Lời nói đầu.
Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách, được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho n
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh - Tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười lao động để đưa ra biện pháp và hiệu quả phù hợp.
Huyện Trực Ninh nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung đã và đang đẩy mạnh chương trình XĐGN và tạo việc làm, chương trình tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới và giảm đáng kể hộ nghèo. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, thời gian làm việc ở nông thôn thấp, công tác XĐGN và tạo việc làm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập ở Phòng Nội vụ Lao động TBXH, với chuyên ngành theo học là kinh tế lao động em đã chọn đề tài: “Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”. Qua đây em cũng xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị về vấn đề tạo việc làm cho người lao động để nâng cao hiệu quả tạo việc làm ở huyện Trực Ninh.
Chuyên đề gồm 3 phần:
+ Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
+ Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
+ Phần 3: Giải pháp và kiến nghị về tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện để sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc làm.
1. Khái niệm việc làm và phân loại việc làm.
Việc làm.
Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như máy móc, nhà xưởng, vật liệu… và chi phí về sức lao động (V). Quan hệ kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc sử dụng nhiều sức lao động, tức là khi công nghệ thay đổi thì quan hệ tỷ lệ giữa C và V cũng thay đổi theo. Trong điều kiện kỹ thuật thủ công thì một đơn vị C có thể kết hợp với nhiều V, ngược lại trong điều kiện tự động hóa sản xuất theo dây truyền thì đòi hỏi ít V nhưng nhiều C (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Vì vậy tùy từng điều kiện cụ thể để lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc làm cho người lao động.
Theo điều 13, chương II (Việc làm) Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam có ghi rõ: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
- Hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình (đó là tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
- Hoạt động đó không được pháp luật cấm (đó là tính pháp lý của việc làm). Hoạt động có ích không giới hạn về hành vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người khác trong khuân khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối sử trong các thành phần kinh tế.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của mọi hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động đó tạo ra thu nhập nhưng lại vi phạm pháp luật cũng không được coi là việc làm. Một hoạt động dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như nội trợ của phụ nữ cho chính gia đình mình.
Tuy nhiên, khái niệm trên còn có những hạn chế:
- Tính hợp pháp của hoạt động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác (Mại dâm của phụ nữ được thừa nhận là việc làm ở Thái Lan, Philippines. Nhưng nghề này không được thừa nhận ở Việt Nam).
- Không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công (công việc nội trợ).
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Phân loại việc làm.
Theo khái niệm việc làm của Bộ Luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, việc làm thể hiện dưới các dạng:
Công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
Công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân.
Công việc mà người lao động làm cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao.
Theo mức độ sử dụng lao động, việc làm chia ra:
Việc làm đầy đủ: Nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có việc làm nếu chỉ xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động (Tức là có sự phù hợp giữa C và V).
Việc làm hợp lý: Là việc làm được tạo ra trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động.
Việc làm cũng có thể chia ra người có việc làm, người không có việc làm (thất nghiệp), người có việc làm tạm thời, việc làm ổn định.
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là những người làm việc ít hơn mức mà họ mong muốn. Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng: hoặc là người lao động không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, hoặc là những việc làm có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống do đó họ muốn làm thêm để có thu nhập.
Thất nghiệp được hiểu là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Người có việc làm gồm những người làm việc trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc tạm thời nghỉ việc do ốm đau, tai nạn, nghỉ lễ, nghỉ phép hoặc tạm thời nghỉ việc do thời tiết xấu.
Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm và có nhu cầu được làm việc.
Người thiếu việc làm gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong tuần, trong tháng hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là những người có tổng số giờ làm việc bằng số giờ theo quy định trong tuần, tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu nhập.
2. Nội dung tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường.
Hay tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của dân số. Chất lượng lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục, y tế. Ngoài ra vấn đề môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này hết sức quan trọng. Nó bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động trong công việc. Thực tế thị trường lao động chỉ có thể được thi hành khi người lao động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động. Do vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời không thể thiếu vai trò của Nhà nước. Đó chính là cơ chế ba bên của tạo việc làm, cơ chế này đòi hỏi sự tham gia tích cực của người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao động.
Về phía người lao động, muốn tìm được việc làm phù hợp có thu nhập đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức lao động của mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ (từ gia đình, từ các tổ chức xã hội ) để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nhất định – điều kiện cần thiết cho người lao động tham gia vào thị trường lao động.
Về phía Nhà nước, tạo ra hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư lieu sản xuất là bộ phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
Về phía người sử dụng lao động gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế xã hội cần thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ tạo chỗ làm việc mà còn duy trì và tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động. Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó người sử dụng lao động cần có vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng (nơi làm việc), công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liêu, mua sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa để mở rộng quy mô sản xuất chủ sử dụng lao động không chỉ có vốn mà cần kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, quản lý lao động khoa học và nghệ thuật .
Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích cực cả ba phía : Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân những người lao động. Sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường đúng lúc, đúng chỗ.
Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Vấn đề là đầu tư chủ yếu vào khu vực thành thị, khu vực công nghiệp vì thường ở đó tỷ lệ lợi nhuận cao, thuận lợi cho sản xuất. Tuy nhiên, có thể sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này lên, bỏ qua khu vực nông thôn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
a) Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Cầu lao động bắt nguồn từ cầu sản xuất, phát triển kinh tế. Sản xuất càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng nhu cầu lao động ngày càng lớn. Muốn mở rộng sản xuất phát triển kinh tế phải dựa vào các tiền đề vật chất. Do đó tiền đề vật chất là nhân tố tiên quyết trước hết ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Điều kiện tự nhiên của một vùng là có sẵn ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân. Điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại cây trồng, vật nuôi. Trữ lượng hầm mỏ, tài nguyên rừng… Trước hết đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Thực tế nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất nhưng còn tùy thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò củ đất là khác nhau.
Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được .
Tuy nhiên mỗi vùng, mỗi địa phương lại có giới hạn khác nhau về diện tích đất, địa hình, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng đó. Hiện nay với diện tích đất có hạn, dân số đông, diện tích đất bình quân trên đầu người thấp nhất thì vấn đề sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao là rất khó khăn. Vì vậy, khai thác chiều sâu của ruộng đất để mỗi đơn vị ruộng đất ngày càng cho ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu về nông lâm thủy sản cho con người. Nếu đất được sử dụng đúng mục đính hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn. Do đó để tạo nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng lúa, hoa màu sen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người nông dân.
Trong công nhiệp, đất đai thường được sử dụng trong xây dựng nhà máy, công ty, xí nghiệp. Do đó đất cũng trở thành tư liệu sản xuất hàng đầu. Tuy vậy vấn đề đầu tư cho công nghiệp đang hết sức được chú trọng, phần lớn lao động được thu hút vào làm việc trong lĩnh vực này. Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên các cấp các ngành đều tạo điều kiện cho sự phát triển, xây dựng quy mô các doanh nghiệp công nghiệp. Làm tốt công tác này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp như hiện nay.
