự án đầu tư có thể được các kết quả phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án chính là một căn cứ trước hết để đưa ra một quyết định đầu tư.
Thẩm định tài chính dự án là cần thiết, có tính quyết định trong việc trả lời dự án có được chấp nhận để đầu tư hay không, nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.
Công tác thẩm định tài chính dự án cũng giúp cho chủ đầu tư lường hết được những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới quá trình triển khai thực hiện dự án như yếu tố công nghệ, sự biến động của thị trường, thay đổi về công suất, thị hiếu khách hàng, chi phí sản xuất …Từ đó chủ đầu tư có thể đưa ra các giải pháp hoặc kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và giảm tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Với những vai trò quan trọng trên, khẳng định sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư - một phần quan trọng trong thẩm định dự án đầu tư, đã và đang trở thành nội dung không thể thiếu được trước khi ra quyết định đầu tư cho bất kỳ dự án nào.
1.1.2.3 Mục đích thẩm định dự án
Các dự án đầu tư mang tính chiến lược một mặt thường có ảnh hưởng rất lớn đối với đơn vị thực hiện, mặt khác luôn có những rủi ro đi kèm quá trình đầu tư dù dự án đó đã được tính toán kỹ lưỡng. Để đánh giá hết hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án, các chủ đầu tư, các nhà quản lý và các nhà tài trợ đều phải tiến hành thẩm tra, xem xét các chỉ tiêu tài chính, kinh tế, xã hội môi trường của dự án. Qua quá trình thẩm tra đó, họ có thể thất được những mặt tích cực và tiêu cực của dự án, từ đó cân nhắc xem có nhên thực hiện dự án hay không. Như vậy, mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm loại bỏ ở mức độ có thể những rủi ro có nguy cơ mắc phải của dự án và trợ giúp cho việc ra quyết định đầu tư.
1.1.2.4 ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư có thể được xem là quá trình thẩm tra, xem xét, đánh giá một cách khoa học, toàn diện những nội dung ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế, xã hội và tính khả thi của dự án; từ đó ra quyết định có đầu tư hay không.
Các dự án kinh tế thường dự tính một thực tế trong tương lai, vì vậy thường mang tính phỏng đoán và vì độ chính xác không đạt đến 100%. Mặt khác, các chủ đầu tư khi tiến hành phân tích đánh giá các chỉ tiêu kinh tế thường không lường hết được những thay đổi của thị trường nên những đánh giá đó thường mang tính thời điểm và chủ quan. Bên cạnh đó, một quyết định đầu tư là một quyết định tài chính dài hạn, đòi hỏi lượng vốn không nhỏ, với một thời gian hoàn vốn tương đối dài, chịu ảnh hưởng của những biến động trên thị trường. Hơn nữa, những biến động đó kéo theo những ảnh hưởng về kinh tế, xã hội môi trường đến nhiều phía. Vì vậy thẩm định là một công đoạn không thể thiếu, giúp hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến các bên.
Việc thẩm định dự án sẽ giúp loại bỏ những dự án xấu, lựa chọn được những dự án tốt, hứa hẹn một hiệu quả cao. Đứng trên mỗi góc độ, thẩm định dự án đều đem lại những kết quả nhất định và có ý nghĩa riêng với mỗi bên.
- Về phía chủ đầu tư: việc thẩm định dự án sẽ giúp các chủ đầu tư lựa chọn được những dự án tối ưu, có tính hả thi cao, phù hợp với điều kiện tự có và khả năng huy động các nguồn tài chínhl; tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả dự án, mang lại lợi nhuận lớn trong tương lai.
- Về phía các cơ quan chuyên quản; thẩm định dự án sẽ giúp họ đánh giá được tính cần thiết và phù hợp của dự án đối với tổng thể các kế hoạch chương trình kinh tế của nhà nước tại địa phương. Xác định được hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực xã hội của dự án, xác định được những tác động có lợi và có hại của dự án đối với môi trường và những lợi ích khác.
- Về phía nhà tài trợ; thẩm định dự án giúp họ đưa ra được quyết định sử dụng tài chính của mình một cách chính xác. Thông qua quá trình thẩm định, họ sẽ nắm được các luồng chi phí và giá trị thu được từ dự án; đánh giá được khả năng thanh toán của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện dự án; đảm bảo an toàn tài chính cho mình.
1.1.2.5. Nội dung của thẩm định dự án
Những yếu tố khác nhau làm nên tổng thể một dự án bao gồm các mặt kỹ thuật, thị trường, tài chính, luật pháp đều phải được xem xét đánh giá kỹ lưỡng qua quá trình thẩm định dự án đầu tư.
- Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án
Thẩm định tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của pháp luật, có hợp lệ hay không?
Thẩm định mục tiêu của dự án để xem xét tính phù hợp của dự án đối với các chương trình kinh tế của địa phương, vùng, ngành. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành cho phép hoạt động hay ưu tiên không?
- Thẩm định về thị trường của dự án
Cho phép xem xét sản phẩm của dự án sản xuất ra phục vụ cho đối tượng nào, được kinh doanh trên thị trường địa phương, trong nước hay xuất khẩu. Sức mạnh của các đối thủ cạnh tranh và ưu thế của dự án… Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô dự án, thiết bị, công nghệ và dự kiến khả năng tiêu thụ. Độ chính xác của công đoạn này thường không lớn nhưng có vai trò rất quan trọng, quyết định mức độ thành công của dự án.
- Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án
Thông tin về đời sống của dự án và tính phù hợp của công nghệ đối với dự án là tiêu thức quan trong trong công đoạn này. Nắm được thông tin này sẽ trành cho dự án không bị hao mòn vô hình quá nhanh. Khía cạnh này thường được quan tâm ngay từ khi lập dự án vì các chủ đầu tư phải ra quyết định lựa chọn tràng thiết bị máy móc cũng như dây chuyền công nghệ. Khâu thẩm định này đòi hỏi sự chính xác trong khâu tính toán thông số kỹ thuật của dự án, kiểm tra sự phù hợp với điều kiện môi trường của các dây chuyền sản xuất.
- Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lý
Các dự án đầu tư muốn hoạt động hiệu quả không thể không tính đến khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lý. Rất nhiều dự án dù tính toán chi phí và hiệu quả kinh tế chính xác vẫn thất bại khi thực hiện trong điều kiện quản lý yếu kém, thiếu nhân lực có trình độ. Hiệu quả về kinh tế và tài chính có đạt được như dự tính hay không phụ thuộc không nhỏ vào năng lực quản lý của cơ quan có trách nhiệm triểu khai dự án.
- Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án
Phân tích tài chính là khâu tối quan trọng của thẩm định dự án, đòi hỏi sự tính toán cùng khả năng tổng hợp và dự đoán chính xác những dòng tiền của dự án. Là khâu cung cấp những dữ liệu cho việc đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án.
- Thẩm định hiệu quả kinh tế xã hội của dự án
Đánh giá hiệu quả của việc thực thi dự án đối với toàn bộ nền kinh tế là yêu cầu của công đoạn này. Có những dự án dù hiệu quả về mặt tài chính cao tới đâu cũng có thể bị loại bỏ nếu vi phạm lớn vào lợi ích kinh tế quốc dân. Mặt khác, các quốc gia hiện tại đã chú trọng vào việc phát triển đi kèm với bảo vệ môi trường. Vì vậy một tác động xấu đến môi trường cũng có thể làm cho một dự án có hiệu quả cao về mặt tài chính bị loại bỏ.
1.2. hoạt động thuê mua tài chính
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài sản đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại, đã xuất hiện từ 2000 năm trước công nguyên với việc cho thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, quyền sử dụng nước, ruộng đất nhà cửa.
Đầu thế kỷ XIX do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hoá, số lượng và chủng loại tài sản cho thuê đã có sự gia tăng đáng kể.
Đến đầu thập kỷ 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đã có những bước nhảy vọt. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra trước tiên ở Mỹ vào năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển sang Châu Âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60. Tín dụng thuê mua cũng phát triển mạnh mẽ ở châu á và nhiều khu vực khác từ đầu thập kỷ 70. Ngành công nghiệp thuê mua có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao tiện lợi, và hiệu quả cho các bên giao dịch.
Tại Việt Nam nghiệp vụ cho tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được NHNN Việt Nam cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số: 149/QĐ-NH5 ngày 17/5/1995.
Đến 9-10-1995 chính phủ ban hành nghị định 64CP "Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam". Ngày 9-2-1996 Thống đốc NHNN-VN có thông tư số 03/TT-NH5 hướng dẫn thực hiện quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam.
Đến 02/05/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính thay thế Nghị định: 64/CP ngày 9-10-1995.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của cho thuê tài chính
1.2.2.1. Khái niệm
Từ khi ra đời cho đến nay, thuật ngữ cho thuê (Leasing) được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng nhằm hàm chỉ hoạt động cho thuê tài sản được các định chế tài chính (trong đó nhất thiết phải có Công ty cho thuê tài chính) mua và cho thuê theo yêu cầu của bên thuê. Hết thời hạn thuê bên thuê được phép chuyển quyền sở hữu hoặc mua lại tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính.
Theo Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của chính phủ thì khái niệm cho thuê tài chính được hiểu như sau:
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng và dài hạn, thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên mua và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê va thanh toán thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.
1.2.2.2. Đối tượng cho thuê
Tài sản trong cho thuê tài chính phổ biến là động sản, có thời hạn sử dụng bao gồm:
- Máy móc thiết bị, phương tiện đơn chiếc hoạt động độc lập
- Dây chuyền sản xuất
- Thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất đồng bộ
- Thiết bị văn phòng, thiết bị điện tử điện toán, viễn thông, y tế và các động sản khác.
1.2.2.3. Mức cho thuê
Mức cụ thể do Giám đốc Công ty cho thuê tài chính I quyết định từng trường hợp cụ thể tuỳ theo:
- Khách hàng có tín nhiệm: Không có nợ quá hạn đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng, có quá trình thuê tài sản, thanh toán tiền thuê sòng phẳng, đơn vị có lãi nhiều năm, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách đầy đủ.
- Dự án sản xuất kinh doanh làm cơ sở cho thuê tài chính có khả năng thực thi, có ảnh hưởng sâu sác về mặt kinh tế và xã hội.
1.2.2.4. Thời hạn thuê
- Thời hạn cho thuê được tính từ khi nhận tài sản thuê cho đến khi thanh lý hợp đồng.
- Thời hạn cho thuê do bên cho thuê và bên thuê thoả thuận trên cơ sở
- Khả năng nguồn vốn của bên cho thuê
- Khả năng nguồn vốn của bên thuê
- Thời gian thuê tối đa đối với tài sản mới (100%) tối thiểu là 1 năm nhưng không quá thời gian khấu hao cần thiết do Bộ Tài chính quy định.
- Thời gian thuê đối với tài sản cũ đã qua sử dụng phù hợp với tình trạng kỹ thuật và công năng thực tế của tài sản đó nhưng không vượt quá thời gian khấu hao của tài sản đó theo quy định của Bộ Tài chính.
1.2.2.5. Lãi suất cho thuê
- Lãi suất cho thuê được xác định trên cơ sở lãi suất cơ bản và biên độ dao động do Thống đốc NHNN-Việt Nam thông báo cộng tỷ lệ thuê tài chính có liên quan đến tài sản thuê (nếu có).
- Phí cho thuê do bên cho thuê và bên thuê cùng thoả thuận được ghi rõ trong hợp đồng cho thuê.
- Phí cho thuê cụ thể đối với từng khách hàng do Giám đốc Công ty cho thuê tài chính quyết định nhưng phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn, bù đắp chi phí quản lý, phí rủi ro và có tỷ lệ lãi tích luỹ hợp lý.
