Tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ. Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ TRONG CHUYÊN ĐỀ Biểu Tên Biểu Trang Biểu 1.1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người và thay đổi tỷ lệ nghèo của các quốc gia nghiên cứu trong các thập kỷ khác nhau 26 Biểu 1.2: Độ co giãn của nghèo đói đối với tăng trưởng ở các quốc gia trong các thập kỷ 27 Biểu 1.3: Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam những năm gần đây 31 Biểu 2.1: Cơ cấu dân số theo giới tính qua các năm 40 Biểu 2.2: Cơ cấu dân số theo khu vực cư trú qua các năm 40 Biểu 2.3: Tình

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính trong tỉnh (2005) 41 Biểu 2.4: Tổng hợp kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) của Phú Thọ so với vùng miền núi phía Bắc và cả nước giai đoạn 2001-2005 45 Biểu 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 48 Biểu 2.6: Tổng hợp tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành (giá HH ) 52 Biểu 2.7: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế 53 Biểu 2.8: So sánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Phú Thọ với vùng TDMNBB và cả nước 54 Biểu 2.9: Kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn mới năm 2005 của Phú Thọ 56 Hình: Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước và các bộ phận cấu thành trong những năm gần đây 32 Hình 1.2: Thu nhập bình quân đầu người/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập (ngũ phân vị) 36 Bản đồ 1: Bản đồ địa lý Phú Thọ 38 LỜI MỞ ĐẦU Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) hiện nay ở nước ta được coi là một trong những mục tiêu quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước kêu gọi mọi cấp, mọi ngành, mọi người trong xã hội tập trung giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách giàu và nghèo trong các tầng lớp xã hội và giữa các vùng khác nhau. Trong hơn 20 xây dựng và đổi mới đất nước, nhiều cơ chế và chính sách đã được thực hiện, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 7 – 8% , vào loại cao trên thế giới đã góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đưa ra ngày 15/2/2008: “Việt Nam đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới”; tính bằng số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm từ khoảng 68% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với khoảng 34 triệu người đã thoát khỏi nghèo đói. Như vậy, tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là yếu tố quan trọng, tạo ra sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi nghèo đói và ngược lại, xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Tuy đạt đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận suốt thời gian qua, nhưng cơ bản Việt Nam vẫn là một nước nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Đặc biệt, đói nghèo ở nước ta chủ yếu là ở nông thôn thuộc những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, do điều kiện kết cấu hạ tầng cơ sở thấp kém, địa hình phức tạp, tài nguyên rừng bị tàn phá, thiếu nước sinh hoạt, thiếu đất và các cơ sở dịch vụ khác nên tỷ lệ đói nghèo ở những vùng này cao và điều kiện để xóa đói giảm nghèo ở những vùng này hết sức khó khăn. Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh miền núi, trung du phía Tây và Nam giáp với các tỉnh miền núi thuộc vung Tây Bắc, nên đặc điểm địa hình Phú Thọ chia làm 2 tiểu vùng: Tiểu vùng miền núi gồm các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa, còn lại thuộc tiểu vùng trung du đồng bằng. Ngay từ khi tái lập tỉnh, lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã sớm nhận thức và đã sớm tổ chức triển khai nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Việc thực hiện quy hoạch đã đem lại những hiệu quả nhất định, tăng trưởng kinh tế Phú Thọ ngày một cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh. Tuy nhiên do đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, Phú Thọ vẫn là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng thấp và tỷ lệ nghèo đói cao trong cả nước. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam trên đà phát triển, hội nhập kinh tế thế giới, một câu hỏi lớn đặt ra đối với lãnh đạo các cấp các ngành và nhân dân Phú Thọ là làm thế nào để Phú Thọ trở thành một tỉnh giàu, đẹp, xứng đáng với “Đất tổ Hùng Vương”. Xuất phát từ những bất cập trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội và công cuộc xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ tôi đã lựa chọn đề tài: “Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ: Thực trạng và giải pháp” làm để tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luậ và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương: - Chương I: Những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo - Chương II: Thực trạng về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ. - Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ. Chuyên đề hình thành và hoàn thành có sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ tại cơ quan thực tập: Trung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển thuộc Viện Chiến lược phát triển. Do nhận thức về vấn đề còn nhiều hạn chế vì vậy bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và sự phê bình của thầy cô để em có thể hiểu biết về vấn đề này được kỹ hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế. Khái niệm, bản chất của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm ( hay gia tăng ) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm ). Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng: mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (GDP) ( tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước ). Như vậy TTKT được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: - Sự thay đổi về quy mô GDP Trong đó : tổng sản lượng năm nay : tổng sản lượng năm trước - Tốc độ tăng trưởng GDP Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. Có nhiều nhân tố khác nhau tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng để dễ tiếp cận người ta phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động khác nhau: nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế. 1.1.2.1. Nhân tố kinh tế Đây là những yếu tố có tác động trực tiếp đến các biến số đầu vào và đầu ra của nền kinh tế, được thế hiện qua hàm sản xuất tổng quát: Y = F (Xi) Trong đó: Y là giá trị đầu ra Xi là giá trị các biến số đầu vào Từ nghiên cứu hàm sản xuất, ta thấy giá trị đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc chính vào sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế, tức là tổng cầu, còn giá trị các biến số đầu vào có liên quan trực tiếp đến tổng cung, tức là yếu tố nguồn lực tác động trực tiếp. * Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung: Nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu là: vốn (K), lao động (L), tài nguyên, đất đai (R) và công nghệ kỹ thuật (T), được biểu hiện theo theo hàm sản xuất: Y = F (K,L,R,T) - Vốn (K): là một bộ phận tài sản quốc gia, là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Ở các nước đang phát sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng.. Tuy vậy tác động của yếu tố này đang có xu hướng giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác. - Lao động (L): là một yếu tố sản xuất cơ bản. Hiện nay, nguồn lao động không chỉ đơn thuần là chỉ số lượng (tính bằng đầu người hay thời gian lao động) mà bao hàm cả chất lượng của lao động, đây là khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực (các lao động có kỹ năng sản xuất, trình độ học vấn, có sáng kiến, phương pháp mới trong sản xuất…). Việc hiểu yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. - Tài nguyên, đất đai (R): Đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng đói với mọi ngành sản xuất và dịch vụ, mọi hoạt động sản xuất đều tiến hành trên đất với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cở sở kinh tế cho các ngành khác. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị diện tích nhằm tăng thêm năng suất. Ngoài đất đai, nhiều tài nguyên thiên nhiên khác từ trong lòng đất, từ rừng và biển được chia thành: tài nguyên vô hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng, nhất là với các nước đang phát triển. - Công nghệ kỹ thuật (T) Những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới là yếu tố đầu vào cực kỳ quan trọng, tác động của nó ngày càng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ đó là những thành tựu kiến thức, những nghiên cứu phát minh đưa ra những nguyên lý, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật được đem áp dụng vào quá trình sản xuất thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Sự chuyển giao, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất là một lợi thế đối với các nước kém phát triển và các nước đang phát triển hiện nay. * Các nhân tố tác động đến tổng cầu: Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4 yếu tố bao gồm: Chi cho tiêu dùng cá nhân (C), chi tiêu của Chính phủ (G), chi cho đầu tư (I), chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX= X-M) trực tiếp cấu thành tổng cầu. - Chi tiêu cho tiêu dung cá nhân (C): đó là những khoản chi cố định, chi thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. - Chi tiêu của Chính phủ (G): là những khoản mục chi mua hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ. Nguồn chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách bao gồm chủ yếu là các khoản thu từ thuế và lệ phí. - Chi cho đầu tư (I); thực chất đây chính là các khoản chi cho các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, gồm có đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm ở các khu vực của nền kinh tế. - Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX = X-M): giá trị hàng hóa xuất khẩu là các khoản phải chi cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nước nhưng lai không phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước nên chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế. 1.1.2.2. Nhân tố phi kinh tế Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế là các nguồn lực có ảnh hưởng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế, các nhân tố này không thể lượng hóa cụ thể được mức độ tác động của chúng và phạm vi ảnh hưởng của chính rất rộng và phức tạp. Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng lẻ mà mang tính tổng hợp, đan xen chính vì vậy người ta không thể đánh giá tách biệt được. Chúng bao gồm các nhân tố chủ yếu sau; - Đặc điểm văn hóa – xã hội: Văn hóa – xã hội là một khái niệm rất rộng, bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông đến các tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, nghệ thuật, văn học, triết lý tư tưởng, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong tục tập quán…được xã hội thừa nhận. Trình độ văn hóa, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản, là động lực, nền tảng tinh thần cho dân tộc đó; xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản dẫn đến tăng trưởng kinh tế. - Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Ngày nay người ta càng ngày càng thừa nhận vai trò của thể chế chính trị - kinh tế - xã hội như là một nhân tố trong quá trình tăng trưởng kinh tế theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư. Thể chế biểu hiện như là một lực lượng đại diện cho ý chí của cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Một thể chế chính trị - kinh tế - xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. - Cơ cấu dân tộc: Cơ cấu dân tộc là tỷ lệ về số lượng dân cư của mỗi dân tộc trong tổng dân số của một quốc gia. Cơ cấu này có thể phân theo dân tộc, chủng tộc, hay theo khu vực sinh sống. Mỗi dân tộc có điều kiện sống, bản sắc văn hóa riêng vì vậy tạo ra sự khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất, tinh thần, về vị trí địa lý và địa vị chính trị xã hội trong cộng đồng. Tăng trưởng kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này, nhưng bất lợi cho dân tộc kia. Đấy có thể là nguyên nhân nảy sinh các xung đột giữa các dân tộc ảnh hưởng đên quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, tăng trưởng kinh tế phải dựa trên tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng phải bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc. Chính điều này sẽ góp phần khắc phục được các xung đột, sự mất ổn định chung trong cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng tiếp theo. - Cơ cấu tôn giáo: Cơ cấu tôn giáo là tỷ lệ về số lượng dân cư của các loại tôn giáo khác nhau trong một quốc gia hay một vùng, địa phương. Một quốc gia hay một vùng, địa phương có thể có nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo có những quan niệm, triết lỹ tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lý – xã hội riêng. Những ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đồi theo sự phát triển kinh tế xã hội, chúng có thể tác động tích cực hoặc cũng có thể kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Khái niệm đói nghèo và XĐGN. Khái niệm về đói nghèo. Hiện nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về đói nghèo hay nghèo đói. Nhìn chung, các khái niệm chỉ nêu những đặc trưng nào đó của nghèo đói như là “thiếu ăn”, “thiếu dinh dưỡng”, “nhà ở tạm bợ”…, những quan niệm trên chỉ nêu những biểu hiện riêng nào đó của nghèo đói mà thôi. Khái niệm nghèo đói được nêu ra tại hội nghị bàn về XĐGN ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại băng Cốc tháng 9/1993: “ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về đói nghèo, khái niệm trên có những ưu điểm: làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là “không được hưởng” hoặc “không thỏa mãn” những nhu cầu cơ bản, làm rõ tính chất động của nghèo đói là “tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của các địa phương”. Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. - Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. - Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Như vậy, nghèo đói là quan niệm mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Về nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư không được thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu - trước hết là ăn gắn liền với dinh dưỡng. Ngay nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia. phạm trù “ nhu cầu tối thiểu” cũng được mở rộng dần. Còn về nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì những lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa dần nghèo tuyệt đối là công việc có thể làm còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo. Đói nghèo là một khái niệm động phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, xã hội, lịch sử, mức độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu phát triển con người. Ở một thời điểm, một vùng, một quốc gia là đói nghèo nhưng sang một thời điểm khác, vùng khác, nước khác thì chỉ số đó mất ý nghĩa. Do đó rất khó quy định hợp lý một chuẩn mực về đói nghèo cho mọi quốc gia, ngay trong một quốc gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, giữa các thời kỳ. Các tiêu chí đánh giá đói nghèo. Khi xác định tiêu chí và mức nghèo đói, các công trình nghiên cứu quốc tế thường chia làm 2 mức độ: phân định giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân cư, từ đó xác định các quốc gia giàu, nghèo trên thế giới và phân chia dân cư của mỗi quốc gia hoặc từng địa phương thành các nhóm giàu, nghèo. Đối với quốc gia, Hiện nay, Ngân hàng Thế Giới ( WB ) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng thu nhập bình quân đầu người theo 2 cách tính: - Phương pháp Atlas, tức là theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. - Phương pháp P.P.P ( Purchasing power parity ), là phương pháp sức mua tương đương, cũng tính bằng USD. Theo phương pháp Atlas, người ta phân tích 6 loại về sự giàu - nghèo của các nước ( lấy mức thu nhập năm 1990 ). - Trên 25.000 USD/năm, là nước cực giàu. - Từ 20.000 USD/năm đến dưới 25.000 USD/năm, là nước giàu. - Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/năm, là nước khá giàu. - Từ 2.500 USD dến dưới 10.000 USD/năm, là nước trung bình. - Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/năm, là nước nghèo. - Dưới 500 USD/năm, là nước cực nghèo. Đối với đối tượng nghèo trong dân cư: Hiện nay, trên thế giới các nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra một số phương pháp xác định khác nhau- 2 phương pháp được quan tâm nhất là phương pháp của nhà nghiên cứu kinh tế- xã hội Rowntree và của WB. - Phương pháp của Rowntree: Để xác định mức nghèo đói, Rowntree đã tiến hành điều tra về thu nhập và chi tiêu của các gia đình tại thành phố York ( nước Anh ). Qua đó, Rowntree cho rằng mức nghèo đói là mức thu nhập không đủ để mua sắm các sản phẩm cần thiét để duy trì các hoạt động của cơ thể bao gồm cả lương thực, tiền thuê nhà và một số nhu cầu tối cần thiết khác. Ông cho rằng, mỗi gia đình 5 người ( gồm 3 người con và cha mẹ), cần phải chi tiêu tối thiểu mỗi tuần là 21 xiling 8 xu. Như vậy, gia đình có mức thu nhập một tuần dưới 21 xiling 8 xu là gia đình thuộc diện nghèo đói. Ở thời kỳ nghiên cứu, trên cơ sở thông tin thu thập của các gia đình và mức chuẩn nêu trên, Rowntree cho rằng thành phố York có 10% số dân thuộc diện nghèo đói. - Phương pháp của WB: Phương pháp này nhằm tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung cho toàn thế giới. Phương pháp chủ yếu của WB nhằm thực hiện 2 yêu cầu: Xác định được mức thu nhập có thể so sánh giữa các quốc gia và định ra mức ( chuẩn ) nghèo đói chung cho toàn thế giới. Để so sánh mức thu nhập trên cơ sở điều tra mức thu nhập, chi tiêu của các gia đình và giá cả hàng hóa, thực hiện phương pháp tính “rổ hàng hóa”, sức mua tương đương để tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. Về giới hạn nghèo đói, WB đưa ra mức năm 1985 là 1 USD/người/ngày. Với mức trên, WB ước tính có khoảng 24,3% dân số ở các nước đang phát triển với khoảng 1,2 tỷ người đang phải sống trong nghèo đói. Đối với Việt Nam, thời gian từ năm 1993 đến cuối năm 2005 Chính phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo lên để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước trong giai đoạn mới. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 như sau: - Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. - Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Các nhân tố tác động đến đói nghèo. Đói nghèo hay nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát triển mà quốc gia nào cũng gặp phải. Nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của con người, từng cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ khác nhau đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại cho sự phát triển phồn thịn về kinh tế và từng bước đạt tới sự công bằng xã hội. Tuy nhiên, với mỗi chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và mức quan tâm cũng khác nhau, song đây là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu hút được sự quan tâm, phối hợp các nỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế. Để chống lại đói nghèo, giảm bớt sự nghèo, cần phải xác định đúng những nhân tố tác động dẫn đến đói nghèo. Có nhiều nhân tố khác nhau tác động đến đói nghèo, các nhân tố tác động có sự đan xen, thâm nhập vào nhau. Cả các nhân tố ngoại cảnh tự nhiên lẫn các nhân tố về điều kiện kinh tế xã hội và nhân tố về điều kiện nội tại của chính những người nghèo. 1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên Đất đai là một nhân tố rất quan trọng để xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với người nông dân. Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít màu mỡ, canh tác khó, phân tán…( như địa hình trên đồi, núi đá ở vùng cao) dẫn đến năng suất cây trồng và vật nuôi thấp ảnh hưởng lớn đến thu nhập cụa các hộ gia đình. Khí hậu, thời tiết khắc nhiệt, không thuận lợi dẫn đến thiên tai, hạn hán, lũ lụt… gây mất mùa, thiệt hại về tài sản của nhân dân vùng chịu thiên tai. Đây chính là nguyên nhân tiềm tang gây ra nạn đói nghèo cấp tính. Bất lợi về vị trí địa lý ( xa xôi, hèo lánh, vùng sâu, vùng cao…) sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ thiết yếu ( đường giao thông, điện, y tế, trường học…) làm cho người dân không có điều kiện trao đổi thông tin, khó khăn trong việc thông thương buôn bán, ít có điều kiện để tiếp cận với các phúc lợi xã hội trong việc chăm sóc sức khỏe. Đây cũng là nhân tố dẫn tới đói nghèo. 1.2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Điều kiện về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng khá mạnh tới tình trạng đói nghèo của một quốc gia hay địa phương. - Chủ trương đường lối chính sách của mỗi quốc gia, sự quan tâm của chính quyền trung ương và địa phương, tình trạng kinh tế của quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trong đầu tư ban đầu, trong xây dựng cơ sở hạ tầng tối thiểu như: điện, giao thông…, những hạn chế của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách ( tự do hóa thưong mại, cải cách doanh nghiệp…) là những nhân tố quan trọng có tác động trực tiếp đến đói nghèo. - Các tệ nạn xã hội ( trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút…) gây thiệt hại nghiêm trọng tới tài sản của các gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Các biện pháp hành chính và giáo dục để hạn chế và xóa bỏ các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn xã hội tạo niềm tin để người dân an tâm sản xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Tình hình kinh tế chính trị có tác động to lớn tới sự giàu sang hay nghèo đói của một quốc gia, địa phương; nếu chính trị bất ổn, lạm phát kinh tế, thất nghiệp ở tỷ lệ cao sẽ khiến sản xuất đình trệ, người lao động không có việc làm, không có thu nhập, từ đó dẫn đến đói nghèo. - Thị trường là một nhân tố tiềm tàng có tầm quan trọng, là cơ sở để thoát khỏi nghèo đói. Muốn giảm bớt nghèo đói phải chuyển kinh tế tự nhiên thuần nông sang nền kinh tế hàng hóa, đa dạng cơ cấu, mở rộng thị trong nước và phát triển thương mại quốc tế. Một nền kinh tế đóng thì không thể tránh khỏi đói nghèo. - Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em. Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tỷ lệ lây truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục. 1.2.3.3. Nhân tố về điều kiện nội tại của các hộ nghèo - Tiềm lực kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất), khả năng kinh doanh của hộ nghèo thấp kém. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất ảnh hưởng đến đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo cũng như việc hướng tới sản xuất các loại cây trồng có giá trị cao. Đa số người nghèo giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao, giá trị sản xuất thiếu cạnh tranh trên thị trường và do đó họ lại rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo khó. - Lao động có trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề thấp, từ đó họ khó có khả năng, cơ hội kiếm được việc làm trong các khu vực khác, trong ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định. Theo số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%. Trình độ học vấn thấp dẫn đến khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ là rất hạn chế. Bên canh đó, trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan tới giáo dục sinh đẻ, nuôi dạy con cái… như vậy không chỉ ảnh hưởng tới thế hệ hiện tại mà đến cả thế hệ tương lai. - Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã, phí dịch vụ pháp lý còn cao. - Quy mô hộ gia đình là ‘ mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn cao, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao động còn rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. - Người nghèo dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và biến động bất thường xảy ra với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống( mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động… ). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn, ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của họ. Bệnh tật và sức khòe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo, đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản làm cho họ khó có thể thoát ra khỏi nghèo đói. Ảnh hưởng của đói nghèo. 1.2.4.1. Ảnh hưởng về kinh tế Đói nghèo đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đối với phát triển. Nói một cách khác, XĐGN là một tiền đề của sự phát triển. Ngược lại sự phát triển kinh tế xã hội vững chắc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công công tác XĐGN. Nội dung quan điểm này xét về thực chất là mối liên hệ tác động qua lại có tính nhân quả giữa nghèo đói với lạc hậu, chậm phát triển, giữa XĐGN với phát triển. Nghèo đói không chỉ là một thực tế diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngay cả những nước giàu có hoặc đạt tới trình độ phát triển cao vẫn còn một bộ phân dân cư sống ở mức nghèo khổ. Tuy nhiên mức độ và tỷ lệ dân cư nghèo là rất khác nhau giữa các nước, các khu vực. Nó phản ánh sự khác nhau về trình độ phát triển, trước hết là phát triển kinh tế. Nét chung, phổ biến là ở chỗ qua hiên trạng nghèo, đói người ta dễ nhận thấy sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, trình độ thấp kém của phân công lao động xã hội. Nó dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức TTKT luôn ở những chỉ số thấp. Thất nghiệp, thu nhập không đủ cho chi dùng vật chất tối thiêu,do đó càng không thể có điều kiện chi dùng cho nhu cầu văn hóa tinh thần để vượt qua ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thỏa mãn nhu cầu phát triển chất lượng con người. Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư. Nhìn từ góc độ xã hội, nghèo đói của dân cư biểu hiện qua tỷ lệ lao động thất nghiệp ( tuyệt đối và tương đối ),chỉ số về tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân theo đầu người, mức độ thấp kém của đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, kể cả phát triển giáo dục, khoa học - kỹ thuật, văn hóa và các lĩnh vực khác như y tế ,chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phúc lợi xã hội. Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển càng kìm hãm. Trình độ phát triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để khắc phục nghèo đói. Chỉ có thể thoát khỏi bế tắc đó một cách căn bản nếu tìm được cách phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế từ sự kết hợp những “cú hích” ban đầu bởi sự hỗ trợ vật chất của nhà nước và toàn thể xã hội đối với người nghèo, hộ nghèo cùng với việc tổ chức khai thác mọi nguồn lực sẵn có, đầu tư phát triển những nguồn lực đó, biết cách phát huy lợi thế tiềm tàng để vượt đói nghèo. Đối với nước ta những lợi thế đó là đất đai, nguồn lực lao động cũng như các nguồn tài nguyên sẵn có. Hợp tác quốc tế và đầu tư phát triển cùng với những khả năng huy động vốn ở trong dân để tạo một khối lượng lớn và quan trọng cho quỹ XĐGN. Sự đầu tư trong nước về ngân sách và một hệ thống các chính sách , biện pháp khác thúc đẩy XĐGN một cách thiết thực. Đó là ._.những nhân tố vật chất tạo ra “cú hích” cho sự phát triển. Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo còn ở chỗ trong thời đại mở cửa vấn đề hòa nhập và sự bất lợi của nước nghèo, nước chậm phát triển trong quan hệ kinh tế với các nước khác là rất lớn. Nước nghèo luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế khi sản phẩm làm ra với chất lượng thấp, giá thành cao hoặc hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô chưa qua tinh chế nên lợi nhuận thu được rất thấp. Với trình độ sản xuất lạc hậu nhiều nước nghèo đang trở thành bãi thải công nghệ lac hậu của các nước phát triển trong quan hệ hợp tác, viện trợ kinh tế. Đối với nước nghèo, TTKT với tốc độ chậm sẽ không có vị thế khi đàm phán, ký kết với các nhà đầu tư nước ngoài và không đủ khả năng tiến hành hoạt động mang lại lợi nhuân cao như buôn bán và dịch vụ ngân hàng. Vì thiếu những khả năng này mà Mianma và Lào đang để tài nguyên rừng của mình lọt dần vào tay công ty khai thác gỗ của Thái Lan. Tương tự như vậy, chỉ đển khi hệ thống ngân hàng Indonesia được cải cách vào những năm 1980 và lớn mạnh dần. Indonesia không còn phải phụ thuộc vào các công ty của Singapore lo liệu cho vấn đề tài chính. Điều cần nhấn mạnh ở đây TTKT nhanh với tốc độ lớn là một trong những điều kiện quan trọng giúp đất nước chống lại nạn ngoại xâm về kinh tế. Để làm được điều này, bên cạnh tăng trưởng nhanh về kinh tế đồng thời cần có chiến lược phát triển con người. Nếu có được một lực lượng lao động có văn hóa, có chuyên môn và giàu kinh nghiệm sẽ là một kho báu quý giá để ngăn chặn sự phụ thuộc quá mức vào khả năng chuyên môn của nước ngoài. Hơn thế nữa, nước nghèo thường chịu sự áp đặt của nước giàu, nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế. Từ sự thua thiệt về kinh tế đã ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nước nghèo trên chính trường quốc tế. Tiếng nói và vai trò của nước nghèo trên các diễn đàn quốc tế ít được chú ý. Một nước càng giàu và càng mạnh thì càng có khả năng nắm lợi thế về kỹ thuật. Nền văn hóa được khẳng định mà không bị đe dọa. Luôn giữ được độc lập và có chủ quyền trong những lựa chọn của mình. Sự ảnh hưởng và khả năng làm bá chủ của nước đó càng rộng. Đối với nước càng nghèo thì càng thiếu ( trong tất cả các lĩnh vực ) những đảm bảo cho phép một nhà nước, một quốc gia tồn tại. Ảnh hưởng về văn hóa Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói về văn hóa. Nguy cơ này rất tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở từng người, từng hộ gia đình mà còn ở cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển xã hội. Ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế luôn là sự nổi trội gay gắt nhất. Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giàu có. Nhưng sự giàu có chỉ thuần về vất chất, kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hóa, tinh thần, sự định hướng giá trị sẽ chỉ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực dụng, sự thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người … Đi vào lối sống, sự sùng bái giàu có vật chất co nguy cơ phát triển cái xấu, cái ác, làm nghèo nàn, biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Nếu tình trạng đó xảy ra ở lớp trẻ sẽ càng nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn, cằn cỗi về văn hóa và nhân cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế, thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào phát triển những yếu tố phản phát triển, chứa chấp mầm mống của bệnh hoạn, suy thoái. “Nghèo đói về kinh tế dễ nhận thấy và ít ai dám coi thường nó. Cũng do đó, giàu có về kinh tế dễ trở thành một khát vọng, một đam mê thậm chí cực đoan, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp mọi thủ đoạn. Nghèo đói về văn hóa khó nhận thấy hơn và rất dễ rơi vào sự nhận thức muộn màng, có khi phải trả giá” .Do đó trong khi tập trung mọi nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần sớm cảnh báo xã hội những nguy cơ và tác hại của đói nghèo văn hóa. Không sớm dự phòng nó một cách chủ động, xã hội khó tránh khỏi sự thua thiệt bởi phải trả giá đắt cho sự thiếu hụt văn hóa. Ảnh hưởng về chính trị - xã hội Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội và chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh như: trộm cắp, ma túy … đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đển rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp đọ của nghèo đói vượt qúa giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt nguy cơ “diễn biến hòa bình” và “chiến tranh biên giới mềm”. Nếu giải quyết không thành công vấn đề giảm nghèo ( trước hết là xóa đói ) sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế, mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa cũng không thực hiện được. Đối với nước ta trong giai đoạn của sự phát triển hiện nay và trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, nếu không tập trung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện XĐGN sẽ không thể tạo được tiền để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm đưa nước ta tới trình độ phát triển tương xứng với khu vực và quốc tế để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Nghèo đói về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về chính trị và xã hội. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước giầu là điều khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập về văn hóa, hệ tư tưởng và chính trị. Thực tế đã cho thấy trong điều kiện nền kinh tế thế giới đã quốc tế hóa như ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể giữ vững chế độ chính trị, độc lập tự do và chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế mạnh. Ngày nay, không một quốc gia, dân tộc nào có thể tự mình giải quyết được các vấn đề của phát triển trong mô hình đóng kín, biệt lập như một ốc đảo. Muốn phát triển phải mở cửa, hội nhập, hợp tác song phương và đa phương nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản sắc dân tộc. Do đó, chỉ khi nào làm chủ được chiến lược, sách lược phát triển, việc nhìn rõ những điều kiện và bước đi trong chiến lược phát triển và có thể khai thác được nhân tố tiềm lực từ bên trong vào mục tiêu phát triển thì quá trình tham gia hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài mới có tác dụng tích cực, hiệu quả và đạt tới sự bền vững. Ngheò đói của dân cư ( nhất là các tầng lớp cơ bản của xã hội ) đang là lực cản kinh tế xã hội lớn nhất đối với các nước nghèo hiện nay trong quá trình phát triển và không có khuôn mẫu duy nhất nào có thể sao chép, áp dụng hệt như nhau cho mọi nước trong việc giải bài toán kinh tế- xã hội này. Như vậy, nghèo đói và lạc hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước nghèo, là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc tế phải cùng hợp sức giải quyết. XĐGN và sự cấn thiết phải XĐGN. Đói nghèo là một hiện tượng của phát triển, của kinh tế - xã hội, nó xuất hiện và tồn tại trong đời sống hiện thực của cộng đồng loài người từ bao đời nay và cho đến nay vấn chưa giải quyết xong. Đây là một trở ngại, một rào cản nghiêm trọng, một thách thức nghiệt ngã đối với sự phát triển. Xuất phát từ những ảnh hưởng của đói nghèo tới sự phát triển kinh tế xã hội, XĐGN nổi lên nhu một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc cần phải giải quyết. Ta có thể hiểu, XĐGN là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước giảm nghèo và thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Vấn đề XĐGN là một đòi hỏi khách quan: 1.3.1. XĐGN là một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc cần giải quyết để tiếp tục đổi mới nhằm tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước theo hướng CNH – HĐH. Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội, trong nhiều năm liền chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế, kinh tế thị trường đã đem lại sự phát triển năng động trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường, cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái tiêu cực. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, đói nghèo của một bộ phận dân cư kéo theo các tệ nạn xã hội. Có thể nói, không giải quyết thành công vấn đề XĐGN, đặc biệt đói nghèo về kinh tế thì sẽ không khắc phục được hậu quả tiêu cực của phân hóa giàu nghèo mà ở đó luôn tiềm tàng nguy cơ phân hóa giai cấp, sắc tộc, bần cùng hóa người nghèo. Nếu để tình trạng đó xảy ra sẽ gây nhiều điều nguy hiểm, gây mất ổn định chính trị xã hội. Không giải quyết thành công vấn đề XĐGN sẽ không thực hiện được công bằng xã hội. Và như vậy cũng không thực hiện được mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của chủ nghĩa xã hội. 1.3.2. XĐGN tạo điều kiện cho tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Thực chất của sự phát triển chính là phát triển nguồn lực con người, nhân tố chủ yếu và quyết định đối với các nguồn lực khác. XĐGN là một trong những chính sách xã hội hướng vào phát triển con người, nhất là đối với nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. XĐGN đảm bảo những điều kiện ăn, mặc, ở, học hành, chữa bệnh, tiếp xúc văn hóa, xã hội cho mỗi người sao cho họ có thể tồn tại và phát triển một cách bình thường và ngày một tốt hơn, đó là cơ sở để duy trì và phát triển nguồn lực. Đói nghèo bao giờ cũng đi với gia tăng dân số, suy giảm thể lực, trí lực tức là sự nghèo nàn về nguồn lực phát triển. Chính vì vậy XĐGN là một yêu cầu cấp thiết góp phần để tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững. 1.3.3. XĐGN góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, tạo ra môi trường xã hội trong sạch, bên cạnh đó, là cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái Đói nghèo là nguyên nhân chủ yếu gây nên tội phạm, các tệ nạn xã hội, bạo lực, mất an ninh, trật tự xã hội. Nó không chỉ kéo theo hậu quả kinh tế - xã hội nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân dẫn đến mối hiểm họa xung đột, mất ổn định chính trị. Vì vậy, XĐGN là một trong những biện pháp góp phần đảm bảo ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, thực tế đã chứng minh một điều rằng đói nghèo bao giờ cũng tham gia vào quá trình khai thác tài nguyên bừa bãi, tàn phá mỗi trường sinh thái. XĐGN chính là một trong những biện pháp quan trọng nhất góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. 1.3.4. XĐGN là yêu cầu cấp thiết góp phần thực hiện công bằng xã hội, mang lại quyền bình đẳng, dân chủ cho mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia phù hợp với xu thế phát triển của xã hội ngày nay. XĐGN tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, giảm khoảng cách giàu nghèo, XĐGN tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cho mọi người, nhất là nhóm người nghèo. Tóm lại, giảm nghèo và đi đến xóa bỏ đói nghèo đã trở thành vấn đề quan tâm của toàn nhân loại, và là mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của nhiều tổ chức quốc tế cũng như nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy mà XĐGN trở thành mục tiêu đầu tiên trong 8 mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc công bố và Việt Nam đã tham gia ký kết. Thực hiện tốt XĐGN chính là góp phần vào quá trình hội nhập, mở rộng quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và XĐGN . Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thay đổi tỷ lệ nghèo đói vừa phức tạp vừa đa dạng. Hiểu được quan hệ này và có những yếu tố xác định quan hệ đó là mấu chốt trong việc xây dựng chiến lược giảm nghèo thành công. Nếu tăng trưởng kinh tế nhanh bao giờ cũng đi kèm giảm nghèo nhanh, do hiệu ứng “lan tỏa”, thì chiến lược giảm nghèo cũng chỉ cần tập trung vào việc đạt tăng trưởng nhanh hơn. Nhưng nếu không như vậy thì việc theo đuổi tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với nỗ lực tăng trưởng kinh tế vì người nghèo thông qua tái phân bổ tài sản và thu nhập trong nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc xác định bản chất của vấn đề XĐGN. Một số nghiên cứu của Ravallion và Chen (1997), Bruno, ravallion và Squive ( 1998) và Adám 92003) phân tích về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ nghèo giữâ các nước qua các thời kỳ khác nhau cho rằng, trung bình cứ tăng 1% của tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người thì tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo có thể giảm được tới 2%. Tuy nhiên bất bình đẳng lại diễn ra theo xu hướng khác, một số quốc gia có tốc độ giảm nghèo hạn chế trong khi có thành tích tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng, còn một số quốc gia lại có tốc độ giảm nghèo cao trong khi tăng trưởng kinh tế là tương đối thấp. Kinh nghiệm ở các nước Châu Á trong những năm 1990 về vấn đề này là kinh nghiệm thực tiễn vô cùng giá trị. Các quốc gia Đông Á đạt được tốc độ tăng trưởng về thu nhập bình quân đầu người là 6,4%, thì tốc độ giảm nghèo là 6,8% một năm, trong khi tốc độ tăng về thu nhập bình quân đầu người ở nhóm các nước Nam Á là 3,3% thì tốc độ giảm nghèo chỉ có 2,4%. Nếu tính cả khu vực, tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người tăng 1% thì nghèo đói chỉ giảm 0,9%. Rõ ràng vấn đề bất bình đẳng trở nên trầm trọng hơn trong khu vực ở giai đoạn này, và trong khi đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì thành tựu giảm nghèo lại rất hạn chế do không có tăng trưởng vì người nghèo. Biểu 1.1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người và thay đổi tỷ lệ nghèo của các quốc gia nghiên cứu trong các thập kỷ khác nhau Đơn vị tính: % Quốc gia Thập kỉ 1970 Thập kỷ 1980 Thập kỷ 1990 Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người Tốc độ thay đổi tỷ lệ nghèo Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người Tốc độ thay đổi tỷ lệ nghèo Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người Tốc độ thay đổi tỷ lệ nghèo Trung Quốc 4,4 0,8 7,8 - 9,8 9,0 -9,8 Ấn Độ 0,8 - 1,7 3,6 - 2,2 3,6 - 2,8 Indonesia 5,4 - 7,2 4,5 - 6,1 2,9 2,1 Malaysia 5,3 - 6,7 3,1 - 4,2 4,6 2,9 Pakistan 1,2 - 4,1 3,5 - 1,3 1,4 2,8 Philippines 3,1 - 0,2 - 0,6 - 4,5 0,6 - 1,3 Thái Lan 4,1 - 4,2 6,0 0,6 - 3,7 2,3 Việt Nam - - - - 5,8 - 6,9 ( Nguồn: Chính sách và tăng trưởng vì người nghèo – Kinh nghiệm Châu Á. Hafiz A. Pasha và T. Palanivel ) Mối quan hệ chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và thay đổi nghèo đói được thể hiện ở bảng trên. Quốc gia có tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân nhanh nhất là Trung Quốc ( trong thập kỷ 80 và 90) cũng có tốc độ giảm nghèo cao nhất, trong khi quốc gia có tốc độ tăng trưởng chậm là Pakistan ( trong thập kỷ 90) thì có tốc độ gia tăng về nghèo đói là lớn 2,8%. Qua nghiên cứu trường hợp các nước ở châu Á có tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình đói nghèo giảm hàng năm là 4,9%, thì ở các nước tăng trưởng tương đối chậm, đói nghèo chỉ giảm nhẹ vào khoảng 0,4%. Rõ ràng là về cơ bản, tăng trưởng có quan hệ chặt chẽ với giảm nghèo. Để thấy được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo chặt chẽ thế nào, các nhà nghiên cứu đã tính độ co giãn của đói nghèo đối với tăng trưởng kinh tế. Độ co giãn này thể hiện bằng % thay đổi tỷ lệ đói nghèo khi có 1% tăng trưởng thu nhập đầu người. Độ co giãn này ở các quốc gia trong các thập kỷ được trình bày trong Biểu 1.2. Biểu 1.2: Độ co giãn của nghèo đói đối với tăng trưởng ở các quốc gia trong các thập kỷ Đơn vị tính: % Quốc gia Thập kỷ 1970 Thập kỷ 1980 Thập kỷ 1990 Trung Quốc - 0,18 - 1,26 - 1,09 Ấn Độ - 2,15 - 0,6 - 0,77 Indonesia - 1,26 - 1,36 0,63 Malaysia - 1,26 - 1,36 0,63 Pakistan - 2,73 - 0,38 2,01 Philippines - 0,07 - - 2,25 Thái Lan - 1,02 0,1 - 0,63 Việt Nam - - - 1,18 ( Nguồn: Chính sách và tăng trưởng vì người nghèo - Kinh nghiệm Châu Á. Hafiz A. Pasha và T. Palanivel) Từ biểu trên ta nhận thấy rằng độ co giãn thay đổi mạnh giữa các nước, và độ co giãn có thể là âm, cũng có thể là dương. Độ co giãn dương trong các trường hợp tăng trưởng chậm và đói nghèo gia tăng. Độ co giãn là âm trong trường hợp các nền kinh tế có tăng trưởng nhanh, đói nghèo giảm. Nói chung, người ta chấp nhận rằng giá trị âm của độ co giãn của đói nghèo đối với tăng trưởng kinh tế là một thước đo tốt để xác định mức độ vì người nghèo của tăng trưởng. Vai trò của tăng trưởng kinh tế tới XĐGN. Suy từ khái niệm về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo thì tăng trưởng kinh tế là tạo nguồn lực, tạo ra của cải, tạo ra nguồn thu nhập để thỏa mãn các nhu cầu vật chất tối cần thiết như: ở, mặc, ăn, văn hóa, y tế… Trong khi đó, đói nghèo là một bộ phần ít có khả năng tạo ra của cải mà hệ quả của nó là không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu tối cần thiết đó. Do đó, muốn xóa đói giảm nghèo thì nhất thiết phải tăng trưởng kinh tế và muốn tăng trưởng kinh tế thì phải tiến hành xóa đói giảm nghèo. Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế trong việc nâng cao mức sống của người nghèo. Bởi, cả tốc độ tăng trưởng và loại hình của sự tăng trưởng đó đều ảnh hưởng đến công cuộc XĐGN. Có thể tách những thay đổi trong XĐGN làm hai bộ phận: một bộ phận nhờ tăng trưởng kinh tế và bộ phận kia là nhờ thay đổi trong cách phân phối lợi ích. Ở đây, ta chỉ tập trung nghiên cứu phương diện tăng trưởng kinh tế mà không đề cập đến mặt phân phối kết quả của tăng trưởng kinh tế. Xét trên góc độ đó thì có thể thấy được những tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đến XĐGN: Một là, tăng trưởng kinh tế là cơ sở tạo nguồn lực, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo lập môi trường kinh tê – xã hội, giúp các hộ nghèo nâng cao khả năng tiếp cận được với các nhu cầu về văn hóa, y tế, giáo dục và đời sống tinh thần. Hai là, tăng trưởng kinh tế tạo nguồn lực, thực hiện phân phối vốn, công nghệ khoa học, từ đó giúp các hộ nghèo tiếp cận với các phương pháp sản xuất tiên tiến và khoa học, nâng cao thu nhập, có cuộc sống ổn định sau đó vươn lên làm giàu. Sự tăng trưởng kinh tế trực tiếp từ các hộ đói nghèo đóng vai trò rất quan trọng. Đầu tư cho các hộ nghèo để tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng hơn cả, như nhiều người đã từng nói: “Để giúp đỡ người nghèo, không chỉ cho họ con cá, mà tốt nhất là cho họ chiếc cần câu để tự họ câu cá và họ sẽ có cá “. XĐGN phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng tăng trưởng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ từ thành quả tăng trưởng. Tăng trưởng chất lượng cao để giảm nhanh đói nghèo. Thực tiễn đã chưng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao từ đó có cơ sở vật chất để hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để XĐGN trên quy mô rộng, không có tăng trưởng kinh tế mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp truyền thồng thì tác dụng tới công cuộc XĐGN không lớn. Muốn tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo thì nguồn lực cần phải chuyển tới các ngành nghề người nghèo đang lao động, khu vực người nghèo đang sống, yếu tố sản xuất do người nghèo sở hữu, sản phẩm người nghèo đang sử dụng. Nội dung trên hàm ý, để tăng trưởng kinh tế và XĐGN hiệu quả thì nhất thiết phải tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp. Sở dĩ, là do hầu hết đói nghèo tập trung ở các vùng nông thôn, nên tăng trưởng nông nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình XĐGN, tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn thông qua hiệu ứng lan tỏa tới thành thị. Nói tóm lại, vai trò của tăng trưởng kinh tế đối với XĐGN là rất lớn, nhưng để tăng trưởng cao mà vẫn đảm bảo XĐGN hiệu quả thì vấn đề đặt ra là cần tìm được phương hướng tăng trưởng thích hợp phục vụ cho mục đích tăng trưởng vì xóa đói, giảm nghèo. XĐGN là yếu tố nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. XĐGN là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo và nhiệm vụ lâu dài là xóa sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập, của cải quốc dân một cách thụ động và cần tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, giúp hộ nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo. XĐGN tức là phải làm sao để tăng được thu nhập của các hộ nghèo, thu nhập bình quân đầu người ngày một tăng cao hơn. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho sự phát triển, tạo thêm một lực lượng suản xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng ( cả trên góc độ xã hội và kinh tến ), đồng thời cũng là một điều kiện( tiền đề ) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số nước đã tạo ra sực phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân nhờ đó đã thoát khỏi nghèo đói và tạo điều kiện tham gia cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp. Tóm lại, tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng, đồng thời cũng là điều kiện để cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Ngược lại, tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Tăng trưởng kinh tế là một điều kiện quan trọng để xoá đói giảm nghèo trên quy mô rộng lớn. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo cần phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, đồng thời cũng là bổn phận của chính những những người nghèo. 1.5. Những kinh nghiệm về tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở Việt Nam những năm đã qua 1.5.