Như vậy, điều kiện tự nhiên nói chung và đất đai nói riêng là vô cùng quan trọng trong sản xuất.Vì thế muốn tạo được việc làm cho người lao động thì phải xem xét vấn đề này, đánh giá xem việc sử dụng đất có hợp lý không, đất nào dùng cho nông nghiệp, đất nào dùng cho công nghiệp là hợp lý nhất.
Điều kiện thứ hai chúng ta đề cập đến là vốn. Vốn có vai trò rất quan trọng , không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được thể hiện bằng tiền của tư liệu lao động được sử dụng vào trong sản xuất. Trong nông nghiệp, sự tác động của vốn tới hiệu quả kính tế của nó không phải là bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, ngoài ra còn biểu hiện ở yếu tố kỹ thuật. Cơ cấu chất lượng vốn phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Mặt khác nhiều khi do thời gian thu hồi vốn chậm nên cần phải có khối lượng vốn lưu động tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Vốn trong nông nghiệp tăng cao thì cơ hội tạo việc làm cho người lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, họ có thể đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động tham gia. Trong công nghiệp cũng vậy, vốn có vai trò quan trọng, là yếu tố tất thiết để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp được sử dụng rất nhiều, ngoài xây dựng nhà xưởng còn phải mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao và số lượng lao động thu hút làm việc ngày càng nhiều hơn.
Do vậy vốn vô cùng quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động vốn có thể cho phép mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao hiệu quả và có thể thu hút lao động, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
Nhân tố thuộc về sức lao động.
Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của cả ba phía: Người chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên cả hai phương diện là số lượng và chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi hỏi mà người lao động cần có để đáp ứng được những yêu cầu của người sử dụng lao động.
Trước hết cần hiếu sức lao động là khả năng trí lực, thế lực của con người. Đó là tri thức, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động.
Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, cung về số lượng lao động không phải là vấn đề đáng bàn vì đang dư cung, quan trọng hơn là vấn đề về sức lao động. Vì thế, người lao động muốn kiếm được việc làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các thông tin về thị trường lao động, tức là cần đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn được ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện đầu tư vào vốn con người có hiệu quả. Mỗi người lao động cũng cần phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Đó cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị thế của bản thân mỗi người lao động.
Cơ chế, chính sách kinh tế xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Cơ chế chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương, các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho người lao động. Đó chính là môi trường kinh tế và môi trường xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
Môi trường kinh tế thể hiện sự hoạt động của thị trường hàng hóa đang diễn ra trong khu vực, giá trị kinh tế của vùng, sự hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố này để tìm ra xu hướng, tiềm năng phát triển kinh tế của vùng cho đầu tư phát triển sản xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Yếu tố hết sức quan trọng đó là môi trường xã hội. Những cơ chế, chính sách, sự quan tâm của các cấp, các ngành đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Đó là các chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, ra luật đầu tư thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo cho người dân, phổ biến tốt các vấn đề xã hội khác đang được quan tâm… thì mới có thể làm tốt công tác tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố tâm lý cũng hết sức quan trọng, liên quan tới công việc của người lao động, đặc biệt là yếu tố tinh thần cho người lao động. Vì vậy người sử dụng lao động cần hết sức chú ý tới tâm lý người lao động, tạo cảm giác mong muốn được làm việc, hăng say làm việc cho người lao động.
Có thể nói nhóm nhân tố này rất đa dạng như các chính sách kinh tế vĩ mô hay vi mô và có thể theo ngành, lĩnh vực, vùng… ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới trên tầm vĩ mô chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần… đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Do đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo vùng thay đổi không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động. Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng hướng.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là những yếu tố được nêu ở trên. Các yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau. Để tạo được việc làm cần có tư liệu sản xuất, nhưng có tư liệu sản xuất rồi cần phải có sức lao động phù hợp với trình độ chuyên môn. Hai yếu tố này là điều kiện cần, yếu tố môi trường là điều kiện đủ tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm.
4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động được coi là vấn đề búc xúc trong mọi thời đại. Bởi nếu người lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm thì đó là biểu hiện của việc không sử dụng và khai thác hết nguồn lực con người vốn có trong xã hội, là sự lãng phí nguồn lực của xã hội và mất đi một phần thu nhập của người dân. Với xã hội, thất nghiệp làm giảm thu nhập và mất khoản chi phí trợ cấp thất nghiệp, đời sống kinh tế xã hội giảm. Với người thất nghiệp họ phải làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền trang trải cuộc sống thậm chí vi phạm pháp luật. Nhất là ở khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao dẫn đến tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Còn đối với những người đang có việc làm họ sẽ bị sức ép về kinh tế, làm việc ở mức tiền công thấp, ngày làm việc kéo dài nhưng lại luôn bị đe dọa mất việc làm. Thất nghiệp còn dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế, đem lại khó khăn cho gia đình và xã hội. Từ những khó khăn về kinh tế gây tác động và ảnh hưởng đến lĩnh vực xã hội dấn tới hiện tượng tiêu cực xã hội. Do đó, tạo việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế và đối với xã hội. Tạo việc làm cho người lao động chính là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế.
Ngày nay, tạo việc làm có ý nghĩa sống còn đối với một nền kinh tế, là biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy lùi nạn thất nghiệp bởi thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói và tệ nạn xã hội.
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi nhận: Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động – quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao động.
Tạo việc làm cho người lao động cũng là công cụ quan trọng của Đảng, Nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang đặt ra với con người, kích thích người lao động sáng tạo và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho họ, đảm bảo công bằng xã hội. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, tạo cho mọi người có điều kiện như nhau đối với việc chăm sóc sức khỏe, phát triển giáo dục, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Với trình độ tri thức, hiểu biết xã hội, người lao động sẽ khắc phục được hạn chế của mình và phát huy năng lực lao động. Tạo việc làm đầy đủ sẽ giúp cho dân quyền tự do, bình đẳng cùng với tất cả các thành viên khác trong cộng đồng; có ý nghĩa to lớn trong cuộc điều chỉnh lợi ích, thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho người lao động. Việc làm và thu nhập sẽ nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và ngoài xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó tạo một cơ cấu xã hội mới, năng động, xóa bỏ những cách biệt quá xa giữa người giàu, người nghèo. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội. Khi tạo việc làm cho người lao động một cách đúng đắn và môi trường xã hội thuận lợi là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tiềm năng sáng tạo của con người thúc đẩy họ lao động tìm tòi hết mình, cống hiến cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó tạo việc làm cho người lao động là hết sức cần thiết góp phần ổn định xã hội, tạo lên sức mạnh tổng hợp có khả năng khắc phục từng bước nguy sơ tụt hậu về kinh tế, giảm tệ nạn xã hội…
Từ sự phân tích khái niệm trên, chúng ta đi sâu tìm hiểu thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định từ đó có thể đưa ra các giải pháp cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện trong những năm tới, tiến tới mục tiêu tăng số việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn huyện.
Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Quê hương Trực Ninh nổi tiếng về những ngày hội truyền thống tưng bừng ở các ngôi chùa cổ, với những làng nghề truyền thống có thời gian đã từng là bí truyền đến nỗi quy định con trai – con gái trong làng không được kết hôn với người làng khác để gìn giữ công nghệ và bí quyết nghề làng mình, hay những mùa lúa tám đặc sản thơm lừng. Con người Trực Ninh hiền lành, cần cù chịu khó và hiếu khách, họ luôn biết tìm tòi và vượt lên trên những gian khổ khó khăn. Trực Ninh còn được thiên nhiên ưu đãi cho những vùng đất trù phú, khí hậu ôn hòa đồng thời cũng thuận tiện trong giao thông cả đường bộ và đường thủy. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa – Trực Ninh có nhiều ưu thế cả về thiên nhiên, con người và xã hội.
I. Những đặc điểm cơ bản ảnh hưởng đến việc làm ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Huyện gồm 21 xã, thị trấn (19 xã, 2 thị trấn), với tổng diện tích là 143,5 km2; nằm ở cửa ngõ phía nam của tỉnh Nam Định, nằm trên quốc lộ 21, đi qua quốc lộ 10 nối liền với thủ đô Hà Nội – trung tâm của cả nước bởi quốc lộ 1A. Phía nam giáp huyện Hải Hậu, phía tây giáp huyện Nam Trực, phía đông giáp Thái Bình. Đây là vị trí thuận lợi cho giao thông liên lạc và giao lưu phát triển kinh tế của huyện. Một mặt tiếp giáp với vùng biển Quất Lâm (Giao Thủy, Hải Hậu) là điều kiện cho huyện đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Nằm trong khu vực Đông Bắc Bộ, khí hậu phân thành 4 mùa rõ rệt thuận tiện rất nhiều trong sản xuất kinh doanh; Gần các con sông lớn như sông Hồng, sông Ninh Cơ thuận lợi cho tưới tiêu, đất đai màu mỡ thích hợp phát triển cây trồng vật nuôi. Gần đây các chuyên gia địa chất trong và ngoài nước đang lấy mẫu và tiến hành phân tích trữ lượng dầu mỏ trong lòng đất. Vì vậy, rất có thể công nghiệp Trực Ninh sẽ có thêm ngành mới là ngành công nghiệp khai thác dầu khí, có một số xã trong huyện ở trong lòng đất chứa trữ lượng khí ga, tuy nhiên không nhiều. Như vậy, địa hình thuận lợi, giao thông thuận tiện, khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, cộng thêm một số tài nguyên thiên nhiên là những điều kiện tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện Trực Ninh.
Đặc điểm kinh tế xã hội.
Dân số, lao động, việc làm, mức sống.
Trực Ninh là một huyện đông dân, năm 2006 với mật độ dân số là 1355 người/km2, tổng dân số là 194.443 người (49,3% nữ; 50,7% nam), trong khi đó tổng diện tích chỉ là: 143,5 km2, tỷ lệ tăng dân số năm 2005 là 0.8%. Có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động thuộc vào loại khá cao với 54,4%. Hàng năm có khoảng trên 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Số liệu trên cho thấy huyện Trực Ninh có tiềm năng về số lượng lao động rất lớn. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần tạo điều kiện sản xuất phát triển kinh tế. Theo thống kê của Phòng Nội vụ Lao động TBXH năm 2006 vừa qua đã giải quyết việc làm cho 4.256 lao động, xuất khẩu được 250 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Riêng khu vực sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ thời gian sử dụng trong lao động liên tục tăng, đến nay đã là 80%, kinh tế hộ gia đình phát triển khá mạnh, người nông dân có ít thời gian nhàn rỗi hơn, tập trung cho sản xuất kinh tế hộ gia đình. Vì thế, năm 2001 thu nhập bình quân của huyện mới chỉ là 3.347 nghìn đồng/người/tháng, đến năm 2005 đã là 4.463 nghìn đồng/người/tháng, lương thực bình quân tính trên đầu người đã đạt 530kg.
Những con số trên đã khái quát sơ bộ phần nào về tiềm lực lao động và khả năng giải quyết việc làm của Đảng bộ và nhân dân huyện Trực Ninh. Tuy nhiên, còn rất nhiều những bất cập trong việc giải quyết những tệ nạn xã hội, tìm việc cho người dân và nâng cao mức sống cho dân cư. Đây là câu hỏi lớn cần tháo gỡ từng bước trong tiến trình phát triển kinh tế của huyện.
Tăng trưởng kinh tế.
Là một huyện có trên 70% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, thậm chí trong 21 xã, thị trấn có những xã chỉ là thuần nông. Nhưng bên cạnh đó, Trực Ninh còn có một số ngành thuộc các lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ cũng khá phát triển góp phần tạo việc làm và tăng GDP hàng năm cho cả huyện.
Bảng 1: Giá trị sản xuất các ngành kinh tế ( theo giá hiện hành).
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng GTSX (Triệu đồng)
Trong đó:
+ Nông – lâm – thủy sản (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Công nghiệp – xây dựng (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Dịch vụ (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
933.654
434.473
46,53
187.757
20,11
311.424
33,36
1.067.557
431.981
40,46
271.212
25,41
364.364
34,13
1.305.737
506.653
38,80
399.936
30,63
399.148
30,57
1.519.648
500.029
32,90
598.765
39,40
420.854
27,70
1.805.033
608.835
33,73
736.100
40,78
460.098
25,49
(Nguồn: Phòng Thống kê-Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Số liệu trên cho thấy giai đoạn 2002-2006 tổng giá trị sản xuất của huyện tăng lên qua các năm. Năm 2002 GTSX mới chỉ là 933.645 triệu đồng, sang 2003 con số này lên đến 1.067.557 triệu đồng và năm 2006 GTSX lên đến 1.805.033 triệu đồng (tăng gấp đôi so với năm 2002). Tổng GTSX của huyện tăng lên, điều này là do GTSX của các ngành đều tăng lên. GTSX năm 2002, ngành nông nghiệp (nông – lâm – thủy sản) là 434.473 triệu đồng; công nghiệp – xây dựng là 187.757 triệu đồng; dịch vụ là 311.424 triệu đồng, đến năm 2006 GTSX của các ngành lần lượt là nông nghiệp: 608.835 triệu đồng; công nghiệp – xây dựng: 736.100 triệu đồng; dịch vụ: 460.098 triệu đồng. Tuy nhiên tốc độ tăng của các ngành là khác nhau, công nghiệp – xây dựng có tốc tăng nhanh nhất. Vì thế ngành công nghiệp – xât dựng mới chỉ chiếm 20,11% tổng GTSX năm 2002 nhưng đến năm 2006 thì con số này đã lên đến 40,78%, điều này làm cho GTSX công nghiệp – xây dựng vượt ngành nông nghiệp và đứng đầu về GTSX. Ngành nông nghiệp giảm về tỷ trọng trong tổng GTSX nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng đóng góp phần lớn vào tổng GTSX. Ngành dịch vụ GTSX cũng đã tăng, tuy nhiên tốc dộ tăng của ngành này còn chậm nên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng GTSX của huyện, thâm chí còn giảm (năm 2002 là 33,36%, năm 2006 là 25,49%). Công nghiệp và dịch vụ tăng lên là một điều đáng mừng và đây là những ngành có tiềm năng về thu hút lao động và phát triển kinh tế. Theo con số thống kê thì trong năm 2005 GTSX của một số ngành được tổng hợp cụ thể như sau:
+ Lương thực, thực phẩm đạt 13.600 triệu đồng.
