BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN THỊ MỸ TIÊN
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ ĐỂ TẠO LẬP VĂN BẢN TỰ SỰ
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ,
người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giú
129 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thác triển ánh xạ chỉnh hình kiểu Riemann, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư Phạm TP.
HCM đã tận tâm hướng dẫn, giảng dạy chúng tôi trong thời gian qua.
Xin cám ơn Khoa Văn, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học
trường Đại học Sư phạm TP. HCM, lãnh đạo Phòng Giáo Dục Quận 6, Hiệu
trưởng các trường THCS, các đồng nghiệp là giáo viên mạng lưới và giáo
viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Quận 6 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi,
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin được dành lời cảm ơn cho gia đình và bạn bè đã động viên,
khuyến khích tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : giáo viên
HS : học sinh
Nxb : nhà xuất bản
SGK : sách giáo khoa
SL : số lượng
TLV : tập làm văn
TL : tỉ lệ
THCS : Trung học sơ sở
VBTS : văn bản tự sự
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ
nhiều thập niên qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo
những con người năng động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ
chương trình và SGK mới thực hiện từ năm 2002 đến nay.
Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các
trường sư phạm, được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy
TLV ở cấp THCS còn gặp rất nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ
chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện
tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS… Đối với HS, thực tế cho thấy các em rất
ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân môn một cách tích cực.
Thực tế đó đòi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến thức
lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản.
Chương trình TLV THCS tập trung giảng dạy 6 kiểu văn bản gồm tự sự, miêu
tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính công vụ. VBTS nổi lên như một
phương thức quan trọng, xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Nhưng việc dạy và học
tạo lập VBTS chưa được đầu tư đúng mức, có xu hướng xem nhẹ. GV và HS thường
cho đây là thể loại đơn giản, được học từ chương trình Tiểu học, chỉ cần nghĩ gì viết
ấy, hoặc thấy gì viết đó… Tâm lí này gây sự chây lười trong việc rèn luyện tạo lập
VBTS của HS.
Tự sự là phương thức phản ánh đời sống chân thực. Vấn đề lý thuyết tự sự
ngày càng được quan tâm phổ biến. Bởi vì lý thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ
cơ bản, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu
khác. “Tự sự học phải liên kết với các ngành khác để hiểu biết con người và hiểu biết
sự vật.” [75]. Nghiên cứu lý thuyết của VBTS và các vấn đề liên quan khác là nhằm
tìm hiểu đặc trưng VBTS và dạy HS tạo lập VBTS theo yêu cầu của nhà trường, nhất
là ở cấp THCS. Tạo lập VBTS chính là cách bồi dưỡng khả năng quan sát cuộc sống,
bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đẹp, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
Vận dụng kiến thức của tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản là nhiệm vụ của
chương trình môn Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng
tiếng Việt. Tạo lập VBTS như thế nào từ cách sử dụng từ ngữ, câu, đoạn văn, các
phương tiện liên kết … trở thành một vấn đề quan trọng giúp HS có kiến thức và kĩ
năng làm tốt bài văn trong nhà trường THCS. Đề tài luận văn đặt trọng tâm ở việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS có cơ sở khoa học từ vị trí, mục
tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển chương trình của bộ môn Ngữ văn.
Từ những lí do trên, tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của văn tự sự để rèn luyện
cho HS kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS trở thành nhu cầu cấp thiết
góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập bộ môn, hoàn
thành tốt mục tiêu của môn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 . Sách giáo khoa
SGK chương trình cũ (chương trình cải cách (1986), chương trình chỉnh lí
(1995)) : TLV được coi là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nhưng vẫn có SGK
riêng mang tên TLV bên cạnh SGK Văn và Tiếng Việt. Phân phối chương trình quy
định dạy TLV về Kể chuyện ở lớp 7, sau khi HS đã được học về Trần thuật, Miêu tả
(lớp 6) Tường thuật (lớp 7). Các kiểu bài miêu tả, trần thuật, tường thuật, kể chuyện
chỉ tập trung vào hai khối lớp đầu cấp 6, 7.
Chương trình và SGK mới THCS (2002) được xây dựng trên quan điểm tích
hợp ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và TLV. Theo tinh thần này, cả ba phân môn
có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mỗi bài
học và xuyên suốt với các bài học khác trong chương trình. Phương châm của việc
tích hợp là nhằm hướng cho HS hệ thống các tri thức riêng của từng phân môn Văn,
Tiếng Việt, Làm văn và gắn kết những tri thức có quan hệ với nhau giữa các phân
môn, giúp HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc cảm nhận, thẩm định
cái hay, cái đẹp của văn bản, tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong
đời sống hàng ngày. Chương trình THCS được chia thành hai vòng, theo vòng tròn
đồng tâm. Vòng một (lớp 6, 7) sẽ giữ vai trò cung cấp các kiến thức cơ bản. Vòng hai
(lớp 8, 9), HS sẽ được học các kiến thức mới trên cơ sở những điều đã học một cách
nâng cao, sâu sắc hơn. TLV về VBTS được bố trí cả ở hai vòng. Lý thuyết và kĩ năng
làm bài văn Tự sự luôn được ôn luyện và nâng cao. Chương trình mới đã có sự cải
tiến rõ rệt trong việc bố trí thời lượng dạy tạo lập VBTS, giúp HS có điều kiện ôn
luyện, thực hành và nâng cao kĩ năng làm bài. Sự tập trung cho thể loại Tự sự ở các
cấp lớp cũng thể hiện sự phong phú của thể loại này trong việc giảng dạy và học tập
trong chương trình THCS.
SGK Ngữ văn 10, tập I [35] - chương trình Trung học phổ thông (2006) tiếp
tục hướng dẫn HS thực hành và rèn luyện viết văn tự sự ở mức độ cao hơn THCS.
Điều đó cho thấy chương trình đã quan tâm và dành nhiều thời gian cho HS phổ
thông học tập và rèn luyện tạo lập VBTS.
Trong quá trình xây dựng chương trình, các bài dạy cung cấp cho HS kiến thức
và hướng dẫn luyện tập cách làm bài nhưng vấn đề sử dụng ngôn ngữ như thế nào và
cách thức rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ ra sao chưa được quan tâm đúng mức.
2.2 . Các sách tham khảo về ngôn ngữ tiếng Việt và dạy học TLV tự sự
Từ điển Văn học (bộ mới) [29], Từ điển thuật ngữ Văn học [21], Từ điển Tiếng
Việt [71] đã giải thích về thuật ngữ Tự sự trên nhiều phương diện từ định nghĩa, nêu
đặc điểm, các phương tiện, biện pháp tự sự, hình thức tự sự, ngôi kể, người trần
thuật… Tự sự chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học (bên cạnh trữ tình
và kịch). “Tự sự tái hiện hành động diễn ra trong thời gian và không gian, tái hiện các
tiến trình biến cố trong cuộc đời các nhân vật… Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ
chức của trần thuật với ngôn từ chủ yếu làm chức năng thông báo về cái đã xảy ra từ
trước…”[29]. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan...
[21]. Khái niệm tự sự trong các sách trên đã được giải thích khá toàn diện và thống
nhất, là cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu về đặc trưng VBTS.
R. Barthes và tự sự học (Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thuý, Tôn Quang Cường
dịch từ bản tiếng Nga - http
://vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdanh/rbathes.htm) [73] : Đỗ Lai Thuý giới
thiệu về Roland Barthes (1915 –1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hoá học,
một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái kí hiệu học Pháp. Tự sự học
cấu trúc của R. Barthes được xác định như là sự phân tích các thành tố và những cơ
chế của truyện kể, nó trình bày một câu chuyện qua hành động kể, sự kể. Tự sự học
quan tâm đến truyện kể như một phương thức trình bày bằng ngôn từ. Nó trả lời câu
hỏi : ai kể cái gì và như thế nào ? Tác phẩm tự sự học tiêu biểu của R. Barthes và của
cả tự sự học cấu trúc nói chung là Đường vào phân tích cấu trúc truyện kể. Sau phần
nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, mục một trình bày ngôn ngữ các VBTS với
đặc điểm chủ yếu là vượt ra giới hạn của câu. Theo quan điểm cấu trúc, bất cứ VBTS
nào cũng đều được xây dựng theo mô hình của câu, bất cứ một truyện nào cũng là
một câu lớn và câu kể chính là một sự tỉnh lược của một câu nhỏ. Các “chủ thể” lẫn
cụm chủ vị trong VBTS cũng đều tuân thủ quy tắc cấu tạo câu. Nhưng giữa câu ngôn
bản tồn tại các mối quan hệ đồng đẳng khi lưu ý đến mặt hình thức của chúng. Những
mục tiếp theo về chức năng, hành động, tường thuật, hệ thống VBTS đã được đề cập
chi tiết. Barthes đã đi tìm định nghĩa cấu trúc về nhân vật, vấn đề chủ thể, tình huống
kể,…và đưa ra các cấp độ của từng đơn vị nghiên cứu. Các vấn đề mà Barthes đặt ra
có giá trị phương pháp luận khi nghiên cứu về VBTS và rèn luyện các kĩ năng tạo lập
VBTS.
Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn
Quang Sáng – Nxb GD 2001 [39]. Sách ghi lại những kinh nghiệm quý báu của các
nhà văn có sở trường về miêu tả và kể chuyện. Những đặc điểm của bài văn kể
chuyện như nhân vật, cốt truyện, tình huống, tình tiết đã được các tác giả cụ thể hóa
bằng những mẩu minh họa sinh động. Các nhà văn cũng lưu ý về nghệ thuật kể
chuyện, nhất là kĩ năng mở bài và kết thúc câu chuyện [39, tr.23-38]. Nhà văn Vũ Tú
Nam đưa ra kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và loài vật và nhấn mạnh nội dung phải
được thể hiện một cách tự nhiên, dung dị qua các chi tiết sinh động của cảnh và vật
đồng thời dùng câu chữ cho chính xác, sinh động, gợi cảm [39, tr.7-8]. Nhà văn Phạm
Hổ đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho một bài kể chuyện có các tình huống hợp lý,
đúng sự thật, làm cho người đọc, người nghe tin là có thật. Nhà văn Bùi Hiển thì nêu
kinh nghiệm viết văn kể chuyện của mình là sự quan sát, xuất phát từ tình cảm chân
thành, chi tiết hợp lý, phù hợp với lô gích tâm lý. Các điều kiện không thể thiếu cho
bài văn kể chuyện là câu chuyện phải tự nhiên, sự việc được coi như có thể xảy ra
thực và liên kết các sự việc trong chuyện sao cho câu chuyện ý vị, hấp dẫn, nhiều
kịch tính [39, tr.39-60]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đặt vấn đề về quan sát,
không chỉ quan sát bằng mắt mà bằng tấm lòng, nắm bắt chi tiết quý báu từ đời sống
và đưa vào trong tác phẩm [39, tr.61-66]… Những kinh nghiệm thực tiễn của các nhà
văn – những người viết văn chuyên nghiệp đã giúp ích GV rất nhiều trong quá trình
dạy HS làm văn theo yêu cầu, mục tiêu của nhà trường, đồng thời giúp HS sáng tạo
một cách tự tin khi tạo lập VBTS.
Sách Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS hệ Cao đẳng Sư phạm (Lê A –
Nguyễn Trí – NXBGD – 2001) [1, tr.167-214] : Sách đã hướng dẫn cụ thể từ “Khái
quát về văn kể chuyện” đến “Phương pháp làm bài văn kể chuyện” và các bài tập
thực hành, trang bị cho sinh viên những kiến thức khá toàn diện về chương trình
giảng dạy và về văn kể chuyện. Từ việc nêu vai trò của văn kể chuyện nói chung, văn
kể chuyện được dạy trong nhà trường, đặc điểm văn kể chuyện và cách phân loại, các
tác giả đã đưa các ví dụ minh hoạ và phân tích chi tiết. Phần “Phương pháp làm bài
kể chuyện” gồm các bước tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện, lập dàn
ý, viết bài văn… Ở phần viết bài văn, các tác giả đã có chú ý đến mở đầu và kết thúc
câu chuyện, đến viết lời kể (giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc, miêu tả
trong văn kể chuyện và chú ý đến ngôi kể. Các phương pháp này nhằm phục vụ cho
việc giảng dạy văn kể chuyện trong chương trình của nhà trường hiện hành lúc bấy
giờ. Những vấn đề về lý thuyết được đề cập khá chi tiết. Vấn đề rèn luyện kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ cho HS chưa được đề cập.
Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang
Ninh – Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1985) [7] trình bày một cách tinh
giản những vấn đề và kết quả nghiên cứu hiện có trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và
dạy làm văn như một ứng dụng và thiết thực nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả
đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của ngữ pháp văn bản như lĩnh vực trên câu, sự ra đời
của ngữ pháp văn bản, liên kết câu, chỉnh thể trên câu đoạn văn. Đặc biệt trong “Thay
phần kết luận, các tác giả đã “thử ứng dụng ngữ pháp văn bản vào việc dạy làm văn
và giảng văn”. Phần ứng dụng này còn trình bày còn dè dặt và sơ lược [7, tr.144-151]
một số ứng dụng, việc ứng dụng các kiến thức tiếng Việt trong dạy TLV chưa đặt
thành trọng tâm.
Phương pháp dạy học tiếng Việt - Lê A chủ biên, Nguyễn Quang Ninh, Bùi
Minh Toán, NXB GD, 2003, chương 7 trình bày phương pháp dạy học Làm văn [2,
tr.185-238]. Các tác giả đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc dạy làm văn.
Phương pháp dạy học Làm văn đề cập đến phương pháp dạy lý thuyết, phương pháp
dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm và trả bài làm văn.
Phần cuối chương là một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS gồm sáu kĩ năng.
Đó là kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài
viết, kĩ năng lập ý, kĩ năng viết đúng theo dàn ý, kĩ năng lập luận, kĩ năng hành văn,
kĩ năng hoàn thiện bài viết. Ở kĩ năng hành văn, các tác giả đặt vấn đề : “Có thể gộp
vào kĩ năng hành văn cả những năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ ở HS. Đó là kĩ
năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn” [2, tr.236]. Vì khi HS làm văn, về cơ bản, chỉ chú
ý chạy theo nội dung, bám sát các ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể
hiện nội dung đó như thế nào một cách đầy đủ. Hoặc trong bài viết có ý, có nội dung
nhưng do vốn từ ít, nắm không vững các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, hoặc do ít
được vận dụng, ít được luyện tập… nên ý không thoát và lời không đạt. Tuy không
trình bày các phương pháp dạy cụ thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã đề
cập đến một số kĩ năng cần rèn luyện cho HS. Đây là nội dung mà đề tài luận văn
hướng đến.
Hướng dẫn dạy TLV lớp 7 – Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí, Nxb GD
(1998) [56] : sách có tính chất tham khảo với mục đích giúp HS nắm vững lý thuyết
cơ bản, tăng cường kĩ năng thực hành. Phần lý thuyết trình bày ngắn gọn, cụ thể lý
thuyết kiểu bài và cách làm bài kể chuyện. Phần thực hành gồm nhiều đề cho HS
luyện tập. Sau đó là các bài kham khảo TLV. Sách đã cung cấp cho HS một hệ thống
đề, dàn ý, những bài văn tham khảo, giúp HS có một số tư liệu cần thiết trong quá
trình làm TLV. Tuy nhiên, sách cũng chưa đặt vấn đề hướng dẫn HS sử dụng ngôn
ngữ, rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS như thế nào trong quá trình viết bài
văn kể chuyện.
Phát triển ngôn ngữ cho HS phổ thông - Trương Dĩnh - Nxb Đà Nẵng (2000)
[17] đề cập ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc, phương pháp cụ thể đối với việc phát triển
ngôn ngữ, khai thác các biện pháp rèn luyện từ chính âm đến từ ngữ, ngữ pháp,
phong cách với các mô hình và ví dụ cụ thể. Các quan điểm hiện đại về dạy học tiếng
Việt như các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ngôn ngữ và nhân cách, ngôn ngữ
và giao tiếp… được dẫn giải dễ hiểu. Tập sách chưa đặt vấn đề về rèn luyện và phát
triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong một phương thức tạo lập văn bản, cụ thể là
VBTS.
Các sách tham khảo khác : Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6 –Nguyễn
Quang Ninh – Nxb Giáo dục 2005 [44] ; Hướng dẫn TLV 6 - Vũ Nho chủ biên –
Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Nga, Trần Thị Thành –– Nxb Giáo dục 2004 [41] ; Rèn
kĩ năng làm văn tự sự và miêu tả 6 - Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga –Nxb Đại
học quốc gia TP Hồ Chí Minh 2006 [42] ; Tư liệu dạy Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Đỗ Ngọc
Thống– Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [61] ; Các dạng bài TLV và cảm thụ thơ văn 6, 7,
8 , 9 - Cao Bích Xuân –– Nxb Giáo dục 2003- 2006 [69] ; Một số kiến thức, kĩ năng
và bài rập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng –
Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [23] và các tác giả khác với các quyển những bài làm văn
chọn lọc, những bài làm văn hay các lớp 6, 7, 8, 9,…Đây là các sách bài tập và tham
khảo theo chương trình SGK mới 2002. Nội dung trình bày của các sách trên có
những điểm chung là tìm hiểu khái quát về tự sự và đặc điểm của văn tự sự, các kiểu
bài tự sự thường gặp, những điều cần lưu ý, phương pháp làm bài văn tự sự, các bài
tập rèn luyện và một số bài văn mẫu. Tuy nhiên cũng có rất nhiều sách chỉ cung cấp
cho HS, GV và phụ huynh những bài văn mẫu mà không định hướng phương pháp
cũng như rèn những kĩ năng hình thành năng lực viết VBTS cho HS.
Qua các tài liệu tham tham khảo, khái niệm và đặc điểm về văn tự sự được
trình bày khá thống nhất, luận văn kế thừa thành quả nghiên cứu vào việc tìm hiểu
đặc điểm của VBTS. Việc rèn luyện về kĩ năng sử dụng ngôn ngữ được trình bày
lồng ghép trong các yêu cầu, phương pháp làm bài văn tự sự, chưa đặt thành vấn đề
cụ thể để hướng dẫn HS rèn luyện.
Đặc trưng của VBTS được xếp vào loại các văn bản nghệ thuật, bản thân nó
vốn là một loại văn bản vừa mang tính thực tế vừa có tính sáng tạo cao. Đưa vào
chương trình giảng dạy trong nhà trường, quá trình rèn luyện viết VBTS không chỉ
cần thiết có các phương pháp đi từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao…, mà còn chú
trọng cho HS cách dùng từ ngữ, câu, liên kết câu cũng như những định hướng đúng
để tạo lập được VBTS đạt yêu cầu cao… Đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều
hứa hẹn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn, giúp HS có kĩ năng làm bài,
đồng thời tạo sự yêu thích học văn trong HS, tạo cơ sở để bồi dưỡng và nâng cao
năng lực của HS trong việc tạo lập văn bản, nhất là VBTS.
Dạy tạo lập VBTS chú ý rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ quan điểm
dạy học tích hợp của chương trình Ngữ văn mới. Luận văn kế thừa những nghiên cứu
về phương pháp dạy TLV và tiếng Việt của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo đồng
thời nghiên cứu về nội dung, chương trình và soạn giảng một số bài dạy tiêu biểu của
chương trình nhằm rèn luyện kĩ năng làm bài cho HS, phát huy năng lực sử dụng
tiếng Việt cho HS trong tạo lập VBTS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
- Mục đích của luận văn là nhằm trang bị thêm cho GV một số cách thức cụ
thể, khả thi về phương pháp dạy TLV tự sự đạt hiệu quả và giúp HS thực hành bài
văn tự sự một cách tự tin, đúng yêu cầu, sáng tạo, sử dụng ngôn từ chuẩn xác, kể
chuyện hấp dẫn… Luận văn thiết kế một số bài giảng chú trọng đến việc rèn luyện kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS. Từ thực tiễn học tập của
HS, luận văn tìm giải pháp và đề xuất một số kiến nghị cho việc giảng dạy tạo lập
VBTS ở chương trình THCS đạt kết quả, nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng
dạy TLV, phục vụ cho việc giảng dạy chương trình và SGK mới.
- Nhiệm vụ của luận văn là ứng dụng lý thuyết tự sự trong việc soạn giảng các
bài dạy TLV tự sự, chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS. Để
thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả luận văn đã tiến hành dự giờ, khảo sát thực tế giảng
dạy và học tập về VBTS của GV và HS ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu
những thuận lợi khó khăn từ chương trình SGK, từ GV, HS,… đối với việc dạy tạo
lập VBTS ; thiết kế giáo án và ghi nhận những việc đã làm được và chưa làm được
trong việc dạy thể nghiệm đồng thời đề xuất các phương pháp giảng dạy tạo lập
VBTS có chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các bài dạy trong SGK và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 về
tạo lập VBTS cấp THCS, các tiết dạy của GV về tạo lập VBTS và các bài viết TLV
tự sự của HS một số trường ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu là chương trình TLV tự sự THCS, cụ thể ở các lớp 6, 7,
8, 9 phân bố trong học kì I.
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận
dụng các phương pháp sau trong luận văn :
5.1 Phương pháp nghiên cứu liên ngành : vận dụng và kế thừa thành tựu
nghiên cứu của nhiều ngành : ngôn ngữ học, nghiên cứu văn học, giáo dục học, lý
luận văn học, tâm lý học,… trong đó đặc biệt chú ý đến việc vận dụng phương pháp
giảng dạy TLV và Tiếng Việt trong tạo lập VBTS. Luận văn tìm hiểu chương trình
giảng dạy về TLV tự sự trong nhà trường, tham khảo các tài liệu về lý thuyết văn tự
sự, về phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt qua các sách, báo, tạp chí chuyên
ngành ngôn ngữ, tạp san, báo cáo chuyên đề…
5.2 Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn : dự giờ GV giảng dạy các tiết
về tạo lập VBTS, điều tra, thăm dò, phỏng vấn các GV THCS ở quận 6 để tìm hiểu
những thuận lợi và khó khăn của chương trình giảng dạy cũng như việc tiếp thu, thực
hành làm văn tự sự của HS.
5.3 Phương pháp thống kê : thống kê các lỗi sai từ bài làm của HS trong việc
dùng từ, dùng câu, viết đoạn, viết VBTS.
5.4 Phương pháp thực nghiệm : thực hành soạn giảng một số bài dạy về tạo lập
VBTS trong chương trình chú trọng đến rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
5.5 Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá : tổng hợp các vấn đề lý thuyết
của VBTS ; phân tích nguyên nhân lỗi sai của HS từ kết quả thống kê bài làm và
đánh giá những đóng góp của luận văn.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Cơ sở khoa học : Mục tiêu của môn Ngữ văn cấp THCS là hoàn thiện kiến thức
cơ sở về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt ; cung cấp kiến thức về văn bản học, lí luận
văn học ; hình thành ở HS năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu VBTS, miêu tả, biểu
cảm, lập luận, thuyết minh và hành chính - công vụ. Luận văn thể hiện sự tích hợp
giữa lý thuyết TLV và đặc điểm ngôn ngữ của VBTS để rèn luyện kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ trong VBTS, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
cực, chủ động trong hoạt động dạy học TLV đáp ứng yêu cầu giao tiếp, phát huy
năng lực sử dụng tiếng Việt làm công cụ để giao tiếp và tư duy.
Cơ sở thực tiễn : luận văn được thực hiện theo chương trình giáo dục phổ
thông cấp THCS và SGK mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo được áp dụng đại trà từ
năm 2002 đến nay. Luận văn khảo sát thực tế giảng dạy của GV môn Ngữ văn và
chất lượng học tập bộ môn của HS THCS ở Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh năm
học 2006 -2007.
7. Cấu trúc luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương :
Chương I : Đặc trưng VBTS và việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong
tạo lập VBTS cho HS THCS.
Chương II : Vấn đề dạy học tạo lập VBTS ở chương trình THCS.
Chương III : Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS
trong tạo lập VBTS.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
▪ Phiếu điều tra GV.
▪ Thống kê kết quả điều tra.
CHƯƠNG 1. ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN TỰ SỰ VÀ VIỆC TẠO LẬP VĂN BẢN
TỰ SỰ CHO HỌC SINH THCS
1.1. Khái niệm, đặc điểm VBTS
1.1.1. Khái niệm văn bản
Văn bản trong ngôn ngữ học được định nghĩa rất phức tạp. Theo Từ điển thuật
ngữ văn học, với nghĩa rộng : 1) Bản ghi bằng chữ viết hoặc in, một phát ngôn hoặc
một thông báo ngôn từ (phân biệt với việc thực hiện phát ngôn hoặc thông báo ấy
bằng nói miệng) ; 2) Phương diện tri giác của tác phẩm được biểu đạt và ghi nhận
bằng các kí hiệu ngôn ngữ ; 3) Đơn vị nhỏ nhất (có tính thống nhất tương đối và tính
độc lập tương đối) của giao tiếp bằng ngôn từ. Với nghĩa hẹp : văn bản là một chỉnh
thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một thông báo
mà tác giả (người phát) gửi tới người đọc, người xem (người nhận).[ 21, tr.270-271]
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học : “Văn bản là chuỗi các đơn vị
kí hiệu ngôn ngữ làm thành một thể thống nhất bằng mối liên hệ ý nghĩa mà thuộc
tính cơ bản của nó là sự hoàn chỉnh về hình thức và nội dung ; sản phẩm của lời nói
được định hình dưới dạng chữ viết hoặc in ấn.” [70, tr.413]
Theo SGK Ngữ văn 6 : “Văn bản là chuỗi lời nói miệng hay bài viết có chủ đề
thống nhất, có liên kết, mạch lạc, vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để thực
hiện mục đích giao tiếp” [47, tr.17]. Khái niệm trên chú ý đến những tính chất cơ bản
tạo thành văn bản để thực hiện giao tiếp, cung cấp cách hiểu cơ bản về văn bản cho
HS cấp THCS.
