Thẩm định dự án khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Tình hình thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Lời nói đầu Đầu tư là động lực của phát triển nói chung và của sự phát triển kinh tế nói riêng đối với mọi quốc gia trên thế giới. Từ mục tiêu rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nước trong cuộc chạy đua phát triển kinh tế với xuất phát điểm thấp, nhu cầu đầu tư ở Việt Nam ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là phải đầu tư như thế nào cho có hiệu quả để sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư còn hạ

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thẩm định dự án khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hẹp. Vì vậy, sự đổi mới và thực hiện nghiêm túc lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư vừa là yêu cầu thực tế vừa mang tính cấp bách không chỉ đối với Việt Nam mà đối với tất cả các quốc gia muốn phát triển kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Thẩm định dự án đầu tư là một trong những công cụ hỗ trợ có hiệu lực cho công tác quản lý hoạt động đầu tư. Đặc biệt trong hoạt động Ngân hàng có đặc thù là kinh doanh tiền tệ, sự sống còn của Ngân hàng phụ thuộc vào chất lượng các khoản cho vay hay cụ thể là các dự án đầu tư xin vay. Để đầu tư được vào những dự án đầu tư khả thi có hiệu quả cao thì Ngân hàng cần phải thực hiện công tác thẩm định các dự án xin vay một cách nghiêm túc, khoa học. Trong đó thẩm định khía cạnh tài chính là một mặt cần được coi trọng vì khi dự án không sinh lời về mặt tài chính sẽ dẫn đến không thu hồi hay khó thu hồi được nguồn vốn đã bỏ ra dẫn đến suy giảm nguồn tài chính tiếp theo gây hậu quả nghiêm trọng. Như vậy,công tác thẩm định hay thẩm định tài chính nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư nói chung và trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Nhận thức được điều đó tôi chọn đề tài" Tình hình thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam" là nội dung của chuyên đề thực tập. Đề tài này tập trung nghiên cứu về nội dung thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư trên giác độ của Ngân hàng, đóng vai trò là nhà tài trợ vốn trong các dự án đầu tư, từ đó đề ra những định hướng nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề thực tập trình bày các phần chính sau: Chương I: Lý luận chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Chương III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Những vấn đề trình bày sau đây không tránh khỏi khiếm khuyết và sai sót do thời gian, phạm vi nghiên cứu còn hạn chế. Tôi rất mong được sự góp ý bổ sung để có thể hoàn thiện thêm. Chương I Lý luận chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư I-những vấn đề cơ bản về đầu tư. 1- Khái niệm đầu tư : Khái niệm về đầu tư có thể được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau như: Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực (tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động...) ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Hay nói ngắn gọn hơn đầu tư là việc sử dụng tiền vào mục đích sinh lợi nêú xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế . Như vậy, khái niệm đầu tư sẽ được hiểu là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và các nguồn khác như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... được sử dụng cho hoạt động đầu tư . Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi do đầu tư đem lại có thể phân biệt các loại hoạt động đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển. Đối với hoạt động ngân hàng, một hoạt động có tính đặc thù là kinh doanh tiền tệ, thì vốn vừa có tính chất tiền đề vừa có tính chất quyết định cho sự tăng trưởng của các ngân hàng.Hoạt động đầu tư trong ngân hàng chủ yếu là hoạt động đầu tư tài chính và hỗ trợ đầu tư phát triển, đầu tư thương mại. 2-Vai trò của hoạt đầu tư. 2.1 Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân được thể hiện ở các mặt sau: -Đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và là một hoạt động cơ bản thúc đẩy phát triển nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội. -Đầu tư có tác giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa cac vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tốt đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Đồng thời hình thành nên các ngành sản xuất mới, làm tiền đề cho việc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội. -Đầu tư tạo ra hoặc đưa vào áp dụng công nghệ mới thúc đẩy tăng nâng suất lao động và chất lượng sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân 2.2 Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại.Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật bị hao mòn hư hỏng, để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học-kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng cho nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư . Đối với các cơ sở vô vi lợi (hoạt động không để thu lợ nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại,để duy trì sự hoạt động,ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chí phí thường xuyên .Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư 3-Các đặc điểm của hoạt động đầu tư : Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư và phân biệt hoạt động đầu tư với các hoạt động khác,đồng thời để thấy rõ yêu cầu và nội dung thẩm định dự án chúng ta đi sau phân tích các đặc trưng của hoạt động đầu tư: - Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường là trên phương diện tài chính: Để thực hiện đầu tư trước hết cần có vốn .Vốn là các nguồn lực sinh lợi được thể hiện dưới các hình thức khác nhau và có thể quy đổi về tiền tệ, vì vậy các quyết định đầu tư thường xem xét từ phương diện tài chính (số vốn bỏ ra là bao nhiêu, có khả năng thu hồi vốn không, mức sinh lợi là bao nhiêu...) Trên thực tế, các quyết định đầu tư thường được cân nhắc bởi sự hạn chế về ngân sách (Nhà nước, địa phương, cá nhân) và luôn được xem xét từ những khía cạnh tài chính nói trên. Hiện nay các dự án khả thi về các phương diện khác (kinh tế xã hội ) nhưng không khả thi về phương diện tài chính cũng khó có thể thực hiện. -Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài. Thời gian kể từ khi bắt đầu tư cho đến khi các thành quả của công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng và đem lại lợi ích phải đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xẩy ra. Đặc điểm này ảnh hưởng đến các dự tính (vốn đầu tư, nhân lực....) nên chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố. Chính điều này là một trong những vấn đề quan trọng cần phải tính đến trong nội dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án . - Hoạt động đầu tư là hoạt động luôn có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai. Về một phương diện nào đó đầu tư là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi ích tương lai nên luôn có sự so sách cân nhắc. Nhà đầu tư chỉ mong muốn và chấp nhận đầu tư trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích họ tạm thời phải hy sinh (không tiêu dùng hoặc không đầu tư vào nơi khác ) Những đặc điểm nói trên đặt ra cho người phân tích, đánh giá đầu tư chẳng những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp, cách thức đo lường, đánh giá để có được những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định đầu tư một cách có căn cứ. Vì vậy để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị .Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc lập dự án đầu tư, có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án đã được soạn thảo với chất lượng tốt. II-Tổng quát về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư 1-Dự án đầu tư : 1.1-Khái niệm : Dự án đầu tư có thể được xem xét trên các góc độ sau: -Về mặt hình thức: dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động vcác chi phí theo một kế hoạch để đạt được kết quả và thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. -Xuất phát từ góc độ pháp lý: Dự án đầu tư là một công cụ để sử dụng vốn, vật tư,lao động nhằm tạo ra các kết quả về mặt kinh tế -tài chính trong một thời gian dài . -Theo nghị định 42CP của Chính Phủ: Dự án đầu tư là một tập hộp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về mặt số lượng, cải tiến hoạc nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. - Xét trên giác độ kế hoạch hoá : Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một khu vực đầu tư làm tiền đề cho việc ra các quyết định đầu tư và tài trợ . Tóm lại, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù nhằm đạt tới các mục tiêu mong muốn bằng phương pháp và phương tiện cụ thể trong một khoảng thời gian xác định . 1.2-Nội dung: Một dự án đầu tư gồm bốn phần chính : -Mục tiêu của dự án :Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện dự án mang lại Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án Mục tiêu trực tiếp phải được lượng hoá bằng con số cụ thể và không được đối lập với mục tiêu phát triển. -Các kết quả của dự án là những kết quả cụ thể,có định lượng,được tạo ra từ những hoạt động khác nhau của dự án và các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án.Kêt quả của dự án đầu tư có thể biểu hiện dưới dạng kết quả tài chính, kết quả kinh tế, kết quả xã hội. Thường một dự án đầu tư đồng thời có các biểu hiện kết quả nói trên, chỉ có điều mức độ có khác nhau.Các dự án sản xuất kinh doanh thì kết quả biểu hiện dưới dạng lợi ích tài chính là chủ yếu; các dự án trong lĩnh vực văn hoá xã hội thì kết quả biểu hiện dưới dạng lợi ích xã hội là chủ yếu; các dự án phát triển cơ sở hạ tầng thì lợi ích kinh tế là kết quả chính của dự án. Vì vậy trong quá trình thẩm định dự án cần quan tâm đến những hoạt động trực tiếp tạo ra các kết quả đạt được của dự án . -Các hoạt động của dự án :đó là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định .Những nhiệm vụ và hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án . .Các nguồn lực của dự án (biểu hiện cụ thể của vốn đầu tư):Đó là các nguồn về vật chất,tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần thiết cho dự án. 1.3-Vai trò : Đối với nhà nước và các định chế tài chính, thì dự án đầu tư là cơ sở để thẩm định và ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ cho dự án đó. Đối với chủ đầu tư thì dự án đầu tư là cơ sở để : xin phép được đầu tư (hoặc được ghi vào kế hoạch đầu tư ) và giấy phép hoạt động; xin phép nhập khẩu vật tư,máy móc thiết bị; xin gia nhập các khu chế xuất khu công nghiệp; xin vay vốn của các định chế tài chính trong và ngoài nước; kêu gọi góp vốn hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Các định chế tài chính hay ngân hàng chỉ cho vay đối với các dự án có tính khả thi, có lợi nhuận,..Muốn vậy, ngân hàng sẽ yêu cầu chủ đầu tư nộp cho ngân hàng dự án đầu tư cùng với các hồ sơ cần thiết, ngân hàng sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định dự án để đưa ra những kết luận về tính khả thi của dự án . 2-Tổng quát về thẩm định dự án đầu tư : 2.1-Mục đích, yêu cầu thẩm định dự án tư đầu tư : Trước hết ta hiểu thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của một dự án.Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư . Quá trình thẩm định dự án và lập dự án là hai quá trình độc lập,tách biệt nhưng lại có sự thống nhất liên quan chặt chẽ với nhau. Cụ thể, có sự khác nhau về thời gian tiến hành, về người thực hiện và nói chung có sự khác nhau về nhiệm vụ, quan điểm, tiêu chuẩn xem xét .Tuy vậy hai quá trình này lại thống nhất về nội dung,chỉ tiêu, phương pháp xác định các chỉ tiêu. * Mục đích của thẩm định dự án: Công tác thẩm định có ý nghĩa to lớn trong việc lựa chọn dự án đầu tư có hiệu qủa đem lại lợi ích cho các bên liên quan. Trên quan điểm, cách nhìn nhận riêng và lợi ích khác nhau có được từ việc thực hiện dự án đầu tư các bên liên quan sẽ có những cách tiếp cận thẩm định khác nhau,mục đích khác nhau và kết quả thẩm định sẽ có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi bên. Thẩm định dự án đầu tư tiếp cận từ các phía khác nhau. Dự án đầu tư Chủ dự án Nhà nước Định chế tài chính -Đối với chủ đầu tư :Thẩm định dự án giúp chọn được phương án đầu tư tốt nhất,có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện khả năng tài chính hiện có và quan trọng là đem lại lơị nhuận. Đồng thời họ có thể hạn chế bớt rủi ro khi thực hiện dự án . -Đối với cơ quan quản lý Nhà nước :Việc thẩm định dự án sẽ giúp xem xét tính cần thiết, phù hợp và sự đóng góp của dự án đầu tư với chiến lược,chương trình,kế hoạch phát triển của quốc gia, ngành, địa phương.Từ đó xác định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của xã hội cho dự án đầu tư, cân đối giữa chi phí và lợi ích dự án đầu tư mang lại để cấp giấp phép đầu tư, đồng thời có biện pháp hạn chế, ngăn ngừa tác động xấu của dự án và hỗ trợ dự án trong quá trình thực hiện. -Đối với các định chế tài chính: thì việc xem xét hiệu quả chung của dự án sẽ giúp cho ra quyết định và kế hoạch tài trợ đúng đắn. Là nhà tài trợ quen thuộc và chiếm phần chủ yếu đối với các dự án, các tổ chức ngân hàng quan tâm trước tiên đến các dự án có nhu cầu thu hút vốn và có khả năng tạo ra lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động với nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có đến 80-90% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn vay của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng Vì vậy thẩm định dự án đầu tư là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng . *Từ những khái quát trên ta rút ra sự cần thiết phải tiến hành thẩm định dự án đầu tư : Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn và thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Thật vậy một dự án có liên quan,ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều bên liên quan (Nhà nước,định chế tài chính,chủ đầu tư ...) nên nó cần được xem xét từ nhiều góc độ để thấy được lợi ích thực sự của dự án đem lại cho xã hội và các bên liên quan. Mặt khác một dự án thường do chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của người soạn thảo. Vì vậy để đảm bảo tính khách quan cần phải thẩm định. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp (lợi ích của chủ dự án ) để xem xét các vấn đề của dự án còn các nhà thẩm định có cách nhìn rộng hơn, họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội và cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại. Hơn nữa, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn, không lôgíc, thậm chí có những câu văn -chữ dùng sơ hở có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án sẽ phát hiện và sữa chữa được những sai sót đó. Tóm lại, thẩm định dự án đầu tư nhằm tránh thực hiện đầu tư các dự án không có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư có lợi. 2.2 -Các giai đoạn thực hiện dự án đầu tư và công tác thẩm định trong các giai đoạn đó: Quá trình hình thành và vận hành dự án đầu tư trải qua nhiều bước (giai đoạn) kế tiếp nhau gọi là chu trình dự án. Có nhiều cách xem xét, phân chia liên quan tới quá trình hình thành và quản lý dự án. Để phù hợp với yêu cầu của công tác chuẩn bị đầu tư và các hoạt động chủ yếu trong quá trình hình thành và quản lý vận hành dự án có thể phân chia chu trình dự án theo các giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư Giai đoạn đầu tư Giai đoạn dự án đi vào hoạt động. Công tác thẩm định tiến hành qua các giai đoạn có mức độ khác nhau. Thẩm định trong quá trình ra quyết định đầu tư thường phải thẩm định kết quả nghiên cứu tiền khả thi đối với dự án lớn và thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi-đây là công việc bắt buộc đối với mọi dự án. Mặc dù dự án đã được các cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư nhưng khi vay vốn thì Ngân hàng phải tiến hành thẩm định lại để ra quyết định cho vay. 2.3-Các phương pháp thẩm định dự án : Thẩm tài chính dự án cũng như thẩm định dự án đầu tư nói chung thường được xem xét theo các phương pháp sau: 2.3.1-Phương pháp so sánh các chỉ tiêu: Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế -kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng hoặc đang hoạt động.Các chỉ tiêu thường được so sánh: -Các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư (ở mức trung bình, tiên tiến), căn cứ vào các chỉ tiêu NPV, IRR,....của dự án đầu tư vào loại trung bình tiên tiến. -Các tỉ lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với hướng dẫn, chỉ đạo của nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại. -Các chỉ tiêu trong trường không có dự án và có dự án. Trong việc sử dụng phương pháp này cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để tién hành so sánh phải đực vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và doanh nghiệp, tránh khuynh hướng so sánh máy móc cứng nhắc. 2.3.2-Phương pháp thẩm định theo trình tự: Việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết,từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. -Thẩm định tổng quát:Xem xét tổng quát các nội dung cần thẩm định của dự án qua đó xác định các vấn đề hợp lý hoặc chưa hợp lý cần phải đi sâu phân tích. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án,hiểu rõ qui mô, tầm quan trọng của dự án nhưng khó phát hiện được những sai sót cụ thể của dự án. -Thẩm định chi tiết : Thường được tiến hành sau thẩm định tổng quát,thẩm định chi tiết tiến hành xem xét từng nội dung cụ thể của dự án và đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hoặc cần sửa đổi thêmhay không thể chấp nhận được đối với mỗi dự án. Tuy nhiên tuỳ từng đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án mà mức độ tập trung cho những dự án cơ bản khác nhau. Trong khi thẩm định chi tiết, nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có thể bác bỏ dự án mà không cần thẩm định các chỉ tiêu tiếp sau. 2.3.3-Phương pháp thẩm định dự án dựa trên việc phân tích độ nhạy cảm của dự án: Phương pháp này dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đôí với dự án (vượt chi phí đầu tư, chậm tiến độ thi công, giá chi phí đầu vào tăng, sản lượng thấp,....) sau đó khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoàn vốn của dự án. Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc thường được chọn từ 10%-20% và nên chọn cá yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đén hiệu quả của dự án để xem xét. Nừu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc để đề xuất, kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hoặc hạn chế . Biện pháp này nên được áp dụng đối với các dự án có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng có nhiều thay đổi do khách quan. 3.Nội dung thẩm định dự án : Thẩm định dự án đầu tư nói chung xem xét tổng quát tất cả các mặt định tính và định lượng của dự án đầu tư mà còn phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp đang hoạt động (đối với dự án mở rộng hay đầu tư chiều sâu) hoặc uy tín của nhà đầu tư,.. Các nội dung thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư đánh giá Pháp lý Thị trường Kỹ thuật Tổ chức quản lý Kinh tế xã hội Tài chính -Khía cạnh pháp lý :Hoạt động của dự án liên quan và chịu sự điều chỉnh của hệ thống các luật và văn bản pháp qui liên quan nên để dự án đầu tư có thể thực hiện được thì trước tiên phải xem xét tính hợp lý, hợp lệ của dự án đầu tư và các hoạt động của dự án đầu tư về văn bản thủ tục của hồ sơ trình duyệt, tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư, xem lĩnh vực kinh doanh có phù hợp định hướng không. Một dự án đầu tư không phù hợp về mặt pháp lý thì sẽ bị loại bỏ ngay vì mọi hoạt động phải tuân theo pháp luật. - Khía cạnh thị trường :Thẩm định dự án phải xem xét về mặt cung cầu sản phẩm, khả năng cạnh tranh của dự án, thị trường tiêu thụ,.. và những gì dự án đưa ra có đúng chính xác không.Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô đầu tư,lựa chọn thiết bị,công suất và dự tính khả năng tiêu thụ,.. Đây là khía cạnh quan trọng quyết định sự thành bại của dự án . -Khía cạnh kỹ thuật :Thẩm định về phương diện kỹ thuật phải xem xét lại dự án đầu tư có khả thi về mặt kỹ thuật hay không nghĩa là phải xem việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, giải pháp kỹ thuật,địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án,các giải pháp xử lý môi trường có phù hợp không,.. -Khía cạnh tổ chức quản lý: Đây cũng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm vì hiệu quả của nguồn vốn phụ thuôc nhiều vào ngươì điều hành. Cần xem xét các vấn đề về cách thành lập và sự phân công công việc của bộ máy quản lý, số lượng nhân công càn cho dự án .... -Khía cạnh kinh tế xã hội :Thẩm định kinh tế xã hội là xem xét những nguồn lực xã hội dự án đã sử dụng và đóng góp của dự án cho sự phát triển nền kinh tế,phát triển ngành,địa phương như giải quyết việc làm,thu nhâp,sản phẩm xã hội,...Đồng thỡi xem xét sự phù với định hướng phát triển kinh tế xã hội mà cụ thể ở Viêt Nam là theo định hướng Xã hội chủ nghĩa - Khía cạnh tài chính :Thông qua việc phân tích, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính vá các kế hoạch tài chính để đánh giá hiệu quả tài chính mà dự án đem lại. Các khâu trong thẩm định dự án liên quan chặt chẽ và hỗ trợ lẫnnhau,thông tin thu được sau mỗi giai đoạn thẩm định là cơ sở cần thiết để tiếp tục hay hoàn tất các khía cạnh khác của dự án .Tuy nhiên tuỳ từng loại dự án (dự án công cộng hay sản xuất kinh doanh dịch vụ) mà các khía cạnh của dự án được xem xét kỹ về mặt này hay mặt khác. Ngày nay các ngân hàng hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản cho vay nên ngân hàng quan tâm trước hết là mặt tài chính của dự án để xem xét khả năng trả nợ 3.2-Thẩm định và phân tích các doanh nghiệp đang hoạt động : Hoạt động của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới dự án đầu tư,đặc biệt là những dự án đầu tư mở rộng và chiều sâu. Khả năng hoàn vốn của dự án phụ thuộc một phần vào nguồn tài chính của doanh nghiệp,doanh nghiệp có thể trích một phần lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh khác để bù vào dự án đầu tư .Vì vậy,nếu dự án đầu tư hiệu quả tài chính thấp nhưng giải quyết được nhiều việc làm,bổ sung vào cơ cấu đầu tư cho hợp lý,...thì vẫn có thể được thực hiện Các vấn đề chủ yếu cần quan tâm khi xem xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp : Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp được thể hiện thông qua hồ sơ pháp lý về :quyết định thành lập doanh nghiệp,giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt động,.. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được xem xét căn cứ vào báo cáo kế toán, báo cáo tài chính,báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, phê duyệt quyết toán,... từ đó phân tích các nội dung tài chính chủ yếu sau:Các tỷ lệ tài chính, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, các chỉ tiêu tài chính trung gian. (Chúng ta sẽ xem xét chi tiết ở phần sau) Tình hình quản lý điều hành,uy tín của doanh nghiệp hay chủ đầu tư cũng là một nhân tố quan trọng để xem xét những nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới khả năng thành công của dự án .Ta cần tiến hành thu thập thông tin thông qua những đối tác kinh doanh của doanh nghiệp,các công ty tư vấn,...hay trực tiếp thăm thực tế doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố thể hiện tình hình của doanh nghiệp nhưng ta xét các yếu tố chính như: -Đầu tiên ta phải quan sát văn phòng hay nhà kho và tình hình hoạt động tại nơi này .Đôi khi tiếp xúc trực tiếp với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp đưa đến những nhận xét về tình hình hoạt động của doanh nghiệp . -Người lãnh đạo phải vừa là người quản lý vừa là nhà nhà lãnh đạo nghĩa là anh ta phải biết truyền cảm hứng cho những ngươì xung quanh bằng lời nói và hành động. Nếu một ông chủ biết lãnh đạo công ty thì ông chủ đó có khả năng đối phó trước những tình huống xấu vì vậy giảm bớt rủi ro. Nếu một người lãnh đạo có kinh nghiệm cũng sẽ làm cho người tài trợ tin rằng tăng thêm nợ có nghiã là thêm rủi ro và thêm cả khả năng thu lợi nhuận. -Chiều sâu của bộ máy quản lý,ngay từ khi thẩm định người cán bộ thẩm định phải biết nhận định một cánh chủ quan lớp cán bộ lãnh đạo kế cận ở những lĩnh vực như tài chính, sản xuất, tiêu thụ -Đồng thời chúng ta cũng phải xem xét sự đa dạng về kinh nghiệm của đội ngũ quản lý cũng như nhân viên. Tầm nhìn của người lãnh đạo cũng là một điểm quan trọng để cho ta thấy được khả năng doanh nghiệp tranh thủ những cơ hội mới, dự kiến và phòng tránh những nguy cơ tiềm tàng trước khi chúng phát sinh và trở thành một mối đe doạ thật sự. Tuy chúng ta không có một công thức khoa học nào để đưa ra những kết luận trên nhưng đây là những nhân tố không thể thiếu được trong quá trình đánh giá. Như vậy,khi phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp bên cạnh những chỉ tiêu định lượng cụ thể cũng cần xem xét các yếu tố định tính có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . III-Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư Các dự án đầu tư rất đa dạng với nhiều phạm vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau và các khía cạnh trong quá trình thẩm định dự án đều cần thiết nhưng khía cạnh tài chính luôn tìm ra những con số cụ thể cho ta cái nhìn bao quát tổng thể về hoạt động và kết quả kinh doanh của dự án đầu tư. Thẩm định tài chính dự án đầu tư bao gồm tập hợp các hoạt động xem xét, đánh giá, dự đoán các luồng chi phí tài chính, lợi ích tài chính của dự án. Từ đó xác định giá trị ròng của luồng tài chính này trong điều kiện giá trị đồng tiền thay đổi theo thơì gian.Và cuối cùng đánh giá xem giá trị tài chính ròng đó có thoả đáng so với chi phí đầu tư ban đầukhông. Trong thẩm định dự án đầu tư phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền vì do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau tại những thời điểm khác nhau tiền sẽ có giá trị khác nhau. Bên cạnh đó thẩm định tài chính dự án đầu tư còn tiến hành phân tích tài chính của dự án đầu tư cũng như của doanh nghiệp trong các năm hoạt động để đánh giá tình hình tài chính, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hoạt động của dự án đầu tư trong các năm hoạt động Thẩm định tài chính dự án đầu tư được xem xét trên các nội dung cơ bản sau: 1- Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn. Vốn đầu tư bao gồm vốn cố định và vốn lưu động là chủ yếu,bên cạnh đó còn chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0.3-15%vốn đầu tư. Các khoản mục vốn đầu tư được xem xét chi tiết như sau: *Vốn cố định : -Vốn đầu tư xây lắp:Thường được ước tính trên cở sở khối lượng công tác xây lắp và đơn giá xây lắp tổng hợp (hoặc suất vốn đầu tư). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc xác định nhu cầu xây dựng hợp lý của dự án đầu tư và mức độ hợp lý của suất vốn đầu tư được áp dụng so với kinh nghiệm được đúc kết từ các loại dự án khác hoặc loại công tác xây lắp tương tự. -Vốn đầu tư thiết bị: Căn cứ vào danh mục thiết bị, kiểm tra giá mua và chi phí vận chuyển, bảo quản chạy thử theo các qui định của nhà nước về giá thiết bị và chi phí vận chuyển bảo quản cần thiết. Đối với loại thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ thì vốn đầu tư thiết bị còn bao gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ, mua bí quyết kỹ thuật, đào tạo huấn luyện, chuyên gia lắp đặt vận hành. Cần lưu ý phân biệt khái niệm vốn đầu tư thiết bị với chi phí đầu tư thiết bị là: Chi phí đầu tư thiết bị bao gồm chi phí mua sắm thiết bị +chi phí lắp đặt thiết bị +các chi phí đầu tư chung của dự án phân bổ cho phần đầu tư thiết bị. Chỉ tiêu này dùng để xác định đúng đắn mức vốn khấu hao thiết bị trong chi phí sản xuất. -Vốn kiến thiết cơ bản khác: Các khoản mục chi phí này cần được tính toán kiểm tra theo các quy định hiện hành của Nhà nước. *Vốn lưu động: Vốn lưu động là khoản tiền cần thiết hàng năm để chi phí thường xuyên đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của dự án được thuận lợi. Vốn đầu tư gồm các khoản chủ yếu: Tiền mặt, hàng tồn kho, chênh lệch giữa khoản phải thu và khoản phải trả. *Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư. *Chi phí dự phòng,bắt buộc các dự án đều có, là khoản chi phí phát sinh do biến động thị trường .. Hiện nay khi vay ngân hàng, chi phí trả lãi vay ngân hàng tromg thời gian thi công của các dự án đầu tư xây dựng mới nếu chủ dự án không có nguồn trang trải thường được tính luôn là chi phí đầu tư để khi dự án đi vào hoạt động sản xuất mới hoàn trả. Hiệu quả của vốn đầu tư phụ thuộc vào việc dự toán đúng đắn mức vốn đầu tư của dự án .Thật vậy, vốn đầu tư đủ sẽ giúp dự án đầu tư thực hiện một cách thuận lợi .Thiếu vốn đầu tư sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư cũng như hoạt động vận hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn đ._.ầu tư sẽ gây lãng phí vốn làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Để xác định nhu cầu đầu tư thường sử dụng: bảng tiến độ thực hiện đầu tư theo cộng việc thực hiện hoặc thành phần của vốn đầu tư. Trong phân tích tài chính vốn đầu tư thường được chuyển về mặt bằng tương lai tức là tại thời điểm mà dự án bắt đầu đi vào hoạt động. Còn trong trường hợp đầu tư theo chiều sâu hoặc đầu tư bổ sung được tiến hành xen kẽ trong quá trình sản xuất thì vốn đầu tư được chuyển về mặt bằng hiện tại để tiện cho việc so sánh và tính các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính. Công tác thẩm định cần xem xét lại cách tính từng nguồn vốn đầu tư đã hợp lý chưa và cả tiến độ bỏ vốn của dự án có phù hợp với tiến độ thi công, có đúng lịch trình đã đề ra... Khi một dự án đưa đến ngân hàng xin vay thì dự án đó đã được nhiều cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt và tổng vốn đầu tư đã được xác định .Tuy vậy ngân hàng vẫn xem xét lại đồng thời xây dựng một lịch trình cho vay của mình phù hợp với yêu cầu và tiến độ của dự án. 2.Thẩm tra việc tính toán giá thành, chi phí sản xuất. Dựa vào bảng tính giá thành đơn vị hoặc tổng chi phí hàng năm của dự án ta có chi phí (giá thành )sản xuất, dịch vụ hàng năm bao gồm: -Chi phí vật chất: Nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, sửa chữa thiết bị.. -Chi phí nhân công: lương, phụ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp và các khoản thu nhập của công nhân trực tiếp sản xuất. -Chi phí quản lý: gồm toàn bộ chi phí cho bộ máy quản lý doanh nghiệp . -Chi phí sử dụng vốn: khoản lãi tiền vay. -Chi phí ngoài sản xuất: quảng cáo, lưu thông sản phẩm... Từ đó cán bộ thẩm định đi sâu kiểm tra các vấn đề: -Thứ nhất : Tính đầy đủ của cá yếu tố chi phí giá thành sản phẩm. Đối với các yếu tố giá thành quan trọng cần xem xét sự hợp lý của cá định mức sản xuất, tiêu hao, đơn giá....có so sánh các định mức và các kinh nghiệm từ các dự án đang hoạt động. -Thứ hai:Kiểm tra cách tính và các tỉ lệ khấu hao, phân bổ khấu hao từ giá trị đầu tư trong giá thành sản phẩm phù hợp với quy định và hướng dẫn của Nhà nước. -Thứ ba: Kiểm tra chi phí nhân công trên cơ sở số lượng nhân công cần thiết cho một đơn vị sản phẩmvà số lượng công nhân vận hành dự án. -Thứ tư : Kiểm tra việc tính toán, phân bổ chi phí về lãi vay ngân hàng (Cả ngắn hạn và dài hạn) và giá thành sản phẩm. -Thứ năm: Đối với các chi phí tính bằng tỉ lệ phần trăm, cần kiểm tra bằng chứng từ kinh nghiệm thực tiễn từ các hoạt động sẵn có của chủ dự án. -Thứ sáu: Đối với các loại thuế của Nhà nước được phân bổ vào giá bán sản phẩm thì từng loại hình sản xuất mà có sự phân tích đánh giá. Ví dụ: Đối với các dự án tài nguyên tự khai thác thì tính thêm thuế tài nguyên.... 3.- Thẩm tra về cơ cấu vốn và nguồn vốn. Cơ cấu vốn thường được xác định theo các cách phân loại đầu tư . -Theo công dụng vốn đầu tư gồm vốn xây lắp,vốn thiết bị và vốn kiến thiết cơ bản khác. Thông thường cơ cấu vốn được coi là hợp lý nếu tỉ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn tỉ lệ vốn xây lắp,đối với các dự án đầu tư chiều sâu và mở rộng đạt 60%. Tuy vậy tuỳ theo từng dự án mà áp dụng linh hoạt . -Những dự án có sử dụng ngoại tệ, cần phải kiểm tra cơ cấu vốn bằng nội tệ và ngoại tệ và xác địnhđủ số vốn đầu tư và chi phí sản xuất bằng ngoại tệ của dự án để có cơ sở qui đổi tính toán hiệu quả. Mặt khác, việc phân định rõ các loại chi phí bằng ngoại tệ còn giúp xác định nguồn vốn ngoại tệ thích hợp đáp ứng nhu cầu của dự án. Trên thực tế có nhiều nguồn vốn tài trợ cho dự án nên khi thẩm định phải xác định rõ mức độ đầu tư cần thiết từ từng nguồn vốn dự kiến để có cơ sở tìm hiểu khả năng hiện thực của từng nguồn vốn, đồng thời cũng lấy đó làm căn cứ để xác định mức thuyết phục của dự án. Một dự án có tính thuyết phục cao thường có tỉ lệ huy động vốn bên ngoài trên tổng số vốn đầu tư cân thét cho dự án không quá 50%. Có như vậy trách nhiệm của chủ dự án trong việc sử dụng vốn mới được đề cao và rủi ro trong đầu tư sẽ được hạn chế. Nguồn vốn của dự án thường được hình thành từ các nguồn sau: -Vốn tự có của doanh nghiệp: Cần kiểm tra tình hình tài chính và và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định số vốn doanh nghiệp có thể dành cho dự án đầu tư tại cũng như trong thời gian thực hiện dự án sau khi đã trích ra để trang trải các hoạt động cần thiết. -Vốn trợ cấp của ngân sách Nhà nước: Đối với các dự án được Nhà nước hỗ trợ một phần vốn cần xem xét các cam kết đảm bảo của các cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách (uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, cơ quan tài chính,...) -Vốn vay của Nhà nước và các tổ chức khác: Cần xem xét độ tin cậy về khả năng cho vay của các tổ chức tài chính đã cam kết cho vay. -Vốn