+ Công nghiệp dệt: 43.600 triệu đồng.
+ Chế biến gỗ - tre nứa: 11.000 triệu đồng.
+ Vật liệu xây dựng: 32.400 triệu đồng.
+ Sản xuất sản phẩm kim loại: 2.800 triệu đồng.
+ Bàn ghế - giường tủ: 19.000 triệu đồng.
+ Ươm tơ: 130 tấn.
+ Thêu ren: 15.000 m2.
+ Mây tre đan xuất khẩu: 500 triệu đồng.
Những con số trên phần nào nói lên khả năng phát triển kinh tế của huyện. Số lượng sản phẩm làm ra rất đa dạng, liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hàng bán và doanh thu cũng vì thế mà tăng lên. Do đó, riêng năm 2005 tổng thu từ ngân sách huyện đạt 97.209 triệu đồng, tăng 112.3%. Tính bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện 5 năm gần đây đạt khoảng 8,9-9,7%. Tốc độ này được xếp vào loại khá. Tuy nhiên, huyện vẫn còn tiềm năng để tạo ra GTSX cao hơn.
Số liệu trên cũng cho thấy một số ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ khá phát triển, ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch này thể kiện qua cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Nông – lâm – thủy sản
25,78
24,7
24,05
23,30
22,76
Công nghiệp – xây dựng
34,01
35,08
36,15
36,61
37,02
Dịch vụ
40,21
40,22
39,8
40,09
40,22
(Nguồn: Phòng thống kê-Báo cáo tình hình KT-XH
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Luôn đi theo một chiều hướng nhât định: Tăng tỷ trọng GDP ngành công nghiệp – dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Điều này không có nghĩa là đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP chung ngày càng thấp đi mà do lao động được thu hút từ ngành này chuyển qua ngành kia, dần dần quỹ đất sử dụng trong nông nghiệp ít di, được áp dụng nhiều hơn tiến bộ kỹ thuật nên năng suất rất cao. Thống kê từ năm 2002 đến 2006 cho thấy: GDP công nghiệp, dịch vụ tăng và nông nghiệp giảm từ 25,78% năm 2002 xuống còn 22,76% năm 2006, tốc độ giảm này còn thấp. Điều này cũng đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế còn chưa cân xứng với tiềm năng và thế mạnh của vùng, cần được thực hiện mạnh dạn hơn.
._.
Về ngành nghề kinh doanh và sản phẩm: Toàn huyện có khoảng 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân). Các doanh nghiệp này hàng năm thu hút khoảng 2000 lao động vào làm việc. Ngoài ra, huyện còn là một trong những cái nôi về ngành nghề thủ công, những ngành nghề như: Ươm tơ, dệt may, mây tre đan, trạm khắc gỗ, thêu ren… nằm rải rác ở khắp các xã, thị trấn. Những nghề này chủ yếu thu hút lực lượng lao động tự do, những lúc nông nhàn họ tham gia sản xuất để tăng thêm thu nhập đảm bảo cuộc sống. Nhưng cũng có một số làng nghề nổi tiếng như: Ươm tơ ở làng Cổ Chất – xã Phương Định; trạm khắc gỗ ở Trung Lao – xã Trung Đông… toàn bộ lao động tự do trong khu vực này tham gia làm nghề truyền thống, họ không làm nông nghiệp hoặc nếu có làm thì đến ngày thu hoạch họ thêu lao động khu vực khác, công việc chính của họ là làm nghề thủ công truyền thống. Còn lại, ở những khu vực khác lao động tự do làm thêm các ngành nghề này quanh năm nhưng đến mùa vụ nông nghiệp họ lại nghỉ vài ngày và khi xong họ lại trở lại làm những công việc kia. Chính vì luân phiên có công việc làm như vậy cho nên tính bình quân toàn huyện tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn đạt tới 81% (theo số liệu thống kê năm 2006). Và theo số liệu của phòng Nội vụ LĐTBXH những ngành nghề này thu hút khoảng 34% dân số cả huyện. Có một ưu điểm ở đây là: Những ngành nghề này nhẹ nhàng, dễ làm nên thu hút được nhiều tầng lớp lao động tham gia (cả người già, trẻ em – những người ngoài độ tuổi lao động). Ngoài ra, trong huyện còn có một số ngành như trồng cây cảnh, vật nuôi cảnh… sản phẩm làm ra được nhiều nơi ưa chuộng do hiện nay trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh là một thú chơi rất phổ biến. Đây chính là lợi thế để phát triển và mở rộng ngành. Kể đến nữa là những người bán hàng sáo, bán lẻ, sửa chữa xe máy, xe đạp, đồ điện tử… Người lao động làm công việc này nằm rải rác ở khắp mọi khu vực trong huyện, đặc biệt những nơi gần chợ tiện đường giao thông, gần trung tâm kinh tế - văn hóa của huyện.
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Trực Ninh nổi tiếng với ngôi chùa Cổ Lễ được công nhận là di tích lịch sử và đưa vào sử dụng như một khu du lịch sinh thái. Ở các xã cũng có những đền, chùa, nhà thờ hàng năm tổ chức các lễ hội dân gian rất phong phú, đa dạng đem lại những nhu cầu về tinh thần không nhỏ cho dân cư trong huyện. Tổng kết cuối năm 2006 cho thấy có 341 làng đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa. Đây là thành quả của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân dân các đơn vị này, góp phần không nhỏ trong việc đưa đời sống dân cư tiến lên.
Huyện Trực Ninh cũng nổi tiếng là vùng đất hiếu học, có nhiều trường chuyên ở cả 3 cấp. Hàng năm tính trung bình tỷ lệ tốt nghiệp của toàn huyện đạt trên 95%, số học sinh - sinh viên theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngày càng gia tăng, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2006 lên đến 32% và trên 80% học sinh học hết trung học cơ sở đều có xu hướng học tiếp lên cấp 3. Đây là điều đáng mừng cho Trực Ninh trong việc đầu tư cải tạo chất lượng nguồn vốn nhân lực.
Về y tế: Với một bệnh viện thị trấn, trạm y tế của các xã và các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, hàng năm các cơ sở này phục vụ được khoảng 755 nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, bệnh viện thị trấn ngoài điều trị tây y còn có cả đông y với những bài thuốc quý mà nguyên liệu được trồng ngay tại cơ sở, giá rẻ phù hợp với điều kiện của những người dân nghèo. Cùng với sự nhiệt tình, tận tụy của các y bác sỹ cho nên viện ngày càng nhận được lòng tin, sự tín nhiệm của nhân dân.
Với một bề dày lịch sử lâu đời và những đức tính tốt đẹp, biết chia sẻ, nhường nhịn, cùng nhau vươn lên nên trong các mảng văn hóa, y tế, giáo dục Trực Ninh đã đạt được nhiều thành tựu, các đơn vị hàng năm đều nhận được cờ thi đua khen thưởng của tỉnh. Và một điều đáng chú ý hơn cả là đời sống nhân dân được cải thiện trông thấy, kinh tế - văn hóa - xã hội đều có những thay đổi tích cực đáng mừng.