1.1.2. Phương thức biểu đạt
Thuật ngữ “phương thức biểu đạt” là một khái niệm được dùng phổ biến trong
chương trình và SGK mới. Phương thức là cách thức và phương pháp (nói tổng quát)
[71, tr.766], biểu đạt là làm cho nội dung tư tưởng được tỏ rõ ra bằng hình thức nào
đó [71, tr.63]. Phương thức biểu đạt được hiểu như là cách thức biểu đạt nội dung cần
thể hiện, cách thức miêu tả, phản ánh và tái hiện lại đời sống (thiên nhiên, xã hội, con
người) của người viết, người nói. Mỗi phương thức biểu đạt phù hợp với một mục
đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất định và được thực hiện bởi một thao tác chính nào
đó. [64]
Tùy theo mục đích giao tiếp mà người ta sử dụng các kiểu văn bản với các
phương thức biểu đạt phù hợp. Có thể chia ra sáu phương thức biểu đạt như tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận (lập luận), điều hành (hành chính – công
vụ). Phương thức biểu đạt là căn cứ để xác định kiểu văn bản. Ứng với sáu phương
thức biểu đạt này là sáu kiểu văn bản tương ứng. Kiểu văn bản là hình thức biểu đạt
cơ bản nhất của mọi biểu đạt. Mỗi kiểu văn bản tương ứng với phương thức biểu đạt
chính. Một kiểu văn bản có thể bao chứa trong nó các phương thức biểu đạt khác.
1.1.3. Phương thức tự sự
Khi muốn tái hiện lại một câu chuyện đã xảy ra nhằm giải thích sự việc, tìm
hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen chê thì người viết phải trình bày
một chuỗi sự việc liên quan đến nhau, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng có
một kết thúc. Đó chính là phương thức tự sự.
Khái niệm phương thức tự sự trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ
nhân quả dẫn đến kết cục, biểu lộ ý nghĩa. Khái niệm tự sự ở đây bao gồm các nội
dung kể chuyện, tường thuật, trần thuật trong chương trình TLV trước đây. Hình
thức văn bản cụ thể của VBTS là bản tin báo chí, bản tường thuật, tường trình, tác
phẩm lịch sử, tác phẩm văn học nghệ thuật : truyện, tiểu thuyết, kí sự. Từ “kể
chuyện” khá tiêu biểu cho tự sự, cho nên nhiều khi được dùng để thay thế tự sự.
“Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến
sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.” [47, tr.28].
Phương thức tự sự ở TLV tập trung vào hành động kể việc, thuật việc, trình bày diễn
biến sự việc.
Thể loại tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức
khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. [21,
tr.263]. Thể loại tự sự bao hàm cả kể và miêu tả sự việc, sự vật.
VBTS lớn hơn phương thức tự sự vì có chứa nhiều phương thức biểu đạt.
1.1.4. Mục đích giao tiếp của tự sự
Mục đích kể chuyện là để biết, để nhận thức con người cũng như ngoại giới
và phương thức kể là kể từng việc, lần lượt có đầu có đuôi, có tính liên tục, có
nguyên nhân, kết quả. Kể không theo trình tự đầu cuối, sắp xếp các tình tiết không
hợp lí, người đọc không nắm được sự việc, tức là không đạt được mục đích giao
tiếp.
Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và
bày tỏ thái độ khen chê. [47, tr.28]
1.2. Đặc điểm VBTS :
Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi của
con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về
một cái gì đó. Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với
cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân
vật trữ tình và kịch. Trong tác phẩm tự sự cốt truyện được triển khai, nhân vật
được khắc hoạ nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú đa dạng, bao
gồm chi tiết sự kiện xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết
tính cách, chi tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử, lại
còn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ
thuật nào tái hiện được.
Những điểm nói trên làm cho tác phẩm tự sự trở thành loại văn học có
khả năng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại… [21,
tr.263-264]
1.2.1 Sự việc và nhân vật
- Cốt truyện :
Từ điển Văn học (bộ mới) giải thích “Thuật ngữ cốt truyện chỉ sự phát triển
của hành động, của tiến triển các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch,
đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [29, tr.324-326]. Cốt truyện có chức năng quan
trọng là bộc lộ các mâu thuẫn của đời sống, tức là thể hiện xung đột. Bản thân thuật
ngữ “cốt truyện” của tiếng Việt, dễ bị hiểu như cái “lõi”, “bộ xương”, cái “sườn”, “cơ
sở” của truyện chứ chưa phải là truyện. Gorki coi cốt truyện là hệ thống các quan hệ
qua lại của các nhân vật, là “lịch sử phát triển và sự tổ chức một tính cách nào đó”.
Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật (hành động là sự thể hiện các
cảm xúc, ý nghĩa, ý định của con người vào các hành vi, hoạt động, lời nói, cử chỉ,
nét mặt … của họ). Chương trình giảng dạy tự sự cấp THCS đưa vấn đề cốt truyện
vào sự việc, nhân vật và xác định đây là hai yếu tố then chốt của VBTS.
- Sự việc
“Sự việc là yếu tố quan trọng, cốt lõi của tự sự.” [47, tr.79], là “cái xảy ra được
nhận thức có ranh giới rõ ràng, phân biệt với những cái tồn tại khác” [70, tr.846]. Sự
việc là những việc xảy ra và những việc do con người làm ra. Muốn tự sự phải chọn
sự việc và tổ chức sự việc sao cho thể hiện được điều muốn nói. Sự việc tạo thành
chuyện phải tiêu biểu, có vai trò dẫn dắt câu chuyện, khắc họa đặc điểm tính cách
nhân vật tác động của sự việc phải gây biến đổi, nhằm bộc lộ bản tính, nguyên nhân
gì bên trong của con người hay sự vật thì mới tạo thành chuyện.
Trong VBTS có thể chỉ một sự việc được kể cùng một số chi tiết làm ra sự việc
đó. Nhưng thường thì câu chuyện được kể là một chuỗi sự việc từ khởi đầu, phát
triển đến cao trào và kết thúc. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh có các sự việc sau
[61, tr.33-34] :
Sự việc khởi đầu : Vua Hùng kén rể.
Sự việc phát triển : Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cầu hôn, Vua Hùng ra điều
kiện.
Sự việc cao trào : Sơn Tinh được vợ, Thuỷ Tinh tức giận đánh Sơn Tinh.
Sự việc kết t._.húc : Thuỷ Tinh thua và thường xuyên trả thù.
Sự việc trong văn tự sự phải được kể cụ thể : do ai làm, việc xảy ra ở đâu, lúc
nào, nguyên nhân, diễn biến, kết quả. Chính các yếu tố này làm truyện được cụ thể,
sáng tỏ. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh có các yếu tố tự sự cụ thể :
Ai làm (nhân vật là ai) : Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.
Việc xảy ra ở đâu (địa điểm) : Thành Phong Châu.
Lúc nào (thời gian) : Đời Vua Hùng thứ 18.
Nguyên nhân : Thuỷ Tinh căm tức vì không lấy được Mỵ Nương.
Diễn biến : Hai chàng trai tài giỏi cùng muốn lấy Mỵ Nương, Thuỷ Tinh
thua cuộc, Thuỷ Tinh và Sơn Tinh đánh nhau quyết liệt.
Kết quả : Thuỷ Tinh thất bại.
“Sự việc trong VBTS được trình bày một cách cụ thể : Sự việc xảy ra trong
thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến,
kết quả,… Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự, diễn biến sao cho
thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt” [47, tr.38]. Tuy nhiên sự việc
cần được kể một cách đầy đủ, chứ không bắt buộc phải kể đủ các yếu tố đó trong
mọi văn bản. Chuỗi sự việc không phải lúc nào cũng được kể theo tuần tự diễn biến
tự nhiên. Nhưng dù kể theo cách nào cũng phải thể hiện được tư tưởng mà người kể
muốn biểu đạt và tạo được hứng thú cho người nghe. Sự việc có quan hệ với nhau và
với nhân vật, với chủ đề tác phẩm. Trong tự sự, chuỗi sự việc tạo thành cốt truyện
của văn bản.
- Nhân vật
Trong văn tự sự, nhân vật là yếu tố luôn đi cùng với sự việc.
Vậy thế nào là nhân vật trong VBTS ? Hiểu theo nghĩa hẹp, nhân vật là những
con người được nói tới trong VBTS. “ Nhân vật trong văn tự sự là kẻ thực hiện các sự
việc và là kẻ được thể hiện trong văn bản” [47,tr.38]. Những nhân vật đó có thể có
tên như chị Dậu, Nghị Quế (Tắt đèn – Ngô Tất Tố), Thu (Chiếc lược ngà – Nguyễn
Quang Sáng),… có thể không có tên như anh thanh niên, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư (Lặng lẽ
Sa Pa - Nguyễn Thành Long), ông giáo (Lão Hạc - Nam Cao),… Hiểu theo nghĩa
rộng, nhân vật là tất cả những chủ thể tạo nên hành động trong tác phẩm. Theo nghĩa
này, nhân vật có thể là người, có thể không phải là người, có thể là vật, có thể là đồ
vật.
Nhân vật có thể là thần (Gióng trong Thánh Gióng - truyền thuyết), là người
(ông Hai trong Làng – Kim Lân)), là vật (Dế Mèn trong Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô
Hoài). Trong văn tự sự nhiều khi có nhân vật xưng “tôi”. Nhân vật này có khi là
người dẫn chuyện, người chứng kiến việc xảy ra và kể lại cho ta nghe, người như biết
hết mọi chuyện trong tác phẩm, cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện trong câu chuyện. Có
khi nhân vật “tôi” này là một trong những người tham gia, đóng vai nhất định trong
truyện như nhân vật “tôi” trong Tôi đi học của Thanh Tịnh, hoặc “tôi” trong Trong
lòng mẹ của Nguyên Hồng… Nhân vật, đó là cá thể làm ra sự việc và là sản phẩm của
lời kể. Có nhiều cách thể hiện nhân vật và phân loại nhân vật như nhân vật chính diện
và nhân vật phản diện (Thạch Sanh, Lí Thông), nhân vật chính và nhân vật phụ (Đôn
Ki-hô-tê, Xan-chô Pan-xa). Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại nhân vật như nhân
vật tích cực (Nho, Phương Định – Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê), nhân vật
tư tưởng (Nhĩ - Bến quê – Nguyễn Minh Châu)… Nhân vật được thể hiện qua các
mặt : tên gọi, lai lịch, hình dáng, tính nết, việc làm, suy nghĩ, hành động, tâm trạng
(Thúy Kiều - Truyện Kiều - Nguyễn Du),…
Trong các VBTS nghệ thuật, sự việc và nhân vật không tách rời, vì nhân vật là
kẻ làm ra sự việc và nhân vật chỉ có thể hiện lên trong các sự việc đó qua lời kể.
Tương tự, mỗi sự việc đầy ắp chi tiết về nhân vật.
1.2.2. Chủ đề và dàn bài trong văn tự sự
- Chủ đề là yếu tố nội dung không thể thiếu của VBTS. “Chủ đề là vấn đề
chủ yếu được quán triệt trong nội dung một tác phẩm văn học nghệ thuật, theo một
khuynh hướng nhất định” [71, tr.168]. Khái niệm chủ đề của văn bản thường gợi ra
nhiều cách hiểu xuất phát từ nhiều hướng tiếp cận. Khi nhà văn sáng tạo ra tác phẩm
thì chủ đề của văn bản là tư tưởng của tác giả gửi gắm qua tác phẩm, là thông điệp
nghệ thuật của nhà văn. Khi người đọc tiếp nhận văn bản thì vấn đề đời sống toát lên
từ câu chuyện là chủ đề tác phẩm. Nói một cách đơn giản, “chủ đề là vấn đề chủ yếu
mà người viết muốn đặt ra trong văn bản [47,45]. “Chủ đề là điều mà câu chuyện
muốn đề cao, muốn ca ngợi, khẳng định hoặc muốn lên án, phê phán, chế giễu. Chủ
đề thấm nhuần trong sự việc, trong mâu thuẫn và trong cách giải quyết mâu thuẫn của
truyện. Người kể phải chọn các sự việc thích hợp với chủ đề, phải có cách kể sao cho
chủ đề được biểu hiện ra để người đọc nhận thấy. Chọn các sự việc không hợp chủ đề
sẽ làm cho bài văn lạc đề, rời rạc.” [51, tr.9].
