Thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì Hà Nội

Lời mở đầu Trên thềm thiên niên kỷ mới - thiên niên kỷ với công nghệ cao và cạnh tranh khốc liệt trong chuyển động toàn cầu hoá, mọi nền kinh tế không thể hoạt động đơn độc, khép kín, càng không thể bị động, chạy theo một chiều. Hoạt động kinh tế ngày một sôi động. Trong những năm qua cùng với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng đã có nhiều đóng góp tích cực, góp phần làm thay đổi đời sống kinh tế-xã hội nước ta.

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo xu thế mở cửa, hội nhập, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam từng bước tiếp cận với những nghiệp vụ tiên tiến của hệ thống ngân hàng quốc tế. Với mục tiêu: vững chắc trong tăng trưởng, chất lượng an toàn trong kinh doanh và có hiệu qủa hệ thống ngân hàng thương mại đã không ngừng hoàn thiện nghiệp vụ hoà nhập vào nền kinh tế. Ngân hàng là một tổ chức quan trọng góp phần quan trọng vào nhu cầu kinh tế của đất nước. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động đặc biệt chịu nhiều rủi ro tiềm ẩn. Do đó việc chú trọng đến mọi nghiệp vụ của ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động là điều cần thiết và phải được cập nhật thường xuyên. Đặc biệt hoạt động thẩm định dự án đầu tư đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển ổn định của ngân hàng. Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì Hà Nội, nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định dự án đầu tư đối với công cuộc đầu tư và hoạt động của ngân hàng em đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì Hà Nội” Trên cơ sở thực tiễn thẩm định tại ngân hàng em đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn hiệu quả của hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày một lớn của nền kinh tế. Đề tài gồm 3 phần: Chương I: Những lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư Chương II: Thực trạng thẩm định dự án đầu tư ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì Hà Nội. Chương III: Một số kiến nghị. Do điều kiện thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế, đề tài này không thể tránh khỏi thiếu sót. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Thầy giáo Nguyễn Hồng Minh, chị Phạm Thị Quỳnh Hoa - cán bộ tín dụng và các anh chị tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì - Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. chương I : những lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư I. Khái niệm về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. 1. Khái niệm về đầu tư. 1.1 Khái niệm đầu tư Đầu tư là một hoạt động kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung cũng như tiềm lực sản xuất của từng đơn vị nói riêng, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Bất kỳ một quốc gia nào khi muốn tăng tiềm lực của nền kinh tế thì đều phải tiến hành hoạt động đầu tư. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư mà chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Ta có thể hiểu về đầu tư như sau: đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đâù tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực ở đây, đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả của đầu tư có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà cửa, đường xá ... ), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đạt được thì những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi. Hoạt động đầu tư không chỉ mang ý nghĩa đối với nhà đầu tư (người bỏ vốn) là lợi nhuận mà nó còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế (lợi ích kinh tế xã hội). Như vậy, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội nói riêng. 1.2 Phân loại đầu tư: Đứng dưới các góc độ khác nhau chúng ta có các cách hiểu khác nhau về đầu tư. Tuy nhiên, đứng trên giác độ nền kinh tế, xuất phát từ lợi ích mà đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: Đầu tư phát triển (đầu tư tài sản vật chất và sức lao động): là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực... thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá, để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Để giảm rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Đầu tư thương mại không làm tăng tài sản cho xã hội nhưng hoạt động của đầu tư thương mại đã thúc đẩy quá trình lưu thông của cải, vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Như vậy, đầu tư có thể được hiểu là đầu tư tài chính, đầu tư phát triển và đầu tư thương mại. Đứng trên giác độ nền kinh tế ba loại hình đầu tư này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Để có thể tiến hành đầu tư phát triển thì phải cần có vốn đó là các hoạt động đầu tư tài chính những người có tiền bỏ tiền ra tiền hành đầu tư và hưởng lợi nhuận dựa trên lãi suất của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một khâu quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển đó là khâu tiêu thụ những sản phẩm mà hoạt động đầu tư phát triển tạo ra đó chính là hoạt động đầu tư thương mại. Khi thu được tiền ở khâu thương mại thì tạo nguồn cho đầu tư tài chính hoạt động. 2. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư 2.1 Dự án đầu tư Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị. Mọi sự xem xét tính toán và chuẩn bị này được thể hiện trong dự án đầu tư. Có thể nói, dự án đầu tư là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế-xã hội như mong muốn. Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ kế hoạch, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế –xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đặt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Như vậy một dự án đầu tư bao gồm bốn thành phần chính: -Mục tiêu của dự án: thể hiện ở mục tiêu phát triển và những lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại và mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án. -Các kết quả: kết quả này có thể định lượng được hoặc không định lượng được được tạo ra từ hoạt động của dự án -Các hoạt động: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định. -Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Trong bốn thành phần trên thì các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Theo dõi xem xét đánh giá các hoạt động của dự án là điều kiện tốt để đạt được kết quả mong muốn. Những hoạt động này có liên quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là chủ yếu phải được đặc biệt quan tâm. Có thể minh hoạ trình tự hình thành của một dự án đầu tư như sau: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi Nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư khả thi Thực hiện dự án Nghiên cứu cơ hội đầu tư: đó là bước nghiên cứu sơ bộ nhằm xác định triển vọng đem lại hiệu quả và sự phù hợp với thứ tự ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh doanh của ngành, của nền kinh tế vùng, đất nước. Nghiên cứu tiền khả thi: đây là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ về các yếu tố cơ bản của dự án như vị trí, quy mô, thiết bị công nghệ, thị trường, nhu cầu về vốn cũng như tổ chức thực hiện dự án. Kết quả của giai đoạn này là cơ sở cho việc ra quyết định tiếp tục hoặc chấm dứt việc nghiên cứu ở giai đoạn tiếp theo. Nghiên cứu khả thi: ở giai đoạn này phải khẳng định cơ hội đầu tư có khả thi hay không, có vững chắc và hiệu quả hay không. Trong giai đoạn này cần phải nghiên cứu toàn diện, chi tiết và có hệ thống tính vững chắc của dự án trong các mặt kinh tế xã hội, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính. Nghiên cứu khả thi được thực hiện trên cơ sở thông tin chi tiết có độ chính xác cao hơn giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi. Đây là cơ sở quyết định triển khai thực hiện dự án thực tế. Như vậy, một dự án được coi là có cơ sở thực hiện được phải trải qua nhiều bước nghiên cứu để có thể xác định được chính xác các yếu tố ảnh hưởng thuận lợi cũng như thách thức mà dự án gặp phải và phương án khắc phục để có thể triển khai dự án trên thực tế. 2.2 Thẩm định dự án đầu tư: Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án, từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.. Đây là một qúa trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ qúa trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. 2.2.1 Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết đối với mọi công cuộc đầu tư. Để một lượng vốn lớn bỏ ra hiện tại và chỉ có thể thu hồi vốn dần trong tương lai khá xa, thì trước khi chi vốn vào các công cuộc đầu tư phát triển, các nhà đầu tư đều tiến hành soạn thảo dự án. Soạn thảo và thực hiện dự án là công việc rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều lĩnh vực... nên phải huy động sức lực, trí tuệ của nhiều người nhiều tổ chức. Việc lắp ghép trí tuệ, phối hợp các hành động của nhiều thành viên, tổ chức trong tiến trình đầu tư khó tránh khỏi những bất đồng, mâu thuẫn hay sai sót, vì vậy cần phải theo dõi, rà soát lại điều chỉnh lại. Thẩm định dự án đầu tư là sự cần thiết khách quan: Quá trình soạn thảo dự án dù có chuẩn bị kỹ càng đến mấy cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người thẩm định thường khách quan hơn trong việc nhìn nhận đánh giá dự án. Khi soạn thảo và giải trình chi tiết dự án có thể có những sai sót, các ý tưởng có thể mâu thuẫn, không phù hợp, không lôgic, thậm chí có thể gây ra tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư dự án, thẩm định sẽ xem xét lại những vấn đề đó. Dự án đầu tư cần huy động một nguồn lực lớn, liên quan đến nhiều thành phần khác nhau nên cần có sự phối hợp hài hoà giữa các đối tác tham gia đầu tư, thẩm định chính là để phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định được tiến hành với tất cả các dự án thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuỳ thuộc vào yêu cầu, nội dung, quy mô, tính chất của dự án mà thẩm định có những mức độ chi tiết khác nhau. Tuy nhiên mục đích chung của thẩm định là: Đánh giá tính phù hợp của dự án: mục tiêu của dự án phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương. Dự án mà đi chệch mục tiêu phát triển của đất nước thì sẽ không được sự ủng hộ của xã hội, như thế dự án sẽ khó thực hiện và gặp nhiều khó khăn trong khi thực hiện. Đánh giá tính hợp lý và thống nhất của dự án: tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp trong tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và được biểu hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án, các tài sản tài chính hình thành nên vốn đầu tư của dự án. Đánh giá tính hiệu quả của dự án: hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Đánh giá tính khả thi, tính hiện thực của dự án. Đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án (kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án...) 2.2.2 ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư: Thẩm định dự án đầu