II. Phân tích thực trạng việc làm của người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1. Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Là một huyện đông dân, với mật độ dân số thuộc hàng cao, huyện Trực Ninh có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt 54,4%, hàng năm huyện có khoảng 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên, số lao động có việc làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động trên địa bàn huyện.
Bảng 3: Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
1. Tổng số lao động (1).
+ Số lao động có việc làm.
+ % so với (1).
2. Số lao động được giải quyết việc làm mới.
Người
Người
%
Người
113.743
99.662
87,62
2.950
114.573
100.236
87,49
3250
115.047
100.844
87,65
3750
115.368
101.125
87,65
4035
115.780
101.486
87,65
4256
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Qua bảng số liệu trên có thể nói nguồn lao động của huyện là rất dồi dào, số lao động hàng năm có tăng lên nhưng tăng ít. Cụ thể: năm 2002 số lao của huyện là 113.743 người đến năm 2006 con số này là 115.780 người, tức là bình quân mỗi năm số lao động tăng lên khoảng 500 lao động. Điều này là do số lao động này chịu ảnh hưởng lớn bởi tỷ lệ người hàng năm bước vào độ tuổi lao động mà điều này lại phụ thuộc vào mức sinh của 15 năm trước.
Theo đặc điểm chung của lao động cả nước với nguồn lao động dồi dào nhưng lại lãng phí trong sử dụng sức lao động do số việc làm được tạo ra hàng năm chưa cao. Số lao động có việc làm so với tổng số lao động chiếm tỷ lệ chưa cao. Năm 2002, số lao động có việc làm là 99.662 người (chiếm 87,62% tổng số lao động) đến năm 2006 số lao động có việc làm là 101.486 người (chiếm 87,65% tổng số lao động), tức là sau 5 năm số lao động có việc làm chỉ tăng lên được 1.824 người. Điều này là không tương xứng với số việc làm mới được tạo ra hàng năm. Cụ thể: Năm 2002 số lao động được giải quyết việc làm mới là 2.950 người, con số này hàng năm tăng khoảng 1000 người; năm 2006 số việc làm mới được tạo ra lên đến 4.256 người. Sự bất tương xứng này là do số việc làm được tạo ra hàng năm tuy nhiều nhưng lại thiếu tính chắc chắn, hay là những việc làm ngắn hạn, việc làm không được duy trì lâu dài.
Số lao động có việc làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động (khoảng 88%) và tỷ lệ này thay đổi không đáng kể, thậm chí là không đổi qua các năm 2004 đến 2006 là 87,65%. Do số lao động có việc làm tăng chậm và tăng tương ứng với tổng số lao động nên dẫn đến số tương đối gần như không đổi.
Số chỗ việc làm mới tăng dần qua các năm, tăng nhiều nhất là năm 2003-2004 (chênh lệch 500 chỗ việc làm) do bắt đầu từ năm 2004 huyện tập trung phát huy triệt để các dự án giải quyết việc làm cho người lao động. Đó là dự án cho vay vốn đối với các tổ chức sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để phát triển sản xuất kinh doanh và chương trình xóa đói giảm nghèo với việc hỗ trợ về vốn, tư liệu sản xuất. Năm 2004, Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trực Ninh đã giải ngân cho vay vốn xóa đói giảm nghèo được trên 8 tỷ đồng với trên 3000 lượt hộ nghèo tạo thêm được hàng nghìn chỗ việc làm mới. Ngoài ra huyện thực hiện dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông.
2. Cơ cấu và phân bố việc làm qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Việc làm qua các năm phân theo thành phần kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Trực Ninh là một huyện mà lao động chủ yếu trong ngành nông nghiệp, chủ yếu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước. Những năm gần đây do huyện chú trọng phát triển nông nghiệp thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần – từ đó giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ ngày càng được nâng cao. Mà chủ yếu những ngành này thuộc thành phần kinh tế khu vực ngoài nhà nước nên lao động thuộc thành phần kinh tế này tăng lên đáng kể. Bảng 4 thể hiện rõ hơn thực trạng việc làm của lao động huyện theo thành phần kinh tế.
Bảng 4: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm chia theo thành phần kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
1. Số lao động có việc làm (1)
2.Lao động làm việc trong khu vực Nhà nước
+ % so với (1)
3. Lao động làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
99.662
3.299
3,3
96.363
96,7
100.236
3.705
3,7
96.531
96,3
100.844
3.746
3,7
97.098
96,3
101.125
3.706
3,7
97.419
96,3
101.486
3.714
3,7
97.772
96,3
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy về quy mô hầu hết số lao động làm việc trong các thành phần kinh tế đều tăng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ thì sự tăng giảm này là khác nhau. Cụ thể, số lao động làm việc trong thành phần kinh tế khu vực trong nhà nước năm 2002 là 3.299 người (3,3% so với tổng số lao động có việc làm), từ các năm 2003 đến 2006 số lao động làm việc trong khu vực này tăng lên nhưng không đáng kể (giữ ở mức khá ổn định khoảng 3.700 người – tỷ lệ không đổi ở mức 3,7%). Nguyên nhân là do cơ hội việc làm không nhiều trong khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là khi quy định mới cho độ tuổi hưu của người lao động.
Đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hàng năm số lao động làm việc trong khu vực này không ngừng tăng lên. Cụ thể năm 2002 số lao động làm việc trong khu vực này là 96.363 người đến năm 2006 là 97.772 người. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực này so với tổng số lao động có việc làm cũng ổn định và không đổi trong bốn năm từ 2003 đến 2006 là 96,3%. Nguyên nhân là do hầu hết các công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn huyện đều hoạt động dưới dạng tư nhân, nhỏ lẻ vì thế chủ yếu lao động được thu hút vào khu vực này. Đó là các cơ sở sản xuất gỗ (ở Trung Lao – xã Trung Đông), mây tre đan (ở An Mỹ - xã Trung Đông), dệt (ở Cự Trữ - xã Phương Định), ươm tơ (ở Cổ Chất – xã Phương Định)… Nhìn chung, số lao động được tạo việc làm ở khu vực ngoài nhà nước là chủ yếu chiếm đến 96% tổng số người có việc làm. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh là bảo hiểm và vấn đề an toàn trong lao động, họ thường chịu thiệt thòi. Do đó huyện cần có biện pháp quản lý chặt chẽ vấn đề quyền lợi cho người lao động. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chủ yếu là những cơ sở sản xuất của các làng nghề thủ công mỹ nghệ nhưng đầu ra cho các sản phẩm ở khu vực này còn khó khăn do đó việc làm không được đảm bảo và ổn định lâu dài. Ngoài ra, khu vực này không đòi hỏi khắt khe về người lao động, thu hút được nhiều đối tượng lao động là người già, ngoài trẻ - người ngoài tuổi lao động.
Như vậy, nhìn chung trong hai khu vực thì khu vực kinh tế ngoài nhà nước thu hút nhiều lao động hơn. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng thu hút nhiều lao động vào làm việc cho thấy đây là dấu hiệu đáng mừng và cần được phát huy trong những năm tới.