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long [50, tr.180 -188] khắc họa
thành công hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh
thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện
khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm
lặng. Tác giả muốn nói với người đọc : “Trong cái lặng im của Sa Pa, có những con
người làm việc và lo nghĩ cho đất nước” [54, tr.200]. Chủ đề tác phẩm cũng gợi ra
những vấn đề ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân
chính đối với con người.
- Dàn bài bài văn tự sự thường gồm ba phần :
▪ Mở bài : giới thiệu chung về nhân vật, sự việc và tình huống xảy ra câu
chuyện. (Cũng có khi nêu kết quả của sự việc, số phận nhân vật trước.)
▪ Thân bài : kể diễn biến của sự việc theo một trình tự nhất định nhằm thể
hiện chủ đề. (Trả lời các câu hỏi : Câu chuyện diễn ra ở đâu? Khi nào? Với
ai? Như thế nào?…)
Trong khi kể, người viết thường phải kết hợp miêu tả sự việc, con
người và thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước sự việc và con người
được miêu tả.
▪ Kết bài : kể kết cục của sự việc, cảm nghĩ của người trong cuộc
(người kể chuyện hay một nhân vật nào đó) hoặc khẳng định chủ đề
của truyện.
“Dàn bài là sự sắp xếp bên ngoài, mà chủ đề là mối liên hệ bên trong. Chủ đề
có lúc thể hiện ở những câu then chốt trong phần mở bài hoặc kết bài, có lúc thể hiện
ở chi tiết, hành động.” [53, tr.49]. Dàn bài chỉ nêu lên một cách chung nhất sự sắp
xếp cơ bản của bài văn tự sự. Thực tế bài văn tự sự hoàn chỉnh rất linh hoạt, nhất là
phần mở bài và kết bài.
Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh [49] đã diễn tả những kỉ niệm trong
sáng của tuổi học trò trong buổi tựu trường đầu tiên. Trình tự diễn tả những kỉ niệm
của nhà văn trong tác phẩm :
▪ Mở bài : từ hiện tại mà nhớ về dĩ vãng : biến chuyển của trời đất cuối
thu và hình ảnh mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón là mẹ lần đầu tiên đi
đến trường gợi cho nhân vật “tôi” nhớ lại mình ngày ấy cùng những kỉ
niệm trong sáng.
▪ Thân bài : diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” :
Tâm trạng, cảm giác trên con đường cùng mẹ tới trường.
Tâm trạng, cảm giác khi nhìn nhìn ngôi trường ngày khai giảng,
khi nhìn mọi người, các bạn, lúc nghe gọi tên mình và phải rời
bàn tay mẹ để vào lớp.
Tâm trạng lúc ngồi vào chỗ
▪ Kết bài : tâm trạng của nhân vật “tôi’ đón nhận giờ học đầu tiên.
1.2.3. Thứ tự trong văn tự sự
Khi kể chuyện, người viết có thể kể các sự việc nối tiếp nhau theo trình tự thời
gian, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau, lần lượt cho đến hết
chuyện. Nhưng trong nhiều trường hợp không nhất thiết phải theo trình tự thời gian,
để làm cho câu chuyện bất ngờ, tạo hứng thú cho người đọc, bộc lộ tình cảm với nhân
vật, người viết có thể kể kết quả hoặc kết thúc câu chuyện trước rồi mới dẫn dắt
người đọc vào các sự việc diễn ra trước đó hoặc diễn biến tiếp theo của câu chuyên.
Có khi người ta kể chuyện bắt đầu từ mốc thời gian giữa câu chuyện rồi kể lại từ đầu,
sau đó kể tiếp câu chuyện.
Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên ; Bánh chưng, bánh giầy [47] kể theo thứ
tự thời gian có sự tiếp nối ngay cả khi câu chuyện đã kết thúc. Truyện ngắn Chiếc
lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng [50] bắt đầu từ mốc thời gian hiện tại.
Nhân vật ông Ba đang kể chuyện cho đồng đội về một kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời
mình, sau đó là toàn bộ diễn biến câu chuyện và kết thúc câu chuyện và những tình
cảm của người kể.
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của VBTS
Đặc điểm ngôn ngữ của VBTS nằm trong đặc điểm chung của kiểu văn bản
này. Việc tách riêng thành đặc điểm ngôn ngữ của VBTS nhằm mục đích nhấn mạnh
đến đặc thù về ngôn ngữ mà đề tài luận văn hướng đến.
1.3.1. Lời văn tự sự
“Lời văn là hình thức diễn đạt bằng ngôn ngữ được viết thành văn” [71,
tr.566]. Lời văn tự sự là hình thức diễn ngôn tự sự. Lời giới thiệu, kể sự việc, miêu tả,
đối thoại, độc thoại, bình luận là các bộ phận tạo thành lời văn tự sự.
Lời văn tự sự hết sức phong phú, đa dạng. Có thể phân làm 2 loại lớn là lời
giới thiệu nhân vật và lời văn kể việc.
Lời giới thiệu nhân vật là yếu tố rất cơ bản của lời văn tự sự. Bất kì
VBTS nào cũng có lời giới thiệu nhân vật. Đó là những thông tin về nhân vật, từ tên,
họ, lai lịch, quan hệ cho đến tính tình, tính cách, tài năng, ý nghĩa của nhân vật, sự
ảnh hưởng của nhân vật trong tiến trình phát triển của truyện. Lời giới thiệu cũng bao
gồm cả sự bày tỏ thái độ khen chê của người viết. Ví dụ, lời giới thiệu nhân vật trong
truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh [31, tr.45] :
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương,
người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn
kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên
có tài lạ : vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi ; vẫy tay về phía tây,
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người
ở miền biển, tài năng cũng không kém : gọi gió, gió đến ; hô mưa, mưa về.
Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Một người là chúa vùng non cao, một người
là chúa vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
Hai đoạn văn trên giới thiệu về vua Hùng và Sơn Tinh, Thủy Tinh. Cách giới
thiệu đầy đủ, cô đọng :
Đoạn 1 : gồm 2 câu, giới thiệu về vua Hùng và Mị Nương.
Câu (1) : Cung cấp thông tin xác định cụ thể vua Hùng của đời thứ mười tám,
có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên gọi Mị Nương.
Câu (2) : Giới thiệu về tình cảm của vua Hùng dành cho con gái và nguyện
vọng kén chồng xứng đáng cho con.
Đoạn 2 : gồm sáu câu, giới thiệu về Sơn Tinh, Thủy Tinh. Câu 1 giới thiệu
chung, câu 2, 3 giới thiệu lai lịch, tài năng Sơn Tinh, câu 4, 5 giới thiệu cũng giới
thiệu lai lịch, tài năng Thủy Tinh, cuối câu 5 là sự khẳng định tài năng của hai người
đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
Các kiểu câu thường được dùng trong giới thiệu nhân vật là :
Câu trần thuật có nòng cốt câu có từ “có” :
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái…
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn.
Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ…
▪ Câu trần thuật đơn có từ “là” :
Người ta gọi chàng là Sơn Tinh.
Người ta gọi chàng là Thủy Tinh.
Một người là chúa vùng non cao, một người là chúa vùng nước thẳm, cả
hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
Các loại từ thường dùng là danh từ, đại từ, tính từ chỉ tính cách, thuộc tính của
con người.
- Lời văn kể việc
Ngoài giới thiệu nhân vật, văn tự sự còn kể việc. Thông thường, trong lời kể có
lời dẫn dắt cốt truyện, giới thiệu thời gian, không gian, lời kể về sự kiện diễn ra trong
truyện.
Khi kể việc thì kể các hành động, việc làm của nhân vật, những thay đổi do các
hành động ấy đem lại cũng như kết quả của hành động, câu chuyện. Lời văn kể việc
thường là lời thông báo, thuyết minh về sự việc. Yếu tố kể sự việc bao gồm thứ tự,
quan hệ của hành động, sự việc và cách dùng động từ. Lời văn kể việc trong truyện
Thánh Gióng[47, tr.20] :
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt.
Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy,
vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai
phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng
vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa,
tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp
này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những
cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên
nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình
một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ
bay lên trời.
▪ Các sự việc được kể tuần tự :
Sự việc 1 : Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước nguy cấp. (Câu 1, 2)
Sự việc 2 : Sứ giả mang áo giáp sắt, ngựa sắt đến. (Câu 3)
Sự việc 3 : Các hành động, việc làm của Thánh Gióng chuẩn bị lên đường và
giết giặc. (Câu 4 - 10)
Sự việc 4 : Giặc thua. (Câu 11 -12)
Sự việc 5 : Hành động của Thánh Gióng sau khi thắng giặc. (câu 13)
Lời văn kể việc là lời văn có nhiều câu chỉ hoạt động, các câu có nhiều động từ
chỉ hành động, có sử dụng từ chỉ thời gian (ngày xưa, bấy giờ, một hôm, bèn, từ đấy,
hiện nay,…).
Trong VBTS thường xuất hiện rất nhiều lời miêu tả. Miêu tả cảnh trong văn tự
sự không chỉ vẽ lên cảnh tượng mà còn tạo không gian, điều kiện để bộc lộ nhân vật.
Miêu tả người trong VBTS không chỉ vẽ lên một chân dung mà còn lột tả một tính
cách nào đó. “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại nới nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu
như con nít. Lão hu hu khóc...” (Lão Hạc – Nam Cao) [49]. Miêu tả chi tiết ngoại
hình đau đớn của lão Hạc bị dằn xé trong tiếng khóc, tác giả diễn tả sự ân hận, đau
đớn của lão Hạc dường như đến tột cùng khi lão nghĩ mình đã đánh lừa một con chó.
Lời văn tự sự không chỉ là lời văn giới thiệu, kể việc, miêu tả tâm lí nhân vật
gắn với hành động, diễn biến tâm tư của nhân vật để bộc lộ tính cách mà còn là lời
đối thoại, độc thoại của nhân vật ; lời nhận xét, biểu cảm, bình luận của tác giả về sự
việc, nhân vật,… Lời văn tự sự đôi khi là lời biểu cảm, bình luận của tác giả về sự
kiện hoặc nhân vật. “Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như
ai hết… một người như thế ấy !... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... một
người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng
giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư ? Cuộc
đời quả thật cứ mỗi ngày thêm đáng buồn…” (Lão Hạc – Nam Cao) [49]. Đây là suy
nghĩ của nhân vật ông giáo ngộ nhận việc lão Hạc xin bã chó để làm điều xấu. Đó là
sự thất vọng và sụp đổ niềm tin vào con người của ông giáo. Lời văn thể hiện tình
cảm của ông giáo cũng như lời bình luận, đánh giá về lão Hạc và cuộc đời.
Về hình thức ngữ pháp, câu sử dụng trong VBTS cũng rất đa dạng. Các câu
đơn, câu ghép, câu phức, câu rút gọn, câu đặc biệt,… đều được sử dụng. Đoạn trích
mở đầu truyện Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 :
Chúng tôi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong một hang dưới chân
cao điểm. Con đường qua trước hang, kéo lên đồi, đi đến đâu đó, xa ! Đường
bị đánh lỡ loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ
có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những
tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong
đất.
Trong đoạn văn, tác giả đã dùng nhiều câu đơn, có dùng một số câu đặc biệt
nhằm miêu tả cảnh chiến trường bị bom cày xới ác liệt. Nhiều câu ngắn nhưng không
gây cảm giác nhàm chán cho người đọc vì phù hợp với không khí khẩn trương trên
chiến trường.
1.3.2. Đoạn văn tự sự :
Những vấn đề về đoạn văn trong ngữ pháp văn bản đã được giải quyết tương
đối thỏa đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn [9, tr.9], kiến
thức đoạn văn được quy định giảng dạy từ lớp 2 cho đến lớp 12 – nghĩa là xuyên suốt
trong các cấp lớp. Khái niệm về đoạn văn trong chương trình THCS được quan niệm
như sau :
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh. Đoạn văn có thể do một hoặc nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các
từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường
là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu
chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần
chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của
đoạn bằng các phép diễn dịch, quy nạp,… [49, tr.36]
Đoạn văn tự sự là đoạn văn giới thiệu nhân vật, kể sự việc như đã trình bày. Nó
mang đặc điểm của đoạn văn. Đoạn văn tự sự có thể có câu chủ đề. Trong Cố hương
[50, tr.212-213], Lỗ Tấn đã giới thiệu về nhân vật Nhuận Thổ :
Người đi vào là NhuậnThổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng
không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt
tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sậm, lại có thêm
những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi
mắt viền đỏ húp mọng lên. Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt
ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc
một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro, cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và
một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng
hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như
vỏ cây thông.