- Phí phạt nợ quá hạn được xác định theo quy định về cách tính lãi suất nợ quá hạn của cho vay cùng loại do NHNo và PTNT Việt Nam quy định tại thời điểm hợp đồng cho thuê và được ghi trong hợp đồng. Thông thường thì phí phạt vì quá hạn bằng 150% phí cho thuê trong hạn.
1.2.2.6. Đồng tiền cho thuê
Mọi giao dịch cho thuê tài chính chủ yếu thực hiện bằng đồng Việt Nam
1.2.2.7. Giá cho thuê
Giá cho thuê bao gồm
- Số tiền thuê bằng giá mua và các chi phí có liên quan để hình thành tài sản cho thuê bao gồm:
Giá mua tài sản: là giá được ghi trên hoá đơn bán hàng của bên cung ứng hoặc căn cứ vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền (trong trường hợp mua hàng của các cơ quan quản lý nhà nước thanh lý, đấu giá tài sản).
+ Đối với tài sản mới: Giá mua tài sản không vượt quá giá chào hàng của Bên cung ứng đã được bên thuê chấp nhận hoặc giá bán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (nếu có) của tài sản đó.
+ Đối với tài sản đã qua sử dụng
Căn cứ vào giá trị còn lại trên sổ sách kế toán, thời giá hiện hành trên thị trường tại thời điểm mua bán hoặc giá do cơ quan giám định hợp pháp xác định (nếu có) để ba bên (Bên cung ứng, Bên cho thuê và Bên thuê) thoả thuận quyết định.
- Các chi phí liên quan đến tài sản thuê như: thuế, chi phí nhập khẩu, chuyển, bốc xếp, giám định, tư vấn kỹ thuật, đăng kiểm.
1.2.2.8. Các bên tham gia quan hệ cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính gồm ba bên: Người cho thuê (bên cho thuê), Người di thuê (Bên cho thuê), và nhà cung ứng.
+ Bên cho thuê: Là Công ty cho thuê tài chính, người sẽ thanh toán toàn bộ giá trị mua tài sản theo thoả thuận giữa người thuê với nhà sản xuất hay nhà cung ứng và là chủ sở hữu về mặt pháp lý của tài sản mà người thuê sử dụng. Trong trường hợp cho thuê tài sản của chính họ thì người cho thuê là nhà cung cấp thiết bị.
+ Bên thuê: tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam, người có quyền sử dụng tài sản, hưởng những lợi ích và gánh những rủi ro liên quan đến tài sản và có nghĩa vụ trả những khoản tiền thuê theo thoả thuận.
+ Nhà cung ứng: Là người cung cấp tài sản, thiết bị theo thoả thuận với người thuê và theo các điều khoản trong hợp đồng mua bán thiết bị đã ký kết với người cho thuê.
1.2.3. Quy trình cho thuê tài chính
Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính có sự tham gia ba bên (Công ty tài chính I, khách hàng thuê và nhà cung cấp).
Bên thuê
Nhà cung cấp máy móc thiết bị
Công ty cho thuê tài chính
1
4
3
5
2
6
- Thoả thuận về lựa chọn máy móc, thiết bị: Người thuê chọn thiết bị phù hợp với yêu cầu của mình về mẫu, loại và các chỉ tiêu kỹ thuật, đồng thời quyết định ngày giao hàng, điều kiện bảo dưỡng và phương thức thanh toán và ký biên bản thoả thuận về việc mua tài sản (nội dung giống như hợp đồng mua bán thông thường nhưng phương thức thanh toán qua Công ty cho thuê tài chính I).
- Ký hợp đồng cho thuê tài chính: Sau khi chọn máy móc, thiết bị người thuê nộp đơn xin thuê thiết bị đó cho Công ty cho thuê tài chính I. Công ty cho thuê tài chính I sẽ xem xét đơn và yêu cầu người thuê cung cấp các tài liệu cần thiết ví dụ như Báo cáo tài chính, dự án sử dụng tài sản thuê, hồ sơ pháp lý khác. Nếu khả năng tín dụng hiện đại của người thuê được công ty cho thuê tài chính I chấp nhận và bên đi thuê nhất trí với các điều kiện của bên cho thuê tài chính thì hai bên cùng ký hợp đồng cho thuê tài chính.
- Hợp đồng mua bán tài sản: Dựa trên các điều kiện đã thoả thuận giữa người thuê và người bán thiết bị, Công ty cho thuê tài chính I ký hợp đồng mua bán tài sản cho thuê với người bán.
- Giao hàng, lắp đặt và bảo dưỡng: Người bán giao hàng, lắp đặt tại địa điểm do người thuê chỉ định. Người thuê ngay lập tức xem xét thiết bị theo các điều kiện đã thoả thuận với người bán để kiểm tra tình trạng thiết bị và quyết định có chấp nhận tài sản hay không. Cùng lúc người thuê nên ký hợp đồng bảo dưỡng với người cung cấp.
- Thanh toán tiền mua tài sản: Sau khi nhận giấy xác nhận chấp nhận thiết bị của người thuê Công ty cho thuê tài chính I mới thanh toán tiền mua tài sản cho người bán.
- Thanh toán tiền thuê: Người thuê trả tiền thuê (gốc + phí) theo kỳ 30, 60 hoặc 90 ngày cho đến khi hết thời hạn thuê hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng thuê tài chính không được huỷ bỏ giữa chừng.
1.2.4. Vai trò, lợi ích của cho thuê tài chính đối với nền kinh tế
1.2.4.1. Lợi ích cho thuê tài chính
Thuê tài chính giúp bạn kịp thời hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới kể cả trong điều kiện thiếu vốn tự có - Giá trị tài sản thuê có thể được tài trợ 100% mà Bạn không cần phải có tài sản thế chấp. Không ảnh hưởng đến mức tín dụng của bạn - Thanh toán tiền linh hoạt theo thoả thuận của hai bên (Tháng, Quý, Năm) phù hợp với chu chuyển vốn của bạn. Nếu bạn đã mua tài sản nhưng lại thiếu vốn lưu động thì bạn có thể bán tài sản đó cho chúng tôi và chúng tôi sẽ cho các bạn thuê lại, như vậy bạn vẫn có tài sản để sử dụng mà vãn có vốn lưu động để kinh doanh. Hết thời hạn thuê Bạn được mua lại tài sản với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của tài sản và được quyền sở hữu tài sản đó hoặc được ưu tiên thuê tiếp tài sản. Bạn toàn quyền quyết định trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, giá cả, mẫu mã, chủng loại, phù hợp với yêu cầu của bạn.
1.2.4.2. Vai trò của cho thuê tài chính đối với nền kinh tế quốc dân
- Cho thuê tài chính có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong nền kinh tế Việt Nam, khi yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi gia tăng mạnh vốn đầu tư.
- Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế
Vốn đầu tư của quốc gia được tích luỹ từ 2 nguồn: Tích luỹ nội bộ và vốn huy động từ nước ngoài. Huy động có hiệu quả vốn đầu tư đòi hỏi rất nhiều kênh huy động khác nhau phối hợp đồng thời; bao gồm hệ thống tín dụng; ngân sách nhà nước và thị trường chứng khoán. Không thể phủ nhận vai trò tối quan trọng của hệ thống tín dụng trong việc huy động vốn nhàn rỗi và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài. Là loại hình tín dụng trung dài hạn có nhiều ưu điểm, thể hiện ở sự giảm thiểu rủi ro và phạm vi tài trợ rộng rãi, cho thuê tài chính góp phần không nhỏ vào việc huy động vốn đầu tư trong nước và tìm nguồn tài trợ từ nước ngoài. Với việc quy định của IMF không tính khoản nợ từ tài sản cho thuê tài chính quốc tế vào khoản nợ nước ngoài của 1 quốc gia, hoạt động này càng có khả năng trở thành 1 kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài hấp dẫn.
- Cho thuê tài chính góp phần phát triển hệ thống tài chính
Một hệ thống tài chính hoàn thiện phải tồn tại các kênh dẫn vốn hoạt động hiệu quả. Xét riêng về số lượng, cho thuê tài chính đã đóng góp vào thị trường tài chính một kênh dẫn vốn trung dài hạn quan trọng. Hơn nữa, trong điều kiện các quốc gia đang phát triển, khi thị trường chứng khoán còn ở dạng sơ khai, sự thiếu hút nghiêm trọng nguồn cung cấp vốn trung dài hạn là không thể phủ nhận, vì thế, cho thuê tài chính càng có vai trò lớn đối với những nền kinh tế này. Về mặt chất, cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn hấp dẫn, nguyên nhân là ở phạm vi tài trợ rộng lớn, cung ứng đến mọi khu vực, thành phần kinh tế rất có lợi đối với khách hàng, đồng thời giảm bớt rủi ro của người cho thuê, áp dụng hình thức cho thuê tài chính trong nền kinh tế và đặc biệt là việc hình thành các cong ty cho thuê tài chính chuyên doanh, tách khỏi hoạt động của các ngân hàng thương mại càng tạo điều kiện phát triển hệ thống tài chính quốc gia; Cụ thể, các công ty cho thuê tài chính chuyên doanh sẽ cung cấp dịch vụ hữu hiện hơn hẳn những đơn vị trực thuộc, tạo sức cạnh tranh đáng kể trong thị trường tài chính, thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.
- Cho thuê tài chính góp phần nâng cao năng lực công nghệ đất nước
Đối với các quốc gia đang phát triển, việc lạc hậu về công nghệ luôn luôn là vấn đề gây đau đầu các nhà quản lý; cho thuê tài chính quốc tế sẽ tạo ra cơ hội lớn cho việc nâng cao năng lực công nghệ quốc gia ngay cả trong điều kiện kinh tế quốc gia đó gặp khó khăn. Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp tăng năng lực kinh doanh bằng việc thay đổi, nâng cấp dây chuyền sản xuất, cải tiến kĩ thuật, mở rộng quy mô sản xuất. Điều này đem lại cho quốc gia đó khả năng bắt kịp với trình độ công nghệ thế giới.
Sở dĩ hoạt động này có được những tác động tích cực đó là bởi những ưu điểm nhất định sau:
+ Về phía người thuê:
- Người thuê có thể được tài trợ toàn bộ giá trị tài sản cố định phục vụ cho kinh doanh
Do việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bằng chính tài sản thuê và người cho thuê có thể chiếm hữu lại tài sản đó khi người thuê vi phạm hợp đồng nên thường người thuê không cần đảm bảo khả năng thanh toán bằng việc đặt cọc 1 khoản tiền. Tuy nhiên trong trường hợp mức độ rủi ro cao, khách hàng cũng bị yêu cầu đặt cọc rủi ro lớn như vậy cũng không thể đáp ứng tiêu chuẩn tín dụng của các ngân hàng. Hơn nữa, luật tín dụng không cho phép các ngân hàng tài trợ toàn bộ trong khi các công ty cho thuê tài chính tài trợ 100% nhu cầu tài sản doanh nghiệp.
- Người thuê không bị ràng buộc về hạn mức tín dụng vay ngân hàng
Hầu hết các quốc gia đều không hạn chế các doanh nghiệp vay ngân hàng khi họ đã thuê tài chính, điều này mở rộng cơ hội huy động vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Không đòi hỏi uy tín lớn
Để đáp ứng yêu cầu tại các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp phải trình báo cáo tài chính thể hiện 3 năm kinh doanh liên tục có lãi và không có nợ quá hạn. Các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc thoả mãn các yêu cầu này nhưng sẽ dễ dàng hơn trong trường hợp họ thuê tài chính. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhỏ không thể có mối quan hệ gần gũi sẵn có với các ngân hàng và các ngân hàng không thể đáp ứng một khoản vay dài hạn đối với những khách hàng chưa có 1 khoản vay dài hạn nào trong hồ sơ tín dụng. Riêng đối với những công ty cho thuê tài chính, những khách hàng mới cũng có thể nhận được những khoản tài trợ ngắn hạn.