tư giúp cho các dự án đầu tư khỏi bị bác bỏ, ngăn chặn những dự án mang lại những hiệu quả tiêu cực cho nền kinh tế và chủ đầu tư và các chủ thể liên quan khác. thẩm định có ý nghĩa cho mọi chủ thể đầu tư sau: - Giúp chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất. - Giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của cả ngành, của địa phương và của cả nước trên các mục tiêu quy mô quy hoạch và hiệu quả. - Thông qua thẩm định giúp xác định tính lợi hại của dự án khi cho phép đi vào hoạt động trên các khía cạnh: công nghệ, vốn , ô nhiễm môi trường và các lợi ích kinh tế xã hội khác. - Giúp các nhà tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hoặc tài trợ cho các dự án đầu tư . - Qua thẩm định giúp xác định tư cách pháp nhân của các bên tham gia. 2.3 Các chủ thể thẩm định dự án đầu tư. Dự án đầu tư là cơ sở của mọi công cuộc đầu tư. Mọi đối tác tham gia đầu tư đều quan tâm trước hết đến dự án đầu tư. Dự án đầu tư sẽ được thực hiện khi đã được tất cả các đối tác thông qua. Mọi đối tác đều có quyền thẩm định đối với dự án đầu tư, vì họ sẽ phải bỏ sức bỏ của vào dự án, cho nên họ cần phải biết mình sẽ được lợi gì từ dự án, dự án đó có thực thi hay không. Dự án bao giờ cũng liên quan đến nguồn vốn để thực hiện, nguồn vốn đó có thể là của nhà nước, có thể là của tư nhân, có thể đi vay... do đó chủ thể thẩm định dự án sẽ là: 2.3.1 Cơ quan nhà nước quản lý vĩ mô: Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Mọi dự án đều cần đến nguồn vốn, nguồn vốn đó có thể là trong nước hoặc ngoài nước, nhưng chúng có một điểm chung là đều tác động đến nền kinh tế trong nước. Dự án thực hiện trong nước thì nó ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân trong nước về môi trường, mức sống, điều kiện sống...cho nên với mỗi dự án, nhà nước thẩm định để quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và quy định về đầu tư như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ xây dựng, các bộ chuyên ngành, UBND cấp tỉnh, huyện, xã. Nếu là dự án sử dụng nguồn vốn trong nước cơ quan nhà nước xem xét thẩm định dự án đầu tư để quyết định đầu tư đúng chiến lược phát triển quy hoạch của đất nước, đồng thời khuyến khích các dự án mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao như giải quyết việc làm, giảm tệ nạn xã hội, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Cho dù dự án sử dụng nguồn vốn nào thì cơ quan quản lý nhà nước thẩm định để cho phép đầu tư những dự án không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế đất nước. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước. Bởi vậy trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không? Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào? Việc thẩm định xem xét dự án của các cơ quan nhà nước là để quản lý nguồn vốn đầu tư đúng đối tượng, đúng mục đích phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước từ đó phát huy các kết quả mà dự án đem lại cho nền kinh tế. Thông qua thẩm định nhà nước tài trợ vốn cho các dự án, tránh lãng phí nguồn vốn, tăng tính hiệu quả của nguồn vốn bỏ ra. 2.3.2 Các chủ đầu tư: Chủ đầu tư là người đưa ra dự án đầu tư, là người chịu trách nhiệm về dự án, tham gia bỏ vốn và kêu gọi những nguồn vốn khác cho dự án. Để khẳng định được quyết định của mình là đúng đắn, và có hiệu quả thì việc xem xét lại dự án là công việc không thừa một chút nào. Việc thẩm định dự án, xem xét tính hiệu quả, tính khả thi, tính hiện thực của dự án sẽ làm cho chủ đầu tư thu được kết quả tốt hơn từ dự án. Dự án đầu tư thường chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau, khi thẩm định dự án thì chủ đầu tư sẽ phát hiện những mặt yếu cần khắc phục của dự án, dự báo các khó khăn mà dự án gặp phải từ đó đưa ra cách khắc phục kịp thời, đảm bảo dự án tiến hành một cách tốt nhất. Một nhà đầu tư giỏi là người biết tìm cơ hội, tạo cơ hội đầu tư, thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó do đó việc thẩm định các dự án đầu tư sẽ tạo ra sự an toàn trong hoạt động đầu tư của chủ đầu tư. 2.3.3 Các tổ chức tài chính (ngân hàng, quỹ tín dụng, tổng cục đầu tư...): Các tổ chức này là nơi cung cấp nguồn vốn cho các dự án. Các tổ chức sẽ tài trợ cho các dự án khi thấy sự hiệu quả của dự án đem lại cho mình. Để đảm bảo là nguồn vốn đầu tư có hiệu quả thì quá trình thẩm định sẽ giúp các tổ chức tài chính có những quyết định đúng đắn cho việc tài trợ các dự án đầu tư cũng như đầu tư vào các dự án. Thẩm định để tài trợ cho các dự án là để phục vụ nhu cầu của nền kinh tế nhưng cũng vì lợi ích của chính các tổ chức tài chính vì ở đây diễn ra hoạt động kinh doanh tiền tệ, đi vay tiền để cho vay. Chính vì thế sử dụng vốn vay có hiệu quả thì các tổ chức tài chính mới thu hút được vốn để hoạt động và như thế mới có thể tồn tại được. Như vậy, mọi đối tượng tham gia đầu tư đều cần thiết thẩm định dự án đầu tư. Quá trình thẩm định có một ý nghĩa rất lớn đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả đồng vốn đầu tư và lợi nhuận đem lại. II. thẩm định dự án đầu tư ở ngân hàng thương mại 1. Ngân hàng thương mại chức năng và vai trò Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức tài chính ra đời đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Ngân hàng thương mại đã ra đời và phát triển mạnh cùng với nhu cầu của nền kinh tế và ngày một mở rộng quy mô pham vi hoạt động của mình trên khắp mọi miền. Về mặt bản chất, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên một lĩnh vực đặc biệt là tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng. Như vậy phạm vi hoạt động của ngân hàng thương mại là rất rộng. Có thể hiểu ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó với trách nhiệm hoàn trả để thực hiện cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán. Theo quy định của Việt nam trong luật ngân hàng ra đời năm 1999: ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức kinh doanh tiền tệ, trong đó nó được phép thực hiện mọi hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan đến tiền tệ. 1.1 Chức năng của ngân hàng thương mại: Với bản chất hoạt động của mình ngân hàng thương mại có những chức năng sau: 1.1.1Chức năng làm trung gian tín dụng: Ngân hàng làm trung gian tín dụng là cầu nối giữa người có vốn và người vay vốn: Cá nhân, Doanh nghiệp Cá nhân, Doanh nghiệp Ngân hàng Gửi tiền Cho vay Uỷ thác Đầu tư đầu tư Thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế Ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Với chức năng này Ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay và người cho vay. Thông qua việc thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay. Với chức năng trung gian tín dụng Ngân hàng đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. -Đối với người gửi tiền: họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn và cung cấp các phương tiền thanh toán. -Đối với người đi vay: sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp. -Đối với ngân hàng thương mại: họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại -Đối với nền kinh tế: chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu câù vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng sau. Chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến nguồn vốn nhàn rỗi, không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích qúa trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 1.1.2 Chức năng trung gian thanh toán: Với việc giữ tiền của khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng thông qua tài khoản như: trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng các khoản thu theo lệnh của họ. Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán dựa trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Chức năng này làm lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn do đó góp phần tăng trưởng kinh tế, các chủ thể tiết kiệm được nhiều chi phí lao động, thời gian nhanh và đảm bảo được thanh toán an toàn. Với chức năng này ngân hàng thương mại được coi như là thủ quỹ của các doanh nghiệp do nó quản lý các tài khoản tiền gửi của các doanh nghiệp. 1.1.3 Chức năng tạo tiền: Trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng và trung tâm thanh toán, chức năng tạo tiền của Ngân hàng được hình thành. Đó chính là việc làm tăng hiệu quả sử dụng đồng tiền, vòng quay của tiền được tăng lên khi đưa vào nền kinh tế. Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ xung, hỗ trợ cho nhau. Trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng. Như vậy, ngân hàng là một nguồn vốn cần được khai thác và quản lý chặt chẽ, nó không những là cầu nối giữa người cần tiền và những người có tiền nhàn dỗi trong nền kinh tế mà còn làm tăng khả năng hoạt động của tiền làm tăng nguồn vốn cho hoạt động đầu tư của nền kinh tế. 1.2 Vai trò của ngân hàng đối với hoạt động của nền kinh tế. Một nền kinh tế lành mạnh và sôi động cần đến một hệ thống tài chính để chuyển vốn từ những người có vốn tới những người thiếu vốn. Thực tế cho thấy, phần lớn những nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp là các khoản vay ngân hàng. Tới ngân hàng các doanh nghiệp sẽ không tốn thời gian và chi phí để tìm những khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội mà được vay vốn một cách nhanh nhất với chi phí hiệu quả nhất. Ngân hàng là đầu mối của bên đi vay và bên cho vay. Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu vốn của các doanh nghiệp cho đầu tư càng lớn. Ngân hàng với chức năng chuyên môn hoá của mình trong hoạt động kinh doanh tiền tệ đã huy động được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của xã hôị. Ngân hàng đã góp phần quan trọng tạo ra những chuyển biến lớn của nền kinh tế. Về vĩ mô, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đó là nền kinh tế tăng trưởng bình quân 8%-9%/năm. Về cụ thể , tạo ra những thay đổi lớn về quan hệ cung cầu của nhiều mặt hàng trên thị trường xã hội, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên... thúc đẩy hoạt động cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá thúc đẩy sự phân công lao động trong xã hội nhờ có vốn đầu tư kịp thời. 2. Vị trí vai trò của thẩm định dự án đầu tư đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 2.1 Vị trí của thẩm định đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Hoạt động cơ bản chi phối nhiệm vụ của ngân hàng là hoạt động huy động vốn và cho vay. Cùng với sự phát triển bành trướng của nền kinh tế thì hoạt động ngân hàng càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng bao gồm: nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn, nghiệp vụ bảo lãnh-được gọi là hoạt động tín dụng cho vay vốn. Để có thể cho vay vốn có hiệu quả ngân hàng thực hiện theo một quy trình cho vay: Bước 1: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ. Bước 2: Thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ. Bước 3: Quyết định cho vay. Bước 4: Giải ngân, kiểm tra giám sát. Bước 5: Thu nợ, thu lãi, phí và xử lý phát sinh. Bước 6: Kết thúc hợp động tín dụng. Như vậy, thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ dự án là khâu đầu tiên trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng. Ngân hàng là một ngành kinh doanh đồng vốn, ngân hàng vừa là người “cung cấp” đồng vốn, đồng thời cũng là người tiêu thụ đồng vốn của khách hàng. Tuy nhiên, ngân hàng không đơn thuần là một trung gian giữa người gửi tiền và người đi vay tiền mà vấn đề có phần phức tạp hơn nhiều. Khi ngân hàng cung cấp tiền vay, ngân hàng phải có cơ sở để tin rằng khách hàng sẽ trả nợ, nếu như ngân hàng không có cơ sở thì quan hệ tín dụng không xảy ra. Như vậy trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét: - Khả năng vay và khả năng chi trả của người vay - Khả năng bảo đảm vay tín dụng và người cho vay và khách hàng vay đều phải tuân theo những nguyên tắc trong việc cho vay mang tính chất luật pháp. Quá trình xem xét trước khi cho vay chính là quá trình thẩm định dự án đầu tư. Đây là một trong những hoạt động không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Thẩm định dự án giữ vị trí quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế thị trường có nhiều biến động thì thẩm định càng có vị trí quan trọng hơn, ngân hàng cần phải xác định đúng vị trí của khâu thẩm định dự án, từ đó có những giải pháp tốt hơn nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng. 2.2 Vai trò của thẩm định đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh, công việc đầu tiên mà ngân hàng cần làm đó là tiến hành thẩm định phương án kinh doanh (đầu tư). Thẩm định là một công cụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực chất của việc thẩm định là để xem xét khách hàng vay vốn có thể trả nợ tiền vay, tiền lãi và các khoản khác kịp thời hay không, dự án đầu tư có hiệu quả hay không. Tất cả những điều còn lại chỉ là những đặc trưng bên ngoài của hợp đồng tín dụng mà mục đích chính là thu được lợi ích tối đa. Khi kiểm tra khả năng vay phải phát hiện xem pháp nhân hoặc thể nhân xin vay vốn có khả năng hoạt động và quyền hoạt động không. Thể nhân có khả năng vay chỉ với điều kiện họ hoàn toàn có khả năng hoạt động. Kiểm tra khả năng vay là tiền đề cho tất cả các hoạt động khác của ngân hàng đối với khách hàng, trong đó có cả khả năng chi trả của họ. Có thể thấy, thẩm định dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong các bước thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhờ khâu thẩm định dự án mà ngân hàng có thể đưa ra các quyết định đúng đắn để cho vay đầu tư cũng như không cho vay các dự án kém hiệu quả tránh lãng phí nguồn vốn vì những khoản tiền mà ngân hàng cho vay hầu như toàn bộ là tiền của dân, của các tổ chức khác cho ngân hàng vay. Vai trò của thẩm định thể hiện trên các mặt sau: - Thông qua thẩm định ngân hàng có cơ sở quan trọng để quyết định chủ trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn, đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư. Sau khi thẩm định, ngân hàng sẽ tiến hành tài trợ cho các dự án có khả năng hoàn trả cả lãi và vốn, đồng thời từ chối những dự án kém hiệu quả không có khả năng hoàn trả. - Thẩm định giúp ngân hàng giải ngân được nguồn vốn từ đó làm giảm lượng vốn tồn đọng trong ngân hàng làm tăng vòng quay của vốn ngân hàng, tăng lợi nhuận. - Thông qua thẩm định ngân hàng xác định được những hạn chế và rủi ro của dự án từ đó đưa ra giải pháp thích hợp, tối ưu nhất cho dự án đảm bảo cho dự án thực hiện được cũng như tránh được rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Thông qua thẩm định ngân hàng đã tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích đối tượng, ngân hàng sẽ thực hiện kiểm tra trước trong và sau khi phát vay các khoản tiền vay ._.để đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng, và tiết kiệm vốn. - Thẩm định giúp cho ngân hàng xác định được hiệu quả đầu tư của dự án, đây là cơ sở tương đối vững chắc để xác định khả năng thanh toán hoàn trả vốn cũng như hoàn trả nợ của dự án và chủ đầu tư. Có thể thấy rằng hoạt động của ngân hàng tập trung ở hai khía cạnh chính đó là đi vay tiền để cho vay. Do đó, hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ. Cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trên cơ sở số vốn vay được trong dân cư ngân hàng tiền hành hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng vừa đóng vai trò là một nhà đầu tư, vừa đóng vai trò là một tổ chức tài trợ dự án cho các doanh nghiệp khác. Thẩm định đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng không chỉ có ý nghĩa về nghiệp vụ cho vay mà còn có ý nghĩa về chủ đầu tư của dự án mà ngân hàng tham gia tài trợ. 3. Phân cấp thẩm định. Để thoả mãn tốt nhất nhu cầu hợp lý của khách hàng trong quan hệ hoạt động tín dụng với ngân hàng thì việc phân chia các bước thực hiện trong việc cho vay, xác định người thực hiện công việc và trách nhiệm của người thực hiện là rất quan trọng. Trong hoạt động thẩm định cho vay tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Thương Mại được chia thành hai cấp: thẩm định tại hội sở chính và chi nhánh. 3.1 Thẩm định ở Hội sở chính: Việc thẩm định được tiến hành với những dự án trọng điểm, có sự tham gia của nhiều ngân hàng, có quy mô vay vốn lớn và những dự án vượt thẩm quyền của chi nhánh. Hội sở chính tiến hành tái thẩm định, xét duyệt cho vay những dự án do cấp dưới chuyển lên. Cán bộ thẩm định chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, tiến hành thẩm định những nội dung tương tự như ở chi nhánh do ngân hàng quy định trong nội dung thẩm định ở ngân hàng. Việc quyết định cho vay hay không là do Tổng giám đốc quyết định. ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội phân quyền thẩm định ở hội sở chính được quy định theo công văn số 650 ngày 13/11/2001. Hội sở chính được quyền thẩm định những dự án có quy mô như sau: Loại hình khách hàng Khoản cấp tín dụng Doanh nghiệp nhà nước và DNNN đã cổ phần hoá Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tư nhân cá thể, hộ kinh tế gia đình Tín dụng ngắn hạn >30 tỷ đồng >5tỷ đồng >500 triệu đồng Tín dụng trung dài hạn Mức cho vay vốn Thời gian cho vay >5 tỷ đồng >5 năm >3 tỷ đồng > 5 năm >500 triệu đồng >5 năm Bảo lãnh >30 tỷ đồng >5 tỷ đồng >1 tỷ đồng Thời gian quyết định cho vay được quy định cho hội sở chính là 12 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng và chi nhánh, hội sở chính phải quyết định và thông báo cho chi nhánh. 3.2 Thẩm định ở chi nhánh: Cán bộ là đầu mối tiếp nhận hồ sơ chịu trách nhiệm chính về thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng, thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính năng lực và uy tín của khách hàng, thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại mà việc thẩm định của chi nhánh được phân cấp cho những dự án có quy mô khác nhau. Cán bộ thẩm định có trách nhiệm thẩm định những dự án trong phạm vi được phân cấp, uỷ quyền thường xuyên kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ phát hiện và đưa ra hành động khắc phục kịp thời. Những dự án vượt thẩm quyền, chi nhánh phải gửi lên Hội sở chính để tham khảo ý kiến trước khi quyết định cho vay. Việc quyết định cho vay là do Giám đốc chi nhánh hay người được uỷ quyền hợp pháp theo quy định của ngân hàng. Trong hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thì phân quyền thẩm định ở chi nhánh được quy định theo công văn mới nhất số 642 ngày 12/11/2001. Giám đốc được duyệt hạn mức tín dụng cao nhất đối với từng nghiệp vụ và từng loại khách hàng như sau: Đơn vị triệu đồng, ngoại tệ quy đổi Tín dụng ngắn hạn Tín dụng trung dài hạn <= 5 năm Bảo lãnh Quốc doanh Ngoài quốc doanh Tư nhân cá thể Quốc doanh Ngoài quốc doanh Tư nhân cá thể Quốc doanh Ngoài quốc doanh 15.000 3.000 300 3.000 1.000 300 15.000 3.000 Đối với những trường hợp khách hàng có nhu cầu tín dụng bảo lãnh vượt mức uỷ quyền trên, Giám đốc chi nhánh khu vực phải làm thủ tục trình Giám đốc Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội ký duyệt theo công văn số 195/KTNB ngày 10/4/2000. Thời gian xem xét cho vay được quy định không quá 25 ngày làm việc đối với dự án nhóm A và 18 ngày làm việc đối với những dự án nhóm B và 12 ngày làm việc đối với những dự án còn lại kể từ khi chi nhánh nhận đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của chi nhánh, chi nhánh phải đưa ra quyết định cho vay hay không. 4. Quy trình thẩm định ở Ngân hàng Thương Mại Ngày nay các ngân hàng và các định chế tài chính cho vay khác đều thiết lập các quy trình tín dụng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi. Trong quy trình tín dụng thì khâu phân tích tín dụng hay thẩm định dự án là khâu quan trọng nhất. Nó là cơ sở cho việc quyết định cho vay của ngân hàng. Thẩm định là việc phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn cũng như khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng. Tổ chức thẩm định là khâu quan trọng ảnh hưởng đến việc ra quyết định chính xác hay không. Vì vậy phải phân định rõ trách nhiệm của những người tham gia. Thông thường có hai cách bổ nhiệm: Cách thứ nhất: với phương thức này việc thẩm định được giao cho một hay một số người thực hiện toàn bộ các nội dung phân tích. Cách này có ưu điểm là quá trình thẩm định được liên tục, có hệ thống, tiện lợi, trong những trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng thấp, món vay nhỏ tiết kiệm được chi phí và thời gian. Tuy nhiên nó mang tính chủ quan cao do phụ thuộc vào trình độ bản lĩnh người phân tích. Cách thứ hai: thẩm định được thực hiện chuyên môn hoá các nội dung chính và giao cho những chuyên gia đảm nhiệm từng chuyên môn riêng biệt. Cách này có ưu điểm là chuyên môn hoá cao, tránh được những sai sót khiếm khuyết trong nghiệp vụ, đặc biệt như các mảng phân tích thủ tục pháp lý của hồ sơ vay vốn và tài sản bảo đảm . Tuy nhiên cách này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban tham gia phân tích để đảm bảo tính hệ thống và kịp thời. 4.1 Trình tự thẩm định dự án đầu tư: Nhằm thoả mãn nhu cầu hợp lý của khách hàng trong quan hệ với ngân hàng, đồng thời giúp cho quá trình cho cho vay diễn ra thống nhất khoa học, phòng ngừa hạn chế rủi ro và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng thẩm định cần được thực hiện theo trình tự rõ ràng. Khi một dự án muốn vay vốn của ngân hàng thì nơi tiếp nhận hồ sơ chính là phòng tín dụng. Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ, bổ xung hồ sơ. Khi đủ hồ sơ thì giao nhận hồ sơ cho cán bộ trực tiếp thẩm định. Cán bộ thẩm định tổ chức xem xét, thẩm định dự án đầu tư và khách hàng xin vay vốn. Nếu cần thiết thì cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng bổ xung thông tin hoặc giải trình rõ thêm về việc vay vốn để đầu tư. Sau khi thẩm định được tiến hành hoàn tất thì cán bộ thẩm định lập báo cáo thẩm định dự án trình trưởng phòng thẩm định xem xét trong đó nêu đủ nội dung về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn, kết quả thẩm định dự án đầu tư, biện pháp bảo đảm tiền vay, biện pháp giảm thiểu rủi ro, tổng hợp đánh giá dự án trên hai mặt: những thuận lợi của dự án đầu tư và những khó khăn của dự án đầu tư. Trên cơ sở báo cáo thẩm định của cán bộ thẩm định, trưởng phòng thẩm định kiểm tra, kiểm soát về nghiệp vụ, thông qua hoặc yêu cầu cán bộ thẩm định chỉnh sửa, làm rõ các nội dung. Cán bộ thẩm định hoàn chỉnh nội dung báo cáo thẩm định, trình trưởng phòng thông qua và lưu hồ sơ gửi cho phòng tín dụng để thực hiện tiếp quy trình tín dụng của ngân hàng. 4.2 Nội dung thẩm định dự án đầu tư: Một dự án chỉ được chấp nhận cho vay khi Ngân hàng đã tin tưởng chắc chắn vào thái độ sẵn sàng trả nợ của khách hàng. Để có được quyết định chính xác trong việc cấp tín dụng ngân hàng tiến hành thẩm định những nội dung sau: Kiểm tra hồ sơ vay vốn: Các tài liệu gửi đến Ngân hàng phải là bản chính trừ trường hợp khách hàng chỉ có một bản chính duy nhất thì ngân hàng nhận bản sao có xác nhận của công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền như các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ, khả năng tài chính và người bảo lãnh. Hồ sơ dự án bao gồm: 1 Đơn xin vay. 2 Quyết định thành lập doanh nghiệp. 3 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 4 Giấy phép hành nghề đối với những ngành nghề cần giấy phép. 5 Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong ba năm gần nhất. 6 Dự án khả thi hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật. 7 Giải trình hiệu quả kinh tế dự án của đơn vị. 8 Quyết định phê duyệt dự án đầu tư của cấp có thẩm quyền. 9 Các văn bản khác: thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, các quyết định, văn bản chỉ đạo, các văn bản liên quan ưu đãi, hỗ trợ... của các cấp ngành có liên quan như: - Phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường, phòng cháy chữa cháy. - Tài liệu đánh giá, chứng minh nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường của dự án. - Quyết định giao đất, cho thuê đất, hợp đồng thuê đât/thuê nhà xưởng để thực hiện dự án. - Các văn bản liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị mặt bằng xây dựng. - Thông báo kế hoạch đầu tư năm của cấp có thẩm quyền. - Tài liệu chứng minh về vốn đầu tư hoặc các nguồn vốn tham gia đầu tư dự án. - Các văn bản liên quan đến qúa trình đấu thầu thực hiện dự án: phê duyệt kế hoạch đầu thầu, kết quả đấu thầu, hợp đồng giao nhận thầu... - Hợp đồng thi công xây lắp, cung cấp thiết bị, phê duyệt hợp đồng nhập khẩu thiết bị. - Các tài liệu khác liên quan đến dự án (nếu có). Thẩm định khách hàng vay vốn: Ngân hàng thường phân biệt hai nhóm khách hàng vay vốn: khách hàng đã thiết lập mối quan hệ với ngân hàng và khách hàng mới quan hệ lần đầu với ngân hàng. Nhìn chung những thông tin mà ngân hàng cần thẩm định bao gồm: Năng lực pháp lý của khách hàng: việc xác định trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên trong quan hệ tín dụng là rất quan trọng. Năng lực pháp lý sẽ phản ánh vị trí , quyền hạn trách nhiệm của khách hàng trong việc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này đảm bảo cho ngân hàng xác định rõ đối tác trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng đúng theo quy định của pháp luật. Ngân hàng cần biết được ngân hàng sẽ hoạt động với chủ thể như thế nào , được công nhận như thế nào trước pháp luật sự tồn tại của nó là có hợp pháp hay không. Năng lực pháp lý của doanh nghiệp được thể hiện ở quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thời gian hoạt động, tổ chức của doanh nghiệp. Thẩm định năng lực và uy tín của khách hàng: Năng lực hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh thông qua: Ngành nghề kinh doanh: kiểm tra sự phù hợp về ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và phù hợp với dự án dự kiến đầu tư. Ngành nghề kinh doanh được phép hoạt động, xu hướng phát triển của ngành nghề trong tương lai. Mô hình tổ chức, bố trí lao động: phản ánh quy mô hoạt động của doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ quản lý, tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp, thu nhập của người lao động. Quản trị điều hành của Lãnh đạo: năng lực chuyên môn, năng lực quản trị điều hành, phẩm chất tư cách đạo đức, uy tín của lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp, đoàn kết trong lãnh đạo và trong doanh nghiệp, khả năng nắm bắt thị trường, thích hợp trong hội nhập thị trường. Quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng: quan hệ tín dụng, quan hệ tiền gửi, thanh toán. Trên cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức bố trí lao động, quan hệ của khách hàng , ngân hàng tiến hành nhận xét về khả năng làm việc, hiệu quả làm việc, uy tín của khách hàng trong quan hệ với ban hàng khác đặc biệt là trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng khác. Tuy nhiên công việc này mang tính tương đối vì nó khó có thể nhận xét được một cách toàn diện về năng lực của khách hàng. Nó mang tính chủ quan của ngân hàng. Mặt khác cũng khó có thể xác định được chỉ tiêu nào phản ánh một cách chính xác. Tình hình sản xuất kinh doanh: việc tính toán xác định các chỉ số đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng cần phải được thực hiện qua nhiều năm. Ngân hàng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá và so sánh với thực tế đặc điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để việc đánh giá được chính xác và toàn diện. Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng phản ánh khả năng của khách hàng trong việc thực hiện dự án. Có thể khách hàng trực tiếp đứng ra thực hiện dự án hoặc có người đỡ đầu để thực hiện dự án. Từ đó ngân hàng có cách quản lý hợp lý với những khoản vay. Việc xác định nhu cầu vay tín dụng, xác định quy mô hợp lý là rất quan trọng. Tuỳ theo hoạt động của khách hàng mà ngân hàng xác định nhu cầu vay vốn hợp lý. Tuỳ theo quy mô về vốn cần thực hiện mà ngân hàng xác định số vốn mà ngân hàng nên tham gia. Phân tích hiện trạng tài chính và dự báo về khả năng tài chính trong tương lai nhằm tiên lượng những trường hợp xấu có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Hồ sơ bảo đảm tiền vay: có thể bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng bay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Cũng có thể bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động: 1. Vòng quay của vốn lưu động Doanh thu thuần = Tài sản lưu động bình quân Chỉ số này cho biết số lần tất cả số vốn đầu tư được chuyển thành thanh toán thương mại. Chỉ số này thấp thì vốn đầu tư không được sử dụng một cách có hiệu quả, và có khả năng khách hàng dự trữ hàng hoá quá nhiều hay tài sản không được sử dụng có hiệu quả hoặc đang vay mượn quá mức. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời 2. Khả năng sinh lời của tổng tài sản: Lợi nhuận trước thuế = Tổng tài sản Chỉ số này xác định được khả năng sinh lời của tổng tài sản , tỷ lệ này càng cao càng tốt 3. Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế = Vốn chủ sở hữu Chỉ số này cho biết lợi nhuận thực tế đạt được trên vốn chủ sở hữu của khách hàng, đánh giá khả năng kinh doanh thực sự của doanh nghiệp. Chỉ số này càng cao càng tốt, ít nhất phải cao hơn lãi suất vay trong kỳ 4.Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (tỷ suất lợi nhuận ròng) Lợi nhuận sau thuế = doanh thu bán hàng Chỉ số này được tính để biết được năng lực kinh doanh, cạnh tranh của khách hàng trong việc tạo ra lợi nhuận, tỷ suất càng cao càng tốt. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn: 5. Hệ số nợ Tổng số nợ phải trả = Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp Chỉ số này phản ánh số nợ của doanh nghiệp so với tổng nguồn vốn. Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. 6. Cơ cấu nguồn vốn Tài sản lưu động = Tổng tài sản Chỉ số này cho biết được cơ cấu nguồn vốn có hợp lý hay không. Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề khác nhau mà xác định được tỷ số nào là hợp lý, tỷ số này sẽ lớn ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và nhỏ ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhóm chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng của khách hàng: 7. Tốc độ tăng trưởng tăng doanh thu: doanh thu kỳ hiện tại = *100% doanh thu kỳ trước 8. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận lợi nhuận kỳ hiện tại = *100% lợi nhuận kỳ trước Tốc độ tăng trưởng càng lớn càng tốt Thẩm định dự án đầu tư: Ngân hàng tiến hành thẩm định dự án đầu tư trên các khía cạnh: kinh tế xã hội, tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Ngân hàng thẩm định dự án đầu tư sẽ tập trung phân tích đánh giá về khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Các khía cạnh khác như hiệu quả về mặt xã hội, hiệu quả kinh tế nói chung sẽ được đề cập tới tuỳ theo đặc điểm và yêu cầu từng dự án. Các nội dung chính khi thẩm định dự án cần phải tiến hành bao gồm: 1. Đánh giá sơ bộ các nội dung chính của dự án: Đó chính là việc xác định mục tiêu đầu tư của dự án, sự cần thiết đầu tư dự án, quy mô đầu tư: công suất thiết kế, giải pháp công nghệ, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án, phương án tiêu thụ sản phẩm. Quy mô vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư theo các tiêu chí khác nhau (xây lắp, thiết bị, chi phí khác, lãi vay trong thời gian thi công và dự phòng phí, vốn cố định và vốn lưu động), phương án nguồn vốn để thực hiện dự án theo nguồn vốn sở hữu: vốn tự có, vốn được cấp, vốn vay, vốn liên doanh liên kết... Dự kiến tiến độ, triển khai dự án. 2. Thẩm định nguồn vốn và tính khả thi của phương án nguồn vốn: Vốn là yếu tố quan trọng để tiến hành đầu tư. Để tránh việc vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi so với dự kiến ban đầu dẫn đến việc không cân đối được nguồn vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Trên cơ sở tổng vốn đầu tư được duyệt ngân hàng xác định mức vốn tài trợ tối đa mà ngân hàng nên tham gia vào dự án, xác định tiến độ thực hiện dự án, tiến độ rót vốn. Cân đối nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn thực hiện dự án . Đây là một nội dung làm cơ sở cho việc thẩm định hiệu quả tài chính sau này. Tổng vốn đầu tư: Xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án. Tổng vốn đầu tư được xem xét ở các khía cạnh tính toán hợp lý, đúng đủ các khoản mục cần thiết, yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự phòng việc thay đổi tỷ giá hối đoái nếu dự án có sử dụng ngoại tệ. Trên cơ sở đó cán bộ thẩm định đưa ra cơ cấu đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo được mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án . Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án: dự án có nhiều hạng mục công trình không thể tiến hành cùng một lúc. Để đảm bảo nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, việc đánh giá về tiến độ thực hiện dự án và nhu cầu vốn cho từng giai đoạn như thế nào, có hợp lý hay không là rất quan trọng. Kiểm tra tính hiện thực của vốn tự có và vốn huy động khác,tránh tình trạng đơn vị kê khai vốn tự có cao để đảm bảo đủ tỷ lệ tham gia nhưng thực tế không có đủ vốn.Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong từng giai đoạn thực hiện dự án để đảm bảo tiến độ thi công. Doanh nghiệp phải bỏ vốn tự có của mình ra trước để đầu tư, số còn thiếu ngân hàng mới cho vay thêm.Việc xác định tiến độ thực hiện dự án, nhu cầu vốn làm cơ sở cho việc dự kiến tiến độ giải ngân, tính toán lãi vay trong thời gian thi công và xác định thời gian vay trả. Nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn tham gia tài trợ cho dự án, khả năng tham gia của từng loại nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa dự án đi vào hoạt động. Đối với những công trình đầu tư bằng nhiều nguồn vốn phải có xác nhận của cơ quan quản lý từ nguồn vốn nói trên. Vốn đầu tư tự có càng lớn thì mức độ rủi ro của vốn vay ngân hàng càng nhỏ và ngược lại. Từ kết quả phân tích tình hình tài chính của chủ đầu tư xem xét khả năng tham gia của nguồn vốn chủ sở hữu. chi phí của từng loại nguồn vốn, các điều kiện vay đi kèm của từng loại nguồn vốn. Cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của các nguồn vốn tham gia thực hiện dự án. 3. Thẩm định tính khả thi của dự án: Tính khả thi của dự án thể hiện ở các mặt sau: Đầu vào của dự án: Đây là yếu tố quan trọng quyết định tính kịp thời thông suốt trong quá trình thực hiện dự án. Nếu sản phẩm đầu vào ít, nhiều sẽ ảnh hưởng đến chi phí và tiến độ dự án. Do đó thẩm định xem xét các mặt: - Khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào: với quy mô sản xuất sảnphẩm của dự án, giải pháp cho đầu vào của dự án, chi phí vận chuyển, bốc dỡ. Nếu khan hiếm cần nhập khẩu hay không , giá cả có hợp lý với đầu ra hay không. Đây là một khía cạnh kỹ thuật quan trọng của dự án. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của dự án mà xem xét cụ thể yếu tố đầu vào khác nhau. Nhìn chung cần xem xét kỹ các vấn đề sau: nguồn vật liệu, nhà cung cấp, khả năng cung ứng, mức độ tín nhiệm. Sự ổn định và kịp thời trong việc cung cấp nguyên vật liệu sẽ đảm bảo tiến độ thời gian thực hiện dự án. Một khi không có được nguyên vật liệu thì dự án sẽ không vận hành được. Việc phân tích này nhằm xác định: dự án có chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào không? Những thuận lợi, khó khăn đi kèm để có thể chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. - Địa điểm xây dựng dự án: Địa điểm xây dựng thực hiện dự án liên quan đến sự hoạt động và hiệu quả của dự án sau này. Đó là sự xem xét cơ sở vật chất, hạ tầng hiện có của địa điểm xây dựng có thuận lợi và khó khăn gì cho việc thực hiện dự án. Sự thuận lợi về mặt giao thông, ảnh hưởng thuận lợi và khó khăn đến việc cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm hay không. - Kỹ thuật, công nghệ: Đây là yếu tố quyết định quy mô tính chất của dự án, thời gian hoạt động của dự án. Công nghệ có đảm bảo công suất dự kiến của dự án, phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có của doanh nghiệp? Đối với những thiết bị mới cần thuê tư vấn chuyên ngành để thẩm định được chính xác cụ thể. Công nghệ thường chiếm một tỷ lệ vốn lớn trong tổng vốn đầu tư. Đây là công cụ thực hiện dự án. Ngân hàng đánh giá công nghệ trên các mặt công suất hoạt động của thiết bị, công dụng của thiết bị trong hoạt động kinh doanh của dự án cũng như của doanh nghiệp, đặc biệt là giá cả của công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của dự án. - Tổ chức quản lý thực hiện dự án: dự án có khả thi hay không và thực hiện được phụ thuộc không nhỏ vào quá trình tổ chức và quản lý dự án. Do đó ở khâu này cần xem xét năng lực, uy tín của các nhà thầu, thi công, cung cấp thiết bị, công nghệ ... đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận, điều hành công nghệ thiết bị mới, đánh giá về nguồn nhân lực của dự án Thị trường và khả năng tiêu thụ đầu ra: Xác định được thị trường tiêu thụ sản phẩm là giải quyết được vấn đề hiệu quả của dự án. Vốn của dự án được quay vòng. Ngân hàng xem xét nhu cầu về sản phẩm của dự án , khả năng đáp ứng sản phẩm hiện tại trong tương lai, từ đó đánh giá khả năng của dự án. Phương thức tiêu thụ, mạng lưới phân bố có phải thiết lập hay không hay có sẵn, chi phí và doanh thu dự kiến, phạm vi phát huy tác dụng của dự án Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án đóng vai trò rất quan trọng, quyết định việc thành bại của dự án. Vì vậy, cán bộ thẩm định cần xem xét, đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định dự án. Các nội dung chính cần xem xét, đánh giá bao gồm: - Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm dự án: nhu cầu của sản phẩm thể hiện qua quan hệ cung cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định. Trên cơ sở xác định nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự an, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm dự án trong đó lưu ý liên hệ với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm dự án có thể bị thay thế bởi các sản phẩm khác có cùng công dụng. - Đánh giá các nguồn cung cấp sản phẩm: nguồn cung cấp sản phẩm thể hiện ở các khía cạnh cần xem xét sau: +Năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản phẩm dự án, các nhà sản xuất trong nước đáp ứng bao nhiêu phần trăm , phải nhập khẩu bao nhiêu. Việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn. +Những biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối tượng khác cùng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án. +Trong những năm qua sản lượng nhập khẩu sản phẩm của dự án là bao nhiêu, từ đó dự kiến khả năng nhập khẩu trong thời gian tới. - Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án Trên cơ sở đánh giá tổng quan về quan hệ cung cầu sản phẩm của dự án xem xét đánh giá về thị trường mục tiêu của sản phẩm dịch vụ đầu ra của dự án thay thế hàng nhập khẩu, xuất khẩu hay chiếm lĩnh thị trường nội địa của các nhà sản xuất khác hay không. Việc định hướng thị trường này có hợp lý hay không. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá cả, mẫu mã, chất lượng... khi gia nhập thị trường. - Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối: Đây là một mặt rất quan trọng nó ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án. Dự án sản xuất ra sản phẩm cần phải được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân phối hay không. Mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập hay chưa. Cán bộ thẩm định cũng phải ước tính chi phí thiết lập mạng lưới khi tính toán hiệu quả của dự án. Những biện pháp để có thể cạnh tranh với những sản phẩm khác trên thị trường như quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị... - Đánh giá dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án :trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm của dự án. Cán bộ thẩm định xác định sản lượng sản xuất, tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm; diễn biến giá bán sản phẩm , dịch vụ đầu ra hàng năm. Việc dự đoán này làm cơ sở cho việc tính toán, đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. 4-Thẩm định hiệu quả dự án đầu tư: hiệu quả của dự án thể hiện ở hai mặt tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Việc xác định hiệu quả tài chính của dự án có chính xác hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá và đưa ra các giả định ban đầu: nguồn vốn, thị trường, đầu vào đầu ra, công nghệ... Kiểm tra việc tính toán giá thành chi phí sản xuất: dự án đã đủ các yếu tố chi phí vào giá thành chưa?: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí quản lý, chi phí vận chuyển... Kiểm tra sự hợp lý các định mức tiêu hao nguyên vật liệu năng lượng...so với các dự án cùng loại. Tỷ lệ trích khấu hao để đưa vào giá thành có hợp lý hay không? Các chi phí khác có điểm nào không phù hợp không? Kiểm tra tính chính xác, tính hợp lý của các số liệu đưa vào bảng dự trù doanh thu lời lỗ của dự án qua các năm: xem xét khả năng tỷ lệ đạt công suất, hoạt động qua các năm. Khả năng đạt doanh thu để so sánh với tổng chi phí tính ra lợi nhuận có thể đạt được qua các năm. Nếu là đầu tư cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất thì so sánh thêm hiệu quả trước khi đầu tư và sau khi đầu tư. Thẩm định hiệu quả đầu tư -hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án: Xác định kết quả kinh doanh: Căn cứ vào công suất thiết kế của công trình và khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, giá bán sản phẩm, có thể xác định được doanh thu, doanh lợi của dự án trong các năm doanh nghiệp còn phải trả nợ vốn vay đầu tư xây dựng công trình. Doanh lợi của dự án được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất, giá bán buôn sản phẩm-dịch vụ của dự án. Cần chú ý các chỉ tiêu: + Chỉ tiêu tổng sản lượng: là giá trị sản phẩm dịch vụ tiêu thụ được trong năm có thể sản xuất và cung cấp được. + Chỉ tiêu tổng doanh thu: là giá trị sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ được trong năm theo dự kiến. + Lợi nhuận trước thuế: là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ. + Lợi nhuận sau thuế: là lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi phần đóng góp cho nhà nước theo tỷ lệ quy định. + Lợi nhuận dành để trả nợ: là phần lợi nhuận sau thuế được trính để trả nợ. Xác định cân đối kế toán của dự án: Tình trạng tài chính của dự án được phản ánh qua tài sản và nguồn vốn trong từng năm hoạt động. Xác định cân đối giữa tài sản và nguồn vốn của dự án nhằm đánh giá khả năng cân bằng tài chính của dự án trong quá trình hoạt động. Bảng cân đối kế toán của dự án được xác định theo: + Tài sản của dự án bao gồm: *Nhu cầu tiền mặt tối thiểu: được xác định dựa trên các yếu tố: số ngày dự trữ (thông thường là 10-15 ngày). Bằng tổng các khoản chi phí bằng tiền mặt trong năm (chi lương, chi phí quản lý...) chia cho số vòng quay. Thông thường trong các dự án đơn giản, nhu cầu tiền mặt có thể tính theo tỷ lệ % doanh thu. *Các khoản phải thu: bao gồm phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác, dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Được xác định dựa trên số ngày dự trữ tuỳ thuộc vào đặc điểm của ngành hàng và chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Bằng tổng doanh thu trong năm chia cho số vòng quay. *Hàng tồn kho bao gồm: nguyên vật liệu dự trữ, bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho. Được xác định dựa vào chu kỳ sản xuất, điểm cung cấp nguyên vật liệu (ổn định hay không, thời gian vận chuyển...), phương thức tiêu thụ và tình hình thị trường. Giá trị nguyên