Câu chủ đề của đoạn văn trên nằm ở vị trí đầu đoạn giới thiệu nhân vật Nhuận
Thổ. Các câu tiếp theo trong đoạn miêu tả chiều cao, gương mặt, cặp mắt, cách ăn
mặc, điệu bộ, bàn tay,… của nhân vật Nhuận Thổ. Cách miêu tả có đối chiếu với kí
ức của người kể về sự đổi khác giữa hình ảnh Nhuận Thổ ở hiện tại với quá khứ.
Nhưng thông thường, đoạn văn tự sự kể chuỗi sự việc kết nối theo một trình tự
nhất định. Ngoài ra, trong VBTS thường có những đoạn có lời đối thoại giữa các
nhân vật. Đối thoại là lời “nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với nhau” [71,
tr.328]. “Về nguyên tắc ngôn ngữ nhân vật trực tiếp thường mang dấu ấn cá nhân rất
rõ nét. Nó thể hiện khá đầy đủ các đặc điểm của chủ thể phát ngôn : từ giới tính, tuổi
tác, quê quán, cho đến trình độ, tính cách” [4,37]
Truyện ngắn Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng [50] đã sử dụng nhiều
đoạn đối thoại :
Trong lúc đó, ngoại nó cho tôi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao
nó không chịu nhận ba nó. Bà hỏi :
- Ba con, sao con không nhận ?
- Không phải. – Đang nằm mà nó cũng giẫy lên.
- Sao con biết là không phải ? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì !
- Ba không giống cái hình ba chụp với má.
- Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.
- Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy.
Trong quá trình kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật còn là lời độc thoại và độc thoại
nội tâm bằng một số đoạn văn. Lời độc thoại và độc thoại nội tâm là lời của nhân vật
nói với chính mình và cả những suy nghĩ nội tâm của nhân vật,… nhằm hướng đến
một nội dung nào đó trong toàn bộ câu chuyện.
Kể về tâm trạng ông Hai (Làng – Kim Lân) [50] khi hay tin làng ông theo giặc,
tác giả không chỉ kể việc mà đã chú ý miêu tả, tâm trạng, hành động và lời độc thoại,
độc thoại nội tâm của nhân vật ông Hai :
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm may
có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi với nhau. (Đoạn 1)
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ
con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ?
Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ông lão nắm chặt tay mà rít lên :
- Chúng bay ăn cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian
bán nước để nhục nhã thế này.” (Đoạn 2)
Đoạn văn (1) kể việc ông Hai về đến nhà với vẻ khác lạ khiến các con ông sợ.
Đoạn văn không có câu chủ đề. Đoạn (2) diễn tả nỗi tủi thân cũng như giận dữ của
ông Hai khi nghĩ con ông sẽ bị rẻ rúng, hắt hủi vì là Việt gian. Lời độc thoại nội tâm
“Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng,
hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…”. Và cao điểm của trạng thái tình cảm
của nhân vật thể hiện sự bất bình đến căm tức những người của làng mình theo giặc
là lời độc thoại “ - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái
giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”.
1.3.3. Ngôi kể
“Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện.” [47, tr.89]. Ngôi
là “phạm trù ngữ pháp của động từ biểu thị mối quan hệ của hành động (quá trình) và
chủ thể hành động với người nói. Ví dụ : Ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba”.
Khi kể chuyện, bắt buộc phải xác định mối quan hệ giữa người kể với sự việc
được kể, chỗ đứng để quan sát và để gọi tên sự vật, nhân vật và miêu tả chúng. Kể
theo ngôi thứ ba là cách kể gọi tên các nhân vật. Ngôi thứ ba là “Hình thái phạm trù
ngôi chỉ người không tham gia hoạt động nói năng của cuộc thoại, ở ngoài cuộc thoại
và hình thái tương ứng của động từ chỉ định rằng chủ thể hành động là nhân vật hoặc
sự vật không tham gia trong cảnh huống nói năng. Trong thực tế, ngôi thứ ba là hình
thái không có ngôi đối lập với các hình thái có ngôi trong cả hai cách thể hiện của
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. “ [70, tr.151 – 152 ]
Ngôi thứ ba trong cách kể cổ xưa được hiểu như là “người ta kể”, ví dụ như
cách kể trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, v.v… Ở đó người ta kể
theo kí ức và kiến thức cộng đồng, chứ không phải theo quan sát, nhận xét của bản
thân người kể. Trong đó, người ta gọi các nhân vật, sự vật theo tên gọi của chúng. Ở
đây người kể chưa có nhu cầu giấu mình, vì họ chỉ kể như “người ta kể” là được,
nhưng cũng có lúc bộc lộ thái độ chủ quan của người kể, nếu như họ muốn nói thêm.
Về sau “ngôi thứ ba” trở thành hình thức “giấu mình” của người kể biết hết -
biết từ bề ngoài cho đến ý nghĩ thầm kín của nhân vật. Trong yêu cầu kể chuyện đời
thường, kể chuyện tưởng tượng, HS không chỉ kể lại theo kiểu “người ta kể” của cổ
tích và truyền thuyết, vì như thế hạn chế việc thể hiện vai trò chủ thể của ngôi kể. Do
đó, cách kể theo “ngôi thứ ba” là người kể giấu mình, kín đáo gọi sự vật theo ngôi
thứ ba – nó, chúng nó, tên gọi sự vật, nhân vật theo nhận xét của mình và kể sao cho
sự vật tự nó diễn ra. Hiểu như vậy, HS có thể kể tự do, linh hoạt theo trí tưởng
tượng của các em.
Gọi kể theo ngôi thứ ba là cách kể mà người kể “giấu mình” là vì tuy người kể
không lộ diện, nhưng vẫn thể hiện sự quan sát, nhận xét của mình. Do đó kể theo
cách này, HS vẫn có thể và bộc lộ sự nhận xét, quan sát của mình.
Kể theo “ngôi thứ nhất” là hình thức ra đời khá muộn.
Ngôi thứ nhất được định nghĩa là hình thái phạm trù ngôi biểu thị tác giả của lời
nói (người đang nói) và hình thái tương ứng của động từ chỉ chủ thể hành động chính
là người đang nói, tức là hình thái ngôi đồng nhất chủ thể hành động với người đang
nói.
Ngôi thứ nhất là vị trí của người kể cho phép kể những gì mình biết, mình thấy,
mình chịu trách nhiệm một cách công khai. Về lí, “tôi” không thể kể những gì mà tôi
không biết và không nhìn thấy. Do đó, kể theo ngôi thứ nhất là một sự hạn chế trong
tầm nhìn và hiểu biết của một người. Nhưng bù lại, do kể những điều mình biết, thấy
và cảm cho nên lời kể thân mật, gần gũi, mang màu sắc cảm xúc cá nhân. Khi người
kể giả định kể theo ngôi thứ nhất của nhân vật là kể theo cái biết và cái cảm của nhân
vật ấy. Người xưng “tôi” ấy tuỳ trường hợp cụ thể, không phải là tác giả, nhưng cũng
có khi trùng với tác giả.
Trong Lí luận tự sự hiện đại nói chung, sự phức tạp của cấu trúc tự sự thể hiện
ở người trần thuật, người kể thông qua ngôi kể thứ nhất hay ngôi kể thứ ba. “Tác giả
không hiện diện trong VBTS như một người kể, người phát ngôn mà chỉ xuất hiện
như là một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn, với tư cách là người
mang hệ thống quan niệm và giá trị tác phẩm – (người tiêu điểm hóa) [64]. Tác giả
thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm
người kể. Người trần thuật – (người kể chuyện) [64] là kẻ được sáng tạo ra để mang
lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là
VBTS... Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng điệu của VBTS. Điều quan
trọng trong khi kể là kể theo điểm nhìn, cách nhìn nào.” [75]. Truyện ngắn Lặng lẽ
Sa Pa – Nguyễn Thành Long [50] kể chuyện theo ngôi thứ ba bằng cách gọi tên các
nhân vật : ông hoạ sĩ, cô kĩ sư, anh thanh niên, bác lái xe,… nhưng trần thuật theo
điểm nhìn của “ông hoạ sĩ”. Truyện Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng) [50] kể
theo ngôi thứ nhất, nhân vật ông Ba xưng “tôi” nhưng trong quá trình kể, theo diễn
biến câu chuyện, có lúc điểm nhìn của người trần thuật dường như ở ngôi thứ ba khi
người kể giấu mình đi khi bộc bạch những tâm tư, tình cảm của nhân vật ông Sáu, bé
Thu. Truyện Bến quê – Nguyễn Minh Châu ở Ngữ văn 9 Tập 2 kể theo ngôi thứ ba
gọi tên nhân vật Nhĩ, Liên,… nhưng được trần thuật theo cái nhìn và tâm trạng của
nhân vật Nhĩ…
Trong chương trình TLV tự sự THCS, việc sử dụng tiếng Việt, TLV đang ở
giai đoạn cơ bản thì phạm trù ngôi kể vẫn có ý nghĩa quan trọng, bởi nó đơn giản, dễ
nhận đối với HS, giúp các em lựa chọn cách kể thích hợp. Sự thay đổi ngôi kể mở
rộng phạm vi tưởng tượng cho HS.
1.4. Vai trò, ý nghĩa việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập
VBTS cho HS THCS
Theo các định nghĩa của các nhà nghiên cứu, A. G. Côvaliốp trong Tâm lí học
xã hội, Nxb GD, 1976 :” Kĩ năng là khả năng nắm được tri thức về hành động và áp
dụng hay lựa chọn phương thức để thực hiện hành động có kết quả”. Tác giả Hoàng
Hữu Bội – đề tài cấp Bộ, mã số B96 – 03 – 07 đã kết luận :”Kĩ năng là một khái
niệm biểu thị năng lực sử dụng hệ thống những tri thức, những dữ kiện, những khái
niệm đã có để phát hiện những thuộc tính của các sự vật để giải quyết thành công các
nhiệm vụ lí luận hay thực tiễn nhất định. Đó là một quá trình thực thi một hệ thống
các hành động và thao tác mà con người có thể sử dụng trong các điều kiện mới đối
với họ, là sự điều chỉnh hợp lí hoạt động cá nhân dựa trên những tri thức và kinh
nghiệm vốn có của họ.”.
Như vậy, có thể hiểu kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động nào đó
bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp
với những điều kiện cho phép. Để có kĩ năng, con người phải có tri thức về hành
động và các kinh nghiệm cần thiết ; mặt khác, họ phải biết vận dụng vốn tri thức và
kinh nghiệm vào hành động và đạt được kết quả. Quá trình hình thành kĩ năng nào
đó phải trải qua các bước :
- Nắm vững tri thức về hành động.
- Thực hiện hành động theo những tri thức nhiều lần, nghĩa là phải có sự tập
Từ những định nghĩa trên, việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS
được hiểu là :
- HS nắm vững kiến thức ngôn ngữ được học tập.
- Thực hiện vận dụng kiến thức đã học, luyện tập theo kiến thức đã học nhiều
lần, phải có sự tập dượt qua các giai đoạn : quan sát mẫu và làm thử theo
mẫu.
Tiếng Việt của chúng ta là một trong số các ngôn ngữ phong phú, đa dạng với
vốn từ ngày càng phát triển. Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ là yêu cầu để sáng
tạo và hoàn thiện ở mỗi người, nhất là ở HS, lứa tuổi đang phát triển toàn diện về mọi
mặt. Nhiệm vụ của nhà trường là cung cấp và phát triển vốn từ phong phú ấy cho HS,
giúp các em rèn luyện và thực hành nó trong học tập và trong đời sống, để các em có
quyền tự hào về cái gia tài giàu có và quý báu của dân tộc. Có vốn từ, biết dùng từ
đúng nghĩa, đúng chỗ chưa đủ, cần coi trọng công tác phát triển ngôn ngữ thông qua
việc luyện câu, liên kết câu, liên kết đoạn. Phân môn TLV đảm nhận trực tiếp nhiệm
vụ ấy. Luyện viết đoạn văn, văn bản, đặc biệt theo phương thức đặc trưng của VBTS
là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ đi từ đơn giản đến nâng cao kĩ năng liên kết câu, liên
kết đoạn và sáng tạo văn bản của HS.
Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của HS là một phạm trù rộng bao gồm kĩ năng nói
và viết. Khả năng vận dụng tiếng Việt của các em ở mức độ tiếp thu, bắt chước (thực
hành theo mẫu) và sáng tạo (diễn tả đúng được những điều định nói, định kể và
hướng người đọc đến chủ đề nhất định). Khả năng vận dụng ngôn ngữ của các em
vào bài văn chưa cao. Bên cạnh những HS biết nói, biết viết rõ ràng, mạch lạc, trong
sáng, còn rất nhiều HS chưa biết dùng tiếng Việt một cách thành thạo để diễn đạt ý
nghĩ, tình cảm của mình. Một số trường hợp các em giơ tay phát biểu khá tốt nhưng
khi bắt tay vào việc tạo lập văn bản thì mắc rất nhiều lỗi về chính tả, dùng từ, viết
câu, viết đoạn.