Việc làm qua các năm phân theo ngành kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện qua bảng 5 cho thấy cơ cấu lao động chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 5: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm theo ngành kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
Số lao động có việc làm (1)
Chia theo:
1. Nông – lâm – thủy sản.
+ % so với (1)
2.Công nghiệp – xây dựng.
+ % so với (1)
3. Dịch vụ .
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
Người
%
99.662
74.851
75,1
15.757
15,8
9.054
9,1
100.236
74.352
74,2
16.085
16,0
9.799
9,8
100.844
68.808
68,2
21.431
21,3
10.605
10,5
101.125
68.667
67,9
21.500
21,3
10.958
10,8
101.486
68.778
67,8
21.687
21,3
11.021
10,9
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy số lao động tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp. Cụ thể là năm 2002 là 76.851 người có việc làm (chiếm tỷ lệ cao so với tổng số lao động có việc làm là 75,1%) đến năm 2006 giảm xuống còn 68.778 người có việc làm (chiếm 67,8% so với tổng số lao động có việc làm). Nguyên nhân là do huyện Trực Ninh cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, phần lớn lao động trong huyện làm nông nghiệp, có đến 70% lao động làm nghề nông. Gần đây, ngành nông nghiệp đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị thu nhập trên một ha canh tác. Do đó, ngành nông nghiệp luôn là ngành thu hút nhiều lao động vào làm việc.
Ngành đứng thứ hai thu hút nhiều lao động đó là ngành công nghiệp – xây dựng. Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp tăng qua các năm. Cụ thể năm 2002 là 15.757 người đến năm 2006 là 21.687 người. Tuy nhiên, tốc độ tăng này còn thấp nên số lao động làm việc trong ngành này cũng mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 21,3% so với tổng số lao động có việc làm, tỷ lệ này không thay đổi từ năm 2004 đến năm 2006. Đây là ngành thu hút và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động nếu như được tập trung phát triển. Những năm gần đây với chương trình GQVL của huyện Trực Ninh đã được UBND huyện tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp chính để GQVL ở địa phương. Một trong những giải pháp nhằm phát triển kinh tế tạo việc làm tại chỗ cho người lao động đó là tập trung đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề ở các xã, thị trấn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công nghiệp thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Hùng, TT Cát Thành, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp, ưu tiên các dự án đầu tư ở các ngành có lợi thế phát triển và thu hút nhiều lao động như: Cơ khí, dệt may, chế biến nông sản…, có chính sách phát triển các ngành nghề mới, phát triển doanh nghiệp để tạo thêm chỗ làm việc mới cho người lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện các dự án này còn lúng túng trong thời gian đầu thực hiện nên mới chỉ tạo ra ít việc làm làm cho số lao động có việc làm năm 2003 là 16.085 người (chiếm 16% so với tổng số lao động có việc làm) đến năm 2004 là 21.431 người (chiếm 21,3% so với tổng số lao động có việc làm). Những năm tới cần phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công nghiệp và tập trung đầu tư cho các làng nghề truyền thống bởi đây là những ngành có tiềm năng thu hút lao động rất lớn, nhất là làng nghề ở các xã, thị trấn. Nếu chúng ta biết cách khai thác triệt để việc làm từ các làng nghề thì sẽ giải quyết được một lượng việc làm lớn do huyện có 10 làng nghề truyền thống, một số làng nghề sản phẩm xuất khẩu ra thị trường bên ngoài.
Dịch vụ là ngành có đóng góp số lao động làm việc là thấp nhất. Song số liệu cho thấy số lao động làm việc trong ngành này là tăng qua các năm và tăng với tốc độ cao nhất so với hai ngành kia. Cụ thể năm 2002 số lao động làm việc trong ngành này là 9.045 người (chiếm 9,1% tổng số lao động có việc làm) đến năm 2006 là 11.021 người (chiếm 10,9% tổng số lao động có việc làm). Điều này chứng tỏ đây là ngành có tiềm năng tạo ra được nhiều chỗ làm việc cho người lao động với việc phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thương mại dịch vụ.
Qua đây ta thấy đang có sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Đó là dấu hiệu tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội và tạo việc làm cho người lao động của huyện, tuy nhiên sự chuyển dịch này còn chậm. Huyện cần tìm biện pháp để có kết quả cao hơn nữa, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động hơn.
Việc làm qua các năm phân theo miền của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Với 21 xã, thị trấn trên địa bàn huyện được chia làm 4 miền dọc theo vị trí địa lý của huyện, các xã trong cùng miền có đặc điểm gần như nhau.
Miền 1 bao gồm: Thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Chính, xã Trung Đông, xã Phương Định, xã Liêm Hải. Đây là miền có dân số đông nhất và cũng rộng nhất với Thị trấn Cổ Lễ là trung tâm văn hóa – chính trị của huyện, các trụ sở của cơ quan huyện đều nằm trên Thị trấn Cổ Lễ. Các xã còn lại của miền là những xã có các làng nghề truyền thống, như chế biến gỗ ở Trung Lao - Trung Đông; mây tre đan ở An Mỹ - Trung Đông; dệt ở Dịch Diệp - xã Trực Chính; ươm tơ ở Cổ Chất - xã Phương Định. Xã Liêm Hải chạy dọc theo trục đường 21 nối liền với các huyện Giao Thủy, Hải Hậu, thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Miền 2 gồm: Xã Việt Hùng, xã Trực Tuấn, Thị trấn Cát Thành, xã Trực Đạo, xã Trực Thanh. Thị trấn Cát Thành là một thị trấn mới được thành lập, trước kia là xã Cát Thành nổi tiếng với nghề tàu biển ở làng Phú An. Các xã ở miền 2 cũng nổi tiếng với nghề truyền thống như thủ công mỹ nghệ, cói chiếu ở Văn Lãng – xã Trực Tuấn; đan vó ở Hạ Đồng – xã Trực Đạo; đan cót ở Ngọc Đông – xã Trực Thanh. Xã Việt Hùng nằm trên trục đường giao thông của huyện nối liền giao thông liên lạc với các huyện khác trong tỉnh.
Miền 3 gồm các xã: Trực Nội, Trực Khang, Trực Mỹ, Trực Hưng, Trực Thuận. Miền nay không có làng nghề truyền thống lại không ở vị trí trung tâm huyện, lao động chủ yếu làm nghề nông là chính.
Miền 4 gồm các xã: Trực Đại, Trực Thái, Trực Thắng, Trực Phú, Trực Cường, Trực Hùng. Miền 4 nằm giáp huyện Giao Thủy, Hải Hậu, nơi có bãi biển Quất Lâm, Hải Thịnh thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và giao lưu phát triển kinh tế với các huyện. Ngoài ra Trực Hùng còn có làng nghề kéo cán và se sợi ở làng Tân Lý.