vật liệu được xác định bằng tổng chi phí của từng loại nguyên vật liệu trong năm chia cho số vòng quay. Giá trị bán thành phẩm được xác định bằng tổng giá thành phân xưởng chia cho số vòng quay. Giá trị thành phẩm được xác định bằng tổng giá vốn hàng bán trong năm chia cho số vòng quay. *Tài sản cố định: được xác định từ lịch đầu tư và mức trích khấu hao. Giá trị tài sản cố định bằng giá trị vốn đầu tư cho tài sản trừ đi số đã trích khấu hao của tài sản cho chi phí. +Nguồn vốn của dự án bao gồm: *Các khoản phải trả: bao gồm lãi vay ngắn hạn, dài hạn. Bằng khoản dư nợ cuối kỳ trừ đi nợ đến hạn trả. *Nguồn vốn chủ sở hữu: bao gồm vốn tự có và lợi nhuận tích luỹ. Vốn tự có được xác định từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Lợi nhuận tích luỹ được xác định từ báo cáo thu nhập của dự án. Xác định dòng tiền của dự án: Bảng cân đối tài sản và báo cáo thu nhập là những cơ sở để lập bảng báo cáo tài chính (dòng tiền) vì vậy cần phải xác định trước báo cáo tài chính của dự án. Một dự án cần xác định được lượng tiền đi vào (lượng tiền thu vào) và đi ra (số tiền chi ra) từ dự án. Do đó cân đối dòng tiền là mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án. Thu chi của dự án được xác định từ những thông tin trong các báo cáo tài chính, song vấn đề cần phân biệt giữa doanh thu và khoản thu, giữa khoản mua và khoản chi trước khi xây dựng dòng tiền cho dự án. + Doanh thu là giá trị hàng hoá bán đ._.thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì đã không ngừng được đổi mới và nâng cao. Tuy nhiên so với yêu cầu mà nền kinh tế đòi hỏi thì ngân hàng còn chưa đáp ứng hết được với tiềm năng của một ngân hàng thương mại hàng đầu của đất nước. Chất lượng thẩm định là một trong những nguyên nhân quan trọng có ảnh hưởng lớn đến việc cho vay đầu tư của ngân hàng, kết quả kinh doanh của ngân hàng như lợi nhuận thu được từ dự án, nợ quá hạn, vòng quay vốn của ngân hàng. Hoạt động thẩm định ở Ngân hàng còn tồn tại một số mặt sau: - Các dự án mà ngân hàng thực hiện thẩm định cho vay phụ thuộc vào chỉ tiêu giao kế hoạch vốn từ Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam. Việc tự tìm kiếm các dự án là tương đối mới mẻ đối với ngân hàng. Do đó khó tránh khỏi những thiếu sót, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức rất vững về mọi mặt: kinh tế, thị trường, ngân hàng, kỹ thuật, kế toán, phân tích tổng hợp... - Tuy đã có nhiều cố gắng trong hoạt động thẩm định dự án nhưng kết quả thẩm định, phân tích đánh giá dự án chưa cao. Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR thời gian hoàn vốn và một số chỉ tiêu khác chỉ mang tính hình thức, chưa được xem là những chỉ tiêu cơ bản cho việc phân tích, đánh giá lựa chọn dự án. Các chỉ tiêu này được tính như một chỉ tiêu bổ xung tham khảo. Đặc biệt trong thẩm định chưa dự đoán được hết rủi ro tiềm ẩn trong đầu tư dự án. -Tại chi nhánh, bộ phận thẩm định luận chứng kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư chưa tách biệt với bộ phận tín dụng, cán bộ tín dụng kiêm cả hoạt động tín dụng và thẩm định do vậy có ảnh hưởng tới công tác chuyên môn thẩm định. - Hiện nay tại chi nhánh các văn bản chế độ thẩm định dự án đầu tư còn thiếu nhiều. Các văn bản liên quan về thẩm định hầu như không có và được cập nhật kịp thời như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng thông tư hướng dẫn của bộ khoa học công nghệ và môi trường, các văn bản về đơn giá xây dựng cơ bản của uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội và các văn bản dưới luật của nhà nước và ngân hàng... đã ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án tại chi nhánh. - Hiện nay, các dự án vay vốn đầu tư được đảm bảo vốn vay bằng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay. Vì vậy, với những dự án thẩm định không chặt chẽ sẽ dẫn đến hậu quả là không phát huy được hiệu quả kinh tế của dự án, dự án không có khả năng trả nợ và hậu qủa nghiêm trọng là ngân hàng sẽ phải ôm về cho mình những dây chuyền thiết bị công nghệ cũ kỹ lạc hậu, khó có thể bán hoặc cho ai thuê. Chương III : Một số kiến nghị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì - Hà nội là một ngân hàng thương mại quốc doanh có hoạt động đặc biệt là kinh doanh tiền tệ. Chuyển sang hoạt động trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng đã phải đối phó với rất nhiều khó khăn và thách thức mới. Nhìn chung Ngân hàng đã có những thành công đáng kể trong hoạt động thẩm định cho vay tại ngân hàng. Tuy nhiên cần nhận rõ một số điểm đáng lưu ý cho hoạt động thẩm định mới nhằm nâng cao hơn nữa sức mạnh của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như của chính ngân hàng. I. Quan điểm nhận thức về công tác thẩm định. Công tác thẩm định là nhiệm vụ chuyên môn của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì từ ban lãnh đạo đến trưởng phó phòng và các cán bộ tín dụng trực tiếp làm công tác thẩm định kể cả cán bộ nghiệp vụ có liên quan. Việc nhận thức sâu về vai trò , yêu cầu của công tác này đối với toàn bộ hoạt động ngân hàng đầu tư phát triển là rất quan trọng. Thời gian cho vay và thu hồi vốn đối với loại cho vay này kéo dài từ 3 đến 10 năm. Đặc biệt trong quá trình đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường hoạt động kinh tế có nhiều phức tạp. Do vậy, nếu không làm tốt công tác thẩm định thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng nói riêng và chất lượng hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó việc thống nhất quan điểm nhận thức trong công tác thẩm định là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu qủa thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng. Một số quan điểm về công tác thẩm định dự án cần quán triệt là: * Công tác thẩm định của ngân hàng đầu tư và phát triển trước hết phải từ góc độ của người bỏ vốn, người cho vay vốn để xem xét và thẩm định dự án. * Công tác thẩm định của ngân hàng đầu tư và phát triển phải được xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành nhằm phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước, nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát triển trong từng giai đoạn với phương châm: Vững chắc trong tăng trưởng, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, tiếp tục đổi mới toàn diện, mở rộng thị phần, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và các loại dịch vụ, tăng cường quản trị điều hành, lấy hiệu quả và tiết kiệm chi phí làm mục tiêu hoạt động, củng cố và giữ vững uy thế, vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phục vụ đầu tư phát triển của toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam. *Công tác thẩm định dự án phải được coi là một nghiệp vụ trong nhiệm vụ chuyên môn của mỗi cán bộ tín dụng, đồng thời phải được phổ biến đến các cán bộ nghiệp vụ để từng cán bộ hiểu sâu sắc về tầm quan trọng của công việc này nhằm có sự phối kết hợp giữa các bộ phận giúp cho cán bộ làm công tác thẩm định có điều kiện hoàn thành tốt hơn công tác này. *Công tác thẩm định phải có sự chỉ đạo từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội xuống các chi nhánh thực hiện như việc ban hành hướng dẫn cụ thể, kịp thời những thay đổi phát sinh mới trong quy trình thẩm định dự án để thống nhất trong toàn ngành để cán bộ dễ thực hiện. *Công tác thẩm định phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong cả quá trình bỏ vốn (trước, trong, và sau), từng cán bộ tín dụng có làm được như vậy mới có khả năng đảm bảo an toàn vốn vay. *Công tác thẩm định phải được thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra những mặt tồn tại còn chưa làm được để có biện pháp chấn chỉnh và đưa ra những đề xuất mới cho việc thẩm định được tốt hơn. *Công tác thẩm định phải được coi trọng, thiết thân với người lãnh đạo, từ đó có kế hoạch biện pháp tổ chức chỉ đạo điều hành cụ thể phát huy vai trò tham mưu có hiệu qủa cho lãnh đạo ngân hàng cấp trên. *Cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định phải luôn chủ động, năng lực sáng tạo, có khả năng tổng hợp, phân tích và năng lực tổng kết thực tiễn và có tâm với nghề nghiệp. Đồng thời ở chi nhánh cần phải có những cán bộ thẩm định giỏi về các lĩnh vực để giúp cho việc điều tra dự án đem lại hiệu quả cao. II. kiến nghị Về phía Ngân hàng 1. Tổ chức điều hành: Các dự án đến với ngân hàng thường có quy mô và lĩnh vực hoạt động rất khác nhau. Việc phân bổ cán bộ phụ trách cần dựa vào năng lực của mỗi người, đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để phát huy hơn nữa trình độ kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ. Do đó công tác tổ chức quản lý điều hành là rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chất lượng thẩm định. Để đáp ứng yêu cầu của công việc ngân hàng cần quan tâm đến các vấn đề sau: - Tuyển chọn cán bộ: Ngân hàng cần có một chế độ tuyển dụng thích đáng để có thể thu hút được những người có năng lực, trình độ. Có thể tuyển dụng những người được đào tạo từ các trường liên quan đến chuyên ngành như ngân hàng, tài chính, kinh tế, kỹ thuật... Mặt khác, sự cải tiến chế độ làm việc của ngân hàng có thể thu hút những cán bộ chuyên môn giỏi về làm việc tại chi nhánh tạo nên nguồn lực mạnh giúp cho hoạt động của ngân hàng ngày một hiệu quả hơn. - Phân công công việc: việc phân công công tác phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ. Ngân hàng nên rà soát lại đôi ngũ cán bộ thẩm định, chuyển sang làm những công việc khác đối với những cán bộ thẩm định không đáp ứng yêu cầu công việc, bổ xung thêm cán bộ vào những bộ phận còn thiếu. Bố trí các cán bộ có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí chủ chốt để phát huy hơn nữa sức mạnh của yếu tố con người. - Đào tạo cán bộ: Ngân hàng cần tiến hành đào tạo mới và đào tạo lại để nâng cao trình độ, khả năng làm việc của tất cả cán bộ thẩm định. Ngân hàng tổ chức cho cán bộ có khả năng tham gia vào các khoá học nâng cao hoặc bổ trợ cho nghiệp vụ chuyên môn thông qua các khoá học ngắn hạn có thể kéo dài một hoặc hai năm ở các trường nghiệp vụ chuyên môn. Ngân hàng thường xuyên cập nhật hướng dẫn các văn bản luật, chính sách mới của nhà nước. Tổ chức trao đổi nghiệp vụ chuyên môn trong phòng cũng như của các ngân hàng bạn. Đồng thời ngân hàng tạo điều kiện cho các cán bộ được tham gia các khoá học đào tạo chuyên môn nghiệp vụ trong và ngoài ngành nhằm nâng cao năng lực của tất cả các cán bộ trong ngân hàng. - Chính sách động viên đãi ngộ: Thu hút cán bộ có chuyên môn giỏi là một vấn đề khó đối với công tác tuyển dụng nhưng để có thể phát huy cao năng lực làm việc của cán bộ cũng cần đặc biệt quan tâm. Ngân hàng nên có chính sách đãi ngộ khuyến khích trách nhiệm, ý thức vươn lên để hoàn tất công việc được giao. Đồng thời cũng có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của ngân hàng bên cạnh chế độ khen thưởng rõ ràng đối với cán bộ làm việc giỏi. Hàng năm, ngân