Ý thức hóa việc luyện tập ngôn ngữ cho HS là một yêu cầu không thể thiếu
trong chương trình giáo dục phổ thông. Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong
tạo lập VBTS cho HS THCS là hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Việc rèn luyện ngôn
ngữ cho HS trong tạo lập văn bản nói chung và trong tạo lập VBTS nói riêng giúp các
em luyện tập vận dụng ngôn ngữ nhiều trong thực tế để đạt tới trình độ sử dụng ngôn
ngữ thông thạo. Những đặc điểm của VBTS, đặc biệt là đặc điểm ngôn ngữ của
VBTS là những lớp từ, dạng câu, đoạn văn thông dụng, vận dụng đa dạng năng lực
quan sát, tái hiện và tưởng tượng của HS THCS. Việc làm này sẽ giúp các em không
chỉ viết đúng mà còn hướng tới việc viết hay, giúp HS nâng cao năng lực ngôn ngữ
gắn với phát triển tư duy và nhân cách, với vấn đề học tập văn chương và khả năng
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ
môn, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra cho công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay.
Chăm lo phát triển ngôn ngữ và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho._. Dục
37. Nguyễn Thị Lương (2006), “Phân biệt trạng ngữ với một số thành phần khác
trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 10/2006), trang 45 – 52
38. Nguyễn Đăng Mạnh – Đỗ Ngọc Thống (2000), Văn bồi dưỡng HS năng khiếu
Ttrung học cơ sở), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
39. Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển, Nguyễn Quang Sáng (2001), Văn miêu tả và
kể chuyện (tái bản lần thứ tư), Nxb Giáo Dục
40. Vũ Nho (chủ biên) – Nguyễn Thúy Hồng – Trần Thị Thành (2005), Bài tập
rèn kĩ năng tích hợp Ngữ văn 9, Nxb Giáo dục
41. Vũ Nho (chủ biên), Nguyễn Thúy Hồng – Trần Thị Nga –Trần Thị Thành
(2004), Hướng dẫn TLV 6, Nxb Giáo Dục
42. Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga (2006), Rèn kĩ năng làm văn tự sự và
miêu tả 6, , Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh
43. Đức Nguyễn (2000), “Về hệ phương pháp dạy nghĩa của từ cho HS Trung học
cơ sở”, Ngôn ngữ, (số 1/2000), trang 69 – 75
44. Nguyễn Quang Ninh (2005), Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6, Nxb Giáo
dục
45. Nguyễn Khánh Nồng (2007), Để viết đúng tiếng Việt, Nxb Trẻ
46. Nguyễn Khánh Nồng (2007), Để viết tiếng Việt thật hay, Nxb Trẻ
47. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 6 Tập một
(Tái bản lần thứ ba), Nxb Giáo Dục.
48. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 7 Tập một
(Tái bản lần thứ hai), Nxb Giáo Dục.
49. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 8 Tập một,
Nxb Giáo Dục.
50. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 9 Tập một ,
Nxb Giáo Dục.
51. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 6 Tập một -
Sách GV, Nxb Giáo Dục.
52. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 7 Tập một
- Sách GV, Nxb Giáo Dục.
53. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 8 Tập một
- Sách GV, Nxb Giáo Dục.
54. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) và nhiều tác giả (2005), Ngữ văn 9 Tập
một - Sách GV, Nxb Giáo Dục.
55. Trần Đình Sử - Nguyễn Trí (1995), TLV 7 (Sách GV , chỉnh lí), Nxb Giáo dục
1995
56. Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí (1998), Hướng dẫn dạy TLV 7, Nxb
Giáo Dục
57. Trần Đình Sử (chủ biên) – Nguyễn Thanh Tú (2000), Văn tường thuật, kể
chuyện, miêu tả (dùng cho Trung học cơ sở), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
58. Trần Đình Sử - Trần Đăng Xuyền (1995), Hướng dẫn TLV 7 (theo SGK chỉnh
lí), Nxb Giáo Dục
59. Nguyễn Thị Trung Thành (2007), “Cần phân biệt từ xưng hô với đại từ xưng
hô”, Ngôn ngữ và đời sống, (số 3 (137)-2007), trang 1 – 3
60. Trần Ngọc Thêm (tái bản lần thứ ba) (2006), Hệ thống liên kết văn bản tiếng
Việt, Nxb Giáo Dục
61. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Trọng Hoàn (2003),
Tư liệu dạy Ngữ văn, Nxb Giáo Dục
62. Đỗ ngọc Thống (2003), “Bạn có muốn giỏi Văn”, Tuyển tập mười năm tạp chí
Văn học và tuổi trẻ, trang 346- 349, Nxb Giáo Dục
63. Đỗ Ngọc Thống (2006), “Đổi mới quan niệm về đề văn và dạy làm văn”, Dạy
và học ngày nay, (số 7/2006), trang 36 – 38
64. Đỗ Ngọc Thống (2006), Đề cương bài giảng chuyên đề cao học “Văn bản và
dạy tạo lập văn bản trong nhà trường phổ thông” Cao học khóa 15 -16
Lớp Phương pháp giảng dạy Văn trường ĐHSP TP HCM
65. Phan Thị Minh Thúy (2001), “Cách diễn đạt ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt”,
Ngôn ngữ số 10, 2001, tr 13 -19
66. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), “Về khái niệm 'truyện kể ở ngôi thứ ba” và
người kể chuyện ở ngôi thứ ba”, Ngôn ngữ, số 9 tr 52 – 57)
67. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp
68. Bùi Minh Toán – Lê A – Đỗ Việt Hùng, tái bản lần thứ 9 (2006), Tiếng Việt
thực hành, Nxb Giáo Dục
69. Cao Bích Xuân (2003- 2006), Các dạng bài TLV và cảm thụ thơ văn 6,7,8, 9 –
Nxb Giáo dục
70. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng – Đỗ Việt Hùng – Đặng Ngọc Lệ
(1996) – Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục.
71. Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ
điển Hà Nội – Đà Nẵng
Tư liệu Internet
Sử dụng công cụ tìm kiếm của Google.com và Yahoo.com
72. Cao Hải An (Trường Cao đẳng Kỹ thuật Mỏ), Năng lực ngôn ngữ trong giờ dạy
học,http ://www.caodangmo.edu.vn
73. R. Barthes và tự sự học, http
://www.vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdsnh/rbarthes.htm
74. Trang Nhung, Từ tưởng tượng quá đà đến trụi trần sự thật, Vietnamnet
(www.vnn.vn)
75. Trần Đình Sử, Chuyên khảo Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử,
hnue.edu.vn
76. Đỗ Ngọc Thống, Đổi mới đề văn và những ngộ nhận cực đoan, Vietnamnet
(www.vnn.vn)
77. Đỗ Ngọc Thống, Đổi mới quan niệm về đề văn và dạy làm văn, Vietnamnet
(www.vnn.vn)
78. Vnexpress.com, Xã hội hóa môn Văn : Mới đi đã… quá xa
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 : PHIẾU ĐIỀU TRA
V/v : Dạy “Tạo lập VBTS trong chương trình THCS”
Đối tượng : GV
Anh / Chị vui lòng cho ý kiến về việc dạy tạo lập VBTS (VBTS) trong chương trình
THCS bằng cách đánh chéo vào các ý mà Anh / Chị lựa chọn.
1/ Trong giảng dạy TLV, dạy tạo lập những kiểu văn bản nào được Anh / Chị quan
tâm ?
Tự sự Nghị luận
Miêu tả Thuyết minh
Biểu cảm Hành chính- công vụ
2/ Dạy tạo lập VBTS dễ hơn dạy tạo lập các văn bản khác ?
Đồng ý Không đồng ý
3/ Những nhận xét chung của Anh / Chị về chương trình giảng dạy tạo lập VBTS
hiện hành :
Hay, khoa học Ứng dụng cao
Mang tính lý thuyết Thiếu thực hành
Không khả thi Cao hơn trình độ HS
4/ Kiến thức cần cung cấp về các bài dạy lý thuyết :
Quá nhiều Đủ, hợp lí
Còn ít Đủ nhưng thiếu thời gian thực hiện
trên lớp
5/ Nhận xét về quá trình tiếp thu của HS sau khi dạy lý thuyết về VBTS
Khó tiếp thu Vừa sức Quá dễ
6/ Thời gian dành cho HS làm luyện tập :
Thừa Đủ Hơi ít Rất ít
7/ Đa số HS làm bài về văn tự sự :
Giỏi Khá Trung bình Không đạt yêu cầu
8/ Những nguyên nhân nào giúp HS làm bài đạt yêu cầu cao :
Lý thuyết rõ, vận dụng tốt Sử dụng ngôn ngữ chính xác
GV rèn HS kĩ năng làm bài Tuỳ theo đề bài
Có năng khiếu Đọc các bài văn tham khảo
9/ Những nguyên nhân nào đưa đến các bài làm văn Tự sự không đạt yêu cầu :
Chưa hiểu đặc trưng của VBTS Chưa xây dựng được dàn ý
Chưa biết bắt đầu câu chuyện Chưa biết chọn sự việc,nhân vật tiêu
biểu
Không biết kết thúc câu chuyện Vốn từ nghèo nàn, viết câu sai
10/ Những kĩ năng nào cần ưu tiên lựa chọn trong giờ dạy tạo lập VBTS ?
Cung cấp nhóm từ ngữ gợi ý liên quan đến yêu cầu đề bài
Dành thời gian cho HS viết đoạn văn trong mỗi giờ TLV
Rèn luyện kĩ năng nói và viết
11/Những yếu tố quan trọng nào giúp HS tạo lập VBTS đạt yêu cầu cao ?
Đề tài hấp dẫn, gợi yêu thích Xây dựng VBTS có ý nghĩa
Chọn giọng kể, lời kể thích hợp Có tư liệu tham khảo đạt chất luợng
Ngôn ngữ chính xác, hình ảnh Cốt truyện hấp dẫn
12/ Vai trò của GV có quan trọng trong việc hướng dẫn HS tạo lập VBTS ?
Có Không
13/ Ý kiến của Anh /Chị về đề văn Tự Sự trong chương trình SGK :
Đề phát huy tinh sáng tạo của HS Đề chưa phù hợp
Đề chưa phát huy tính sáng tạo của HS Một số đề khá hay
14/ Theo Anh/ Chị, việc giảng dạy tạo lập VBTS như SGK là quá nặng
Đúng Không
15/ Những lỗi phổ biến trong bài TLV về VBTS của HS là :
Chính tả Viết câu sai ngữ pháp
Dùng từ Viết đoạn văn
Lặp từ ngữ Thiếu liên kết câu, liên kết đoạn
16/ Cần chú ý luyện tập phần nào trước khi cho HS làm bài viết ?
Xây dựng dàn bài
Luyện nói
Tập dựng đoạn
17/ Theo Anh / Chị trọng tâm tiết trả bài viết cho HS là :
Sửa lỗi chính tả
Sửa lỗi dùng từ
Sửa lỗi diễn đạt
Sửa tất cả các lỗi trên
18/ Những ý kiến đề xuất của Anh/ Chị để việc giảng dạy tạo lập VBTS cho HS đạt
chất lượng :
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………
Rất trân trọng và chân thành cảm ơn những ý kiến của Anh /Chị.
PHỤ LỤC 2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA GV
- Tổng số phiếu điều tra : 103
- Tổng số câu hỏi :18 (17 câu có các dữ kiện lựa chọn ; 1 câu xin ý
kiến)
- Kết quả trả lời trong từng câu có thể chọn nhiều dữ kiện.
S
T
T
Nội dung điều tra
Kết quả trả lời
SL TL %
/103
lựa
chọn
1
Trong giảng dạy TLV, dạy
tạo lập những kiểu văn bản
nào được Anh / Chị quan
tâm ?