Số lao động được tạo việc làm mới hàng năm của các miền thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 6: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm mới qua các năm theo miền của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
Số lao động có việc làm mới (1)
Chia theo:
1. Miền 1.
+ % so với (1)
2. Miền 2.
+ % so với (1)
3. Miền 3.
+ % so với (1)
4. Miền 4.
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
Người
%
Người
%
3.750
1.249
33,3
840
22,4
608
16,2
1.053
28,1
4.035
1.319
32,7
912
22,6
681
16,9
1.123
27,8
4.256
1.378
32,4
973
22,9
700
16,4
1.204
28,3
( Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Qua bảng số liệu cho thấy số việc làm mới được tạo thêm hàng năm của mỗi miền đều tăng lên, cụ thể:
Miền 1 là miền có số việc làm mới được tạo ra nhiều nhất, chiếm trên 30% tổng số việc làm mới được tạo ra hàng năm. Năm 2004 cả huyện tạo thêm được 3.750 chỗ làm việc mới thì miền 1 chiếm 33,3 % tương ứng với 1.249 chỗ làm việc mới. Đến năm 2006 cùng với sự tăng lên của tổng số việc làm mới là 4.256 chỗ việc làm thì miền 1 chiếm 32,4% với 1.378 chỗ việc làm mới. Với vị trí là trung tâm đầu não của huyện, miền 1 giữ vai trò quan trọng, thương mại dịch vụ phát triển sớm tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Nông nghiệp ở miền này cũng phát triển, đất đai mầu mỡ nhờ phù sa sông Hồng bồi đắp thuận lợi cho phát triển cây trồng vật nuôi tạo điều kiện thu hút nhiều lao động tham gia sản xuất. Lúc nông nhàn người lao động ở miền này lại tham gia sản xuất những mặt hàng truyền thống của những làng nghề truyền thống trên địa bàn miền. Những làng nghề truyền thống của miền không những thu hút, tạo được nhiều chỗ làm việc cho lao động trong miền mà còn thu hút được nhiều lao động từ những nơi khác. Sản phẩm của những làng nghề truyền thống của miền rất phong phú, chất lượng ngày càng được nâng cao có thể tiêu thụ qua xuất khẩu ra nước ngoài. Vấn đề đặt ra ở đây là duy trì chỗ làm việc cho người lao động. Muốn vậy miền cần phải tìm đầu ra ổn định cho các sản phẩm truyền thống này.
Miền 4 là miền có số việc làm mới tạo ra hàng năm đứng thứ hai với 1.053 chỗ làm việc năm 2002 (chiếm 28,1% tổng số việc làm mới). Số việc làm mới được tạo thêm cũng tăng qua các năm, đến năm 2006 miền 4 tạo thêm được 1.204 chỗ việc làm mới (chiếm 28,3 % tổng sô việc làm làm mới). Như phân tích trên chúng ta thấy đây là miền tiếp giáp với huyện Giao Thủy, Hải Hậu thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và giao lưu phát triển kinh tế. Xã Trực Hùng của miền thuộc cụm công nghiệp đang được đầu tư phát triển nên thu hút được khá nhiều lao động vào làm việc. Miền 4 cũng là miền có số lao động tham gia xuất khẩu lao động và lao động đi tỉnh ngoài. Năm 2006 cả huyện có 900 lao động đi làm vệc tỉnh ngoài; 250 lao động đi xuất khẩu thì miền 4 chiếm 31% số lao động đi tỉnh ngoài với 278 lao động; 34% số lao động đi xuất khẩu lao động tương ứng với 85 người. Xã Trực Phù và xã Trực Hùng là những xã điển hình được huyện dùng làm mẫu để tuyên truyền và nhân rộng mô hình phát triển kinh tế và giải quyết việc làm bằng hình thức xuất khẩu lao động. Ngoài ra miền này còn phát triển ngành trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh, hội sinh vật cảnh cũng được thành lập ở xã Trực Đại tạo thêm được nhiều việc làm tại chỗ cho người lao động. Xã Trực Hùng cũng là xã nổi tiếng với nghề tàu biển tạo được rất nhiều việc làm cho lao động nam của miền.
Cùng với sự phát triển chung của toàn huyện, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần, miền 2 là miền mà các xã có sự phát triển kinh tế khá đồng đều. Thị trấn Cát Thành là một điểm công nghiệp thuộc cụm công nghiệp của huyện, được nhiều doanh nghiệp đầu tư, đây là những cơ hội lớn để người lao động tìm kiến việc làm. Thị trấn Cát Thành mới thành lập năm 2006 là một tiềm năng lớn thu hút đầu tư, đặc biệt là ngành cơ khí hay nghề tàu biển ở làng Phú An thu hút rất nhiều lao động nam không chỉ ở miền 2 mà còn thu hút những lao động trên địa bàn lân cận. Nông nghiệp ở đây cũng phát triển, được phù sa sông Ninh Cơ bồi đắp thu hút được nhiều lao động.
Miền 3 là miền có số lao động được giải quyết việc làm mới hàng năm thấp nhất (16% tổng số lao động), số lao động được giải quyết hàng năm đạt 600 – 700 người. Đây là miền duy nhất không có làng nghề truyền thống, địa phương tự tạo việc làm là chính, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, có xã chỉ là thuần nông như xã Trực Thuận. Tuy nhiên, số người trong tuổi lao động của miền này là 14.931 người, ít hơn các miền khác (thấp nhất huyện) chiếm khoảng 15% số người trong tuổi lao động của toàn huyện. Chính vì thế mà số người thất nghiệp ở miền này không phải là cao nhất huyện.
Mặc dù số lao động tạo thêm hàng năm của miền 1 là cao nhất song miền này luôn tồn tại tỷ lệ thất nghiệp cao do số người trong độ tuổi lao động của miền này đông chiếm 33,5% số người trong độ tuổi lao động của toàn huyện với 33.389 người trong tuổi lao động. Điều này đòi hỏi những năm tới huyện cần có biện pháp dịch chuyển lao động giữa các xã nhằm làm giảm áp lực cho người lao động ở những xã thuộc miền 1. Tạo điều kiện cho lao động ở xã vay vốn, phát triển kinh tế trang trại, hướng dẫn người lao động lao động áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Đất và tình hình sử dụng đất: Với tổng diện tích là 143,5 km2, với khoảng 65% đất dùng trong nông nghiệp tức là khoảng 93,275km2 đất nông nghiệp, dân số đông do đó bình quân đất dùng trong nông nghiệp thấp. Chủ yếu là đất trồng trọt chăn nuôi, đất dùng trong công nghiệp và xây dựng là rất ít. Do được bồi đắp bởi phù sa sông Hồng và sông Ninh nên chất lượng đất của huyện khá tốt, độ phì nhiêu cao phù hợp với phát triển cây trồng vật nuôi. Với đặc điểm là vùng đồng bằng, huyện xác định hướng chính là thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu cây giống, giống năng suất cao, ngắn ngày…, xác định đúng thời vụ, tận dụng thuận lợi về nhiệt độ, ánh sáng, tránh mưa, lũ… Cụ thể:Các xã miền 3 chủ yếu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh công tác hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả; Các xã miền 4 đẩy mạnh hơn nữa công tác trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh do công việc này sử dụng nhiều lao ngoài độ tuổi lao động. Những xã này cần phát triển kinh tế trang trại rộng rãi, đặc biệt là trồng hoa, trồng rau sạch xuất khẩu sang khu vực khác tạo điều kiện cơ hội việc làm cho lao động các xã; Xã Phương Định, Trực Chính cần tập trung trồng dâu, nuôi tằm phục vụ cho nghề dệt. Đặc biệt các xã trong huyện cần trú trọng trồng các giống lúa ngắn ngày cho năng suất cao, chất lượng tốt (giống lúa tám thơm, nếp). Ngoài ra cần triệt để sử dụng đất trong thâm canh tăng vụ, gối vụ, có thể trồng hoa màu như ngô, khoai, sắn, cà chua… để tạo thêm việc làm lúc nông nhàn tránh tình trạng lãng phí nguồn nhân lực.