hàng có thể tổ chức cho cán bộ đi nghỉ mát, du lịch thăm quan tạo động lực phấn đầu cho cán bộ, cơ hội thăng tiến trong công việc. Bên cạnh đó, ngân hàng nâng cao ý thức phê bình và tự phê bình để đẩy mạnh hơn nữa chất lượng làm việc của ngân hàng. Mặt khác chi nhánh có số cán bộ hoạt động đa số là nữ giới nên cũng cần chú ý đến chế độ nghỉ đẻ, thai sản... tạo điều kiện cho chị em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngân hàng có một đội ngũ làm việc trẻ trung, phần lớn là thanh niên nên cũng cần chú ý đến các hoạt động công tác đoàn, công đoàn để phát huy sức mạnh của thanh niên trong ngân hàng. Cần có sự phối hợp giữa Ngân hàng trung ương và Ngân hàng địa phương: Ngân hàng ĐT&PT Hà nội là nơi chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ngân hàng Thanh Trì, ra văn bản hoạt động và trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo trong việc phát triển nghiệp vụ ngân hàng. Hiện tại, hoạt động thẩm định tại chi nhánh chưa có phòng chức năng, chuyên môn riêng. Thẩm định chủ yếu là do cán bộ tín dụng thực hiện. Việc chuyên môn hoá hoạt động thẩm định là rất cần thiết. Thẩm định là một hoạt động quan trọng, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có sự am hiểu sâu rộng nhiều lĩnh vực : pháp luật, thị trường, kinh tế, ngân hàng... nhờ đó mà thẩm định dự án đầu tư được chính xác và có hiệu quả. Bộ phận thẩm định được thành lập riêng rẽ sẽ đi sâu vào nghiệp vụ thẩm định chi tiết dự án đầu tư, đảm bảo tính chính xác của dự án đầu tư trên các mặt: kỹ thuật, kinh tế , thị trường... Sự chuyên môn hoá hoạt động thẩm định sẽ nâng cao chất lượng và kết quả công tác thẩm định. 2. Năng lực chuyên môn của cán bộ thẩm định. Lực lượng lao động trong hệ thống Ngân hàng nói chung hầu hết chuyển tiếp từ hệ thống Ngân hàng thời bao cấp. Số mới tuyển dụng chưa tích luỹ được nhiều kiến thức về ngân hàng trong cơ chế thị trường. Do đó sự không bắt mạch với sự phát triển của xã hội là điều khó tránh khỏi và sẽ bỏ lỡ cơ hội, hay có lúc không đủ sức thẩm định những dự án lớn, đầu tư dẫn đến rủi ro. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thẩm định cho cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định. Thẩm định là hoạt động mang tính chủ quan và chịu tác động từ cán bộ thẩm định, kết quả thẩm định là cơ sở ra quyết định tín dụng của ngân hàng, cho nên đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định là điều hết sức cần thiết. Nó sẽ giúp cho cán bộ thẩm định vững vàng, tự chủ sáng suốt trong việc đánh giá xem xét dự án. Làm tốt công tác cán bộ ngân hàng sẽ tránh được những rủi ro đáng tiếc xảy ra - phòng bệnh hơn chữa bệnh. Đây là công việc cần được chú trọng nhằm đưa hoạt động thẩm định dự án đầu tư ngày càng hoàn thiện. 3. Thông tin, trang thiết bị: Việc thu thập đầy đủ để xử lý chính xác thông tin là điều kiện cần cho những nhận xét, đánh giá đúng đắn, thẩm định dự án đầu tư là yêu cầu cần thiết trước khi xác lập quan hệ tín dụng với khách hàng. Có một hệ thống công nghệ trang thiết bị hiện đại sẽ hỗ trợ rất lớn cho công việc này. Hiện nay, trụ sở của chi nhánh chưa đủ điều kiện , tầm cỡ của một ngân hàng trong cơ chế thị trường. Để ngân hàng có thể cạnh tranh được trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cũng như đáp ứng xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực thì ngân hàng cần phát triển hoàn thiện hơn nữa hệ thống trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của ngân hàng. Giải pháp công nghệ hiện đại, áp dụng kỹ thuật phân tích tính toán hiện đại có thể giải quyết được các dự án phức tạp. Mỗi cán bộ phải được trang bị một máy tính. Hệ thống máy tính cần được đổi mới để nâng cao hiệu qủa của thiết bị, hệ thống hiện tại đã cũ và khấu hao gần hết. Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thông tin tổng hợp và tư duy, do vậy lắp đặt một hệ thống nối mạng giữa các bộ phận trong ngân hàng là rất thiết thực. Bên cạnh đó Ngân hàng cần phải tiến hành sưu tầm tất cả các văn bản chế độ, quy định của pháp luật liên quan đến công tác tín dụng và thẩm định dự án giao cho phòng kinh doanh bảo quản lưu giữ. Đồng thời hàng quý, hàng năm chi nhánh tổ chức mời các chuyên gia, thầy giáo giỏi về pháp luật về chế độ xây dựng cơ bản... để truyền đạt kiến thức cho cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ làm công tác tín dụng, thẩm định nhằm nâng cao hơn nữa kiến thức chuyên môn. Để có thể thu thập được đầy đủ thông tin kịp thời ngân hàng cần thực hiện khai thác triệt để thông tin từ các nguồn sau: - Thông tin từ trung tâm thông tin rủi ro ngân hàng nhà nước, các cơ quan kiểm toán, cơ quan chủ quản cấp trên, cơ quan quản lý nhà đất, chính quyền địa phương. - Thông tin nắm bắt qua trao đổi phỏng vấn khách hàng nhằm mục đích đánh giá nhận xét tư cách, năng lực, phẩm chất, uy tín của khách hàng và giải trình những điểm chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn. - Thông tin từ quan hệ tín dụng, thanh toán tiền gửi của khách hàng với các ngân hàng khác. Trong điều kiện khách hàng quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng đòi hỏi xác định chính xác thông tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với từng ngân hàng. Các thông tin lấy từ số liệu sổ sách chứng từ kế toán, báo cáo tài chính của khách hàng, từ số liệu do trung tâm rủi ro ngân hàng nhà nước cung cấp, thông tin qua bạn bè, dư luận xã hội, báo chí, và số liệu từ chính ngân hàng mình và từ đó xác định số liệu thực tế của khách hàng và tính trung thực, chính xác của các thông tin này. - Thông tin từ khách hàng cung cấp từ hồ sơ vay: Căn cứ tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, vốn tự có thực tế, chất lượng tài sản nợ, tài sản có, hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán... Các thông tin này nên thu thập theo số liệu 3 năm liên tục trước thời điểm xin vay để ngân hàng có thể rút ra được kết luận chính xác. - Điều tra thực tế tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiến hành kiểm tra khảo sát, tham quan thực tế tại các nhà máy, phân xưởng văn phòng... và gặp gỡ trao đổi với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp để có đánh giá chính xác về trình độ quản lý kỹ thuật, chất lượng uy tín sản phẩm trên thị trường của khách hàng hiện tại và tương lai. 4. Thực hiện công tác khách hàng: Khách hàng là đối tượng hoạt động quan trọng của ngân hàng, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì vậy, công tác khách hàng cực kì quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay trên địa bàn Huyện Thanh Trì có 24 xã, một thị trấn và gần 400 doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Với lợi thế về lĩnh vực đầu tư phát triển ban lãnh đạo chi nhánh phải lập ra kế hoạch lên phương án cử cán bộ tín dụng đi tiếp thị, khảo sát các doanh nghiệp có nhu cầu dự án trên địa bàn huyện Thanh Trì và các vùng lân cận. Từ đó, ngân hàng mới có điều kiện tham gia vào các dự án ở giai đoạn tiền khả thi và có thể làm tốt công tác tư vấn giúp cho các doanh nghiệp tiến hành phân tích xem xét dự án của mình có thực hiện được không. 5. Nội dung thẩm định : - Chỉ tiêu tài chính: Một điểm dễ nhận thấy trong quá trình thẩm định tại Ngân hàng là số liệu phân tích ở trạng thái tĩnh trong khi hoạt động của ngân hàng chịu yếu tố ảnh hưởng của thời gian. Việc đánh giá xem xét theo mặt băng trung bình một năm chỉ đáp ứng yêu cầu xác định thời gian trả nợ theo phương pháp giản đơn. Các dự án đầu tư thường có vòng đời dài, vốn lớn. Việc không quy đổi các khoản thu chi về cùng một mặt bằng thời gian làm cho sự phân tích dự báo có sự sai lệch. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay , những rủi ro , biến động kinh tế có thể xuất hiện như trượt giá, lạm phát... Vì vậy, cần phải có phương pháp quy đổi giá trị của dòng tiền ở các thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét, phân tích tạo điều kiện so sánh lựa chọn dự án. Để có thể quy đổi giá trị của các dòng tiền về cùng một mặt bằng thì việc xác định tỷ suất chiết khấu cũng rất quan trọng. Căn cứ vào các nguồn vốn tham gia dự án để xác định tỷ suất chiết khấu hợp lý. Những dự án đầu tư bằng nguồn vốn tự có là chủ yếu thì tỷ suất chiết khấu được tính bằng khả năng sinh lời vốn tự có của doanh nghiệp. Trường hợp dự án thực hiện chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng thì tỷ suất chiết khấu là lãi suất cho vay của ngân hàng. Trường hợp nguồn vốn tham gia dự án gồm nhiều nguồn khác nhau thì ta xác định tỷ suất chiết khấu bình quân trong đó : ki: lượng vốn nguồn i tham gia vào dự án. ri: khả năng sinh lời của nguồn vốn i n: số nguồn vốn tham gia vào dự án Trong quá trình phân tích dự án, phần giá trị thanh lý tài sản cuối đời dự án chưa được quan tâm đến. Khoản này sẽ được cộng vào khoản tiền thu ở cuối năm dự án. Ngân hàng cần chú ý xác định đúng giá trị khoản tiền này. Việc đi sâu phân tích đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm giải pháp công nghệ, chất lượng sản phẩm của dự án, ảnh hưởng tới môi trường ... Cần chú ý tới các chỉ tiêu như giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), tính kỳ hoàn vốn có chiết khấu, xác định điểm hoà vốn cần phải được áp dụng rộng rãi và phải trở thành quy định bắt buộc đối với việc phân tích đánh giá dự án tại chi nhánh. Đặc biệt trong việc xem xét các chỉ tiêu, ngân hàng chỉ dừng lại ở năm xem xét cho vay dự án. Việc xem xét các chỉ tiêu nên tiến hành trên cả đời dự án để đảm bảo tính chính xác và sát thực của dự án. - Phân tích thị trường của dự án: đây là khâu quan trọng phản ánh tính khả thi của dự án. Chủ đầu tư nhiều khi không lường hết được các yếu tố, hoặc do chủ quan duy ý chí mà không tính đến đầu ra của sản phẩm, chất lượng giá cả... do đó cán bộ tín dụng cần chú ý đến : + Tính tiến bộ hay lạc hậu của công nghệ sản xuất ra sản phẩm. + Tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm. + Thị hiếu người tiêu dùng về sản phẩm đó. + Tính kinh tế, chính trị nói chung của thị trường trong và ngoài nước có ảnh hưởng liên quan đến sản phẩm. + Tính thực thi của các hợp đồng về tiêu thụ sản phẩm vì có khi hợp đồng chỉ có tính chất hình thức không thể là căn cứ để đánh giá khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án. - Phân tích độ nhạy của dự án: Độ nhạy của dự án là một chỉ tiêu quan trọng xác định hiệu qủa tài chính của dự án. Nó phản ánh nếu những biến động lớn xảy ra mà dự án vẫn đảm bảo các chỉ tiêu tài chính thì dự án vay vốn của ngân hàng là có hiệu quả cao. Dự án được xem xét trên một loạt giả thiết nên sự sai lệch là khó tránh khỏi. Sử dụng chỉ tiêu độ nhạy của dự án sẽ giúp ngân hàng xác định được tính hiệu quả và ổn định của dự án cho vay vốn. Tuy nhiên, việc phân tích rủi ro còn nhiều bật cập. Các chỉ tiêu trong phân tích còn đơn giản, không được tập hợp từ các dự báo tổng hợp mà chủ yếu là do chủ quan của cán bộ hoặc dựa vào báo cáo của