- Cơ chế thanh toán tiền thuê linh hoạt
Không như các ngân hàng thương mại bị yêu cầu thanh khoản đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ đối với việc thanh toán tiền vay, cho thuê tài chính có thể đưa ra 1 cơ cấu trả nợ linh hoạt đáp ứng những dòng tiền đặc thù của người thuê. Ví dụ cho thuê trả tăng dần, giảm dần, niên kim cố định; Việc thanh toán diễn ra theo mùa hoặc ngắt quãng; Thời hạn thanh toán cũng linh hoạt, có thể định kỳ theo quý hoặc theo tháng.
- Không cần tài sản thế chấp
Đây là ưu điểm nổi bật của cho thuê tài chính - sử dụng ngay tài sản thuê làm vật thế chấp. Nguyên tắc tài sản thế chấp trong tín dụng ngân hàng để tránh sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Tài sản thuê trong cho thuê tài chính không đủ tính lỏng để người thuê có thể sử dụng sai mục đích. Mặt khác, tài sản luôn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê nên rủi ro mất vốn không lớn.
- Người thuê có thể tiếp cận với công nghệ hiện đại
Các công ty cho thuê tài chính chuyên môn hoá trong lĩnh vực của họ nên thường am hiểu kĩ về thị trường tài sản và thường được phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Nhờ đó người thuê có thể tiếp cận với nhà sản xuất và những sản phẩm tiên tiến, hiện đại; tạo ra khả năng đổi mới công nghệ nhanh chóng với chi phí thấp - đây là điều đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay - cùng với những dịch vụ đào tạo, hướng dẫn, bảo trì… kèm theo của nhà cung cấp. Mặt khác, mối quan hệ kinh doanh cùng với những kinh nghiệm về thị trường tài sản của công ty cho thuê tài chính cho phép người thuê có thể bán tài sản cũ, tài sản không sử dụng để đổi mới công nghệ.
+ Về phía người cho thuê
- Cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay
Trong suốt thời hạn thuê, người cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản thuê nên họ có thể nhanh chóng chiếm hữu lại tài sản nếu người thuê không tuân thủ hợp đồng. Như vậy, có thể coi tất cả các hợp đồng cho thuê tài chính đều có tài sản thế chấp. Mặt khác, khi cơ chế xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của nước ta còn chưa đồng bộ, hoạt động cho vay càng trở nên rủi ro hơn so với cho thuê tài chính. Tuy nhiên, việc tịch thu tài sản không phải là biện pháp đảm bảo rủi ro mà các công ty cho thuê tài chính mong muốn, hầu hết các công ty đều trông chờ vào phẩm chất của người thuê. Khả năng giảm thiểu rủi ro đòi hỏi 2 yếu tố, về pháp luật - là những văn bản quy phạm về quyền sở hữu - và về thị trường - yêu cầu về sự tồn tại một thị trường thiết bị, máy móc cũ - để tài sản cho thuê có thể dễ dàng được xử lý trong điều kiện rủi ro xảy ra.
- Tránh được rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch
Trong các quan hệ tín dụng, rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch rất dễ xảy ra; người vay có thể sử dụng sai mục đích cam kết trong hợp đồng các khoản tiền vay, vì thế tạo rủi ro lớn hơn đối với khoản vay đó, mặt khác chính những người nay lại có nỗ lực lớn trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ, điều này dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán các khoản vay. Đây là điều nguy hiểm đối với các tổ chức tín dụng. Hoạt động cho thuê tài chính tài trợ người thuê bằng tài sản đồng thời không chuyển quyền sở hữu nên giảm được những rủi ro trên.
._.
- Phát triển mối quan hệ với khách hàng và thúc đẩy bán hàng
Do sự chủ động tham gia vào các giao dịch mua bán giữa bên thuê và nhà cung cấp, công ty cho thuê tài chính phát triển rộng hơn quan hệ của mình và vì thế có điều kiện phát triển hoạt động của mình. Là định chế tài chính, các công ty này thúc đẩy việc giao dịch hàng hoá thông qua việc giới thiệu, quảng bá… dẫn người mua đến với người bán. Là người bán, hình thức thuê tài chính được xem như 1 dạng khuyến mãi sản phẩm.
Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp vẫn còn e ngại khi ra quyết định thuê tài chính; một mặt do hoạt động này còn mới mẻ, mặt khác là do những bất lợi có thể gặp phải khi tiếp cận hoạt động này:
- Chi phí thuê hiện nay ở Việt Nam thường cao hơn chi phí vay, nguyên nhân là các công ty cho thuê tài chính thường thu lãi trên những khoản vay để tài trợ cho hoạt động cho thuê.
- Doanh nghiệp sẽ không được hưởng khoản chiết khấu bán khi tham gia vào giao dịch thuê tài chính.
- Những điều khoản về sự cố có thể xảy ra cho tài sản thuê, đặc biệt là những sự cố có thể dự tính thường gây khó chịu cho khách hàng, trong trường hợp này, người cho thuê thường yêu cầu bảo hiểm toàn bộ cho tài sản thuê ngay cả những khoản tiền nhỏ.
- Yêu cầu tín trong thời gian thuê thường cao hơn bất cứ khoản vay nào, nguyên nhân là người thuê muốn chắc chắn về các khoản thanh toán định kì đúng hạn và sự sử dụng quá các tiêu chuẩn kĩ thuật của tài sản thuê.
- Đối với các phương tiện vận tải phục vụ sản xuất hoặc vận chuyển hành khách, giới hạn về số km di chuyển (Mile-age Limitations) cùng với những điều khoản tăng phí kèm theo cùng là 1 điểm bất lợi đối với người thuê của các giao dịch thuê tài chính.
1.3. Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong công tác thuê mua tài chính
1.3.1. Thẩm định tài chính dự án tại các công ty cho thuê tài chính
1.3.1.1. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
a) Thẩm định tổng mức đầu tư
ã Tổng mức đầu tư: là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết định đầu tư.
Theo giai đoạn triển khai công tác đầu tư một dự án, tổng mức đầu tư bao gồm các thành phận chủ yếu sau:
*Vốn cho chuẩn bị đầu tư: bao gồm các khoản chi phí: điều tra, khảo sát, nghiên cứu phục vụ cho lập báo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi; lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi (kể cả tư vấn) hoặc báo cáo đầu tư; chi phí đo đạc, khảo sát đính giá hiện trạng khi lập dự án đầu tư cải tạo sửa chữa; phí và lệ phí thẩm định;
* Vốn thực hiện đầu tư gồm:
- Chi phí thiết bị bao gồm: chi phí mua sắm thiết bị công nghệ (gồm cả thiết bị phi tiêu chuẩn cần sản xuất, gia công (nếu có) , các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc, sinh hoạt của công trình (bao gồm thiết bị lắp đặt và không cần lắp đặt); chi phí vận chuyển từ cảng hoặc nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho, lưu bãi, lưu container (nếu có) tại cảng Việt Nam (đối với các thiết bị nhập khẩu), chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho bãi ở hiện trường;
- Chi phí xây dựng và lắp đặt thiết bị: chi phí san lấp mặt bằng xây dựng; chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công (đường thi công, điện nước, nhà xưởng v.v…), nhà tạm tại hiện trường để ở vf thi công (nếu có); chi phí xây dựng các hạng mục công trình; chi phí lắp đặt thiết bị (đối với thiết bị cần lắp đặt);
- Các chi phí khác: chi phí đền bù và tổ chức thực hiện trong quá trình đền bù đất đai hoa màu, di chuyển dân cư và các công trình trên mặt bằng xây dựng, chi phí phục vụ cho công tác tái định cư và phục hồi (đối với công trình xây dựng của dự án đầu tư có yêu cầu tái định cư và phục hồi); tiền thuê đất hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất; chi phí khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, chi phí mô hình thí nghiệm (nếu có), chi phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đánh giá kết quả đấu thầu xây lắp, mua sắm thiết bị; chi phí giám sát thi công xây dựng và lắp và các chi phí tư vấn khác…
* Vốn đầu tư ở giai đoạn kết thúc đầu tư, đưa dự án vào khai thác sử dụng: chi phí thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư; chi phí tháo dỡ công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công, nhà tạm (trừ đi giá trị thu hồi).
* Lãi vay, vốn lưu động ban đầu cho sản xuất, dự phòng phí
ã Thẩm định tổng mức đầu tư
Tổng mức đầu tư là một chỉ tiêu quan trọng đầu tiên cần được xem xét khi tiến hành thẩm định tài chính dự án. Xác định được chính xác tổng mức đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư quá thấp thì dự án không thể thực hiện được nhưng ngược lại nếu vốn đầu tư quá lớn cũng dẫn đến kết quả tài chính của dự án không chính xác.
Thẩm định tổng mức đầu tư là kiểm tra các hạng mục chi phí có đúng đắn, phù hợp theo các quy định hiện hành của Nhà nước và các quy định, thông lệ khác.
b) Thẩm định nguồn tài trợ của dự án đầu tư
Trên cơ sở nhu cầu vốn đầu tư của dự án, chủ đầu tư xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo cung cấp vốn về quy mô và thời gian (tiến độ giải ngân). Dự án có thể được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, vốn huy động từ các cổ đông, vốn vay của các tổ chức tài chính v.v…Tuỳ theo khả năng tài chính của chủ đầu tư và tuỳ vào định hướng sử dụng vốn của mình mà chủ đầu tư có thể quyết định cơ cấu vốn cho dự án. Tuy nhiên, cơ cấu này cũng ảnh hưởng bởi các quy định của Nhà nước. Ví dụ theo Quy chế cho vay của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định đối với các ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt Nam thì ngân hàng cho vay hoặc tổ chức đồng tài trợ không được cho vay vượt quá 85% tổng mức đầu tư đối với một dự án. Điều đó có nghĩa là chủ đầu tư phải có 15% vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn đầu tư của dự án.
Đối với từng loại nguồn vốn, cần xem xét ở các khía cạnh cơ bản sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: phải được tiến hành kiểm tra, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Thông thường đó là căn cứ vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong tối thiểu ba năm liên tiếp tính đến thời điểm lập dự án. Các báo cáo tài chính này phải được tổ chức kiểm toán tài chính độc lập kiểm toán và xác nhận.
- Nguồn vốn vay: xem xét độ tin cậy về khả năng cho vay của các ngân hàng cam kết cho vay. Về nguyên tắc, các ngân hàng cũng phải giải trình cho chủ đầu tư về tình hình khả năng tài chính của mình, về hoạt động kinh doanh của mình thông qua các báo cáo về kết quả kinh doanh của ngân hàng và chứng minh khả năng ngân hàng sẽ cung cấp đủ, kịp thời vốn cho dự án theo đúng cam kết với chủ đầu tư. Đặc biệt đối với các dự án có tổng mức đầu tư lớn, có nhu cầu vay lớn thì việc xem xét khả năng cho vay của các ngân hàng hết sức quan trọng nó đảm bảo khả năng cung cấp vốn cho dự án không làm ảnh hưởng đến tiến độ từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án do có thể làm chậm tiến độ đưa dự án vào vận hành kinh doanh.
Hiện nay, khi tiến hành công tác lập dự án cũng như xác định nguồn tài trợ cho dự án, do còn nặng về cơ chế "xin-cho" nên chủ yếu là các doanh nghiệp phụ thuộc vào các ngân hàng nên các chủ đầu tư phải giải trình với ngân hàng theo các yêu cầu của ngân hàng để có được khoản tài trợ cho dự án chứ ngân hàng không phải giải trình hay chứng minh năng lực với chủ đầu tư.