Diện tích đất dùng trong công nghiệp của huyện ngày một tăng lên mỗi năm vài ha đất dùng vào xây dựng nhà máy, xưởng sản xuất. Diện tích đất sẽ bị thu hẹp nếu không có biện pháp mở rộng diện tích. Cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đối với đất sử dụng vào xây dựng cơ sở hạ tầng tránh tình trạng có quy hoạch nhưng sau đó để đất hoang phí. Việc xây dựng cụm công nghiệp Thị trấn Cổ Lễ, Thị trấn Cát Thành, xã Trực Hùng càng nhanh càng tốt, cần đảm bảo nguồn điện và nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và cho sản xuất. Với diện tích đất hạn chế như hiện nay việc phát triển các ngành kinh tế tạo việc làm cho lao động là vấn đề khó khăn. Huyện cần có biện pháp phù hợp quản lý đất đai chặt chẽ hơn tránh tình trạng lãng phí đất.
- Cơ sở hạ tầng và việc áp dụng khoa học kỹ thuật: Nhìn chung tất cả các con đường trong huyện đều được rải nhựa hoặc đổ bê tông. Mạng lưới giao thông đa dạng đang phát triển, trục đường 21 đi qua huyện đang có kế hoạch mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, thu mua nguyên vật liệu, buôn bán và nhu cầu đi lại cho người dân. Mấy năm gần đây hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu được xây dựng đồng bộ và đưa vào sử dụng. Cuối năm 2005 và đầu năm 2006 huyện đã tổ chức sửa chữa lớn và nâng cấp đường dây điện đảm bảo phục vụ sản xuất và tiêu dùng (toàn huyện có 5 hợp tác xã dịch vụ điện). Các công ty, xí nghiệp cũng được xây dựng trên địa bàn huyện. Thông tin liên lạc đang được chú ý phát triển, mạng lưới thông tin rộng khắp (khoảng 30% số hộ dùng điện thoại bàn), tín dụng xã ngày càng phát triển (toàn huyện có 8 quỹ tín dụng nhân dân xã và 1 quỹ tín dụng nhân dân huyện).
Khoa học kỹ thuật cũng được đưa vào áp dụng rộng khắp trong nông nghiệp làm năng suất cây trồng vật nuôi có chuyển biến tích cực, có giá trị kinh tế cao.
Toàn huyện có khoảng 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính trung bình mỗi doanh nghiệp có khả năng thu hút từ 15-20 lao động, các doanh nghiệp được trang bị các máy móc tiên tiến, xây dựng nâng cấp nhà xưởng. Đặc biệt có một nhà máy gạch Tuynel đang hoàn thiện dần và sắp đưa vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư lên đến hơn chục tỷ đồng. Ngoài ra, năm 2004-2005 có thêm 3 nhà máy dệt được thành lập thu hút từ 30-40 lao động góp phần đáng kể trong giải quyết việc làm ở nông thôn Trực Ninh.
Như vậy, nhìn tổng quát có thể thấy cơ sở hạ tầng của Trực Ninh khá phát triển, chỉ cần tính từ đầu năm đến cuối năm đã thấy có sự thay đổi đáng kể, các con đường đổ ra thị trấn liên tiếp được sửa chữa, nâng cấp. Huyện còn đang thi công lắp đặt công trình nước sạch cho các xã và dự định trong năm tới sẽ lắp đặt thêm cho khoảng 5 xã nữa. Tuy vậy, vẫn còn thiếu những máy móc hiện đại phục vụ cho các ngành công nghiệp - dịch vụ và như thế cần có những đầu tư nhiều hơn cho mảng này.
Tình hình sử dụng vốn:
Trong mọi ngành sản xuất, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điều kiện để có tư liệu lao động. Nói chung, nguồn vốn của huyện còn hạn hẹp, hơn nữa người lao động rất ít vốn, đặc biệt đối với khu vực nông thôn vì thế chưa tận dụng hết các nguồn lực trong sản xuất. Huyện đã có rất nhiều biện pháp tạo vốn cho người lao động và người sử dụng lao động như hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất thấp, đối với doanh nghiệp thì được miễn, giảm thuế sử dụng đất trong những năm đầu. Tổng kinh phí do chương trình quốc gia GQVL năm 2006 là 2.374 triệu đồng. Qua báo cáo huyện thì vốn vay đã góp phần phát triển sản xuất, tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Tình hình sử dụng vốn của quỹ quốc gia GQVL qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
Tổng vốn.
Triệu đồng
2345,6
2551,8
2720
2734
Số dự án.
Dự án
134
147
160
161
Số lao động thu hút.
Người
200
289
402
950
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH- Báo cáo thực hiện dự án GQVL từ
nguồn vốn quốc gia giai đoạn 2003-204)
Vốn được sử dụng vào giải quyết việc làm ngày càng hiệu quả. Số lao động được thu hút vào làm việc đều tăng lên qua các năm, đặc biệt năm 2005-2006 số dự án chỉ tăng lên 1 trong khi số lao động được giải quyết việc làm tăng lên 548 người (= 950-402). Huyện Trực Ninh với lợi thế phát triển các làng nghề truyền thống, thu hút nhiều lao động tự do. Đó là khu vực kinh tế phi chính thức, là những hộ gia đình và những chủ sản xuất kinh doanh. Chính vì thế nguồn vốn cho vay đối với những đối tượng này được đặc biệt chú ý.
Có hai loại vốn là vốn tự có và vốn vay. Nếu tính sơ qua có thể thấy tiềm lực về vốn tự có là mỏng, bình quân khoảng 6 triệu đồng/ hộ gia đình. Số vốn này nếu đem sử dụng phát triển kinh tế hộ gia đình thì là ít và chưa đủ. Còn trong các ngành nghề thủ công thì thường có những chủ kinh doanh lớn hơn, những người lao động lao động nghèo không có khả năng về vốn thì chủ yếu đi làm thuê cho những người chủ này. Những người chủ này có năng lực về vốn tự có, ngoài ra hàng năm họ thường được vay thêm vốn từ các ngân hàng hoặc từ các nguồn vốn ưu đãi của nhà nước liên kết với một số tổ chức quốc tế như quỹ Việt - Đức tài trợ để phát triển kinh tế vùng. Theo con số thống kê thì một năm những làng nghề như ươm tơ, dệt vay khoảng 3-4 tỷ đồng; nghề mộc vay trên 20 tỷ đồng của ngân hàng và các nguồn vay khác. Một số ngành như thêu, mây tre đan thì ít hơn khoảng 1 tỷ đồng. Nhìn chung số vốn nợ đọng quá hạn không nhiều khoảng 10%, điều này chứng tỏ việc sử dụng vốn vay để phát triển kinh doanh thu hút lao động là có hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy rằng: ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35849.doc