chủ đầu tư. Thực tế việc lập và đánh giá dự án theo mặt bằng giá của một năm nào đó làm sai lệch đáng kể tình trạng dự án và không ít trường hợp dẫn đến những sai lầm khi xem xét đánh giá dự án. Do đó khi đánh giá dự án phải tính đến những khả năng tác động đến dự án như tỷ giá hối đoái thay đổi ảnh hưởng đến chi phí thực tế của các dự án vay ngoại tệ, thuế tăng lên ảnh hưởng đến chi phí xuất xưởng của dự án, những tác động làm tăng giảm doanh thu do nhu cầu thị trường và khả năng cung cấp của thị trường trong tương lai. Ngân hàng có thể xem xét độ nhạy của dự án thông qua những biến động ở các khoản thu chi của dự án. Doanh thu của dự án có thể giảm đi khi không bán được hàng hoặc dự án có thể tăng các khoản phải thu. Trong dự án trên chỉ xem xét công suất sản xuất của dự án chứ chưa phản ánh được công suất tiêu thụ của dự án. Về mặt chi phí có thể tăng lên do lãi suất tăng. Với dự án trên thì lãi suất cho vay ngoại tệ thay đổi 8.5%/năm xuống 7.2%/năm năm 1999. Như vậy có những thời điểm tỷ giá hối đoái tăng giảm sẽ ảnh hưởng đến giá trị phát vay của ngân hàng làm tăng vốn đầu tư của ngân hàng vào dự án. Mặt khác chi phí có thể tăng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hay sản xuất chung của dự án. Đây là những nhân tố rất khó dự đoán, do đó có thể xem xét mức độ thay đổi các chỉ tiêu theo tỷ lệ % so với dự án đầu tư ban đầu để xác định độ an toàn , hiệu quả của dự án. - Thông tin khách hàng. Ngân hàng đã cố gắng trong việc thu thập thông tin qua nhiều biện pháp trực tiếp và gián tiếp, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào báo cáo tài chính, và các báo cáo khác của chủ đầu tư. Trong đó các báo cáo này không thể thoát khỏi độ trễ về thời gian. Đó là chưa nói đến các báo cáo của doanh nghiệp chưa được thống nhất thực hiện kiểm toán bắt buộc. Nhiều doanh nghiệp chưa có đủ báo cáo , thường thiếu, gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc tổng hợp số liệu. Ngân hàng đã có sự tiếp cận làm tăng lượng khách hàng truyền thống tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu thập thông tin. Tuy nhiên cần phải cải tiến chính sách lựa chọn khách hàng, lựa chọn đối tác đầu tư có trọng điểm không tràn lan. Nhiều dự án là mới mẻ đối với ngân hàng, việc tìm hiểu khách hàng và dự án là không hề dễ dàng. Ngân hàng cần đi học hỏi thêm ở các ngân hàng bạn trong những lĩnh vực này. Tìm hiểu khách hàng thì tài sản thế chấp chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ để an toàn trong tín dụng là phương án kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp có uy tín và được tín nhiệm trong thương trường. Theo quy định của pháp luật thì khách hàng vay có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin tài liệu một cách trung thực liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin tài liệu. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt cho vay thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật. Tuy nhiên không một tổ chức tín dụng nào muốn chấm dứt hợp đồng và thu nợ trước hạn. Ngân hàng không thể phủ nhận trên thực tế có doanh nghiệp đã không sòng phẳng trong việc cung cấp các báo cáo tài chính. Cho nên ngân hàng cần thu hút khách hàng, khai thác thông tin chính xác. Ngày nay, phần lớn các doanh nghiệp đều được ứng dụng tin học, việc lập báo cáo định kỳ là không có gì trở ngại. Hình thức yêu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng là rất tốt. Tuy nhiên việc thanh toán này chưa được phổ biến và bản thân doanh nghiệp cũng không muốn bị kiểm tra nguồn thu chi của mình. Đây cũng là một thách thức đối với ngân hàng. Xây dựng một chiến lược khách hàng có sức cạnh tranh là một mục tiêu hàng đầu của ngân hàng. Để làm được điều đó thì ngân hàng phải nghiên cứu các mặt thị trường , đối thủ và chính mình. Về phía ngân hàng, do cạnh tranh với nhau để chiếm thị phần đầu tư vốn vào các doanh nghiệp cho nên nhiều trường hợp ngân hàng cho vay đã dễ dãi với doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin, báo cáo tài chính. Nếu ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp cung cấp tài liệu theo đúng chế độ thì bị xem là “đòi hỏi” so bì với ngân hàng khác. III. kiến nghị với cơ quan cấp trên 1. Nhà nước: a) Cải thiện môi trường kinh tế: Các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điều chỉnh. Nhiều doanh nghiệp trong kế hoạch kinh doanh đã không theo kịp nên bị động, dự báo nhu cầu không sát nên dẫn đến phát triển tràn lan như : thép, mía đường, gốm sứ... Việc ban hành một số chủ trương chính sách kinh tế của chính phủ do không dự đoán được trước những khó khăn vướng mắc khi triển khai thực hiện dự án nên đã tạo ra những rủi ro không dự đoán được. Đã có không ít doanh nghiệp bị thua lỗ do không theo kịp chính sách quản lý kinh tế mà hậu quả là các ngân hàng cho vay phải chịu. Nhà nước cần đưa ra chính sách phát triển hợp lý, tránh những tình trạng xấu cho việc thực hiện hành động của các tổ chức kinh tế, gây thiệt hại cho cả chủ đầu tư và nền kinh tế. b) Cải thiện môi trường pháp lý: Hành lang pháp lý là công cụ quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế. Tuy nhiên hệ thống pháp lý ở Việt nam cần phải được hoàn thiện hơn nữa để điều chỉnh không chỉ hoạt động của ngân hàng mà của cả khách hàng. Sự rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đã là rủi ro lớn nhất trong mọi hoạt động kinh doanh, nhưng rủi ro ngân hàng ở Việt nam còn bị nhân lên bởi vì: điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa không ổn định, đôi khi lại không rõ ràng, hoặc có luật rồi mà không thực hiện được. Bên cạnh đó một số chủ trương chính sách của ngành ngân hàng lại luôn bị thay đổi, thậm chí chỉ trong thời gian ngắn nhiều vấn đề thực tế đã xảy ra nhưng lại chưa được quy định bổ xung kịp thời. Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy để đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện luật ngân hàng, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả và năng động, an toàn. 2. Ngân hàng cấp trên Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đặc biệt trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, kiện toàn và củng cố lại, tập trung phát triển theo định hướng của ngân hàng về vai trò chủ đạo của ngân hàng quốc doanh là rất cần thiết. Bên cạnh đó cần tích cực tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành nâng cao sự hiểu biết hợp tác giữa các chi nhánh. Trong năm tới , ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội phấn đấu đưa toàn hệ thống ngân hàng mình đi vào hoạt động theo tiêu chuẩn ISO 9000. Hỗ trợ nguồn nhân lực cho các thành viên của ngân hàng. Tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt cho các chi nhánh hoạt động đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước và phù hợp với vai trò của Ngân hàng đầu tư và phát triển. Ngân hàng nhà nước có những chiến lược phát triển mới cho toàn ngành ngân hàng, đảm bảo sự phát triển bình đẳng giữa các ngân hàng. Đồng thời tạo điều kiện cho sự hợp tác hoạt động giữa các ngân hàng đối với những dự án quy mô lớn. Việc này sẽ tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong việc thẩm định dự án đầu tư. IV. về phía Đối tác đầu tư Khách hàng vay vốn-chủ đầu tư- là người trực tiếp chịu trách nhiệm về dự án vay vốn cần chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng quy định của pháp luật. Sự hợp tác của chủ đầu tư đảm bảo 90% thành công của công tác thẩm định cho vay đầu tư của ngân hàng. Kết quả thẩm định là cơ sở để chủ đầu tư có thể thu hút vốn từ phía ngân hàng. Việc xem xét đánh giá kỹ lưỡng dự án đầu tư trên các mặt: thị trường, kỹ thuật, tài chính vừa có lợi cho chủ đầu tư và ngân hàng. Đồng thời chủ đầu tư cần đảm bảo thực hiện đầu tư đúng với nội dung và mục đích được phê duyệt, tránh lãng phí nguồn vốn. Khách hàng tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành xem xét đánh giá dự án trong khuôn khổ cho phép như : cung cấp các thông tin báo cáo trung thực làm cơ sở cho ngân hàng quyết định có bỏ vốn cho dự án hay không. Đây là nguồn vốn rất hữu hiệu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác khi ngân hàng đã biết rõ về khách hàng thì điều kiện vay vốn cũng dễ dàng hơn, thậm chí khách hàng có thể còn được hưởng ưu đãi đặc biệt trong quan hệ tín dụng tại ngân hàng như lãi suất ưu đãi, đảm bảo thế chấp... Có thể thấy hoạt động thẩm định của ngân hàng là một hoạt động phức tạp, tổng hợp tư duy của nhiều lĩnh vực. Do đó cần phải có sự hợp tác giữa các ban ngành nhà nước để hoạt động này có hiệu quả hơn trong nền kinh tế thị trường, giữ đúng vai trò của nó trong hoạt động của ngân hàng cũng như của công cuộc đầu tư. Kết luận Ngân hàng là một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt động của ngân hàng là một loại hoạt động đặc biệt chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Đối với ngân hàng việc huy động vốn đã khó, mà sử dụng vốn sao cho có hiệu qủa còn khó hơn. Một trong những công tác quan trọng góp phần giải quyết những khó khăn của ngân hàng đó chính là công tác thẩm định dự án đầu tư. Đây là một hoạt động quan trọng đặc biệt cần thiết đối với mọi ngân hàng. Với nhu cầu ngày càng lớn của nền kinh tế vai trò của ngân hàng đầu tư và phát triển ngày một quan trọng thì công tác thẩm định cần được chú ý đúng mức để thẩm định có thể phát huy vai trò trong hoạt động của Ngân hàng cũng như nền kinh tế nói chung. Kết thúc bài viết, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hồng Minh bộ môn kinh tế đầu tư, cán bộ tín dụng Phạm thị Quỳnh Hoa và các cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh trì Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Phụ lục bảng kèm theo Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của Ngân hàng Thanh Trì 39 Bảng 2: Số lượng khách hàng giao dịch với ngân hàng 40 Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng 41 Bảng 4: Hoạt động đầu tư phát triển ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì 43 Bảng 5: Số dự án thẩm định cho vay ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển ThanhTrì 50 Bảng 6: Vốn và tài sản của doanh nghiệp 57 Bảng 7: Cân đối tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp 58 Bảng 8: Một số chỉ tiêu đặc trưng về tài chính doanh nghiệp 59 Bảng 9: Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 60 Bảng 10: Tình hình sản xuất và tiêu thụ gạch nung Tuynel trên địa bàn Hà Nội tính đến 30/6/98 65 Bảng 11: Chi phí nguyên vật liệu 66 Bảng 12: Khấu hao tài sản cố định bình quân năm 67 Bảng 13: Chi phí lương của dự án 67 Bảng 14: Dự tính chi phí sản xuất của dự án 69 Bảng 15: Bảng tính hiệu quả kinh tế dự án 71 Bảng 16: Nguồn vốn trả nợ của dự án 73 Bảng 17: Kế hoạch trả nợ của dự án 73 Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Nhận xét của giáo viên phản biện ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0307.doc
Tài liệu liên quan