vay nước ngoài: Đối với nguồn vốn vay theo phương thức tự vay tự trả cần xem xét việc chấp hành đúng các qui định của Nhà nước về vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp (Nghị định 58 CP ngày 30/08/1992 của Thủ tướng Chính phủ và các thông tư hướng dẫn) và xem xét kỹ khả năng có thể thực hiện được những cam kết với phía nước ngoài. Bên cạnh đó cần chú ý xem xét các điều kiện cho vay về lãi suất (cố định hay thả nổi), các loại phí vay vốn, thời gian vay và thời gian ân hạn, phương thức và kỹ thuật chuyển vốn,...có phù hợp với các điều kiện về pháp lý và kinh tế của dự án không. -Vốn cổ phần liên doanh: Kiểm tra kỹ các cam kết bỏ vốn của các bên tham gia vào dự án và tỉ lệ bỏ vốn có đúng theo qui định chung. Đối ngân hàng khi thực hiện hoạt động cho vay cần xem xét có bao nhiêu nguồn tài trợ cho dự án, khả năng, tính chắc chắn đảm bảo của mỗi nguồn, số vốn vay các nguồn đã cung cấp, xác định số vốn dự án còn thiếu và ngân hàng thường chỉ cho doanh nghiệp số vốn còn thiếu... Bên cạnh đó, vì vốn đầu tư phải được thực hiện theo tiến độ ghi trong dự án, để đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án và để tránh ứ đọng vốn,nên các nguồn vốn tài trợ được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả thời điểm nhận được tài trợ.Sự đảm bảo này phải có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế Ngoài ra khi phân tích cơ cấu nguồn vốn, người ta còn xác định nguồn vốn vay ngắn hạn vá dài hạn. Nếu vốn cố định và vốn lưu động của dự án được hình thành từ nguốn vốn vay ngắn hạn thì hoạt động của dự án sẽ gặp khó khăn trong việc cân đối tiền mặt vì phải trả các khoản vốn gốc lớn hơn và sớm hơn trong lúc các khoản thu của giai đoạn đầu chưa có khả năng trang trải những khoản nợ đó. 4- Thẩm tra và xác định doanh lợi của dự án: Doanh thu và lợi nhuận của dự án được xác định trên cơ sở tổng khối lượng sản phẩm dự kiến đưa vào lưu thông, chi phí sản xuất, giá bán buôn sản phẩm dịch vụ của dự án. Ta cần xác định thống nhất các khái niệm sau: -Tổng sản lượng: Là giá trị của toàn bộ sản phẩm và dịch vụ dự kiến trong năm mà dự ản cỏ thề sản xuất hoặc cung cấp được . -Tổng doanh thu: giả trị sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ được trong năm theo dự kiến . -Lợi nhuận trước thuế : là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản phẩm của các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ . -Lợi nhuận sau thuế : lợi nhuận trước thuế trừ đi phần đóng thuế lợi ích theo tỷ lệ quy định. -Lợi nhuận dành để trả nợ: là phần lợi nhuận sau thuế được trích ra sau khi đã phân bổ vào quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển sản xuất. Để xác định mức doanh lợi của dự án cần xuất phát từ việc xác định được công suất hoạt động thực tế hợp lý trong chương trình sản xuất dự kiến. Đa số các dự án trong những năm đầu hoạt động chỉ đạt 60-80% mức sản xuất của năm dự án đi vào sản xuất ổn định và đạt công suất mong đợi. Do vậy mức doanh lợi của dự án trong thời gian này cũng cần được điều chỉnh tương ứng. Nếu dự án đầu tư là một công đoạn bổ sung cho qui trình sản xuất chung của một xí nghiệp đang hoạt động, sản phẩm của dự án chỉ là sản phẩm trung gian, không phải là sản phẩm cuối cùng thì mức doanh lợi của dự án cần được thể hiện bằng số chênh lệch giữa doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trước khi đầu tư và sau khi đầu tư. Vì thế cần xem xét các yếu tố mà dự án tác động như: tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao năng suất lao động, tận dụng được thiết bị sẵn có,... để từ đó đánh giá đúng mức doanh lợi tăng thêm được tạo ra bởi dự án. 5- Thẩm tra các chỉ tiêu về hiệu quả tài chính của dự án: 5.1-Thẩm định khả năng tự chủ tài chính của các doanh nghiệp : Thông qua việc tính toán các mối quan hệ chiến lược, phân tích tài chính cho biết những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nội dung phân tích tài chính chủ yếu thường được sử dụng hiện nay: *Phân tích các tỉ lệ tài chính: Các chỉ tiêu phản ánh tiềm lực tài chính đảm bảo cho dự án thực hiện được thuận lợi. Vốn tự có -Hệ số --------------- ´100% Vốn vay Theo qui định hệ số này phải lớn hơn hoặc bằng 1 thì mới đảm bảo an toàn cho vốn vay Vốn tự có -Tỉ trọng -----------------------´100% Tổng vốn đầu tư Theo quy định hệ số này phải lớn hơn hoặc bằng 50%. Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính Vốn lưu động -Tỉ lệ ------------------ (Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1) Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động có -Tỉ lệ ------------------------------ Tài sản lưu động nợ (Thông thường tỉ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảokhả thi.) (Lợi nhuận+Khấu hao) từ đầu đời dự án đến thời điểm trả nợ -Tỉ lệ ------------------------------------------------------------------------------- Nợ đến hạn trả ( Nên đảm bảo lớn hơn hoặc bằng 1) Thông thường trong các chỉ tiêu nói trên thì chỉ tiêu thứ tư chỉ áp dụng đối với các dự án của các doanh nghiệp đang hoạt động, các chỉ tiêu còn lại áp dụng cho mọi dự án. *Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn :Xem xét của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thơì điểm lập bảng cân đối kế toán . *Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian: Giá trị gia tăng, tổng lãi kinh doanh, kết quả kinh doanh, kết quả trước thuế, kết quả sau thuế. 5.2-Nhóm chỉ tiêu thu nhập thuần và lợi nhuận thuần: 5.2.1-Lợi nhuận thuần(W) dùng để so sánh giữa các năm hoạt động của dự án -Lợi nhuận thuần từng năm: Wi=Oi-Ci Oi là toàn bộ chi phí của năm thứ i Ci là toàn bộ chi phí của năm thứ i -Tổng lợi nhuận của cả đời dự án để so sánh qui mô lợi ích giữa các dự án. Để tính tổng lợi nhuận của cả đời dự án thì chúng ta phải tính tổng lợi nhuận thuần năm hàng năm về cùng một mặt bằng thời gian.Thông thường tổng lợi nhuận được chuyển về mặt bằng hiện tại Ngoài ra còn có thể sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận thuần bình quân. 5.2.2-Chỉ tiêu thu nhập thuần: Thường tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc tương lai hay tính mức thu nhập thuần đều đặn hàng năm.Sau đay ta xét thu nhập thuần tính về mặt bằng hiện tại (đầu thời kỳ phân tích)-ký hiệu NPV. 1 1 NPV = ồthui------- - ồ chii ---------- (1+r)i (1+r)i Thông thường r là mức lãi suất thực sự chi phí cho dự án . Sử dụng: -Chỉ chấp nhận các dự án đầu tư có NPV > 0 -Trong khả năng giới hạn ngân sách, nếu có nhiều dự án đầu tư khác nhau thì chọn các dự án có tổng NPV max.Với điều kiện tổng vốn đàu tư của các dự án lựa chọn <= khả năng ngân sách. -Các dự án loại trừ nhau thì chọn dự án có NPV max. Hạn chế : - Chỉ tiêu này không áp dụng được cho các dự án có thời hạn khác nhau và có tổng vốn đầu tư khác nhau do đó muốn so sánh thì phải tính chuyển đổi NPV. -Chỉ tiêu này không thấy được giá trị lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư nên ra thường sử dụng tỉ lệ giá trị hiện tại ròng : NPV PVR = --------- (IV0 là tổng vốn đầu tư tại thời điểm ban đầu.) ồ IV0 -Phụ thuộc vào cách lựa chọn lãi suất chiết khấu r. 5.3- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: 5.3.1-Số vòng quay của vốn lưu động(L) : áp dụng cho những dự án có chu kỳ sản xuất nhỏ hơn 1năm. Số vòng quay này phản ánh số lần quay vòng của vốn lưu động . Ta có thể tính cho từng năm hoặc số bình quân, thông thường xét chỉ số sau: Li= Oi\ Wc Oi :Doanh thu thuần bình quân năm trong thời kỳ nghiên cứu. Wc: Lợi nhuận bình quân năm trong thời kỳ nghiên cứu. 5.3.2-Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (re) : Phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn tự có. Tỉ lệ này càng cao càng tốt. re=Wi \ Ei với Ei là vốn tự có bình quân. 5.3.3-Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (RR): RR=W \ Iv0 hoặc RR=(W+D)\ Ivo Tỷ lệ này phải cao hơn lãi suất dài hạn ở ngân hàng mới có hiệu quả 5.3.4- Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn: Thời gian hoàn vốn là thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.thường ưu tiên cho dự án có thời gian hoàn vốn ngắn nếu các yếu tố khác như nhau. Ta có các cách tính sau: -Theo tình hình hoạt động động từng năm: Ti=Ivo\ (W+D)i -Theo tình hình hoạt động bình quân: T=Iv0 \ (W+D) pv -Theo phương pháp cộng dồn: ồ(W+D)ipv tiến tới lớn hơn hoặt bằng Ivo Phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp dự án được vay dài hạn chưa phải trả nợ ngay. -Theo phương pháp trừ dần:Ivo -(W+D)t -Tiến tới nhỏ hơn hoặc bằng 0 Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp dự án phải trả nợ ngay khi bắt đầu đi vào hoạt động . 5.3.5-Hệ số hoàn vốn nội bộ(IRR): IRR đo lường tỉ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án và nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu thì NPV= 0. -Cách tính: (Bi- Ci) NPV= ồ -------------- = 0 (1+IRR)i Cách tính phổ biến là dùng phương pháp nội suy như sau: NPV (r1) IRR=r1+ -------------------------(r2-r1) NPV(r1 )-NPV(r2) trong đó : r1 là lãi suất ứng với NPV(r1)> 0 và gần 0 r2 là lãi suất ứng với NPV(r2) > 0 và gần 0 - với 0< r2-r1<=5% -Sử dụng:+Đối với các phương án độc lập chọn dự án có IRR ³ IRRđm. IRRđm có thể là chi phí vốn, lãi suất vay vốn thực tế,lãi suất vay vốn giới hạn. +Nếu lựa chọn nhiều dự án loại trừ nhau thì chọn dự án có IRRmax -Nhược: +Không xác định được IRR trong trường hợp biến dạng dòng tiền thay đổi nhiều lần từ âm sang dương hoặc ngược lại vì sẽ có rất nhiều lời giải cho bài toán khi tính IRR. +Khi sử dụng để lựa chọn các dự án thay thế có quy mô, thời gian ,thời điểm đầu tư khác nhau có thể dẫn đến những lựa chọn sai lầm do không đề cập đến độ lớn, quy mô của dự án đầu tư và không giả định đúng tỉ lệ tái đầu tư . -Ưu điểm: IRR biểu thị sự hoàn trả vốn đã được đầu tư nên nó chỉ ra tỉ lệ suất tối đa dự án đầu tư có thể chấp nhận đựơc nên cung cấp thông tin hữu hiệu cho nhà tài trợ, nhà đầu tư khi xác định giá cá khoản vay. 5.3.6-Điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm tại đó tổng doanh thu bán hàng bằng tổng chi phí khả biến từ đầu dự án đến thời điểm đó và tổng định phí cả đời dự án. Điểm hoà vốn có thể là số sản phẩm bán được từ đầu thời điểm đến điểm hoà vốn về mặt hiện vật hay là doanh thu do bán sản phẩm được đến điểm hoà vốn về mặt giá trị. -Điểm hoà vốn lý thuyết được xác định như sau: f x -------- p -v Với x là số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn. f là tổng định phí cả đời dự án p là giá bình quân một đơn vị sản phẩm. v là biến phí một đơn vị sản phẩm. X là số lượng sản xuất cả đời dự án . -Mức độ hoạt động hoà vốn: x / X * 100 (chỉ tiêu này càng bé càng tốt.) -Lề an toàn cho sản xuất ra sản phẩm: 100% - x/ X *100% (chỉ tiêu này càng lớn càng tốt) Ngoài ra ta có thể sử dụng phương pháp đồ thị để xác định điểm hoà vốn. 5.4- Phân tích độ nhạy cảm của dự án đầu tư : Môi trường xung quanh thường xuyên biến động tác động tới dự án đầu tư trên nhiều mặt, nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy khi xem xét dự án đầu tư ngoài cách xem xét các chỉ tiêu ở trạng thái tĩnh, cần phải đặt dự án đầu tư vào một trạng thái động trong xu thế biến động của các nhân tố bên ngoài để có một cách đánh giá khách quan toàn diện hơn về dự án đầu tư. Để xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của dự án khi các yếu tố liên quan đến các chỉ tiêu đó thay đổi có thể thực hiện theo hai phương pháp sau: -Phương pháp 1: Phân tích độ nhạy dự án theo hiệu quả tài chính với từng yếu tố có liên quan nhằm tìm ra yếu tố gây nên sự nhạy cảm lớn của chỉ tiêu và có biện pháp quản lý chúng trong quá trình thực hiện dự án. Bao gồm các bước sau: -Xác định những biến chủ yếu của chỉ tiêu hiệu quả tài chính cần quan tâm của dự án -Tăng giảm mỗi yếu tố theo từng tỉ lệ nào đó. -Đo lường tỷ lệ % thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả tài chính do sự thay đổi của các yếu tố. -Chia tỷ lệ %thay đổi của hiệu quả tài chính cho tỷ lệ thay đổi của mỗi yếu tố ta có chỉ số nhạy cảm của yếu tố đó. Chỉ số nhạy cảm của yếu tố nào lớn là dự án nhạy cảm với yếu tố đó. Yếu tố này cần được nghiên cứu và quản lý nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy các tác động tích cực đến sự thay đổi nhiều của chỉ tiêu hiệu quả tài chính. -Phương pháp 2: Cho các yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi trong giới hạn thị trường, người đầu tư và người quản lý dự án chấp nhận được. Mỗi sự thay đổi ta có một phương án, căn cứ vào điều kiện cụ thể của thị trường, của người đầu tư hoặc quản lý dự án để chọn phương án có lợi. Thông thường để xem xét độ nhạy người ta thường tính toán sự thay đổi của các chỉ tiêu NPV, IRR khi có sự biến đổi của một số nhân tố: giá bán sản phẩm, giá đầu vào, vốn đầu tư,... 