Việc xác định nguồn tài trợ cho dự án cũng là xác định một cơ cấu vốn tối ưu cho dự án nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho chủ đầu tư. Do có sự ảnh hưởng của yếu tố đòn bẩy tài chính nên tuỳ theo tình hình tài chính của doanh nghiệp mà chủ đầu tư sẽ đưa ra một cơ cấu vốn tài trợ cho dự án phù hợp.
c) Thẩm định dòng tiền của dự án đầu tư
Dòng tiền của một dự án đầu tư được hiểu là các khoản chi phí và thu nhập bằng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch giữa toàn bộ thu thập bằng tiền của dự án và toàn bộ chi phí bằng tiền của dự án là dòng tiền ròng tại các mốc khác nhau của dự án. Dòng tiền này chính là cơ sở để định giá doanh nghiệp, xác định giá cổ phiếu hay trái phiếu hay giá trị hiện tại của dự án đầu tư.
Khi xem xét dòng tiền của dự án cần phân biệt hai góc độ tài chính và kế toán:
- Xét trên góc độ kế toán: chi phí của dự án sẽ bao gồm các khoản chi phí hợp lê, bao gồm cả khấu hao. Khi tính thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp, khấu hao tài sản cố định được tính vào chi phí. Do đó, làm giảm thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước.
- Trên góc độ tài chính: Khấu hao TSCĐ không phải là một khoản chi bằng tiền, khấu hao chỉ là một yếu tố của chi phí làm giảm thuế thu nhập của doanh nghiệp. Do vậy, khấu hao là một nguồn thu của dự án.
* Vấn đề quan trọng khi xác định dòng tiền đó là cơ cấu vốn tài trợ cho dự án và phương thực trả nợ của dự án:
- Khi dự án được tài trợ 100% bằng vốn chủ sở hữu thì dòng tiền của dự án được xác định
NPV = CF0 +
Trong có:
NPV: giá trị hiện tại ròng
CF0, CF1 … là chênh lệch dòng tiền tại các năm 0,1…
CF1,…CFn = Lợi nhuận sau thuế + khấu hao TSCĐ
CF0: vốn của chủ đầu tư
Riêng năm cuối của dự án: CFn cộng thêm hai phần bộ phận:
+ Tiền ròng thu được từ thanh lý TSCĐ
+ Giá trị vốn lưu động ròng thu hồi được
- Trường hợp dự án được tài trợ 100% vốn vay
+ Thanh toán theo niên kim:
Dòng tiền của dự án được xác định bằng:
CF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ - TRả gốc
Và CF0 = 0
+ Thanh toán theo phương thức: Lãi trả hàng năm, gốc trả vào năm cuối
CF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ + Lãi vay
Và CF0 = Tổng vốn vay
- Trường hợp, khi vốn đầu tư là hỗn hợp tức bao gồm cả chủ sở hữu và vốn vay
+ Thanh toán theo niên kim: mỗi năm trả nợ cả gốc và lãi
CF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ - Trả gốc
CF0: chỉ tính trên vốn chủ sở hữu
+ Trường hợp lãi trả hàng năm, vốn trả vào cuối năm đời dự án
CF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ + Lãi vay
CF0: Tổng vốn đi vay + vốn chủ sở hữu
Vì vậy, khi thẩm định dòng tiền của dự án cần xem xét kỹ phương thức tài trợ cho dự án, phương thức trả nợ vốn vay để từ đó xác định dòng tiền phù hợp. Từ đó tránh được việc đưa ra được các kết quả dòng tiền quá cao hoặc thấp dẫn đến các kết luận thiếu chính xác.
d) Thẩm định tỷ lệ chiết khấu
Tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một dự án đầu tư, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án.
Về bản chất, lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí cơ hội của dự án đó. Nếu thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các dự án đầu tư khác hay các tài sản chính khác có cùng mức rủi ro.
Có thể hiểu lãi suất chiết khấu của một dự án chính là lợi tức kỳ vọng của một tài sản tài chính có cùng mức độ rủi ro.
Có thể xác định tỷ lệ chiết khấu theo phương thức tài trợ cho dự án như sau:
- Khi vốn đầu tư là nợ
Lãi suất chiết khấu chính là chi phí nợ sau thuế = (1 - T)Kinh doanh
Trong đó: T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Kd là chi phí nợ trước thuế = Tỷ lệ sinh lời tới thời điểm đáo hạn
- Khi vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu
Lãi suất chiết khấu chính là lợi tức kỳ vọng của vốn chủ sở hữu.
- Khi vốn đầu tư gồm nợ và vốn chủ sở hữu
Trong trường hợp này, tỷ lệ chiết khấu chính là chi phí vốn bình quân
Chi phí vốn bình quân =
Trong đó:
rS: chi phí vốn chủ sở hữu
rB: chi phí nợ là lãi vay của ngân hàng
(): tỷ trọng giá trị của vốn chủ sở hữu
(): tỷ trọng giá trị của nợ
T: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
e) Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư
thẩm định các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu hiệu quả của dự án được thực hiện dựa trên việc thẩm định dòng tiền và tỷ lệ chiết khấu, thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả có chính xác và hợp lý hay không.
ã Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV - Net Present Value)
Giá trị hiện tại dòng của dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
NPV =
Trong đó:
r: tỷ suất chiết khấu
C0: vốn đầu tư ban đầu
CF1: dòng tiền ròng của dự án năm thứ i (dòng tiền sau thuế)
Điều kiện chấp thuận dự án khi sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá:
- Chấp thuận dự án khi NPV > 0 và bác bỏ dự án khi NPV Ê 0.
* Ưu điểm của NPV
- Phản ánh được giá trị thời gian của tiền quan việc sử dụng chi phí cơ hội của vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
- NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản của chủ sở hữu vì đây là dòng tiền sau thuế.
- Quyết định chấp nhận, từ chối hay xếp hạng dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu.
* Nhược điểm của chỉ tiêu NPV
- Chỉ tiêu này không áp dụng cho dự án có thời điểm khác nhau. Do vậy, muốn so sánh được chúng ta phải điều chỉnh cho mỗi dự án lặp lại thời gian cho đến khi tuổi thọ dự án của chúng tương đương nhau.
- NPV phụ thuộc vào cách chọn tỷ suất chiết khấu khác nhau.
- NPV không phản ánh giá trị lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư.
- NPV là một giá trị tuyệt đối, nó không phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên một đơn vị vốn đầu tư. Các dự án có chi phí đầu tư cao thường đem lại NPV lớn hơn các dự án có chi phí đầu tư thấp.
ã Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return), còn được gọi là tỷ suất thu lợi nội tại, tỷ suất nội hoàn hay suất thu hồi nội bộ.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu bằng tổng chi, hay nói cách khác là tỷ suất chiết khấu mà tại đó NPV = 0.
Dự án có IRR cao hơn mức lãi suất giới hạn (lãi suất cho vay, tỷ suất chiết khấu hay tỷ suất lợi nhuận mong đợi) thì sẽ được lựa chọn. Nếu là các dự án loại trừ nhau thì người ta sẽ chọn dự án căn cứ vào vốn đầu tư củ dự án lớn hay nhỏ và có thể kết hợp thêm chỉ tiêu NPV để lựa chọn.
Để tính toán chỉ tiêu này, chúng ta có thể sử dụng rất nhiều các phần mềm vi tính chẳng hạn như chương trình EXCEL thuộc phần mềm Microsoft Office. Các phần mềm này đều tự động tính toán được chỉ tiêu này khi nhập dòng tiền của dự án vào.
ã Thời gian hoàn vốn (PP: Payback Period)
Thời gian thu hồi vốn là độ dài thời gian dự tính cần thiết để các luồng tiền ròng của dự án bù đắp được chi phí đầu tư của dự án. Các nhà ngân hàng và các doanh nghiệp sử dụng thời gian hoàn vốn để đánh giá dự án bằng cách thiết lập chỉ tiêu thời gian hoàn vốn cần thiết và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được của dự án. Những dự án có thời gian hoàn vốn lớn hơn thời gian cho phép tối đa sẽ bị loại bỏ. Khi chon trong một số nhiều dự án loại trừ nhau thì chấp nhận dự án có PP nhỏ hơn thời gian quy định và PP nhỏ nhất.
Thời gian hoàn vốn được xác định như sau:
- Thời gian hoàn vốn không chiết khấu:
PP = Tổng vốn đầu tư/(LN ròng + khấu hao TSCĐ)
- Thời gian hoàn vốn có chiết khấu: t được xác định từ công thức:
C0 -
+ Ưu điểm: đơn giản, dễ sử dụng
+ Nhược điểm:
Xếp hạng dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu.
Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét đánh giá.
ã Điểm hoà vốn
Khả năng sinh lời và độ an toàn của dự án thường được diễn đạt bằng chỉ tiêu điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu ngang bằng chi phí sản xuất, điểm hoà vốn có thể được tính cho cả đời dự án hoặc tính cho từng năm. Điểm hoà vốn được thể hiện dưới chỉ tiêu sản lượng hoà vốn và doanh thu hoà vốn, trị số các chỉ tiêu này thấp chứng tỏ dự án có mức an toàn cao trong hoạt động.
- Cách xác định điểm hoà vốn:
x: là sản lượng hoà vốn
p: Giá bán đơn vị sản phẩm
v: Biến phí đơn vị sản phẩm
f: Tổng định phí cả đời dự án
x =
- Doanh thu hoà vốn:
Trường hợp sản xuất một loại sản phẩm:
D = p* x = p* =
Trường hợp sản xuất nhiều loại sản phẩm
D =
Dưới dạng tổng quát: điểm hoà vốn của dự án phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: chi phí biến đổi và giá trị tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, việc xác định điểm hoà vốn trong năm hoạt động nào đó có thể không phản ánh đúng đặc tính của dự án. Do đó, để xác định điểm hoà vốn cần tính đến sự biến đổi các yếu tố có liên quan trong cả kỳ vận hành của dự án. Trong trường hợp này, điểm hoà vốn cần xác định theo khả năng thu hồi toàn bộ vốn đầu tư và bù đắp các chi phí vận hành.
* Ưu điểm của chỉ tiêu điểm hoà vốn: Dễ xác định và độ tin cậy tương đối cao do thời gian hoàn vốn là những năm đầu thực hiện dự án. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp xác định được với mức sản lượng bao nhiêu thì thu hồi được vốn đầu tư.
* Nhược điểm: chỉ tiêu này không cho biết thu nhập cụ thể sau khi hoàn vốn, đôi khi có dự án đầu tư có thời gian thu hồi vốn dài nhưng thu nhập về sau lại cao hơn thì vẫn có thể là dự án tốt.
Người ta có thể tính ba loại điểm hoà vốn sau:
- Điểm hoà vốn lý thuyết: được tính theo công thức sản lượng hoà vốn nêu trên chỉ khác là tổng định phí chỉ được tính cho một năm của đời dự án.
- Điểm hoà vốn tiền tệ: là điểm mà tại đó, dự án bắt đầu có tiền để trả nợ vay (kể cả dùng nguồn vốn khấu hao). Cách tính giống như tính điểm hoà vốn lý thuyết nhưng định phí không tính khấu hao.
- Điểm hoà vốn trả nợ: là điểm mà tại đó, dự án có đủ tiền để trả nợ vốn vay, đóng thuế thu nhập. Cách tính giống như điểm hoà vốn lý thuyết nhưng định phí tính thêm nợ gốc và thuế thu nhập phải trả trong năm.
f) Thẩm định độ nhạy của dự án đầu tư:
Khi tiến hành thẩm định tài chính dự án đầu tư cán bộ thẩm định cần xem xét mức độ tin cậy của các thông tin về dự án như các dòng tiền dự tính, mức độ rủi ro tối đa có thể xảy ra.
Việc thẩm định mức độ tin cậy của dự án giúp cho chủ đầu tư không bỏ lỡ cơ hội đầu tư hay quyết định đầu tư sai, việc làm này giúp cho việc tính tỷ suất chiết khấu hợp lý của dự án. Nếu việc dự tính các dòng tiền là không đáng tin cậy thì tất cả các việc tính toán sau đó đều không có ý nghĩa, dẫn đến các quyết định đầu tư sai làm và ngược lại nếu việc dự tính là đáng tin cậy thì việc ra quyết định đầu tư sẽ phù hợp.
Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR thì phải căn cứ vào các dòng tiền dự tính và các giả định để tính toán được coi là tình huống cơ sở. Việc tính toán độ nhạy của dự án đựơc thực hiện bằng cách đưa ra các kịch bản: dự báo các rủi ro có thể xảy ra trong khi thực hiện dự án, thay đổi một hoặc một số thông số đầu vào tăng hay giảm và tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của dự án. Nếu hầu hết các tình huống đưa ra đều cho kết quả NPV > 0 thì có thể tiến hành thực hiện dự án. Trường hợp NPV Ê 0 thì tạm kết luận mức rủi ro dự tính cao và cần xem xét lại trước khi ra quyết định và do đó có thể điều chỉnh lại tỷ lệ chiết khấu của dự án cho phù hợp.
Việc thẩm dịnh mức độ tin cậy của dự án giúp cho chủ đầu tư có cái nhìn chính xác về dự án để từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư dự án.
1.3.1.2. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Việc lập dự án hiện nay còn mang tính chủ quan của người lập dự án mà đôi khi cố chứng minh hiệu quả dự án để được duyệt, hoặc được vay vốn. Trong khi thẩm định phải đứng trên quan điểm khách quan để xét xem có quyết định đầu tư hay tài trợ cho dự án không. Muốn thẩm định được tin cậy giúp cho việc quyết định về dự án một cách đúng đắn và chính xác, thì đầu tiên là xem xét các dữ liệu ban đầu có đáng tin cậy không, cách lập dự toán của dự án có hợp lý vận dụng phù hợp không, nếu không chuyên viên thẩm định phải lập lại dự toán với các độ nhạy một cách có cơ sở. thực hiện việc này sẽ tốn rất nhiều công sức, gần như tái lập phương án tài chính dự án.
Sơ đồ dưới đây thể hiện quy trình thẩm định theo từng giai đoạn (xem sở đồ quy trình thẩm định). Qua đó giúp cho các nhân viên tín dụng giải quyết về vấn đề thời gian và công sức cho việc thẩm định.
Sơ đồ quy trình thẩm định tài chính dự án
1. Xác định các thông số quan trọng trong dự án
2. Kiểm tra độ tin cậy các thông số quan trọng trongdự án
4. Kiểm tra cơ sở khoa học và tính thực tiễn trong phương pháp lập dự án
Đánh giá các bảng kết quả theo mức lạc quan
Xây dựng độ nhậy theo các thông số chủ yếu trong các tình huống
Bảng nhận định kết quả tổng hợp theo độ nhạy
3. Xây dựng các thông số quan trọng trong dự án đạt độ tin cậy
5. Xây dựng lại các phương pháp khoa học, phù hợp thực tiễn để tính toán
Đề nghị bác dự án
Kết luận ra quyết định
Không tin cậy
Không phù hợp
Kết quả xấu
Kết quả tốt
Phù hợp
Tin cậy
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.2.1. Những nhân tố khách quan:
a) Hành lang pháp lý, cơ chế chính sách nhà nước:
Đây là những nhân tố thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật, xã hội, tự nhiên… Những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án và các tổ chức tín dụng chỉ có thể khắc phục được một phần.
Hành lang pháp lý, cơ chế chính sách của Nhà nước, nhân tố này đóng vai trò là khuôn khổ định hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó có các các tổ chức tín dụng phục vụ mục tiêu chung của xã hội. Những khuyết điểm trong tính hợp lý, tính đồng bộ hay tính tiêu cực của các văn bản pháp lý, chính sách quản lý của Nhà nước đều có thể gây khó khăn, tăng rủi ro đối với kết quả hoạt động của dự án cũng như với hoạt động thẩm định của các tổ chức tín dụng. Một số bất cập chính do hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý của Nhà nước thường gặp là:
Với các dự án đầu tư trong và ngoài nước liên quan đến nhiều chính sách mà các chính sách này chưa được hoàn thiện đầy đủ, ổn định, thường thay đổi liên tục dẫn đến tâm lý không an tâm, tin tưởng của các nhà đầu tư.
Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ còn khá nhiều kẽ hở và bất cập làm phát sinh những rủi ro và hạn chế nguồn thông tin chính xác đến các tổ chức tín dụng.
b) Tác động của lạm phát:
Lạm phát là yếu tố bất định có ảnh hưởng tới việc thẩm định tài chính dự án. Lạm phát gây nên sự thay đổi về giá cả theo thời gian. Do vậy, nó làm biến đổi dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu khi đánh giá tài chính dự án đầu tư. Mức lạm phát không thể dự đoán một cách chính xác vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quy luật cung cầu, thu nhập và tâm lý người tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Các biến số tài chính trong dự án, các yếu tố đầu vào của các chỉ tiêu như NPV, IRR… đều chịu tác động của lạm phát. Do vậy, đánh giá tính hiệu quả của một dự án nào đó, cần phải xác định chính xác, hợp lý giá cả của các yếu tố cấu thành chi phí hay doanh thu của dự án. Việc tính đến yếu tố lạm phát sẽ làm cho quá trình thực hiện dự án được dễ dàng hơn, hiệu quả thẩm định dự án cao hơn.
1.3.2.2. Những nhân tố chủ quan:
- Nhận thức của lãnh đạo các tổ chức tín dụng về công tác thẩm định tài chính dự án: điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì nếu lãnh đạo các tổ chức tín dụng cho rằng công tác thẩm định tài chính dự án là không cần thiết đối với các tổ chức tín dụng thì sẽ không có việc thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết định đầu tư. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư chỉ thực sự được quan tâm và nâng cao khi các nhà lãnh đạo các tổ chức tín dụng nhận thức được ý nghĩa của công tác này đối với hoạt động đầu tư.
- Trình độ cán bộ thẩm định dự án: năng lực của người tham gia thẩm định dự án có vai trò rất quan trọng vì kết quả thẩm định tài chính được dựa trên các kết quả nghiên cứu, phân tích về kỹ thuật, thị trường, tổ chức sản xuất,… Năng lực của cán bộ thẩm định dự án ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả mà họ đảm trách. Do vậy, trong mọi trường hợp, muốn hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án thì trước hết bản thân chất lượng của cán bộ thẩm định phải không ngừng được nâng cao. Họ phải đáp ứng được những đòi hỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững các văn bản pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, tư cách phẩm chất đạo đức của cán bộ thẩm định cũng là điều kiện không thể thiếu.
- Quy trình nội dung và phương pháp thẩm định tài chính dự án có ảnh hưởng rất lớn tới công tác thẩm định tài chính dự án. Một quy trình, nội dung và phương pháp phù hợp,. khách quan khoa học và đầy đủ là cơ sở đảm bảo thực hiện tốt công tác thẩm định tài chính dự án. Ngược lại, một quy trình, nội dung và phương pháp thẩm định bất hợp lý, sơ sài chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả thẩm định tài chính dự án không cao và các tổ chức tín dụng khó có thể dựa vào đó để ra quyết định đầu tư chính xác.
- Thông tin là cơ sở cho những phân tích, đánh giá, là "nguyên liệu" cho quá trình tác nghiệp của cán bộ thẩm định. Nguồn thông tin quan trọng nhất trước hết là từ hồ sở dự án. Nếu thông tin trong hồ sơ dự án thiếu hoặc không rõ ràng, cán bộ thẩm định có quyền yêu cầu những người lập dự án cung cấp thêm hoặc giải trình những thông tin đó. Bên cạnh các thông tin về dự án, để việc thẩm định được tiến hành một cách chủ đông, có những đánh giá khách quan, chính xác hơn thì khả năng tiếp cận, thu thập các nguồn thông tin khác và khả năng xử lý thông tin của cán bộ thẩm định đóng vai trò quyết định.
- Tổ chức điều hành: Thẩm định tài chính dự án đầu tư là tập hợp nhiều hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau và với các hoạt động khác. Kết quả thẩm định sẽ phụ thuộc nhiều vào công tác tổ chức quản lý điều hành, sự phối hợp nhịp nhàng của cán bộ trong quá trình thẩm định. Khác với các nhân tố khác, việc tổ chức điệu hành tác động một cách gián tiếp tới công tác thẩm định. Công tác tổ chức điều hành được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học và sẽ khai thác tối đa mọi nguốn lực phục vụ hoạt động thẩm định dự án.
Chương 2
Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại công ty cho thuê tài chính I - nhno&ptnt
2.1. Khái quát về Công ty cho thuê tài chính 1 - NHNo & PTNT
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty cho thuê tài chính I
- Tên gọi bằng tiếng Việt Nam: Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp.
- Tên giao dịch quốc tế: Financial Leasing Company I of Viet Nam Bank for Agriculture and Rural Development.
- Tên viết tắt: ALCI
- Trụ sở chính: Số 141, đường Lê Duẩn, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Thành lập: 7/9/1998
- Nhân viên công ty: 55 nhân vien
- Chi nhánh tại: Hải Phòng, Quảng Ninh
- Lĩnh vực hoạt động: cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác.
- Địa bàn hoạt động của Công ty cho thuê tài chính I từ Huế trở ra.
- Thời gian hoạt động của Công ty là 70 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động. Việc gia hạn thời gian hoạt động của Công ty do Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp quyết định và phải được thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Bước vào nền kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những phương hướng, chiến lược cụ thể trước mắt và lâu dài trong công cuộc đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để làm được điều này, nhu cầu tiêu dùng của người dân phải tăng lên, đi cùng với nó là sản xuất phát triển. Song hiện nay, Việt Nam mới chủ yếu phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhu cầu vốn tại các doanh nghiệp là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn từ các ngân hàng không thể đáp ứng đủ nguồn vốn cho các doanh nghiệp và một thực trạng xảy ra là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng phương pháp chiếm dụng vốn lẫn nhau. Như vậy thì việc giải quyết nguồn vốn chỉ mang tính chất tạm thời, mang tính tình huống. Nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy sự cần thiết khách quan và tiềm năng phát triển của hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam. Và trên thực tế, hoạt động này được thừa nhận chính thức ở nước ta từ năm 1991 (theo Thông tư số 34/TCDN ngày 31/7/1991)
Xuất phát từ thực tế trên, NHNo&PTNT Việt Nam đã xúc tiến nghiên cứu hoạt động này và áp dụng vào thực tế. Công ty cho thuê mua và tư vấn đầu tư của NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo quyết định số 130/QĐ-NHNo ngày 28/9/1994 và quy chế tổ chức hoạt động của Công ty cho thuê mua và tư vấn đầu tư cũng được xác định tại quyết định số 501/QĐ-NHNo ngày 4/11/1994 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Các quy định đó như sau:
- Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Công ty chỉ đại diện pháp nhân và hạch toán kinh tế nội bộ.
- Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư có các nhiệm vụ sau:
+ Được uỷ quyền tập trung các nguồn vốn đầu tư
+ Góp vốn liên doanh, liên kết theo uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê.
- Mô hình tổ chức bộ máy của công ty bao gồm 2 phòng: Phòng Kế toán và phòng nghiệp vụ kinh doanh.
Sau khi có Nghị định 64/CP của Chính phủ cùng với Thông tư 03/TT-NH5 của Ngân hàng nhà nước và qua kinh nghiệm của một số công ty cho thuê trong và ngoài nước khác thì công ty cho thuê mua và tư vấn đầu tư phải được tổ chức lại để có thể hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Do đó, NHNo&PTNT Việt Nam đã quyết định thành lập Công ty Cho thuê Tài chính NHNo&PTNT Việt Nam. Theo quyết định thành lập số 238/QĐ-NHNN5 ngày 14/7/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hai công ty cho thuê tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hà Nội.
- Công ty cho thuê tài chính I - NHNo&PTNT Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hà Nội.