Tự sự
Miêu tả
Biểu cảm
Nghị luận
Thuyết minh
Hành chính - Công vụ
43
18
30
78
22
7
41 %
17 %
29 %
75 %
21 %
6 %
2
Dạy tạo lập VBTS dễ hơn
dạy tạo lập các văn bản
khác
Đồng ý
Không đồng ý
53
50
51 %
49 %
3
Những nhận xét chung của
Anh / Chị về chương trình
giảng dạy tạo lập VBTS
hiện hành
Hay, khoa học
Ứng dụng cao
Mang tính lý thuyết
Thiếu thực hành
Không khả thi
Cao hơn trình độ HS
28
20
1
14
39
8
27 %
19 %
1 %
13 %
38 %
7 %
4
Kiến thức cần cung cấp về
các bài dạy lý thuyết
Quá nhiều
Đủ, hợp lí
Còn ít
Đủ nhưng thiếu thời gian thực
hành ở lớp
9
3
27
66
8 %
2 %
26 %
64 %
5
Nhận xét về quá trình tiếp
thu của HS sau khi dạy lý
thuyết về VBTS
Khó tiếp thu
Vừa sức
Quá dễ
22
81
0
21 %
79 %
6
Thời gian dành cho HS
làm luyện tập
Thừa
Đủ
Hơi ít
Rất ít
0
10
74
17
0
10 %
74 %
17 %
7
Đa số HS làm bài về văn
tự sự
Giỏi
Khá
Trung bình
Không đạt yêu cầu
0
53
49
1
0
51 %
48 %
1 %
8
Những nguyên nhân nào
giúp HS làm bài đạt yêu
cầu cao
Lý thuyết rõ, vận dụng tốt
GV rèn kĩ năng làm bài
Có năng khiếu
Sử dụng ngôn ngữ chính xác
Tùy theo đề bài
Đọc các bài tham khảo
36
59
13
8
22
16
35 %
57 %
12 %
8 %
21 %
15 %
9
Những nguyên nhân nào
đưa đến các bài làm văn
Tự sự không đạt yêu cầu
Chưa hiểu đặc trưng VBTS
Chưa biết bắt đầu câu chuyện
Chưa biết kết thúc câu chuyện
Chưa xây dựng được dàn ý
Chưa biết chọn sự việc, nhân
vật tiêu biểu
Vốn từ nghèo nàn, viết câu sai
24
7
4
36
40
48
23 %
7 %
4 %
35 %
39 %
47 %
10
Những kĩ năng nào cần ưu
tiên lựa chọn trong giờ dạy
tạo lập VBTS
Cung cấp nhóm từ ngữ gợi ý
Dành thời gian cho HS viết
đoạn văn
Rèn luyện kĩ năng nói, viết
15
59
63
14 %
57 %
61 %
11
Những yếu tố quan trọng
nào giúp HS tạo lập VBTS
đạt yêu cầu cao
Đề tài hấp dẫn, gợi yêu thích
Chọn giọng, lời kể thích hợp
Ngôn ngữ chính xác, hình ảnh
50
22
23
48 %
21 %
22 %
Xây dựng VBTS có ý nghĩa
Tư liệu tham khảo chất lượng
Cốt truyện hấp dẫn
31
19
28
30 %
18 %
27 %
12
Vai trò của GV có quan
trọng trong việc hướng
dẫn HS tạo lập VBTS
Có
Không
103
0
100%
13
Ý kiến của Anh /Chị về
đề văn Tự Sự trong
chương trình SGK
Phát huy tính sáng tạo của HS
Chưa phát huy tính sáng tạo
Đề chưa phù hợp
Một số đề khá hay
51
15
12
35
49 %
14 %
11 %
34 %
14
Theo Anh/ Chị, việc giảng
dạy tạo lập VBTS như
SGK là quá nặng
Đồng ý
Không đồng ý
43
60
42 %
58 %
15
Những lỗi phổ biến trong
bài TLV về VBTS của HS
là
Chính tả
Dùng từ
Lặp từ ngữ
Viết câu sai ngữ pháp
Viết đoạn văn
Thiếu liên kết câu, đoạn
40
31
20
32
19
72
38 %
30 %
19 %
31 %
18 %
70 %
16
Cần chú ý luyện tập phần
nào trước khi cho HS làm
bài viết
Xây dựng dàn bài
Luyện nói
Tập dựng đoạn
79
20
36
76 %
19 %
35 %
17
Theo Anh / Chị trọng tâm
tiết trả bài viết cho HS là
Sửa lỗi chính tả
Sửa lỗi dùng từ
Sửa lỗi diễn đạt
Sửa tất cả các lỗi trên
2
4
20
93
2 %
4 %
19 %
90 %
18
Những ý kiến đề xuất của
Anh/ Chị để việc giảng
dạy tạo lập VBTS cho HS
đạt chất lượng
- Tăng thời gian luyện tập :
xây dựng dàn ý, thực hành viết
đoạn văn, bài văn
- Tăng tiết luyện nói
/
- Đề bài cần phù hợp
- Đọc, tìm hiểu kĩ đề bài
- Đọc kĩ cốt truyện
- Rèn dùng từ, đặt câu, dựng
đoạn
- Phân bố thời gian giảng dạy
hợp lí
- Nắm rõ đặc trưng thể loại
- Sưu tầm tài liệu, bài văn hay
để HS tham khảo
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 3: CÁC BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ CỦA CÁN BỘ
GIÁO VIÊN VỀ NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TIỀN GIANG VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
(Điều tra ở 50 cán bộ giáo viên là giáo viên đứng lớp, cán bộ làm việc
ở các phòng, trung tâm)
Bảng 3.1: Đánh giá của cán bộ giáo viên về nhận thức sức khỏe sinh sản
của sinh viên trường đại học Tiền Giang
Đánh giá của CBGV
về nhận thức của SV Đối tượng
Tốt Trung bình Kém
1.1. Sinh viên đại học ngành
sư phạm
f
%
32
64%
17
34%
1.2. Sinh viên đại học
ngành ngoài sư phạm
f
%
19
38%
26
52%
Bảng 3.2: Đánh giá của cán bộ giáo viên về nhận thức của sinh viên trường
đại học Tiền Giang về từng nội dung cốt lõi của sức khỏe sinh sản
Đánh giá của CBGV về nhận
thức của sinh viên Nội dung
Tốt Trung bình Kém
2.1. Các khái niệm, thuật ngữ sức
khỏe sinh sản
f
%
18
36%
25
59%
4
8%
2.2. Nhận thức về giới tính f
%
33
66%
14
28%
2.3. Nhận thức về tình yêu, hôn nhân
và gia đình
f
%
19
38%
26
52%
1
2%
2.4. Nhận thức về tình dục f
%
23
46%
20
40%
4
8%
3.5. Nhận thức về mang thai và nạo
phá thai
f
%
16
32%
22
44%
7
14%
2.6. Nhận thức về các biện pháp
tránh thai
f
%
16
32%
26
52%
3
6%
2.7. Nhận thức về các bệnh lây
truyền qua đường tình dục
f
%
22
44%
21
42%
4
8%
2.8. Nhận thức chung về các nội
dung
f
%
16
28%
28
56%
2
4%
Bảng 3.3. Ý kiến của cán bộ giáo viên về những nguyên nhân làm ảnh
hưởng trong nhận thức về sức khỏe sản của sinh viên trường ta
Kết quả điều tra Nguyên nhân
f %
1. Ít được cung cấp thông tin 26 52%
2. Nhận thức của sinh viên về vấn đề này kém 15 30%
3. Thiếu thời gian lĩnh hội 8 16%
4. Không được giáo dục từ các lớp dưới 18 36%
5. Không nhận được sự chỉ bảo và giáo dục của gia
đình
24 48%
6. Tác động xấu từ bên ngoài 22 44%
Bảng 3.4: Sắp xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến hết các biện pháp nhằm nâng
cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên trường đại học
Tiền Giang
Sắp xếp của CBGV về thứ tự các biện pháp Các biện pháp
1 2 3 4 5 6 7
1. Tăng cường sự chỉ
đạo của ngành
giáo dục – đào tạo
và nhà trường
trong giáo dục sức
khỏe sinh sản
f
%
17
34%
6
12%
4
8%
3
6%
2
4%
9
18%
3
6%
2. Cung cấp thông
tin, kiến thức giáo
dục giới tính trong
giáo dục, chăm
sóc sức khỏe sinh
sản
f
%
11
22%
20
40%
10
29%
4
8%
3. Kết hợp các lực
lượng giáo dục
trong giáo dục,
chăm sóc sức
khỏe sinh sản
f
%
16
32%
4
8%
12
24%
9
18%
4
8%
4. Phát huy vai trò
của gia đình trong
giáo dục sức khỏe
sinh sản
f
%
3
6%
6
12%
1
2%
22
44%
6
12%
2
4%
1
2%
5. Phát huy tính tích
cực nhận thức của
chính sinh viên
trong lĩnh hội
f
%
9
18%
7
14%
3
6%
22
44%
2
4%
3
6%
6. Phối hợp với Ủy
ban dân số, gia
đình, trẻ em tỉnh
làm tốt công tác
truyền thông sức
khỏe sinh sản
f
%
4
8%
4
8%
1
2%
3
6%
6
12%
17
34%
12
24%
7. Lồng ghép trong
việc dạy học các
học phần, học
phần tự chọn
f
%
3
6%
7
14%
4
8%
9
18%
20
40%
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 4: MẪU PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VÀ TRÒ CHUYỆN
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Nhằm nắm được thực trạng nhận thức của sinh viên Đại học Tiền Giang về sức
khỏe sinh sản, xin bạn vui lòng cho biết ý kiến cá nhân về những vấn đề nêu trong phiếu
này. Xin cảm ơn bạn!
1.3 C
1- Thông tin về cá nhân: (Hãy đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với bạn)
- Giới tính: Nam Nữ
- Hệ đào tạo: Cao đẳng Đại học
- Đang học năm thứ: Thứ I Thứ II Thứ III Thứ IV
- Ngành học: Sư phạm Ngoài sư phạm
2- Phần trưng cầu ý kiến:
Câu 1: Bạn tự đánh giá nhận thức chung của bạn về sức khỏe sinh sản (Hãy đánh
dấu X vào ô thích hợp nhất):
1. Chưa biết
2. Biết rất ít
3. Biết ít
4. Biết nhiều
5. Hiểu
Câu 2: Theo bạn, sức khoẻ sinh sản bao gồm các vấn đề nào? (Đánh dấu X vào
những ô thích hợp)
1. Sức khỏe sinh sản
2. Giới
3. Giới tính
4. Sự thụ thai
5. Kinh nguyệt
6. Tình bạn
7. Tình yêu
8. Hôn nhân
9. Tình dục
10. Kế hoạch hóa gia đình
11. Chăm sóc phụ nữ khi mang thai
12. Các biện pháp tránh thai
13. Nạo hút thai an toàn
14. Phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường sinh dục
15. Chăm sóc sức khỏe vị thành niên
16. Bình đẳng giới
17. Vô sinh
18. HIV/AIDS
19. Mãn kinh khi tuổi già
Câu 3*: Sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính được biểu hiện ở các điểm nào?
(Đánh dấu X vào những ô thích hợp ):
1. Hứng thú
2. Xúc cảm, tình cảm
3. Tính cách
4. Năng lực
Câu 4 *: Theo bạn, tình bạn tốt đòi hỏi phải có các đăc trưng gì ? (Đánh dấu X vào
những ô thích hợp):
1. Sự phù hợp về xu hướng
2. Sự bình đẳng nam nữ
3. Sự chân thành, tin cậy, trách nhiệm cao
4. Sẵn sàng bao che khuyết điểm cho nhau
5. Sự đồng cảm
6. Tồn tại nhiều mối quan hệ
7. Tập hợp thành nhóm
Câu 5*: Tình yêu lành mạnh phải có đặc điểm gì ?( Đánh dấu X vào những ô thích hợp):
1. Sự cuốn hút lẫn nhau giữa hai người khác giới
2. Tôn trọng người yêu
3. Biết chia sẻ
4. Luôn đem lại hạnh phúc cho nhau
5. Phải có ghen tuông
6. Chung thủy
7. Tôn trọng bản thân mình
8. “Cho nhau” tất cả
Câu 6: Nam và nữ cần kết hôn ở độ tuổi nào là thích hợp với quy định của pháp
luật Việt Nam ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Nam đủ 20 tuổi, nữ đủ 18 tuổi.
2. Nam 24 tuổi, nữ 22 tuổi.
3. Cả nam và nữ đủ 18 tuổi.
4. Cả nam và nữ đủ 19 tuổi.
5. Nam 20 tuổi và nữ 19 tuổi.
6. Tất cả
Câu 7: Theo bạn, vì sao trong giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản cho học sinh,
người ta lại chú ý đến đối tượng ở tuổi dậy thì ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Vì tuổi này có nhiều biến đổi mạnh mẽ.
2. Vì tuổi này sắp chuyển sang làm người lớn
3. Vì tuổi này xuất hiện khả năng sinh sản.
4. Vì tuổi này có ham muốn tình dục.
5. Câu 1 & 4.
Câu 8 : Dấu hiệu nào là dấu hiệu cơ bản của tình yêu ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Tình thương trong tình yêu.
2. Tình bạn trong tình yêu
3. Tình dục trong tình yêu.
4. Câu 1 & 2.
5. Câu 1, 2 & 3.
Câu 9*: Theo bạn, tiêu chuẩn nào để có hôn nhân hạnh phúc? (Đánh dấu X vào
những ô thích hợp):
1. Tình yêu sâu sắc đã qua thử thách.
2. Có sự thống nhất về quan điểm sống, về quan điểm đạo đức và hiểu biết về tính
tình của nhau
3. Trưởng thành về tuổi đời.
4. Cơ sở vật chất đầy đủ, thu nhập cao
5. Ổn định về nghề nghiệp.