5.5-Phân tích khả năng và rủi ro: Sản xuất kinh doanh và hoạt động đầu tư chịu tác động của nhiều yếu tố rủi ro như :sự thay đổi của cơ chế chính sách, biến động của thị trường và môi trường kinh doanh, thiên tai, chiến tranh,...Vì vậy khi tiến hành thẩm định cần xem xét các yếu tố rủi ro có thể xảy ra từ đó có biện pháp phòng ngừa rủi ro đồng thời dự kiến mức độ cần đạt của hoạt động sản xuất kinh doanh khi điều kiện thuận lợi để bù lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Ta xét hai phương pháp thường được áp dụng khi tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án sau: -Phương pháp toán xác suất: cho phép lượng hoá những biến số ở tương lai trong điều kiện bất định của các biến cố. Ta gọi qi là xác xuất của biến cố i ;pi là giá trị của biến cố i ;ồqi =1 hay 100% thì kỳ vọng toán (ký hiệu EV ) là: EV= ồ qi.pi EV có thể được hiểu là thế cân bằng tin cậy hoặc mức độ trung bình của giá trị biến cố. - Phươ ng pháp tính tỉ suất chiết khấu có điều chỉnh theo độ rủi ro: Tổng lợi nhuận của cả đời dự án, lợi nhuận bìmh quân năm, thời hạn thu hồi vốn đầu tư, hệ số hoàn vốn và hệ số hoàn vốn nội bộ. Hệ số chiết khấu được tính: rđm rda= -----------------´100% 100 - q Trong đó: rda là chỉ số chiết khấu của dự án; rđm là tỉ suất chiết khấu định mức và q% là xác suất rủi ro. 5.6-Phân tích khả năng trả nợ của dự án : Hiện nay thời hạn trả nợ từ dự án thường được tính theo công thức sau: Tổng số vốn vay TTN = ------------------------------------------------------------------------------- (KHCB hàng năm +LN dành trả nợ từ dự án )*tỷ lệ vốn vay trong Ivo Trong nhiều trường hợp khả năng trả nợ từ dự án và khả năng trả nợ của doanh nghiệp không thống nhất với nhau.Nếu chủ dự án không có nguồn trả lãi vay hàng năm thì trong công thức trên tổng số vốn vay được cộng thêm lãi vay phát sinh theo diễn biến của dự án vay dự kiến. Trong trường hợp dự án dành thêm một phần tích luỹ của mình (Khấu hao cơ bản từ tài sản được đầu tư bằng vốn của doanh nghiệp tích luỹ từ hoạt động kinh doanh khác, vốn khấu hao sửa chữa lớn chưa cần sử dụng,..) để trả nợ thì mẫu số của công thức trên được bổ sung phần vốn này để trả nợ của doanh nghiệp . Chương hai Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. I.Vài nét chung về quá trình phát triển và hoạt động đầu tư của -Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(viết tắt là NHĐTPT ) có tên gọi bằng tiếng Anh là: Bank for investment and development of Viet Nam. (Viết tắt là BIDV) Tên giao dịch quốc tế: VIETIDEBANK Trải qua hơn 41 năm phát triển và trưởng thành NHĐTPT đã đóng góp rất nhiều vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Hoạt động của NHĐTPT gắn với sự chuyển mình của đất nước và đã được đổi tên gọi cho phù hợp tính chất hoạt động như sau: -Ngân hàng kiến thiết Việt Nam(1957-1981) thành lập theo Nghị định số 177-Ttg của thủ tướng Chính phủ ngày 26/04/1957. -Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam(1981-1990) theo Quyết định số 259 CT ngày 14/6/1981. -Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (1990 đến nay) theo Quyết định 410 CP ngày 14/11/1990 Trong thời kỳ bao cấp (1957-1987) nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ cấp phát không hoàn trả cho các chương trình dự án đã được bố trí vào kế hoạch đầu tư cơ bản hàng năm của Nhà Nước .Trong giai đoạn này, xét về bản chất Ngân hàng chỉ đơn thuần là một cơ quan cấp phát vốn cho Nhà nước . Bắt đầu từ năm 1990, cùng với sự thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển nói riêng đã bước sang một giai đoạn hoạt động mới sau khi có hai Pháp lệnh ngân hàng. Ngân hàng Đầu tư & Phát triển đã được Nhà nước sắp xếp lại trở thành một ngân hàng đa năng tổng hợp, thực hiện chế độ hoạch toán kinh doanh độc lập. Đặc biệt từ năm 1995, theo quyết định 287QĐ/HN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước NHĐTPT được tổ chức lại theo mô hình Tổng công ty nhà nước được quy định tại Quyết định 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo mô hình này, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển là một doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, bao gồm các đơn vị thành viên gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ khác. Với nhiệm vụ mới Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam thực hiện cho vay đối với các chương trình, dự án sản xuất kinh doanh có thu hồi vốn và có hiệu quả kinh tế, theo cơ chế vay trả tín dụng, thu hẹp đối tượng cấp phát đầu tư từ ngân sách Nhà nước . Trách nhiệm của Ngân hàng tăng lên cùng với nhiều khó khăn, thử thách trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt nhưng Ngân hàng vẫn đứng vững trên thị trường và đạt được kết quả tăng trưởng cao, quy mô ngày càng mở rộng. Đến nay Ngân hàng đã có mạng lưới 102 chi nhánh trên toàn quốc với đội ngũ chuyên gia thẩm định dự án giàu kinh nghiệm, có quan hệ đại lý, thanh tóan, bảo lãnh với 500 Ngân hàng Nước ngoài. Ngân hàng còn là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam và giữ vai trò chủ đạo trong tín dụng phục vụ đầu tư phát triển. Hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam liên tục phát triển, hoàn thiện góp phần thúc đẩy lạm phát, ổn định tiền tệ, phục vụ có hiệu quả cho công cuộc xây dựng đất nước đặt biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Cùng với sự phát triển của hoạt động Ngân hàng và để đáp ứng yêu cầu hoạt động giao dịch ngày càng tăng ngày 28/3/1991 Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam ký quyết định thành lập số 76 QĐ/TCCB thành lập Sở giao dịch I. Sở giao dịch I là một doanh nghiệp nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, đại diện cho Ngân hàng giao dịch với tất cả khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Sở giao dịch I hoạt động đối ngoại như một chi nhánh lớn và đối nội như phòng ban của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Thành lập sau khi pháp lệnh Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã ra đời, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam đã hoạt động theo cơ chế mới, Sở giao dịch I bước vào hoạt động ngay như một Ngân hàng thương mại. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng qua 8 năm hoạt động dưới sự chỉ đạo kịp thời, có hiệu quả của Ngân hàng Trung ương cùng với địa bàn thuận lợi Sở giao dịch I đã không ngừng trưởng thành cả về quy mô và chất lượng. Hiện nay Sở giao dịch I là chi nhánh lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam và là một trong 10 chi nhánh dẫn đầu toàn quốc trong mọi lĩnh vực công tác. Từ năm 1995 cùng với toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, Sở giao dịch I đã chuyển sang kinh doanh đa năng tổng hợp các dịch vụ Ngân hàng, phi Ngân hàng và kinh doanh độc lập. Sở giao dịch I thực hiện mọi nghiệp vụ và là nơi thử nghiệm đầu tiên những cơ chế chính sách, nghiệp vụ mới của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, là cánh tay nối dài của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển đến các thành phần kinh tế. Sở giao dịch I cũng thay đổi nhiệm vụ cơ bản của mình từ phục vụ chủ yếu cho cấp phát nguồn vốn ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản sang cho vay đầu tư xây dựng cơ bản. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch I cũng luôn được đổi mới cho phù hợp với quy mô hoạt động. Trước năm 1999 Sở giao dịch I có trụ sở đặt tại 194 Trần Quang Khải và chỉ gồm ba phòng ban: Phòng tín dụng và kinh doanh, phòng kế toán kho quỹ, phòng huy động vốn với tổng số cán bộ khoảng 53 người. Từ đầu năm 1999 Sở giao dịch I chuyển sang địa điểm mới tại 53 Quang Trung và bổ sung thêm các nghiệp vụ đầy đủ như một chi nhánh lớn. Hiện nay Sở giao dịch I có tổng số nhân viên khoảng 90 người và gồm 9 phòng ban: 1. Phòng nguồn vốn kinh doanh và thẩm định 6.Phòng điện toán . 7.Phòng kiểm soát nội bộ. 2.Phòng quản lý khách khách hàng. 8.Phòng tổ chức hành chính và kho quỹ. 3.Phòng tín dụng. 9.Bộ phận giao dịch số 1 4.Phòng kế toán tài chính. .Bộ phận nghiệp vụ. 5.Phòng thanh toán quốc tế. .Quỹ tiết kiệm số 1,2,3. Tuy thời gian hoạt động chưa dài, trong điều kiện nền kinh tế chung Sở giao dịch I đã vượt lên khó khăn thử thách, nắm bắt thời cơ thuận lợi, phát huy nội lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đạt được những kết quả đáng kể. Hiện nay Sở giao dịch I đang quản lý và thực thi một khối lượng công việc bằng 1/6 của toàn bộ hệ thống và được xếp hạng là một trong 10 chi nhánh dẫn đầu toàn quốc trong mọi lĩnh vực công tác. Quy mô hoạt động và chất lượng các hoạt động của Sở giao dịch I không ngừng tăng trưởng. Từ khi thành lập, dư nợ cho vay chỉ đạt từ 40-50 tỷ VNĐ, đến cuối năm 1997 đã có dư nợ trên 1500 tỷ VNĐ, cao nhất trong toàn ngành, trong đó dư nợ trung dài hạn đạt từ 80-90%. Đến nay, tổng dư nợ lên tới gần 4000 tỷ VNĐ (riêng công trình thủy điện YALY có tổng vốn 1500tỷ VNĐ). Lợi nhuận năm 1998 của Sở giao dịch I tăng 6 lần so với năm 1997 đạt 59 tỷ VNĐ. II- Tình hình hoạt động đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam: 1- Tình hình thực hiện vốn đầu tư: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam có chức năng huy động vốn trung-dài hạn và ngắn hạn từ mọi nguồn vốn trong, ngoài nước của các tổ chức kinh tế-xã hội và dân cư thuộc các thành phần kinh tế để cho vay phục vụ đầu tư phát triển kinh tế. Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam cũng làm đại lý và được uỷ thác phục vụ đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, các nguồn vốn khác của Chính Phủ và các Ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng, các tổ chức kinh tế-xã hội, cá nhân trong và ngoài nước. Qua 42 năm hoạt động đặt biệt là từ năm 1991 trở lại đây tổng nguồn vốn của toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam tăng trưởng liên tục, nhanh chóng. Cho đến 31/12/1998 tổng nguồn vốn tại Ngân hàng là 29.000 tỷ VNĐ gấp hơn 20 lần năm 1990, tăng 24% so với năm 1997. Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng trước đây chủ yếu là vốn ngân sách Nhà nước thì nay vốn Ngân hàng tự huy động chiếm phần chủ yếu. Sở giao dịch I hoạt động như một chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam nhưng trên thực tế là một bộ phận trực tiếp kinh doanh trực thuộc Ngân hàng Trung ương. Do vậy, nguồn vốn của Sở giao dịch I gồm hai bộ phận chính: Vốn huy động tại chỗ (huy động từ tổ chức kinh tế, dân cư,..); Vốn do Trung ương điều chuyển về là vốn đảm bảo cho những công trình dự án được ghi kế hoạch hay chỉ định của Nhà nước, hoặc nguồn vốn tài trợ uỷ thác của nước ngoài. Xác định, muốn kinh doanh phải tạo được nguồn vốn đủ mạnh với cơ cấu hợp lý nên công tác huy động vốn đã được nhận thức là công tác quan trọng có tính chất mở đường cho các hoạt động phục vụ kinh doanh của Sở giao dịch I. Trong những năm qua Sở giao dịch I luôn là chi nhánh dẫn đầu trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển về vốn huy động. Đến nay Sở giao dịch I đã tự lo được nguồn vốn hoạt động và bổ sung thêm một phần cho hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển. Kết quả cụ thể của công tác huy động vốn được thể hiện như biểu 1. Từ số liệu ở biểu 1 ta thấy tổng nguồn vốn của Sở giao dịch I đã không ngừng tăng lên: nguồn vốn năm 1996 tăng 44,8% so với năm 1995; năm 1997 tăng 70,2% so với năm 1996 và năm 1998 tăng 83,3% so với năm 1997. Trong cơ cấu vốn cũng có những thay đổi tích cực, tỉ trọng nguồn vốn Sở giao dịch I tự huy động theo chiều hướng tăng lên và nguồn vốn Trung ương điều chuyển ngày càng giảm. Năm 1995 Trung ương điều chuyển nguồn vốn chiếm 46,36% ; năm 1996 giảm xuống còn 44,36% ; tới năm 1997 và 1998 tỉ trọng này giảm hẳn chỉ còn 28,13% và 26,71% trong tổng nguồn vốn. Phần vốn hỗ trợ cho vay trung và dài hạn đối với Sở giao dịch I giảm dần làm cho khối lượng vốn Trung ương điều chuyển giảm xuống, chiếm tỉ trọng bé trong cơ cấu nguồn vốn của Sở giao dịch I. Điều này cho thấy khả năng ngày càng cao của Sở giao dịch I trong việc tự bảo đảm nguồn vốn huy động, tăng cường sự tự chủ, độc lập, giảm bớt gánh nặng, tạo điều kiện cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Trung ương có nhiều vốn để điều hoà về các chi nhánh còn khó khăn. Nguồn vốn tự huy động tăng lên chủ yếu tập trung vào nguồn huy động dân cư có tỉ lệ tăng trưởng năm 1996 là 53,3% so với năm 1995; năm 1997 tăng 1163% so với 1996; và 1998 tăng 94,84% so với 1997. Nguồn vốn huy động dân cư tăng nhanh do từ năm 1995 Sở giao dịch I đã được phép huy động nguồn vốn dưới mọi kỳ hạn và các hình thức huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các thành phần dân cư, tổ chức kinh tế đã được tổ chức tốt, bám sát tâm lý người gửi tiền. Đặc biệt các đợt huy động trái phiếu, kỳ phiếu cũng được tổ chức tốt . Bằng cách tiếp xúc trực tiếp với đơn vị, duy trì các khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch I tiền gửi các tổ chức kinh tế năm 1998 tăng lên gần 3,3 lần so với năm 1995. Như vậy, công tác huy động vốn của Sở giao dịch I đã thật sự tăng trưởng với nguồn tiền tương đối ổn định. Sở giao dịch I đã và đang thể hiện vai trò đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, cụ thể trong công tác huy động vốn là một đầu mối gi._.ị thi công, thiết bị chuyên dùng,đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của dự án. Đồng thời, cùng với Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Trung ương Sở giao dịch I quán triệt và thực hiện có hiệu quả ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính Phủ Phan Văn Khải trong hội nghị 6 tháng đầu năm 1997 của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay của Ngân hàng phục vụ sản xuất cần giảỉ quyết có trọng tâm, trọng điểm và theo 3tiêu chuẩn: -Làm ăn có hiệu quả, có lãi. -Sản phẩm tiêu thụ được. -Doanh nghiệp có thể nộp nghĩa vụ với ngân sách. Kiên quyết từ chối những dự án, khoản vay không có hiệu quả, không đủ điều kiện trả nợ gốc và lãi vay Ngân hàng . Sở giao dịch I cũng luôn thực hiện theo khẩu hiệu 3 tốt, 5 phân tích và 3 kiểm tra trong hoạt động tín dụng : 3 tốt: +Tìm doanh nghiệp, khách hàng tốt để cho vay(Khách hàng tốt) +Tìm khoản vay tốt, dự án tốt để cho vay(Khoản vay tốt) +Điều kiện đảm bảo nợ vay tốt (Đảm bảo nợ vay tốt) 5 phân tích: +Phân tích khách hàng. +Phân tích tài chính khách hàng. +Phân tích dự án khoản vay. +Phân tích điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng. 3 kiểm tra: +Kiểm tra trước khi quyết định cho vay. +Kiểm tra trong quá trình giải ngân và phát tiền vay. +Kiểm tra thu nợ, lãi, nợ quá hạn. Như vậy công tác thẩm định dự án đầu tư là một trong những nhân tố quyết định trong phương hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển và Sở giao dịch I. Muốn vậy phải có mục tiêu, phương hướng cụ thể để nâng cao chất lượng thẩm định dự án và thẩm định tài chính dự án nói riêng.Với phương châm "An toàn trong tăng trưởng" và "Lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu trong mọi hoạt động của mình", công tác thẩm định dự án tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt mục đích sau: 1. Tham gia ý kiến với Nhà nước và chủ đầu tư để có quyết định chủ trương đầu tư đúng đắn, có cơ sở đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư . 2.Phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp đảm bảo tính khả thi cao cho việc triển khai thực hiện dự án ; khắc phục hoặc hạn chế các yếu tố gây rủi ro. 3.Tạo các căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm được vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư dự án. 4.Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư và khả năng hoàn vốn của dự án; và quan trọng hơn cả là xác định được khả năng trả nợ của chủ đầu tư. 5. Rút ra kinh nghiệm và bài học để phục vụ tốt các yêu cầu nghiệp vụchung của ngành. Để đạt được mục đích trên, trong công tác thẩm định đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thẩm định giàu kinh nghiệm và có kiến thức rộng - đây là thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển cũng như của Sở giao dịch I, cùng với sự áp dụng công nghệ thông tin,...và trước tiên phải hoạt động theo một định hướng cụ thể.Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I hay nói rộng hơn là tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển trong thời gian tới hoạt động theo định hướng sau: -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét thẩm định. -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng phải xuất phát từ tình hình thực tiễn cuả ngành và nhằm phục vụ công tác tín dụng đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống, tới các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau. Trong đó phải có bộ phận chủ lực nòng cốt là những chuyên gia am hiểu về nhiều lĩnh vực. Như vậy công tác thẩm định phải vừa toàn diện vừa có trọng tâm. -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện đối với tất cả dự án xin vay, trong cả quá trình cho vay từ khi xem xét dự án đến khi phát vốn và thu nợ, lãi. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được qui trình hoá, công nghệ hoá sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ của Ngân hàng. -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải đựơc xây dựng trở thành một hoạt động đặc thù của Ngân hàng và luôn được duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh, cạnh tranh. Do đó phải thường xuyên được tổng kết thực tiễn rút ra kinh nghiệm để hoàn thiện và phát triển. -Ban lãnh đạo luôn phải theo dõi sâu sát công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư để có những biện pháp tổ chức chỉ đaọ diều hành cụ thể, phát huy vai trò tham mưu có hiệu quả. -Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, sáng tạo, khả năng tổng hợp, phân tích, qui nạp, và năng lực tổng kết thực tiễn,.. Đảm bảo thực hiện được những chiến lược chung và những định hướng về hoạt động tín dụng đầu tư phát triển đã đặt ra, Sở giao dịch I cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp khác nhau. Trong đó, công tác thẩm định tài chính là nền tảng, và điều kiện cơ bản để đạt được hiệu quả kinh doanh trong hoạt động tín dụng đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Trong điều kiện chung của đất nước, của ngành Ngân hàng và Sở giao dịch I hiện nay để có thể tồn tại, phát triển và hội nhập thì hơn lúc nào hết công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được đặt đúng vị trí, phải có sự chỉ đạo chặt chẽ, có cơ chế và qui trình công nghệ một cách toàn diện, đồ bộ với các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể trong hoạt động của Sở giao dịch I. II-Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính tại Sở giao dịch I : Mặc dù trải qua nhiều biến động nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn đang trên đà tăng trưởng với nhu cầu vốn đầu tư lớn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.Theo dự báo của các nhà kinh tế trong giai đoạn 1996-2000 nhu cầu vốn đầu tư khoảng trên 40 tỷ USD trong đó vốn đầu tư trong nước chiếm 50%. Sở giao dịch I lại là một chi nhánh lớn nhất có nhiệm vụ chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, là Ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Tuy vậy nguồn vốn thu hút còn hạn hẹp nên bên cạnh việc tăng cường huy động vốn việc sử dụng vốn đầu tư sao cho có hiệu quả là một trong những nhân tố quyết định để đáp ứng đủ nhu cầu cho vay. Điều này phụ thuộc một phần vào công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Vì vậy, cần phải hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I từ đó nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Muốn vậy phải sự hợp tác của các cấp, các ngành liên quan từ Trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp, chủ đầu tư,.. 1-Đối với Nhà nước: 1.1-Cần thiết lập một hệ thống chính sách vĩ mô đầy đủ, đồng bộ và hợp lý đi đôi với khung pháp luật hoạt động hiệu quả. Hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại,..cụ thể trong lĩnh vực đầu tư nhiều khi là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến thất bại của các dự án đầu tư nói chung và trong công tác thẩm định cho vay của Ngân hàng. Các văn bản quy chế chồng chéo, cũng như việc áp dụng tuỳ tiện không những tạo cơ hội tham nhũng làm cho dự án đầu tư được thẩm định thiếu khách quan, mà còn gây trở ngại cho công tác thẩm định ở các cấp nên khi dự án được gửi tới Ngân hàng để vay vốn sẽ mất nhiều công sức và thời gian. Trên danh nghĩa các thành phần kinh tế được bình đẳng nhưng trên thực tế các doanh nghiệp Nhà nước vẫn được hưởng ưu đãi, doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài không bị phân biệt đối xử.Điều này làm cho doanh nghiệp Nhà nước ỉ lại, không chịu nỗ lực vươn lên và đôi khi Nhà nước phải gánh chịu những khoản nợ của doanh nghiệp. Mặt khác Ngân hàng cũng phải ưu tiên thành phần kinh tế này nên nhiều khi bỏ qua những dự án có hiệu quả của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nên nguồn vốn sử dụng lãng phí, không có hiệu quả. Chính sách lãi suất của Nhà nước quy định về cho vay cũng chưa hợp lý.Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn tiền gửi có kỳ hạn mà khi cho vay lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn, thời hạn càng dài lãi suất càng thấp. Cơ chế này tạo cho doanh nghiệp tư tưởng ỷ lại, không tự khai thác tối đa nguồn vốn tự có của mình vào đầu tư xây dựng vật chất kỹ thuật và nhiều khi doanh nghiệp tìm cách tính toán để lập đơn xin vay lấy nguồn vốn dài hạn vào việc khai thác hoặc kinh doanh ngắn hạn để nhận được chênh lệch lãi suất. Điều này còn tạo ra kẽ hở trong quản lý, trong việc xét duyệt cho vay vốn dẫn đến tiêu cực. Trên đây chỉ là một vài vấn đề trong số những tồn tại mà nguyên nhân là sự bất cập trong các văn bản chính sách của Nhà nước, còn nhiều vấn đề chưa được đề cập tới.Tuy vậy chúng ta cũng nhận thấy sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả thẩm định, cùng với việc xã hội hoá, quốc tế hoá đầu tư theo hướng sau: - Các văn bản, chính sách cần được ban hành có hệ thống đồng bộ với các văn bản dưới luật và quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ để dễ dàng áp dụng.Khi thay đổi cần có thời gian chuyển tiếp dể các doanh nghiệp cũng như các cấp có liên quan có thời gian chuẩn bị tránh tổn thất. -Luật đầu tư cũng như luật doanh nghiệp, và hệ thống pháp luật có liên quan đến lĩnh vực đầu tư cần hợp lý tạo "sân chơi bình đẳng" và cạnh tranh lành mạnh. -Các văn bản có liên quan đến hoạt động tài chính tiền tệ, Ngân hàng cần được thảo luận sâu rộng với các cơ quan liên quan và Ngân hàng các cấp để tránh tình trạng bất họp lý, xa rời thực tế. Hiên nay quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác tín dụng đầu tư năm1999(Số 13/1999/QĐ-TTg) có quy định đối với những dự án được quyết định sau ngày 31/3/99 thì cơ quan có thẩm quyền chỉ ra quyết định đầu tư sau khi có ý kiến của tổ chức cho vay là một quyết định đúng đắn, tiết kiệm nguồn lực và thời gian cần tăng cường triển khai thực hiện. -Cần có văn bản pháp quy xác định mức xử phạt các doanh nghiệp cung cấp thông tin sai lệch cho Ngân hàng để công tác thẩm định được tiến hành dễ dàng hơn.Đồng thời Nhà nước nên tổng hợp phân loại và xác định thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư một cách chi tiết. 1.2-Hoàn thiện công tác kiểm toán-kế toán. Hệ thống kế toán được áp dụng ở Việt Nam hiện nay là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế nhưng việc thực hiện còn chưa được thực hiện nghiêm túc.Ngoài một số doanh nghiệp Nhà nước, một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn lớn, liên quan đến hoạt động xuất khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc, tuân theo qui định của Nhà nước còn lại hầu hết các doanh nghiệp tư nhân làm kế toán sơ sài, tuỳ tiện, chủ yếu là theo hình thức ghi sổ. Mặt khác một số doanh nghiệp còn có tình trạng thực hiện hai hệ thống kế toán để đối phó với các cơ quan kiểm tra. Do đó cán bộ tín dụng rất khó đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp được chính xác. Vì vậy cần phải thực hiện chế độ kế toán và kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp. Nhưng ở Việt Nam công ty kiểm toán Vaco còn rất trẻ, thiếu kinh nghiệmvà hầu như chỉ hoạt động ở các thành phố lớn. Mặt khác số liệu của Vaco cũng chưa được qui định về độ chính xác nên Ngân hàng cũng không tin tưởng hoàn toàn vào đó. Bởi vậy để có những số liệu kế toán trung thực Nhà nước phải có chính sách phát triển các công ty kiểm toán độc lập, thực sự mạnh cả về trình độ lẫn kinh nghiệm. Bên cạnh đó phải có các văn bản pháp quy bắt buộc tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng một hệ thống kế toán đồng bộ và thường xuyên thanh tra, kiểm tra để xử lý kịp thời các doanh nghiệp vi phạm. 1.3-Những giải pháp khác: Bên cạnh đó Nhà nước cần có các biện pháp khác để hỗ trợ công tác thẩm định như: -Hoàn thiện công tác công chứng: Các dự án bao giờ cũng đi cùng với nhiều tài liệu liên quan có giá trị pháp lý, đòi hỏi phải có công tác công chứng. Sự chính xác, nghiêm túc của công chứng cung cấp những thông tin, hồ sơ hợp lệ giúp nâng cao chất lượng công tác thẩm định. -Khuyến khích phát triển các hình thức công ty tư vấn: Các công ty tư vấn sẽ cung cấp nguồn thông tin phong phú về đầu tư và dự án đầu tư, giúp các chủ dự án lập được những dự án có hiệu quả cao, đồng thời cũng giúp các cơ quan có thẩm quyền thẩm định các khía cạnh khác nhau của dự án. -Tổ chức sắp xếp, xếp loại các doanh nghiệp: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá, xếp loại các doanh nghiệp. Có trường hợp doanh nghiệp khi xin vay vốn ở Ngân hàng này thì được xem là doanh nghiệp loại tốt nhưng khi sang Ngân hàng khác thì lại bị xếp hạng kém gây khó khăn cho việc đánh giá doanh nghiệp của công tác thẩm định cho vay vốn. Vì vậy, việc phân tích để tiến tới qui định các tiêu thức xếp loại doanh nghiệp là việc rất cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp khắc phục những tồn tại, nhược điểm để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong việc quyết định cho vay bảo đảm an toàn vốn. -Cần xây dựng một văn bản cụ thể hướng dẫn về việc phân tích kinh tế-tài chính cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp: Thực tế hiện nay các chủ doanh nghiệp và Ngân hàng dùng các chỉ tiêu phân tích tài chính không đồng nhất với nhau. Cụ thể: cùng một nội dung ý nghĩa mà tên gọi thì khác nhau, thậm chí cùng một tên gọi nhưng cách tính lại khác nhau,...Điều đó cho thấy cần phải có một hệ thống chỉ tiêu thống nhất để nâng cao tính chính xác ở cả doanh nghiệp và Ngân hàng từ đó công tác thẩm định được thực hiện thuận lợi hơn. Do đó trong thời gian tới Bộ tài chính nên phối hợp với hệ thống Ngân hàng và các bộ ngành liên quan ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về quy trình, nội dung phương pháp phân tich và thẩm định dự án phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. 2-Đối với Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước có vai trò là người hướng dẫn, điều tiết vĩ mô hoạt động hệ thống Ngân hàng Thương mại. Công tác thẩm định là một phần quan trọng trong hoạt động tín dụng hoạt động theo các chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy để thực hiện tốt công tác thẩm định Ngân hàng Nhà nước cũng cần có biện pháp sau: -Củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin: Để cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về các khách hàng cho Sở giao dịch I và hệ thống Ngân hàng Thương mại nói chung Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các Ngân hàng thực hiện chế độ cung cấp thông tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành đồng thời giúp các Ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động của khách hàng. -Xây dựng hệ thống văn bản, chế độ thẩm định dự án ổn định: Hệ thống văn bản, chế độ thẩm định dự án do Ngân hàng Nhà nước ban hành có ảnh hưởng đến quy trình và chất lượng công tác này. Với số lượng dự án đầu tư ngày một tăng và phức tạp, đa dạng hơn đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải hoàn thiện, đổi mới các văn bản, chế độ thẩm định phù hợp với tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường vai trò trong việc hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ thẩm định cho các Ngân hàng Thương mại. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng trong công tác thẩm định. 3-Đối với các Ngân hàng Thương mại : Cần có sự hợp tác giữa bộ phận thẩm định của các Ngân hàng này với bộ phận thẩm định tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển để trao đổi kinh nghiệmvà thông tin.Vì mỗi Ngân hàng đều có thế mạnh trên một số lĩnh vực cụ thể nên rất có ý nghĩa khi bổ sung hỗ trợ cho nhau, đặc biệt đối với các dự án đồng tài trợ. Ngân hàng Đầu tư & Phát triển nên có sự kết hợp rộng rãi với các Ngân hàng khác thường xuyên tạo điều kiệh cho Sở giao dịch I và các chi nhánh khác có những buổi rút kinh nghiệm,học hỏi lẫn nhau. 4-Đối với khách hàng: Thông thường để được vay vốn khách hàng cung cấp cho Ngân hàng những thông tin tốt về doanh nghiệp hay lập những dự án đầu tư có hiệu quả cao.Điều này làm cho công tác thẩm định tại Ngân hàng trở nên phức tạp, và dễ đưa ra những quyết định sai lầm gây tổn thất cho Ngân hàng và đôi khi cả doanh nghiệp. Như vậy để Ngân hàng có thể thực hiện tốt công tác thẩm định phải có sự hợp tác của khách hàng về các mặt: -Cung cấp thông tin trung thực, đầy đủ, chính xác cho Ngân hàng. -Tuân thủ nghiêm ngặt chế độ qui chế về kế toán thống kê, kiểm toán do Nhà nước ban hành -Khả năng lập dự án một cách chi tiết, có khoa học được thể hiện qua đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên Như vậy bản thân khách hàng phải có sự cố gắng nỗ lực từ bản thân và có tinh thần trách nhiệm. 5-Đối với Sở giao dịch I: Tất cả sự hợp tác của các bên liên quan đối với công tác thẩm định tài chính và thẩm định nói chung tại Sở giao dịch I đều cần thiết nhưng kết quả cuối cùng của công tác thẩm định phụ thuộc vào sự nỗ lực của Sở giao dịch I. 5.2-Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án Trong các văn bản hướng dẫn thẩm định các dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển các nội dung thẩm định đã được trinhf bày tương đối đầy đủ, rõ ràng.Tuy nhiên nội dung thẩm định Sở giao dịch I thực hiện thể hiện trong các báo cáo thẩm định còn sơ sài. Vì vậy các văn bản hướng dẫn thẩm định cần được chi tiết hoá giúp cán bộ thẩm định hiểu một cách đúng đắn từng mặt của dự án.Bên cạnh đó cần có quy định cụ thể về phương pháp, nội dung thẩm định, các vấn đề cần đề cập trong báo cáo thẩm định,.. bắt buộc cán bộ thẩm định phải thực hiện đầy đủ khi xem xét một dự án. Trong thời gian qua Sở giao dịch I thường dùng các chỉ số tài chính giản đơn để đánh giá dự án và chỉ quan tâm đến mức sinh lời và nguồn trả nợ của dự án.Vì vậy để công tác thẩm định được chính xác, đầy đủ ta cần dùng thêm các chỉ tiêu NPV,IRR, chỉ tiêu điểm hoà vốn, phân tích độ nhạy (phản ánh mức độ an toàn của dự án ),...Bản chất, cách tính, phương pháp sử dụng các chỉ tiêu này đã được đề cập đến ở chương I.