- Công ty cho thuê tài chính II - NHNo&PTNT Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh.
Riêng công ty cho thuê tài chính I, theo giấy phép kinh doanh số 112447 do Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 7/9/1998, công ty hoạt động theo các văn bản về hoạt động cho thuê tài chính trước đó và điều lệ hoạt động theo quy định số 492-QĐ/HĐQT do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định; tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước và các luật về Ngân hàng và cong ty cho thuê tài chính, các quy định của pháp luật hiện hành, điều lệ của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
Công ty cho thuê tài chính I - NHNo&PTNT Việt Nam và các chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty là một pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại Ngân hàng Nông nghiệp, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh và những cam kết hoạt động kinh doanh và những cam kết của mình.
2.1.3. Chức năng, nghiệp vụ hoạt động của Công ty
2.1.3.1. Chức năng:
Chức năng chủ yếu của công ty cho thuê tài chính I bao gồm: cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác (gọi chung là tài sản cho thuê) phục vụ sản xuất kinh doanh và các ._.được mối quan hệ của nhân viên với các doanh nghiệp trong vùng nhưng vướng phải một nhược điểm lớn cần được giải quyết là sự khác biệt về quy mô của từng dự án trong một vùng và số lượng các dự án trong các vùng.
Với những địa phương số lượng khách hàng đông, một nhân viên tín dụng có thể không đáp ứng được yêu cầu của khối lượng công việc. Mặt khác, với những dự án lớn, quy mô cũng như tính chất phức tạp trong khi trình độ của nhân viên không phù hợp sẽ gây ra những sai lệch trong quá trình xem xét hồ sơ và ra quyết định cho thuê.
Cũng do quá trình hoạt động chưa lâu, chưa phát sinh những trục trặc trong việc thực hiện những dự án lớn nên các nhân viên khó có điều kiện rút kinh nghiệm từ quá trình thẩm định trước đó.
- Thứ năm: Về trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc thẩm định vẫn cần được sự quan tâm của các cơ quan có thẩm quyền. Trụ sở làm việ của công ty chưa được ngân hàng nông nghiệp cấp, phòng kinh doanh hoạt động tạm trong hội trường nhà khách của ngân hàng, các nhân viên tín dụng làm việc trong một không gian chật. Máy móc vẫn chưa đảm bảo mỗi cán bộ tín dụng đều được trang bị riêng 1 người trên 1 máy vi tính.
Những điểm hạn chế trong công tác thẩm định tín dụng ngoài những nguyên nhân từ phía công ty đã trình bày ở trên, những nguyên nhân khách quan cũng cần phải được đề cập đến để có thể tìm giải pháp xử lý.
Môi trường kinh doanh hiện tại ngoài mặt tích cực luôn có những đơn vị kinh tế hoạt động không hiệu quả luôn tìm những thủ đoạn để chiếm dụng tài sản, vốn của những tổ chức khác, đặc biệt là các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Chính những đơn vị này luôn tìm cách được hưởng sự ưu tiên của các tổ chức tín dụng. Họ tìm cách tạo ra những hồ sơ dự án có tính khả thi rất cao. Xuất phát từ những dữ liệu giả nên công tác thẩm định rất khó phát hiện ra nếu không được tiến hành một cách kĩ lưỡng. Mặt khác, ngay cả những đơn vị hoạt động hợp pháp cũng nảy sinh những hồ sơ dự án rất khó kiểm soát đối với nhân viên tín dụng công ty do hạn chế về trình độ của chủ đầu tư.
Các cơ chế của ngân hàng nhà nước và ngân hàng nông nghiệp về thẩm định dự án và những chỉ tiêu yêu cầu được sử dụng chưa được rõ ràng. Năng lực quản lý dự án của một số ngành còn hạn chế. Việc ban hành các chính sách có liên quan của nhà nước hay thay đổi đặc biệt trong thời gian mới áp dụng nghiệp vụ cho thuê. Hơn nữa, các chỉ tiêu hiệu quả bình quân và những định mức kĩ thuật từng ngành làm căn cứ so sánh còn thiếu. Điều này gây khó khăn không chỉ đối với nhân viên của công ty cho thuê tài chính 1 trong việc tính các chỉ tiêu phục vụ thẩm định dự án.
Hệ thống ngân hàng của nước ta vẫn chưa thể coi là vững mạnh và hoạt động hiệu quả. Công ty cho thuê tài chính lại chưa được coi là một ngành riêng biệt nên không thể không gặp phải những khó khăn khi phải ở trong một "vỏ bọc" không được coi là "khoẻ mạnh".
Như vậy, hoạt động thẩm định dự án đầu tư của công ty cho thuê tài chính 1 - NHNo&PTNT mặc dù đã có những thành quả nhất định trong những năm hoạt động vừa qua nhưng không thể phủ nhận những hạn chế mà công tác này còn mắc phải. Tìm ra nguyên nhân để có những giải pháp thích hợp là một trong những điều có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty.
Chương 3
giải pháp đề nghị góp phần hoàn thiện công tác
thẩm định tài chính dự án tại Công ty cho thuê
tài chính 1 - NHNo&PTNT
3.1. Những giải pháp đề nghị
Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung - khi mà hoạt động đầu tư đang được Chính phủ khuyến khích thực hiện - là hết sức quan trọng. Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dứan luôn là một yêu cầu đặt ra đối với mọi tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế. Công tác thẩm định tài chính dự án thực hiện tốt sẽ hạn chế đến mức tối thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình triển khai một dự án đầu tư. Riêng loại hình cho thuê tài chính, dù không chứa đựng nhiều rủi ro như hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại nhưng cũng cần có những định hướng phù hợp để có thể hoàn thiện công tác thẩm định các dự án xin thuê, góp phần vào việc phát triển một loại hình tín dụng mới trong nền kinh tế đất nước.
Xuất phát từ mục đích và yêu cầu của hoạt động thẩm định tài chính dự án đã đề cập đến ở chương I cũng như những điểm hạn chế của hoạt động này đã đề cập ở chương 2 ta có thể có một số định hướng cho công tác thẩm định tại công ty cho thuê tài chính I như sau:
- Công tác thẩm định phải được xây dựng thành quy trình phù hợp với đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính, phù hợp với cơ sở vật chất cũng như trình độ của nhân viên tín dụng của công ty.
- Phải xuất phát từ quan điểm của người tài trợ cho dự án để tiến hành thẩm định dự án; tức là việc thẩm định các dòng tiền phải xem xét đến hiệu quả của lượng vốn đã tài trợ thông qua việc sử dụng có hiệu quả tài sản thuê, nhưng cũng cần quan tâm đến những giá trị còn lại sau dự án để lựa chọn đầu tư cho những dự án vừa đảm bảo khả năng thanh toán phí thuê vừa có lợi cho chủ đầu tư. Điều đó thể hiện được sự gắn bó lợi ích của công ty cho thuê với lợi ích của chủ đầu tư.
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải được tiến hành nghiêm túc đầy đủ ngay cả khi dụ án đã được triển khai thực hiện. Công tác này phải được xây dựng thành một công cụ cạnh tranh đối với những đơn vị khác; thành một yếu tố thu hút khách hàng và tạo uy tín của những đơn vị. Mặt khác, thẩm định tài chính dự án cần phải đảm trách được vai trò tham mưu cho việc ra quyết định lựa chọn chính xác dự án cần tài trợ.
Có thể đề xuất một số giải pháp theo định hướng trên,.
3.1.1. Giải pháp về nghiệp vụ
3.1.1.1. Xác định nhiệm vụ của nhân viên tín dụng trong thẩm định dự án đầu tư
Việc thẩm định hiệu quả dự án của các tổ chức tín dụng khi tiến hành tổ chức cho thuê thường do những nhân viên tín dụng phụ trách. Chính nhiệm vụ xem xét để đánh giá có nên tài trợ cho dự án này không, mà vai trò của nhân viên tín dụng của công ty trở nên rất quan trọng, trách nhiệm này có thể dẫn tới tình huống chuyên viên thẩm định của công ty cho thuê tài chính I đồng ý cho thuê mà yếu tố kỹ thuật không khả thi, hoặc là bác một dự án vì không tin tưởng phương án sản xuất trong dự án có thể thực hiện được.
Việc thẩm định phải quan tâm nhiều đến các tình huống xấu để xem xét mức độ hoàn vốn và trả nợ của dự án. Thông thường một dự án có độ rủi ro cao thì mới có khả năng sinh lời cao và ngược lại, do vậy tuỳ mong muốn về khả năng sinh lợi của đồng vốn so với mức độ chấp nhận rủi ro mà người đầu tư sẽ lựa chọn dự án phù hợp. Khi thẩm định, nếu đứng trên quan điểm phân tích hiệu quả để quyết định tham gia đầu tư hay không, thì người thẩm định cùng cái nhìn và đánh giá như người lập dự án, nhưng nếu đứng trên nhiệm vụ xem xét cho vay hay không, thì người thẩm định phải luôn đứng trên quan điểm toàn của đồng vốn để phân tích, kết luận.
Có những dự án, người thẩm định nhận thấy nếu giữ nguyên các phương án như đã lập sẽ kém hiệu quả, nhưng điều chỉnh phương án một chút (giảm mức độ đầu tư, giảm tiến độ đầu tư…) thì dự án sẽ trở nên hiệu quả. Do vậy, chuyên viên thẩm định có thể tư vấn, đề xuất cho chủ đầu tư, để đảm bảo tính khả thi trong việc cho thuê tài chính. Nhưng quyền quyết định vẫn thuộc về người chủ đầu tư, bởi vì họ mới là người quyết định nên sử dụng đồng vốn như thế nào trong đầu tư, cũng như trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh. Họ sẽ là người hưởng kết quả hoặc nhận lãnh thiết hoặc nhiều nhất trong việc thành công hay thất bại của dự án. Điều này cũng giải thích vì sao thông thường các tổ chức tín dụng chỉ cho vay khong quá 70% tổng vốn đầu tư, và người chủ đầu tư phải thế chấp bằng toàn bộ tài sản đầu tư, đôi khi phải kèm thêm những tài sản có tính thanh khoản cao khác, tất nhiên trừ một số trường hợp nhà cho thuê quyết định tham gia đầu tư vào các dự án mạo hiểm.
Sau cùng thì tiêu chí quan trọng nhất của chuyên viên tài chính trong việc thẩm định tài chính dự án đầu tư, đó là phải hết sức khách quan trong vịêc thu thập và đánh giá số liệu đối với những số liệu mà dự án thu thập không đủ do nguyên nhân khách quan trong việc thu thập và đánh giá số liệu, đối với những dự án thu thập không đủ do nguyên nhân khách quan thì phải đánh giá theo nhiều tình huống có khả năng xảy ra xuất phát từ việc thiếu các thông tin đó.
3.1.1.2. Hoàn thiện phương pháp tiến hành thẩm định
Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án bao gồm việc hoàn thiện phương pháp, quy trình và nâng cao chất lượng thực hiện các nội dung của công tác thẩm định.
Về phương pháp, công ty hiện nay chủ yếu sử dụng những phương pháp phân tích tài chính theo trạng thái "tĩnh" của tiền, hệ thống chỉ tiêu áp dụng chủ yếu là những số liệu tính gộp. Công ty cần phải sử dụng những phương pháp phân tích tài chính dựa vào giá trị thời gian của tiền - là những phương pháp phổ biến trong nền kinh tế hiện đại - kết hợp với những phương pháp hiện đại đang được thực hiện tại công ty để thẩm định một cách chính xác dự án đề xuất.
Sử dụng kết hợp được các phương pháp này, hệ thống chỉ tiêu thẩm định tại công ty phải bao gồm cả những số liệu tương đối - là kết quả của việc dự đoán khả năng thanh toán, phân tích cơ cấu vốn, tỷ suất nội hoàn - và những số liệu tuyệt đối - kết quả của các phương pháp điểm hoà vốn, giá trị hiện tại ròng. Những kết luận rút ra từ hệ thống chỉ tiêu đó sẽ tránh được những khiếm khuyết của từng phương pháp phân tích riêng biệt.