6. Có sức khỏe
7. Được gia đình hai bên ủng hộ
8. Còn tiêu chuẩn nào khác (Xin ghi cụ thể):
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Câu 10*: Theo bạn, việc các bạn gái chiều theo ý muốn của bạn trai ( trong quan hệ
tình dục) để mong giữ tình bạn tốt đẹp là biểu hiện của tình bạn khác giới ? (Đánh dấu
X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đúng
2. Phân vân
3. Đúng
4. Rất đúng
Câu 11: Theo bạn, tình dục là biểu hiện cụ thể, mãnh liệt của sự hòa nhập không
thể thiếu trong một tình yêu trọn vẹn ở những người trưởng thành ? (Đánh dấu X vào ô
thích hợp nhất)
1. Không đúng
2. Phân vân
3. Đúng
4. Rất đúng
Câu 12 : Bạn có đồng ý với câu nói: “sự đam mê tình dục luôn phải trả giá, đôi khi
rất đắt” ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 13 : Theo bạn, độ tuổi nào là tốt nhất để bắt đầu quan hệ tình dục ? (Đánh dấu
X vào ô thích hợp nhất)
1. 13 – 14
2. 15 – 16
3. 17 – 18
4. 18 tuổi trở lên
5. Sau khi kết hôn
6. Chẳng có tuổi nào là tốt nhất để bắt đầu hết
7. Đã dạm hỏi.
8. Sự đồng ý của hai gia đình
Câu 14: Theo bạn, thế nào là quan hệ tình dục an toàn? (Đánh dấu X vào những ô
thích hợp)
1. Tất cả các hình thức hoạt động tình dục, trừ giao hợp.
2. Sử dụng bao cao su.
3. Không có nguy cơ rủi ro như mang thai ngoài ý muốn
4. Không bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Câu 15: Bạn có đồng ý với quan niệm cho phép “quan hệ tình dục trước hôn nhân”?
(Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 16: Theo bạn, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị
thành niên và thanh niên là:
1. Do vị thành niên và thanh niên ngày nay có nhu cầu quan hệ tình dục sớm.
2. Do thiếu hiểu biết về giới, tình dục an toàn
3. Do gia đình và xã hội ngày càng ít định kiến với vấn đề này
4. Tất cả các câu trên
Câu 17: Theo bạn, biện pháp nào là hữu hiệu để giảm việc nạo phá thai ở tuổi vị
thành niên và thanh niên ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Giáo dục về tình dục
2. Hướng dẫn các biện pháp tránh thai cho vị thành niên và thanh niên
3. Trang bị kiến thức về sức khoẻ sinh sản cho vị thành niên và thanh niên
4. Tư vấn kế hoạch hóa gia đình
Câu 18: Theo bạn, việc nhiễm bệnh qua đường tình dục có thể lây truyền theo các
con đường nào ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Sinh hoạt tình dục
2. Tiêm thuốc
3. Truyền máu
4. Truyền dịch
5. Từ mẹ sang con
6. Trong một số trường hợp đặc biệt
Câu 19: Theo bạn, mức độ nhận thức về vấn đề sức khỏe sinh sản của sinh viên
trường ta là: (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhấ)
1. Rất tốt
2. Tốt
3. Trung bình
4. Kém
5. Rất kém
Câu 20: Theo bạn, việc ít được cung cấp thông tin về sức khỏe sinh sản là nguyên
nhân làm hạn chế trong nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường ta ?
(Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 21 : Theo bạn, nguyên nhân gây ảnh hưởng trong nhận thức về sức khỏe sinh
sản của sinh viên trường ta là việc nhận thức kém của bản thân sinh viên về sức khỏe
sinh sản ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 22 : Theo bạn, nguyên nhân làm hạn chế trong nhận thức về sức khỏe sinh sản
của sinh viên trường ta là việc thiếu thời gian tiếp cận và nguồn thông tin về vấn đề này ?
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 23: Theo bạn, nguyên nhân làm ảnh hưởng trong nhận thức về sức khỏe sinh
sản của sinh viên trường ta là do không được giáo dục vấn đề này từ các lớp dưới?
(Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 24: Theo bạn, nguyên nhân làm ảnh hưởng trong nhận thức về sức khỏe sinh
sản của sinh viên trường ta là do không nhận được sự chỉ bảo và giáo dục của gia đình
liên quan đến vấn đề này ? (Đánh dấu X vào ô thích hợp nhất):
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 25: Theo bạn, nguyên nhân làm ảnh hưởng trong nhận thức về sức khỏe sinh
sản của sinh viên trường ta là do tác động xấu từ bên ngoài? (Đánh dấu x vào ô thích
hợp nhất)
1. Không đồng ý
2. Phân vân
3. Đồng ý
4. Rất đồng ý
Câu 26: Theo bạn, ngoài những nguyên nhân trên còn có những nguyên nhân nào
khác làm hạn chế trong nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường ta ?
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
Câu 27: Hãy sắp xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến hết các biện pháp nhằm nâng cao nhận
thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường ta.
1- Tăng cường sự chỉ đạo của ngành giáo dục – đào tạo và nhà trường trong giáo
dục
2- Cung cấp thông tin, kiến thức về sức khỏe sinh sản
3- Tổ chức các câu lạc bộ sinh viên để làm công tác tuyên truyền
4- Kết hợp các lực lượng giáo dục trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản
5- Phát huy vai trò của gia đình
6- Sinh viên cần phát huy tính tích cực nhận thức của bản thân về vấn đề này.
7- Phối hợp với Ủy ban dân số, gia đình, trẻ em tỉnh làm tốt công tác truyền thông
8- Lồng ghép trong việc dạy học các học phần, học phần tự chọn ở nhà trường
9- Đưa nội dung này vào giảng dạy trong nhà trường
Câu 28: Những hiểu biết của bạn về vấn đề sức khỏe sinh sản là do các nguồn nào
cung cấp ?
Mức độ ảnh hưởng
Nguồn Không
có Ít
Thỉnh
thoảng
Thường
xuyên
1. Thầy cô
2. Bạn bè
3. Gia đình
4. Phương tiện thông tin đại chúng
5. Các buổi sinh họat đoàn thể
6. Các trung tâm tư vấn
7. Nguồn khác (xin ghi cụ thể)
8.
9.
Xin cảm ơn bạn
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
1.2 Ch
Nhằm nắm được thực trạng nhận thức của sinh viên Đại học Tiền Giang về sức
khỏe sinh sản, xin thầy ( cô ) vui lòng cho biết ý kiến cá nhân về những vấn đề nêu trong
phiếu này. Xin cảm ơn thầy ( cô ).
1. Đánh giá của thầy (cô) về nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên trường ta:
(Đánh dấu X vào ô mức độ nhận thức tương ứng)
Nhận thức Đối tượng Tốt Trung bình Kém
1.1. Sinh viên đại học (ngành sư phạm)
1.2. Sinh viên đại học ngoài ngành sư phạm)
2. Đánh giá của thầy (cô) về nhận thức của sinh viên về từng nội dung cốt lõi của sức
khỏe sinh sản: (Đánh dấu X vào ô mức độ nhận thức tương ứng)
Nhận thức Nội dung Tốt Trung bình Kém
2.1. Các khái niệm, thuật ngữ sức khỏe sinh sản
2.2. Nhận thức về giới tính
2.3. Nhận thức về tình yêu, hôn nhân và gia đình
2.4. Nhận thức về tình dục
3.5. Nhận thức về mang thai và nạo phá thai
2.6. Nhận thức về các biện pháp tránh thai
2.7. Nhận thức về các bệnh lây truyền qua đường
tình dục
2.8. Nhận thức chung về các nội dung
3. Theo thầy (cô), nếu có hạn chế trong nhận thức về sức khỏe sản của sinh viên
trường ta thì đó là những nguyên nhân nào? (Đánh dấu X vào những ô thích hợp)
3.1. Ít được cung cấp thông tin
3.2. Nhận thức của sinh viên về vấn đề này kém
3.3. Thiếu thời gian lĩnh hội
3.4. Không được giáo dục từ các lớp dưới
3.5. Không nhận được sự chỉ bảo và giáo dục của gia đình
3.6. Tác động xấu từ bên ngoài
4. Thầy (cô) hãy sắp xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến hết các biện pháp nhằm nâng cao
nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên trường ta.
4.1. Tăng cường sự chỉ đạo của ngành giáo dục – đào tạo và nhà trường
trong giáo dục sức khỏe sinh sản
4.2. Cung cấp thông tin, kiến thức giáo dục giới tính trong giáo dục,
chăm sóc sức khỏe sinh sản
4.3. Kết hợp các lực lượng giáo dục trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe
sinh sản
4.4. Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh sản
4.5. Phát huy tính tích cực nhận thức của chính sinh viên trong lĩnh hội
4.6. Phối hợp với Ủy ban dân số, gia đình, trẻ em tỉnh làm tốt công tác
truyền thông sức khỏe sinh sản
4.7. Lồng ghép trong việc dạy học các học phần, học phần tự chọn
Xin cảm ơn thầy (cô)!
CÂU HỎI TRÒ CHUYỆN, PHỎNG VẤN
1.1 C NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
1. Theo bạn, mục tiêu của kế hoạch hóa gia đình là gì?
2. Bạn hiểu như thế nào về giới tính, về đồng tính luyến ái?
3. Thế nào là tình yêu chân thực, tình yêu chân chính ?
4. Dấu hiệu cơ bản nhất chứng tỏ nam, nữ vị thành niên đã trưởng thành.
5. Ý kiến của bạn về câu nói: Tình yêu ở tuổi học trò thường lung linh nhưng thường
dễ vỡ.
6. Tình yêu nhất thiết phải có tình dục ?
7. Có phải yêu nhau là cho nhau tất cả không ?
8. Bạn có suy nghĩ gì về quan hệ tình dục trước hôn nhân?
9. Một cậu con trai có giấc mơ ướt (mộng tinh) chứng tỏ điều gì ở bạn ấy?
10. Nhu cầu tình dục ở con gái là lớn hơn ở con trai?
11. Tác hại của việc nạo phá thai theo bạn là gì?
12. Vì sao không nên kết hôn và sinh con ở tuổi vị thành niên?
13. Tránh thai là trách nhiệm riêng của nữ ?
14. Nạo hút thai vào thời điểm nào là tốt hơn cả?
15. Sức khỏe tình dục là gì?
16. Nhu cầu về sức khỏe sinh sản của vị thành niên và thanh niên là gì?
17. Biện pháp tránh thai nào vừa có tác dụng tránh thai vừa có tác dụng tránh các bệnh
lây nhiễm qua đường tình dục?
18. Các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục là gì ? Và có những bệnh nào?
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 5: PHIẾU QUAN SÁT TRONG ĐIỀU TRA NHẬN THỨC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
Khách thể quan sát: Sinh viên các lớp ngành Sư phạm: ĐH Toán A, ĐH Toán
B; ngoài ngành Sư phạm: ĐH Ngữ văn, ĐH Quản trị Kinh doanh, ĐH Tài
chánh Kế toán
Ngày quan sát: - Đợt 1: ngày 15.12.2006
- Đợt 2: ngày 22.12.2006
Địa điểm quan sát: Giảng đường cơ sở chính
Người tiến hành: Tác giả đề tài
TIẾN TRÌNH QUAN SÁT
Nội dung
quan sát
Diễn tiến nội dung quan
sát
Thời gian
quan sát
Ghi chú
Theo dõi thái độ
của sinh viên
trong hướng dẫn
cho thông tin
vào phiếu điều
tra
- Thái độ của sinh viên
trước khi hướng dẫn:
chăm chú hay lơ đễnh
- Thái độ của sinh viên
khi kết thúc hướng dẫn:
quan tâm, hay bàng quan
5 phút/lớp
Theo dõi thái độ
của sinh viên
khi cho thông
tin vào phiếu
điều tra
- Thái độ của sinh viên
khi nhận phiếu: hợp tác
hay không hợp tác
- Thái độ của sinh viên
trong khi cho thông tin
vào phiếu điều tra: nhiệt
tình, hợp tác, chiếu lệ
- Phản ứng của sinh viên
trước các câu hỏi trong
phiếu điều tra khi thực
hiện: đồng tình, không
đồng tình...
- Thái độ của sinh viên
khi trao đổi với bạn bè
xung quanh: tranh cãi gay
gắt hay không gay gắt.
15 phút/lớp
Theo dõi thái độ
của sinh viên
khi kết thúc việc
cho thông tin
vào phiếu điều
tra
Tinh thần hợp tác
10 phút/lớp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7304.pdf