Đối với chỉ tiêu IRR người ta thường lấy IRRđm là lãi suất trung bình của các nguồn vốn được huyđộng. Từ những vấn đề trên ta áp dụng cụ thể vào dự án "Mua dây chuyền in vé máy bay, chứng từ cao cấp" của công ty in Công đoàn. Các chỉ tiêu về tài chính doanh nghiệp, tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư, và các chỉ tiêu tài chính giản đơn tính cho 1 năm đã được cán bộ tín dụng của Sở giao dịch I xem xét đầy đủ. Để xem xét đầy đủ ta tính lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính có tính đến giá trị theo thời gian của dòng tiền và bổ sung thêm những chỉ tiêu còn thiếu.Các tính toán cụ thể: Lãi suất chiết khấu trung bình của các nguồn vốn là: 7,5%*13.720 +9,72%*1680 r = ------ ----------------------------------------= 7.742% 15400 Ta phân tích biến động của hai yếu tố IRR và NPV khi có các rủi ro làm doanh thu giảm, chi phí sản xuất tăng. Biểu số 12a Phân tích độ nhạy của dự án theo NPV Đơn vị: tr đồng Doanh thu giảm Chi phí tăng 0% 5% 10% 0% 2019,1087 912,5828 -193,6895 5% 886,0665 -220,4595 -1.326,7318 10% -246,9757 -1.353,5017 -2.459,7741 Biểu số 12b Phân tích độ nhạy của dự án theo IRR Doanh thu giảm Chi phí tăng 0% 5% 10% 0% 12,70 0,100 7,19 5% 9,98 7,086 4,20 10% 6,98 4,090 0,98 5.2-Hoàn chỉnh về tổ chức điêù hành thẩm định : Hiện nay, Sở giao dịch I đã đưa bộ phận chuyên gia thẩm định có kinh nghiệm cả về thẩm định tài chính và kỹ thuật vào hoạt động và trực thuộc phòng nguồn vốn-kinh doanh, đồng thời phân công trách nhiệm rõ ràng từ ban lãnh đạo tới từng cán bộ.Vì vậy công tác thẩm định của Sở giao dịch I đã bắt đầu đi vào hoạt động có hệ thống, chặt chẽ và có sự phối hợp giữa các bộ phận thẩm định với công tác quản lý khách hàng, kiểm soát nội bộ,..nâng cao dần chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Tuy nhiên, để tránh tình trạng cán bộ thẩm định hiểu biết một cách mơ hồ về ngành nghề dự định đầu tư khi phân công quản lý nên để cho mỗi cán bộ phụ trách chuyên về một ngành nghề nào đó để có thể có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn về dự án. Một vấn đề nữa ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thẩm định dự án đó là việc gắn liền với trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên có quy định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ tham gia thẩm định và quyết định thông qua kết quả thẩm định để công tác thẩm định có cơ sở tin cậy hơn. 5.3-Nâng cao trình độ kiến thức của đội ngũ làm công tác thẩm định: Thực tế hiện nay các cán bộ tín dụng chủ yếu chuyên sâu về thẩm định hiệu quả tài chính của dự án và tình hình tài chính doanh nghiệp để xem xét khả năng trả nợ của dự án. Mà công tác thẩm định nói chung phải được xem xét trên một diện rộng đòi hỏi cán bộ thẩm định có kiến thức về pháp luật, trong và ngoài nước, về công nghệ sản xuất kinh doanh, về thông tin thị trường, quản lý tín dụng,bảo hiểm,..và các mặt này luôn hỗ trợ cho nhau.Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ thẩm định phải không ngừng tự học hỏi nâng cao kiến thức, đồng thời tranh thủ sự hiểu biết của các chuyên gia trên từng lĩnh vực mới có thể hoàn thành tốt công tác. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng cần thường xuyên thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng, thẩm định, mở các buổi trao đổi kinh nghiệm với các chi nhánh trong nội bộ Ngân hàng và Ngân hàng khác, cố gắng tiếp cận với phương pháp thẩm định mới phù hợp....Đặc biệt Ngân hàng nên có chính sách khuyến khích cán bộ tự tham gia các khoá học nâng cao trình độ qua các khoá học ngoài giờ,các lớp bằng hai, tại chức,..bằng cách bố trí về thời gian, trợ cấp về tài chính,.. Những vần đề trên thực sự cần thiết và cấp bách trong thực tế hiện nay khi mà các dự án lớn, phức tạp càn nhiều. 5.4-Đổi mới, hoàn thiện quá trình thu thập và xử lý thông tin: Thông tin được coi là sức mạnh, lợi thế, thế mạnh cạnh tranh trong kinh doanh trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay. Do đó việc xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin thống nhất được coi là một trong những biện pháp đột phá để để tăng khả năng cạnh tranh,sẵn sàng hội nhập và khẳng định vị thế của Ngân hàng.Đặc biệt trong công tác thẩm định, thời gian thẩm định có hạn, các dự án gửi đến thuộc nhiều ngànhvà lĩnh vực khác nhau, số lượng cán bộ không nhiều,..đồng thời nguồn thông tin do khách hàng cung cấp thiếu chính xác nên Ngân hàng rất khó đánh giá được một cách toàn diện, chính xác dự án.Với tình hình đó, việc Ngân hàng xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là cần thiết. Hệ thống thông tin sẽ lưu trữ thông tin về những dự án đã đầu tư, về tình hình tài chính doanh nghiệp và các thông tin liên quan đến công tác thẩm định giúp thoèi gian thẩm định rút ngắn, thông tin phong phú, chính xác,..Sự triển khai hệ thống thông tin xuyên suốt trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư & Phát triển và tiến tới nối với hệ thống Ngân hàng toàn quốc cần được ban lãnh đạo thảo luận sớm để thống nhất thực hiện. Bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng cần thiết lập mối quan hệ lâu dài với nhưng khách hàng có uy tín để đỡ tốn thời gian và chi phí tập hợp, xử lý thông tin. Cán bộ tín dụng, thẩm định khi trực tiếp tiếp xúc với khách hàng cũng cần có phương pháp phỏng vấn để khai thác thông tin.Cán bộ tín dụng hỏi càng nhiều thì hiểu càng nhiều về vấn đề cần quan tâm và cũng vì vậy mà người đi vay càng kính nể Ngân hàng hơn, vì bản thân họ cũng muốn giao dịch với những người hiểu biết về lĩnh vực mà họ đang hoạt động . Thông tin có thể được khai thác từ nhiều nguồn nhưng việc sắp xếp, khai thác, chọn lọc thông tin như thế nào cho hợp lý cũng là một vấn đề. Như vậy, để quá trình thẩm định dự án đầu tư được thực hiện thuận lợi Ngân hàng cần quan tâm đầu tư trang thiết bị, thiết lập hệ thống thu thập thông tin từ nhiều nguồn để tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định đưa ra kết luận chính xác, nhanh chóng. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư muốn có chất lượng tốt đòi hỏi công tác thẩm định các mặt khác của dự án được thực hiện nghiêm túc, chính xác.Đồng thời, phải có sự nhận thức đúng đắn, đổi mới của chính Sở giao dịch I kết hợp với sự hợp tác của các cấp các ngành và các bên liên quan Kết luận Thẩm định dự án đầu tư đặc biệt thẩm định khía cạnh tài chính là một mấu chốt quan trọng để ra quyết định đầu tư hay trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thực hiện nghiêm túc công tác thẩm định giúp Ngân hàng tránh được rủi ro và thu lợi nhuận cao. Đồng thời cũng giúp các dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả hơn góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sở giao dịch I và Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam có hoạt động đặc thù là cho vay tín dụng trung và dài hạn theo dự án nên công tác thẩm định nói chung và thẩm định khía cạnh tài chính đóng vai trò quan trọng. Sở giao dịch I mới chỉ hoạt động được 8 năm nhưng công tác thẩm định tài chính đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Sở. Phương pháp cũng như các công cụ hỗ trợ cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đã và đang được Sở giao dịch I chú trọng đổi mới, hoàn thiện. Tuy nhiên, trên thực tế công tác thẩm định tài chính vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót cần phải hoàn thiện. Điều này đòi hỏi trước tiên từ sự nỗ lực của chính bản thân Sở giao dịch I cùng với sự phối hợp đồng bộ có hệ thống từ các cấp, các ngành liên quan. Tôi chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn trực tiếp PTS.Nguyễn Bạch Nguyệt, chú Tuấn và các cán bộ phòng nguồn vốn nh doanh -thẩm định tại Sở giao dịch I đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề. Mục lục Trang Lời nói đầu Chương I: Lý luận chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư I-Những vấn đề cơ bản về đầu tư. 1-Khái niệm về đầu tư 2-Vai trò của hoạt động đầu tư 3-Các đặc diểm của hoạt động đầu tư II-Tổng quát về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư 1-Dự án đầu tư 2-Tổng quát về thẩm định dự án đầu tư 3-Nội dung thẩm định dự án đầu tư III-Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư 1-Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn 2-Thẩm tra việc tính toán giá thành, chi phí sản xuất 3-Thẩm tra về cơ cấu vốn và nguồn vốn 4-Thẩm tra và xác định doanh lợi của dự án 5-Thẩm ta các chỉ tiêu về hiệu quả tài chính của dự án Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam I-Vài nét chung về quá trình phát triển của Sở giao dịch I II-Tình hình hoạt động đầu tư tại Sở giao dịch I 1-Tình hình thực hiện vốn đầu tư 2-Tình hình đầu tư cho vay phát triển kinh tế III-Dự án đầu tư và thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 1-Dự án đầu tư 2-Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 3-Phân tích quá trình thực hiện thẩm định một dự án đầu tư tại Sở giao dịch I IV-Kết quả và hiệu quả đạt được của công tác thẩm định tài chính các dự án đầu tư tại Sở giao dịch I V-Những nhận xét, đánh giá về công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 1-Những mặt tích cực trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư 2-Những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục và hoàn thiện Chương III: những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính tại Sở giao dịch I trong thời gian tới I-Phương hưóng, mục tiêu nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Sở giao dịch I II-Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính tại Sở giao dịch I 1-Đối với Nhà nước 2-Đối với Ngân hàng 3-Đối với Ngân hàng Thương mại 4- Đối với khách hàng 5-Đối với Sở giao dịch I Kết luận 1 3 3 3 4 5 6 6 8 12 16 16 18 19 21 21 29 29 32 32 35 37 37 37 42 52 56 56 59 64 64 68 69 72 73 73 74 Biểu số1 Cơ cấu nguồn vốn hoạt động của Sở giao dịch I thời kỳ 1995-1998 Đơn vị: tỷ VNĐ Số 31/12/1995 31/12/1996 31/12/1997 311/12/1998 TT Chỉ tiêu Vốn (%) Vốn (%) Vốn (%) Vốn (%) I 1 2 3 II Tổng số Tự huy động Tiền gửi TCKT Tiền gửi dân cư Tiền gửi khác Vốn trung ương điều chuyển 841,250 451,241 110,039 295,714 45,488 390,009 100 53,64 13,09 35,15 5,40 46,36 1.217,853 677,635 39,200 453,415 85,020 540,218 100 55,64 11,43 37,23 6,98 44,36 2.073,11 1.546,61 301,37 1.194,02 50,80 526,91 100 71,87 11,82 57,60 2,45 28,13 3.800,132 2.784,928 360,156 2.326,403 98,369 1.015,204 100 73,29 12,11 58,59 2,59 26,71 Nguồn:Báo cáo thống kê các năm 1995-1998 tại Sở giao dịch I Biểu số 2 Thực hiện đầu tư phát triển phân theo ngành kinh tế thời kỳ 1995-1998 Đơn vị: tỷ VNĐ 1995 1996 1997 1998 Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) Xây dựng-Lắp đặt 701,592 99,02 961,661 98,97 1.454,664 97,1 3.302,833 94,7 Thương mại 6,944 0,98 10,009 1,03 43,446 2,9 184,847 5.3 Tổng cộng 708,536 100 971,670 100 1.498,110 100 3.478,680 100 Nguồn: Báo cáo tín dụng giai đoạn 1995-1998 tại Sở giao dịch I Biểu số 3 Dư nợ cho vay tại Sở giao dịch I thời kỳ 1995-1998 Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) Dư nợ TT(%) 1.Ngắn hạn 34,010 4,8 49,416 5,67 115.467 7,81 242.032 6,94 2.Trung và dài hạn 674,526 95,2 822,254 94,33 1.362.643 92,19 3.245.648 93,06 Tổng 708,536 100 871,670 100 1.478.110 100 3.487.680 100 ( Nguồn:Báo cáo tín dụng Sở giao dịch I ) Biểu số 4 số dự án Sở giao dịch I đã thực hiện thẩm định cho vay thời kỳ 1995-1998 Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 KHNN CT12 TDkhác KHNN CT12 TDkhác KHNN CT12 TDkhác KHNN CT12 TDkhác Dự án 13 0 9 15 0 8 16 18 13 13 16 11 Tổng vốn 545,3 - 129,2 690,2 - 132,1 432,5 780,8 149,5 1.680,7 16 669,7 Số da cho vay 12 - 9 14 - 8 15 16 13 12 895,3 11 Tổng vốn 500,1 - 109,3 634,8 - 132,1 382,4 693,8 149,5 1.580,0 15 669,7 Đã giải ngân 359,2 - 109,3 - 132,1 205,3 510,9 149,5 1.485,9 801,2 669,7 Số da từ chối cho vay 01 - 01 0 - 0 0 01 02 0 01 0 Nguồn: báo cáo tín dụng các năm 1995-1998 Biểu số 9 Nợ quá hạn phân theo thời hạn tín dụng 1995 1996 1997 1998 Chỉ tiêu Số dư TT % T-DN Số dư TT % T-DN Số dư TT % T-DN Số dư TT % T-DN ồDN 708.536 871.670 1.478.110 3.478.680 ồNQH 39.705 100 5,6 28.650 100 3,3 20.694 100 1,4 36.526 100 0,01 NH 2.820 7,1 0,4 1.550 5,4 0,2 1.340 6,5 0,09 5.409 14,8 0,16 T-DH 36.885 92,9 5,2 27.100 94,6 3,1 19.354 93,5 1,31 31.117 85,2 0,9 Nguồn: Báo cáo tín dụng thời kỳ 1995-1998 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0065.doc
Tài liệu liên quan