Riêng đối với phương pháp phân tích dựa vào giá trị thời gian của tiền, cần chú ý đến sự thay đổi của chi phí cũng như lợi ích trong suốt thời kỳ thực hiện dự án.
Yếu tố cần quan tâm nhất ở đây là việc xác định chính xác dòng tiền cũng như tỷ suất chiết khấu hợp lý. Dòng tiền thường được xem xét như sự chênh lệch của tổng doanh thu và tổng chi phí của dự án. Trong trường hợp xác định được chính xác chi phí và lợi ích, dòng tiền đó có thể chấp nhận. Tuy nhiên, đứng trên góc độ nhà tài trợ, công ty nên xác định dòng tiền gồm cả dòng tiền của chủ đầu tư và dòng nợ của người thuê - là dòng thanh toán lãi thuê và nợ gốc.
Về việc xác định tỷ suất chiết khấu, đây không phải là việc dễ dàng và thực tế là cũng chưa có một quy định nào giúp xác định một tỷ lệ chiết khấu chính xác. Tuỳ vào chi phí vốn đối với từng chủ thể tiến hành phân tích mà tỷ lệ chiết khấu được tính khác nhau với mỗi dự án cụ thể. Đã có những ý kiến đề xuất đối với ngân hàng nông nghiệp về việc chọn lãi suất trung dài hạn của kho bạc nhà nước làm lãi suất chuẩn để tính toán. Tuy nhiên, chi phí vốn đối với công ty không hề giống nhau ở mọi thời điểm cũng như trong mọi dự án. Vì vậy, thiết nghĩ, tuỳ vào dự án cụ thể và khả năng huy động vốn trong mỗi thời điểm của công ty để có những lựa chọn thích hợp về tỷ suất chiết khấu. Việc lựa chọn này hoàn toàn không được dựa vào sự quyết định chủ quan của nhân viên tín dụng cũng như không nên cố định theo các văn bản của cơ quan cấp trên. Công ty có thể áp dụng mô hình định giá tài sản vốn để có những tính toán tương đối chính xác hoặc dựa vào chi phí trung bình của vốn để rút ra tỷ suất chiết khấu thích hợp.
Sau khi đã có những tính toán chính xác về dòng tiền và tỷ suất chiết khấu, công ty nên tính đến độ nhạy của dứan. Đây là điều cần thiết vì các giá trị hiện tại và tỷ suất nội hoàn được tính toán dù là đã tính đến giá trị thời gian của tiền nhưng vẫn sử dụng những yếu tố có tính thời điểm. Các yếu tố này mỗi khi thay đổi trong khi dự án được tiến hành có thể sẽ dẫn đến những thay đổi bất lợi của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư. Cũng tuỳ vào những nhân tố mà mức thay đổi so với tính toán sẽ khác nhau như giá cả, tỷ giá… Việc áp dụng riêng từng khoảng biến động sẽ có được những kết luận chính xác về ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu hiệu quả dự án. Từ đó, công ty và bên thuê sẽ cùng đưa ra những biện pháp hạn chế rủi ro.
3.1.1.3. Hoàn thiện quy trình và nội dung thẩm định tài chính
Quy trình thẩm định
Về quy trình thực hiện các chỉ tiêu thẩm định, công ty nên đưa ra mẫu chuẩn quy định đầy đủ các bước và nhiệm vụ của từng bước để nhân viên có thể thực hiện đầy đủ từ việc đánh giá hiệu qảu dự án đến phân tích tài chính kỹ lưỡng dự án. Quy trình thẩm định tài chính phải đảm bảo đủ từ việc dự toán được chính xác giá trị tài sản dự kiến đầu tư đến việc đánh giá đầy đủ những số liệu của bảng phân tích chi phí và doanh thu của dự án.
3.1.1.4. Yêu cầu về nội dụng của thẩm định tài chính
- Về nội dung của việc đánh giá hiệu quả của dự án cũng cần phải có những điểm lưu ý. Đối với những dự án đầu tư mới, tài sản xin thuê cần được đánh giá kỹ lưỡng về công nghệ; đối với những dự án đầu tư bổ xung, tài sản thuê cần phải được xem xét tới khả năng thúc đẩy những dự án đang tiến hành tới đâu đồng thời phải đánh giá thị trường cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
- Về yêu cầu nâng cao chất lượng phân tích tài chính dự án. Một mặt cần phân tích kỹ lưỡng những hạng mục trong các bảng dự kiến chi phí doanh thu của chủ đầu tư, đồng thời nhân viên tín dụng cần phải quan tâm đến một số yếu tố thuộc về khả năng tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Kết hợp giữa việc phân tích tài chính dự án với tình trạng tài chính hiện tại của doanh nghiệp là điều thiết nghĩ nhân viên tín dụng của công ty cần phải thực hiện. Nguyên nhân là mặc dù một số doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính nhưng dự án của họ lại có tính khả thi rất cao. Nếu dự án đó được thực hiện, doanh nghiệp đó sẽ cải thiện được tình hình. Khi đó, dự án nên được xem xét tài trợ.
Mặt khác, để có chất lượng tốt trong công tác thẩm định tài chính, vấn đề cần quan tâm ở đây là việc công ty phải xác định chính xác những dữ liệu ảnh hưởng đến việc tính toán hệ thống chỉ tiêu thẩm định. Các chỉ tiêu này chủ yếu được tính toán dựa vào những lợi ích và chi phí của dự án. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là phải xác định chính xác chi phí và lợi chính xác chi phí và lợi ích của dự án. Việc này đòi hỏi nhân viên của công ty phải có những nghiên cứu chi tiết đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường vật tư cấu thành giá trị dự án, thị trường nguyên nhiên liệu phục vụ quá trình sản xuất của dự án. Đồng thời trong việc tham khảo giá cả thị trường, nhân viên tín dụng cần phải chú trọng đến mối tương quan giữa chất lượng với giá cả. Tránh việc định giá tài sản không đúng giá trị cần có của nó. Công việc này sẽ tốn thời gian và chi phí, đồng thời yêu cầu nhân viên tín dụng phải có kinh nghiệm và thành thạo trong phương pháp.
Một điểm cần lưu ý nữa trong khi tính toán các sô liệu ảnh hưởng đến hệ thống chỉ tiêu là phải xem xét đối chiếu với những văn bản quy phạm pháp của bộ tài chính và của chính phủ. Loại trừ khả năng tính toán có lợi cho bản thân mà bỏ qua sự điều chỉnh của pháp luật của các đơn vị đầu tư.
Hoàn thiện quy trình thu thập dữ liệu phục vụ cho việc thẩm định tài chính dự án.
Thông tin và dữ liệu phục vụ cho hoạt động thẩm định là tối quan trọng. Quá trình thẩm định có thành công hay không phụ thuộc lớn vào điều này. Làm sao để có được những dữ liệu và thông tin chính xác, cập nhật phục vụ cho quá trình thẩm định là điều không dễ dàng, tốn thời gian cũng như chi phí. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà công ty không tiến hành thu thập xây dựng 1 hệ thống thông tin riêng. Những chi phí của hệ thống thông tin sẽ được bù đắp bởi những lợi ích thu được từ việc giảm những rủi ro khi thực hiện những dự án không đảm bảo những yêu cầu đặt ra. Một số giải pháp khuyến nghị như sau:
- Thu thập thông tin trên từng phương diện của dự án, bao gồm thị trường, công nghệ, môi trường…
Về thị trường của sản phẩm dự án, phải năm được số lượng đối thủ cạnh tranh của sản phẩm trên cùng thị trường; nắm được mức cầu và mức cung thực tế của sản phẩm trong những năm gần đây đồng thời bám sát được giá cả trong nước cũng như quốc tế của loại sản phẩm đó nếu có khả năng xuất khẩu. Điều này góp phần chính xác hoá việc tính các luồng doanh thu và chi phí.
Về phương diện công nghệ, phải thu thập thông tin về giá trị công nghệ tại thời điểm thực hiện dự án của loại tài sản xin thuê, mức hao mòn vô hình của tài sản cũng là điểm cần được chú ý. Tránh việc mua phải những tài sản đã quá lạc hậu về mặt công nghệ hay những tài sản có mức hao mòn vô hình quá lớn do thiếu thông tin cần thiết.
Về ảnh hưởng đối với môi trường của loại tài sản thuê. Công ty cần cập nhật các mức ảnh hưởng môi trường cho phép được quy định từ các cơ sở khoa học công nghệ môi trường để làm căn cứ trong việc mua tài sản xin thuê.
- Đảm bảo một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin báo cáo nội bộ chính xác. Hệ thống thông tin không thể thông suốt và chính xác khi ngay ở trong nội bộ, sự cung cấp dã sai lệch. Việc cung cấp thông tin nội bộ này phụ thuộc vào sự phân tích của các phòng ban liên quan trong công ty; phải đảm bảo được sự đánh giá toàn diện khi tiếp nhận được thông tin từ bên ngoài, tránh việc xem xét chủ quan phiến diện trên một mặt nào đó.
- Xây dựng một hệ thống lưu trữ những thông tin đã qua xử lý cũng như thông tin mới tiếp nhận một cách khoa học để có thể truy cập khi cần. Hệ thống này cần được cập nhật liên tục và phân loại khoa học theo từng lĩnh vực cũng như từng ngành. Điều này hết sức cần thiết vì khách hàng của công ty không giới hạn trong một ngành kinh doanh nào và những hoạt động của họ liên quan đến thông tin trong rất nhiều lĩnh vực. Để làm được điều này, công ty ngoài việc trang bị một hệ thống máy tính hiện đại cùng những phần mềm chuyên dụng còn phải đào tạo những nhân viên có khả năng quản lý tốt hệ thống đo. Tránh trường hợp làm hỏng hóc dẫn đến thất thoát thông tin.
- Nhân viên tín dụng của công ty thông qua những dự án đã và đang thực hiện sẽ có nhiệm vụ và điều kiện tiếp cận những thông tin mới. Khi đó, những thông tin đó cần được cập nhật và lưu trữ vào hệ thống thông tin của công ty để làm cơ sở tham khảo cho những dự án sau. Việc thu thập thông tin từ những mối quan hệ bạn hàng của người thuê và những đơn vị tín dụng khác cũng là một kênh quan trọng bởi tốn ít chi phí mà chất lượng lại đảm bảo.
3.1.2. Những giải pháp gián tiếp
Ngoài những giải pháp trực tiếp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ thẩm định tài chính dự án, công ty không thể bỏ qua những yếu tố có vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng của công tác thẩm định.
3.1.2.1. Nâng cao trình độ và phẩm chất của nhân viên tín dụng công ty
Nhân viên của công ty là yếu tố đầu tiên cần đề cấp đến. ở đây, ngoài khía cạnh trình độ nhân viên còn phải chú trọng đến phẩm chất của họ.
- Về trình độ của nhân viên tín dụng. Đây là yếu tố quan trọng vì tất cả kết quả thẩm định phần nhiều dựa vào đánh giá chủ quan của người thẩm định, người thẩm định là người lựa chọn những khía cạnh cần xem xét của dự án và là người rút ra kết luận về tính khả thi của dự án. Vì vậy, dù quy trình và phương pháp thẩm định tốt nếu như nhân viên tiến hành thẩm định không đủ trình độ cần thiết.
- Về phẩm chất của nhân viên tín dụng. Khẳng định được phẩm chất tốt của nhân viên thẩm định sẽ tránh được những rủi ro trong quá trình thẩm định dự án xuất phát từ sự không trung thực, kém nhiệt tình của người thẩm định.
Như vậy, để có được đội ngũ nhân viên thẩm định đảm bảo yêu cầu của thời điểm hiện nay, công ty cần chú trọng vào một số giải pháp.
- Một mặt, tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn công tác thẩm định như công ty đã làm trong thời gian đầu đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính, mặt khác tổ chức tuyển chọn những nhân viên trẻ, có chuyên môn từ những trường đào tạo chuyên ngành. Thực hiện việc bổ sung nhân viên có trình độ để tránh tình trạng quá tải tín dụng có thể xảy ra nhưng cũng tránh việc điều chuyển người không đúng chuyên môn vào những vị trí không phù hợp.
- Thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức hỗ trợ có liên quan của nhiều lĩnh vực; rà soát lại những cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, xem xét điều chuyển họ sang cương vị mới.
- Đối với những nhân viên ưu tú trong công ty, cần có chính sách khuyến khích khen thưởng thoả đáng đồng thời nghiêm túc kỉ luật những nhân viên có vi phạm tới quy chế công ty.
- Xây dựng những quy chuẩn về trình độ của nhân viên tín dụng để có thể lựa chọn được người có năng lực đồng thời khuyến khích việc tự đào tạo nâng cao trình độ thông qua việc hỗ trợ học phí, tạo điều kiện về thời gian. Mặt khác, khuyến khích việc nghiên cứu, đề xuất sáng kiến trong công tác thẩm định tài chính dự án.
3.1.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức điều hành
Hiện nay, công ty thực hiện việc quy trách nhiệm về từng nhân viên tín dụng. Điều này có nghĩa là mỗi khi công ty nhận được hồ sơ dự án xin thuê của khách hàng, dự án này sẽ được giao cho 1 nhân viên tín dụng và người này sẽ phải tiến hành độc lập từ việc hướng dẫn làm hồ sơ hợp lệ đến việc thẩm định dự án và giám sát việc thực hiện dự án. Việc này có ưu điểm nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên công ty. Tuy nhiên, việc này cũng có bất lợi vì một nhân viên kinh doanh không thể kiêm quá nhiều công việc và đương nhiên kết quả thẩm định sẽ sơ sài.
Vì vậy, ngoài việc thực hiện phân quyền phán quyết như quy định của ngân hàng nông nghiệp đối với những dự án đầu tư; giải pháp khuyến nghị là công ty nên chuyên môn hoá công tác thẩm định dự án bằng một bộ phận nhân viên riêng. Những nhân viên chuyên trách công việc này phải là những người có phẩm chất cũng như trình độ. Như vậy, thời gian tiến hành thẩm định là đủ ngắn, chi phí thẩm định không quá lớn để có thể thực hiện đồng thời do chuyên trách nên công tác này sẽ được những nhân viên tiến hành kĩ lưỡng.
3.1.2.3. Tăng cường đầu tư trang thiết bị cần thiết
Yêu cầu của xu thế cạnh tranh và ưu thế của thông tin trong cạnh tranh đòi hỏi công ty phải đảm bảo hệ thống máy tính kết nối sẵn có hoạt động có hiệu quả, đòng thời phải nâng cấp để tránh lạc hậu. Tếp tục ứng dụng những phần mềm tin học quản lý, lưu trữ để có thể truy cập khi cần, tính toán số liệu, chỉ tiêu tài chính và đưa vào những chương trình tin học để giảm những công đoạn tính toán thủ công cho những nhân viên thẩm định.
3.2. Những kiến nghị với các cấp hữu quan nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án
3.2.1. Đối với NHNo&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là một đơn vị quản lý trực tiếp của công ty cho thuê tài chính I nên những quyết định về phương hướng hoạt động có ảnh hưởng lớn đến công tác nghiệp vụ của công ty. Vì vậy, để một trong những hoạt động nghiệp vụ đó là việc thẩm định tài chính các dự án xin thuê, ngân hàng nên:
- Xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ về quản lý, lưu trữ những hồ sơ của những khách hàng trước đây để làm căn cứ tham khảo khi cần của những đơn vị trực thuộc trong đó có công ty cho thuê tài chính.
- Quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển loại hình tín dụng mới này, phải dành những ưu đãi để cho thuê tài chính có thể phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Biểu hiện cụ thể là cung ứng một cơ sở vật chất hoàn thiện bao gồm cả trụ sở và trang thiết bị cần thiết; sự điều chuyển nhân viên của ngân hàng sang công ty cho thuê cần phải đảm bảo về năng lực thực sự của họ, tránh việc coi công ty cho thuê như một địa chỉ chính sách để xếp đặt nhân viên.
- Riêng những văn bản và quy chế có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt động của công ty cho thuê tài chính như quy chế về dư nợ mới, chính sách lãi xuất cấp vốn cho công ty từ trung tâm điều hoà… nên có những ưu đãi nhất định để tạo điều kiện cho công ty phát triển.
3.2.2. Đối với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cũng là địa chỉ tin cậy với các công ty cho thuê tài chính trong việc truy nhập mạng thông tin về lịch sử các doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, biến động của doanh nghiệp như sát nhập, giải thể hoặc thay thế lãnh đạo qua trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC). Vì vậy NHNN nên thường xuyên đa dạng thông tin và cập nhật thường xuyên để công tác thẩm định của các đơn vị trực thuộc ngành có thể được hoàn thiện.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ thiết lập một hệ thống chuẩn về công tác thẩm định tài chính dự án trong ngành dọc bao gồm những văn bản hướng dẫn chi tiết quy trình cũng như nội dung thẩm định để các tổ chức tín dụng có thể lấy làm mẫu. Ngân hàng nhà nước cũng đồng thời là người quy định những chính sách về tỷ giá, lãi suất… ảnh hưởng trực tiếp đến những công đoạn tính toán của nghiệp vụ thẩm định vì vậy cần có những điều chỉnh thích hợp.
Về chính sách đối với cán bộ tín dụng trong ngành, ngân hàng nhà nước nên có những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định để nâng cao trình độ và thống nhất về phương pháp và quy trình thẩm định dự án đầu tư.
3.2.3. Kiến nghị của Chính phủ
Như đã nêu trên, việc các công ty cho thuê tài chính vẫn phải hoạt động trực thuộc ngân hàng là một trở ngại cho sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính nói chung và theo đó, hoạt động thẩm định dự án tại những công ty cho thuê này cũng có những vướng mắc. Thiết nghĩ, theo xu thế phát triển mạnh mẽ của loại hình tín dụng này trong những năm gần đây, Chính phủ nên ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ làm hành lang pháp lý cho việc tách hoạt động cho thuê tài chính ra khỏi các ngân hàng thương mại. Việc này sẽ tạo ra một kênh huy động và cấp vốn đầu tư mới hữu hiệu và là một lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng, góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện cho hệ thống tài chính quốc gia. Đến lúc đó, với một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, một hệ thống thông tin đầy đủ cùng một đội ngũ giáo viên có trình độ, hoạt động thẩm định các dự án đầu tư tại các công ty cho thuê tài chính nói chung và công ty cho thuê tài chính 1 nói riêng chắc chắn sẽ được thực hiện tốt hơn.
Mặt khác, Chính phủ cũng cần phải xây dựng một hệ thống chính sách và quy chế đầu tư phù hợp đi kèm với khung pháp luật nghiêm minh, tránh để các cán bộ quan chức của từng địa phương áp dụng một cách tuỳ tiện các quy chế về giấy phép đầu tư cũng như giấy tờ pháp lý. Việc này vừa tạo ra khả năng chống tham nhũng vừa hỗ trợ cho việc thẩm định tính pháp lý của dự án được chính xác, loại bỏ khả năng thông đồng giữa chủ đầu tư với những người có thẩm quyền chứng nhận hồ sơ dự án.
Một khía cạnh nữa cần được Chính phủ xem xét là hệ thống quy chế về môi trường kinh doanh. Việc dành cho các doanh nghiệp nhà nước sự ưu đãi quá lớn đã tạo ra tâm lý thiên lệch khi các nhân viên tín dụng thực hiện thẩm định tài chính các dự án đề xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi thực tế đã chứng tỏ rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước cũng có những dự án kém hiệu quả, hoạt động thua lỗ dẫn đến việc huỷ ngang hợp đồng thuê do không đảm bảo thanh tán tiền thuê đúng hạn.
Về các văn bản luật và dưới luật áp dụng cho những tổ chức tín dụng và những chính sách liên quan như chính sách tỷ giá, lãi suất… cũng cần phải được quan tâm hoàn thiện trong thời gian tới.
Hiện nay, công tác kiểm toán ở Việt Nam đã được một số công ty kiểm toán nhà nước và quốc tế thực hiện nhưng hầu hết là đối với các doanh nghiệp quốc doanh và những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vị thế và tiềm lực lớn. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện một chế độ kiểm toán nghiêm chỉnh. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho nhân viên tín dụng trong việc thẩm định giá trị và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xin thuê qua các số liệu trong báo cáo tài chính. Để chấn chỉnh điều này, ngoài việc áp dụng một hệ thống kế toán đồng bộ, các cơ quan hữu quan thuộc Chính phủ cần phải thanh tra kiểm soát thường xuyên và xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm.
Để đảm bảo những thông tin cần thiết cho quá trình thẩm định tín dụng, các bộ ngành trực thuộc Chính phủ cần phải hệ thống hoá những dữ liệu và thông tin liên quan đến lĩnh vực mình phụ trách và cập nhật lên các tài liệu tạp chi chuyên ngành cũng như mạng máy tính để có thể tham khảo kịp thời. Mặt khác, Chính phủ nên tạo điều kiện khuyến khích những công ty chuyên hoạt động trong lĩnh vực thu thập, tư vấn thông tin về nhiều khía cạnh thị trường, đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn rủi ro… để tạo thêm một kênh cung cấp thông tin trong nền kinh tế.
Kết luận
Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng nước ta đã có những bước chuyển lớn, thu hút được đông đảo lượng tiền dư thừa trong nhân dân nhưng vẫn không đảm bảo được nhu cầu lớn về vốn của công cuộc phát triển đất nước. Nguyên nhân là sự thiếu hoàn thiện trong công tác thẩm định dự án dẫn đến việc ra quyết định cấp tín dụng rất khó khăn. Sự thiếu hiệu quả trong nhiều dự án đầu tư cũng như sự thất thoát lớn vốn đầu tư trong hệ thống ngân hàng những năm qua đã chứng thực điều đó.
Hoạt động cho thuế tài chính mới ra đời tuy có khả năng loại trừ rủi ro lớn hơn hoạt động tín dụng ngân hàng và được xem là một trong những kênh dẫn vốn hiệu quả nhưng cũng không thể không chú trọng công tác thẩm định tài chính dự án. Thực hiện tốt công tác này một mặt tạo đà rất lớn cho sự phát triển riêng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, mặt khác thúc đẩy mạnh hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cho thuê tài chính I - NHNo&PTNT Việt Nam, trên cơ sở những nhận thức về tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc thực hiện công tác này em đã đề xuất một số kiến nghị, giải pháp và hi vọng rằng: trong chừng mực nào đó, những kiến nghị này sẽ được công ty cho thuê tài chính I quan tâm và như vậy sẽ góp phần hoàn thiện từng bước công tác thẩm định dự án tại công ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hồng Minh và sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cán bộ, nhân viên Công ty cho thuê tài chính I để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua - Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản
Nghị định số 64/CP và Nghị định số 16/CP về việc ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam.
Quy chế và các báo cáo tài chính năm 1995-2004 của Công ty cho thuê tài chính I - NHNo & PTNT Việt Nam
Quyết định dự toán vốn đầu tư - Harold Bierman, JR. Seymour Smidt
Một số hồ sơ dự án thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính I
Giáo trình Kinh tế đầu tư - TS. Từ Quang Phương - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt.
Tài liệu tập huấn thẩm định dự án đầu tư - ThS. Lê Kim Thạch.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0142.doc