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở Việt Nam * Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo đạt được mục tiêu đã đề ra. Nền kinh tế tiếp tục duy trì được tỷ lệ tăng trưởng khá và ổn định: GDP năm 2004 tăng 7,7%, năm 2005 tăng 8,4%, năm 2006 là 8,17%, đặc biệt năm 2007 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), GDP tăng 8,48% cao hơn hẳn mức tăng 7,1% của năm 2001 cũng là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2001-2005. Tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục là yếu tố quan trọng trong việc giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 18,10% năm 2004 xuống còn 15,47% năm 2006, năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 14,75% vượt kế hoạch đề ra. Biểu 1.3: Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam những năm gần đây Đơn vị tính: % Năm 2004 2006 2007 Cả nước 18,10 15,47 14,75 ĐB sông Hồng 12,90 10,12 9,62 Đông Bắc 23.20 22,22 21,13 Tây Bắc 46,10 39,40 37,45 Bắc Trung Bộ 29,40 26,58 25,51 Duyên hải Nam Trung Bộ 21,30 17,18 16,26 Tây Nguyên 29,20 24,01 22,95 Đông Nam Bộ 6,10 4,56 4,33 ĐB sông Cửu Long 15,30 13,00 12,42 ( Nguồn: Tổng cục thống kê ) Tốc độ TTKT và XĐGN của Việt Nam trong những năm qua đứng vào loại cao nhất thế giới và Việt Nam đang trở thành một trong những nước điển hình nhất thực hiện thành công việc kết hợp giữa trợ giúp trong nước với sự hỗ trợ của bên ngoài trong lĩnh vực tăng trưởng và XĐGN. Những thành tựu tăng trưởng và XĐGN những năm qua đánh dấu bước khởi đầu thuận lợi của quá trình thực hiện các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. * Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng. Năm 2007, tỷ trọng GDP tính theo giá thực tế đạt 41,7% trong khi đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng lên khoảng 37,6%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 1997-2007. Về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,3%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tỷ lệ tăng trưởng chung GDP. Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước và các bộ phận cấu thành trong những năm gần đây (%) ( Nguồn: Tổng cục thống kê ) Đối với khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2007 theo giá so sánh 1994 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp tăng 2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thuỷ sản tăng 11%.Như vậy, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh toàn bộ nền kinh tế. Trong công nghiệp, tỷ trọng các ngành cơ sở hạ tầng, các ngành chế biến tăng nhanh trong khi tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 83,9% năm 2006 lên khoảng 84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế biến với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm 2007. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng hiệu quả đã góp phần làm tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư. * Tăng trưởng găn liền với XĐGN Một thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới là quá trình TTKT luôn đi đôi với XĐGN và cải thiện đời sống nhân dân. TTKT vừa tạo công ăn việc làm, vừa tăng thu nhập và đưa một bộ phận lớn nhân dân thoát khỏi tình trạng nghèo khổ. Tăng trưởng GDP luôn đạt mức khá cao và ổn định trong những năm qua là tiền đề quan trọng cho những thành tựu trong giảm nghèo, theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đưa ra ngày 15/2/2008: “Việt Nam đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới”; tính bằng số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm từ khoảng 68% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với khoảng 34 triệu người đã thoát khỏi nghèo đói . Thực tế nhiều năm qua ở nước ta cho thấy TTKT luôn đi kèm với tạo thêm nhiều việc làm mới. Tỷ lệ TTKT tăng lên thì tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cũng giảm mạnh và ngược lại khi tỷ lệ TTKT giảm sút thì tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị lại tăng lên. Tương tự, khi tỷ lệ TTKT tăng lên thì tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên và ngược lại khi tỷ lệ TTKT giảm sút thì tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng giảm đi. Cùng với quá trình TTKT, thu nhập của người dân cũng tăng lên và tỷ lệ nghèo cũng giảm đi tương ứng. Thu nhập của chính những người nghèo tăng lên cho thấy người nghèo được hưởng các thành quả của TTKT. 1.5.2. Những thách thức còn tồn tại trong tăng trưởng và XĐGN Mặc dù những năm qua, dưới sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, Việt Nam luôn duy trì được sự ổn định chính trị xã hội và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và XĐGN, nhưng nhìn chung trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng hoạt động cụ thể vẫn tồn tại những mặt yếu kém và bất cập. * Về tăng trưởng kinh tế Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch. Trình độ phát triển kinh tế Việt Nam còn thấp; chất lượng phát triển chưa cao; tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá nhưng không vững chắc, chưa tương xứng với tăng trưởng đầu, với tiềm năng và với yêu cầu; nguy cơ tụt hậu còn rất lớn. Đến nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và bảo hộ nhà nước; số lao động thiếu việc làm còn lớn; kết cấu hạ tầng thấp kém so với yêu cầu phát triển. Tăng trưởng vẫn tập trung vào một số ngành, sản phẩm truyền thống nhưng công nghệ chưa cao như dệt may, thuỷ sản, và nông sản chưa chế biến. Đóng góp vào tăng trưởng của các ngành sử dụng công nghệ cao như điện tử, cơ khí chính xác... còn rất thấp. Việc triển khai thực hiện các biện pháp giảm chi phí sản xuất trong từng ngành, từng sản phẩm công, nông nghiệp và dịch vụ còn chậm, làm cho tốc độ tăng trưởng GDP chưa tương xứng với tốc độ tăng giá trị sản xuất. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP đạt khoảng 29,5% GDP, thấp so với một số nước xung quanh. Tuy xuất khẩu tăng trưởng khá song xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực; nhập siêu lớn và có xu hướng tăng lên, có nguy cơ ảnh hưởng bất lợi. Sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chất lượng và hiệu quả toàn ngành chưa được cải thiện. Chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp còn ở mức cao. Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc làm cho chi phí đầu tư, giá thành sản phẩm còn cao; sự phối hợp giữa các cơ quan chưa tốt; còn nhiều chồng chéo mâu thuẫn, chưa minh bạch; chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước. Khả năng hội nhập quốc tế chậm, trong khi đó khó khăn về thị trường xuất khẩu ngày càng tăng. * Về xóa đói giảm nghèo Khoảng cách chênh lệch giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư vẫn tiếp tục tăng tuy tốc độ tăng có giảm nhiều so với trước đây. Tuy tỷ lệ nghèo ở các vùng đều giảm. nhưng mức độ giảm nghèo giữa các vùng chênh lệch nhau khá nhiều. Trong các vùng của cả nước tỷ lệ hộ nghèo đều giảm, nhưng cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Kạn 37,8%. Một bộ phận không nhỏ người đang nằm ở ranh giới nghèo ( cận nghèo ), khả năng rơi vào tình trạng nghèo cao. Theo điều tra mức sống dân cư năm 2004, mức độ chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của nhóm 20% hộ có thu nhập thấp nhất so với 20% hộ có thu nhập cao nhất là 8,34 lần, trong đó khu vực thành thị là 8,08 lần và khu vực nông thôn là 6,36 lần; mức độ chênh lệch này đều cao hơn so với kết quả cuộc ._.số cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể cơ sở chưa đầy đủ, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành có nơi chua nghiêm túc. Ban chỉ đạo XĐGN ở một số cơ sở hoạt động thiếu năng động, hiệu quả hạn chế. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức quản lý, năng lực tổ chức thực hiện của một số chủ đầu tư, chủ dự án còn yếu. Hộ nghèo, người nghèo còn tư tưởng tự ti, trông chờ, ỷ lại, thiếu ý chí vươn lên làm giàu tự xóa đói nghèo. Một bộ phậnthiếu tư liệu sản xuất, thiếu sức lao động, đông người ăn theo, kiến thức làm kinh tế của người nghèo còn hạn chế. Do tỉnh còn nghèo, thiếu nguồn lực để bổ xung hỗ trợ cho việc thực hiện các chính sách, dự án chương trình. Việc bố trí, quản lý, khai thác và sử dụng nguồn lực chương trình, dự án chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Chưa phát huy được đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc quản lý, giám sát, tổ chức thực hiện các dự án ở địa phương. CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XĐGN CỦA TỈNH PHÚ THỌ 3.1. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu về tăng trưởng kinh tế và XĐGN của tỉnh Phú Thọ. 3.1.1. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và XĐGN và của tỉnh Phú Thọ. Đảm bảo tính hài hòa giữa tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Phú Thọ tiếp tục cần có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh để thu hẹp mức chênh lệch so với cả nước về GDP/ người. Có được điều này sẽ đáp ứng được mong muốn của nhân dân và góp phần tạo ra sự ổn định trong xã hội để tiếp tục tăng trưởng. Trên cơ sở phát huy cả nội lực và ngoại lực, sử dụng hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để phát triển hàng hóa quy mô ngày càng lớn, có được nhiều giá trị nhất được tạo ra trên mỗi ha đất và đạt năng suất lao động ở mức cao và tăng lên không ngừng. Bên cạnh đảm bảo ổn định xã hội, cần đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường sống, môi trường xã hội nhằm có được tiền đề cho tăng trưởng trước mắt và lâu dài. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này được thể hiện không chỉ ở chỗ năng suất lao động tăng, môi trường được bảo vệ mà còn ở sự tiến bộ xã hội, công bằng giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, và thể hiện ở sự đảm bảo có được tốc độ tăng nhanh trong thời gian dài. 3.1.2. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và XĐGN của tỉnh 3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát. Xây dựng Phú Thọ thành một trong những tỉnh phát triển thuộc nhóm sau các thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước. Phấn đấu thu hẹp khoảng cách chênh lệch với cả nước về trình độ phát triển và mức sống dân cư, trong đó tiêu biểu nhất là thu hẹp mức chênh lệch GDP/ người so với mức trung bình của cả nước và tiến tới vượt mức trung bình của cả nước. Phấn đầu đến năm 2010 đưa Phú Thọ thoát ra khỏi tỉnh nghèo và đến năm 2020 Phú Thọ cơ bản đạt được các tiêu chí của tỉnh công nghiệp. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 31,8% đầu năm 2006 xuống còn 10%, góp phần đưa Phú Thọ cơ bản thoát ra khỏi tỉnh nghèo vào năm 2010. Nâng cao nhận thức, kiến thức cho người nghèo, hỗ trợ người nghèo tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội một cách cơ bản và bình đẳng, giúp họ cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất. Giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các vùng. Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tang cho vùng nghèo, xã có tỷ lệ nghèo cao. 3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể. * Về tăng trưởng kinh tế Để đạt tới mục tiêu tổng quát dài hạn, đến năm 2020 mục tiêu cụ thể về tăng trưởng kinh tế (GDP) cần phấn đấu thực hiện cho từng giai đoạn với nguyên tắc chỉ đạo là thu hẹp mức chênh lệch của tỉnh Phú Thọ so với trung bình của cả nước về chỉ tiêu GDP/ người; cụ thể: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời ký 2006 – 2020 khoảng 11,5- 12,0%/năm. Từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch, tiến tới bằng và vượt mức về GDP bình quân đầu người so với mực trung bình của cả nước. Phấn đấu đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt ít nhất bằng 81,4% và đến năm 2020 đạt trên 131% mức bình quân đầu người chung của cả nước. Phấn đấu tạo sự chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, đến năm 2010 cơ cấu kinh tế của tỉnh là: Công nghiệp, xây dựng 45 - 46%, dịch vụ 34 - 35% và nông lâm nghiệp là 18 - 19%; đến năm 2020 thì công nghiệp chiếm khoảng 50 – 51%, dịch vụ 39 – 40% và nông lâm nghiệp là 10 – 11%. Từng bước nâng dần tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp của tỉnh từ 71,4% năm 2005 lên trên 81% vào năm 2010 và trên 90% vào năm 2020. * Về xóa đói giảm nghèo Phấn đấu hàng năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 4 - 4,5%. Mỗi năm có từ 12.000 – 13.000 hộ thoát nghèo. Đảm bảo kết quả giảm nghèo bền vững, hạn chế đến mức thấp nhất hộ tái nghèo. Hỗ trợ xóa 100% nàh tạm cho hộ mới phát sinh hoặc tái nghèo và tiếp tục hỗ trợ nâng cấp, sửa chữa nhà ở cho hộ nghèo bị hư hỏng, xuống cấp do ảnh hưởng của thiên tai. Giải quyết cho 100% hộ nghèo có nhu cầu được vay vốn tín dụng Ngân hàng chính sách xã hội, 100% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế miễn phí. Tiếp tục thực hiện chính sách miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho học sinh là con hộ nghèo. Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao còn thiếu cơ sở hạ tầng hoặc hạ tầng yếu kém. Tổ chức tập huấn khuyến nông, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 7.400 lượt người, đào tạo nghề cho 7.000 lượt nông dân nghèo và tập huấn nâng cao năng lực cho 4.000 cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo xã, phường, thị trấn. Đảm bảo 100% người nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phi khi có nhu cầu. 3.1.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh trong thời gian tới. 3.1.3.1. Cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, thực hiện nghiêm túc luật doanh nghiệp, phổ biến rộng rãi luật doanh nghiệp vừa bảo đảm sự quản lý vĩ mô của nhà nước vừa tạo môi trường cho sự cạnh tranh bình đẳng trong đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh của tất cả các đơn vị hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài. Khuyến khích tư nhân thành lập các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Tiếp tục thực hiện các giải pháp lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ; siết chặt kỷ luật thu, chi ngân sách gắn với thực hiện quy chế mới về phân bổ ngân sách; tăng cường tính công khai, minh bạch trong thu, chi ngân sách. Thực hiện các chính sách biện pháp nhằm khuyến khích cạnh tranh, kiểm soát độc quyền. Tạo điều kiện thuận lợi như: giá thuê đất, chính sách sử dụng đất, cung cấp dịch vụ hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính…áp dụng các cơ chế thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao. 3.1.3.2. Mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư. Thúc đẩy việc huy động các nguồn vốn trong xã hội, các thành phần kinh tế đầu tư phát triển theo các hình thức khác nhau. Có các chính sách thích hợp để thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp và tư nhân trong tỉnh, khơi dậy tối đa nội lực của tỉnh. Củng cố, mở rộng hệ thống quý tín dụng nhân dân nhằm cùng hệ thống ngân hang huy động tốt vốn nhàn rỗi trong dân. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, các hình thức tạo vốn, mở rộng các nguồn thu. Hết sức tiết kiệm để tạo tích lũy, huy động mọi tiềm năng về tài nguyên, tài sản của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh sinh lời cho cá nhân và xã hội. Cần đẩy mạnh thu hút đầu tư từ nước ngoài (ODA và FDI) và đầu tư từ các địa phương khác trong nước. Muốn vậy tỉnh cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước như: chính sách ưu đãi về thuế, miễn giảm thuế trong thời gian đầu hoặc rủi ro do sản xuất – kinh doanh thua lỗ, cải cách các thủ tục hành chính… Tiến hành cổ phần hóa, tham gia thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp trong tỉnh có điều kiện nhằm huy động thêm nguồn vốn. Xây dựng các dự án có căn cứ để tranh thủ các nguồn vốn thông qua các chương trình của nhà nước và của các tổ chức quốc tế như: chương trình xóa đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn, môi trường, y tế, giáo dục. Tăng cường hơn nữa công tác quảng cáo, giới thiệu ra nước ngoài và các địa phương khác về các tiềm năng thế mạnh của tỉnh, đặc biệt là tiềm năng du lịch. Cần kết hợp nhiều hình thức liên doanh trong đó có cả 100% vốn bên ngoài. Phú Thọ cần chuẩn bị năng lực nội tại để đón nhận, lựa chọn, và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư với bên ngoài. 3.1.3.3. Phát triển kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ trong nước mà hướng ra thị trường thế giới, ngoài các thị trường truyền thống , tìm kiếm thêm các thị trường mới theo phương châm đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá sản phẩm… để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu đã qua chế biến. Mở rộng việc triển khai các hình thức xúc tiến thương mại nhằm mở rộng thị trường, tìm kiếm thị trường mới. 3.1.3.4. Đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính Đổi mới quy trình xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao chất lượng công tác thẩm định và tham gia đóng góp vào văn bản, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn của văn bản. Nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, trước hết là thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước phù hợp với điều kiện của tỉnh. Thực hiện nguyên tắc công khai, dân chủ, dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp trong việc xây dựng thể chế. Tiếp tục rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những văn bản không còn hiệu lực hoặc chồng chéo trùng lặp, tăng cường kỹ năng của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nâng cao ý thức pháp luật trong cán bộ, công chức và nhân dân. Thông tin công khai cho nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, của chính quyền địa phương theo tinh thần thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Mở rộng các dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách xã hội để nhân dân hiểu và thực hiện. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống các quy trình thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch thuận tiện cho tổ chức và công dân. 3.1.3.5. Tăng cường năng lực bộ máy Sắp xếp, kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ tỉnh đến cơ sở. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước. Tiếp tục rà soát chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Sắp xếp các trung tâm, đơn vị sự nghiệp, tách hoạt động sự nghiệp ra khỏi hành chính công. Tăng cường việc phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức theo hướng tăng cường hơn nữa sự ủy quyền, phân cấp cho Giám đốc sở, ngành, Chủ tịch UBND huyện, thành, thị, xã, phường, thị trấn. 3.1.4. Phương hướng và giải pháp của tỉnh nhằm XĐGN trong thời gian tới. Phương hướng chung về giảm nghèo trong giai đoạn 2006 – 2010 phải đạt được tiêu chí: công bằng, toàn diện, nhanh, hiệu quả, bền vững. Vì vậy, các cơ chế, chính sách và giải pháp cần tập trung vào các vấn đề sau: Tạo cơ hội về phát triển sản xuất để hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo thông qua các chính sách trợ giúp về phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, tín dụng, dạy nghề tạo việc làm. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, cải thiện việc tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ xã hội thông qua các chính sách trợ giúp về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, pháp lý. Chú trọng xã hội hóa các hoạt động giảm nghèo, đa dạng hóa việc huy động nguồn lực cho giảm nghèo, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa bàn, kết hợp nguồn lực của dân, cộng đồng, Nhà nước, doanh nghiệp, quốc tế…để đảm bảo đủ nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo. Ưu tiên nguồn lực cho những nơi có tỷ lệ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Không ngừng nâng cao năng lực hệ thống chính trị nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo các cấp. Cải thiện sự tham gia của người dân đặc biệt chú ý đến phụ nữ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội trong mọi hoạt động của chương trình XĐGN. 3.1.4.1. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác XĐGN, đặc biệt ở các vùng nghèo, xã nghèo, đi đôi với chống tái nghèo; xây dựng các mô hình XĐGN phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Đẩy nhanh xã hội hoá công tác XĐGN; tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo bằng những nguồn vốn. Thực hiện tốt việc giám sát và đánh giá công tác XĐGN. Tăng cường công tác khuyến nông, lâm, ngư cho các hộ nghèo. Tập trung nguồn lực nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong thu nhập và tiếp cận các dịch vụ cơ bản giữa các nhóm dân cư và giữa các vùng. Quan tâm nhiều hơn đến giải quyết các vấn đề về giới và công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ , trẻ em. Tăng cường hỗ trợ cho người dân vùng sâu vùng xa và dân tộc ít người. Thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng đối với hộ nghèo, đặc biệt với khách hàng nghèo chủ hộ là phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, hộ có người tàn tật, có nhu cầu về vốn, vay vốn phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu cả về mức vay và thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh nhằm giúp người nghèo nâng cao thu nhập, kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với hoạt động tiết kiệm giúp hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Đồng thời thực hiện giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay thông qua tổ, nhóm Tín dụng – tiết kiệm để hạn chế tình trạng nợ đọng và vốn vay không hiệu quả. 3.1.3.2. Nâng cao khả năng tạo việc làm cho người lao động Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tự tạo việc làm và tạo thêm việc làm cho người khác. Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ giới thiệu và môi giới việc làm; thành lập các trung tâm thông tin về việc làm đồng thời xây dựng cơ chế giám sát để ngăn ngừa hành vi lừa đảo. Tăng cường công tác dạy nghề, tạo việc làm tại chỗ đi đôi với xuất khẩu lao động, ưu tiên vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động ở nông thôn, chú trọng tạo việc làm phi nông nghiệp và việc làm cho phụ nữ. Thực hiện tốt việc giải quyết lao đông dôi dư trong quá trình cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm. 3.1.4.3. Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và bảo vệ môi trường. Tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách cho y tế, đồng thời thực hiện các biện pháp xã hội hoá y tế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân và tổ chức tham gia các hoạt động y tế. Tăng cường công tác phòng ngừa dịch bệnh; giải quyết tốt vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện các chương trình mục tiêu về y tế và phòng chống HIV/AIDS. Hình thành một số trung tâm y tế khu vực, chấn chỉnh công tác quản lý khám , chữa bệnh và giá thuốc chữa bệnh. Tăng nhanh năng lực sản xuất dược phẩm trong nước, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh thuốc ngoại nhập, tổ chức mạng lưới kinh doanh phân phối thích hợp để đảm bảo thuốc cho nhu cầu chữa bệnh của nhân dân. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, trước hết theo bậc đào tạo, từng bước điều chỉnh theo ngành đào tạo và lãnh thổ, gắn đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; củng cố và phát triển hệ thống trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, phát triển đại học, cao đẳng hợp lý, thực hiện tốt chương trình kiên cố hoá trường học. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng gia đình văn hoá, làng bản văn hoá và đầu tư cơ sở vật chất cho phát triển văn hoá - thông tin ở các xã, huyện, đặc biệt là các xã thuộc các huyện miền núi: Yên Lập, Thanh Sơn, Hạ Hòa. Khai thác, duy trì , bảo tồn văn hoá phi vật thể và các môn thể thao dân tộc. Bảo vệ tài nguyên rừng, đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng và thực hiện các hình thức khoán thích hợp cho các hộ gia đình và tập thể theo Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng, tăng cường biện pháp phòng chống cháy rừng; Bảo vệ tài nguyên biển, tài nguyên nước ngọt, môi trường đô thị, tiếp tục chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ra khỏi đô thị, giải quyết việc xử lý rác và các chất thải nguy hại. 3.1.4.4. Nhóm giải pháp về chính sách hỗ trợ, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. * Chính sách hỗ trợ về y tế: - Mục tiêu: Hoàn thiện hệ thống chính sách y tế theo hướng công bằng và hiệu quả, tạo cơ hội thuận lợi cho người nghèo được tiếp cận dịch vụ y tế khi ốm đau, bệnh tật, giúp người nghèo được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe với chất lượng ngày càng cao, 100% cơ sở khám chữa bệnh các tuyến được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo nâng cao năng lực y bác sỹ; 100% xã phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế vào năm 2010; 100% người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, được hưởng dịch vụ y tế có chất lượng tại các cơ sở y tế công lập. - Nội dung: Nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cả 3 tuyến; xã, huyện, tỉnh. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nhất là y tế xã, thôn, bản. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các trạm y tế xã, đào tạo lại đội ngũ y sỹ, bác sỹ về làm việc ở y tế cơ sở. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa công tác y tế. Thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo bằng thẻ Bảo hiểm y tế. Phát triển y học cổ truyền trên cơ sở sử dụng thuốc dân tộc. Khai thác, tuyên truyền vận động nhân dân tự trồng và sử dụng 60 cây thưốc nam tại gia đình. - Nhu cầu vốn: Nhu cầu vốn nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động cho chính sách y tế giai đoạn 2006 – 2010 là 82.100 triệu đồng. Trong đó, mua thẻ BHYT cho người nghèo khoảng 75.500 triệu đồng, đầu tư cải tạo nâng cấp, trang thiết bị 10 trạm y tế xã đặc biệt khó khăn khoảng: 6.600 triệu đồng. * Chính sách hỗ trợ về giáo dục: - Mục tiêu: Hỗ trợ cho con em và các thành viên khác của hộ nghèo được tới trường học tập bình đẳng như các trẻ em khác nhằm củng cố, duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, tiến tới phổ cập bậc trung học phổ thông, trong đó ưư tiên con các hộ nghèo là dân tộc thiểu số và trẻ em tàn tật. - Nội dung: Miễn toàn bộ học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường, hỗ trợ 100% sách giáo khoa và dụng cụ học tập cho học sinh là con họ nghèo dân tộc thiểu số, học sinh là con hộ nghèo bị tàn tật. Giảm 50% học phí và 50% các khoản đóng góp xây dựng trường, hỗ trợ 50% sách giáo khoa và dụng cụ học tập cho học sinh là con em các hộ nghèo khác. Giảm 50% học phí cho sinh viên là con các hộ nghèo học ở các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Đẩy mạnh phân luồng đào tạo nghề cho nông dân ở các vùng khó khăn và vùng di dời do phát triển đô thị gắn với giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. - Nhu cầu vốn: Tổng nguồn vốn cho cả giai đoạn 2006 -2010 cho Chính sách hỗ trợ về giáo dục là 19.650 triệu đồng. Trong đó, ngân sách Trung ương 15.720 triệu đồng, ngân sách địa phưong 3.930 triệu đồng. * Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở và nước sinh hoạt: - Mục tiêu: Hỗ trợ hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo dân tộc thiểu số về nhà ở và nước sinh hoạt để ổn định đời sống. Đến năm 2010 hỗ trợ xóa xong nhà tạm cho hộ nghèo ( theo chuẩn mới) và hộ tái nghèo, hộ gặp thiên tai rủi ro khác và hộ dân tộc thiểu số (theo Quyết định 134). Đảm bảo cơ bản người nghèo dân tộc thiểu số có nước sạch để sinh hoạt. Khuyến khích chính sach đầu tư xây dựng nhà chung cư giá rẻ và nhà chung cư theo khu công nghiệp tập trung cho người nghèo, người có thu nhập thấp. - Nội dung: Về hỗ trợ nhà ở: Hỗ trợ một lần mức 5 triệu đồng/hộ, phần còn lại huy động cộng đồng giúp đỡ và hộ nghèo tự lực một phần. Về nước sinh hoạt: Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho các hộ nghèo dân tộc thiểu số sống ở vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt để đào giếng, xây dựng bể dự trữ nước hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt mức 300.000 đồng/hộ. - Nhu cầu vốn: Tổng nguồn vốn cho cả giai đoạn 2006- 2010 là 35.500 triệu đồng, trong đó chi cho nhà ở 23.500 triệu đồng, nước sinh hoạt 12.000 triệu đồng. Nguồn vốn trên bao gồm: Ngân sách Trung ương 27.000 triệu đồng, ngân sách địa phương và nguồn khác 8.500 triệu đồng. * Chính sách trợ giúp pháp lý: - Mục tiêu: Chính sách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo, góp phần bảo đảm công bằng cho người nghèo trong việc tiếp cận với pháp luật; nâng cao hiểu biết pháp luật cho người nghèo để họ thực hiện pháp luật, tham gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện dân chủ cơ sở. - Nội dung: Triển khai đa dạng các phương thức trợ giúp pháp lý tại cơ sở nhằm hỗ trợ pháp lý tại chỗ cho người nghèo: hình thành các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động do cán bộ tư pháp xã và tổ viên tổ hòa giải, trưởng thôn, già làng, trưởng bản thực hiện để tư vấn pháp luật và giải quyết vụ việc đơn giản tại cộng đồng. Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên trợ giúp pháp lý ở địa phương. Thực hiện rộng rãi các chương trình tư vấn, giải đáp pháp luật trên báo, đài phát thanh, truyền hình, phát hành và cung cấp miễn phí tờ gấp, cẩm nang pháp luật và các tài liệu pháp luật khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, người nghèo. Triển khai thi hành Luật trợ giúp pháp lý để người nghèo được tiếp cận tốt hơn dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí. - Nhu cầu vốn: Tổng nguồn vốn là 4.000 triệu đồng, trong đó Ngân sách Trung ương và huy động quốc tế là 3.600 triệu đồng, ngân sách địa phương là 400 triệu đồng. 3.2. Một số kiến nghị 3.2.1. Tổ chức thực hiện Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong quá trình triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và chiến lược XĐGN của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo. Thiết lập cơ chế khuyến khích cho cán bộ giám sát đánh giá ở các địa phương làm việc hiệu quả. Thực tế cho thấy có một số huyện, xã chưa làm tốt công tác xác định hộ nghèo vì đây là những công việc họ làm phải kiêm nhiệm. 3.2.2. Tăng cường năng lực Thực hiện các mục tiêu chiến lược yêu cầu phải có đủ các nguồn lực cần thiết ở các cấp, trong đó nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ tham mưu các cấp, khi mà việc tiếp tục tăng trưởng nhanh và xoá đói giảm nghèo đã bắt đầu đi vào chiều sâu. Đặc biệt cần chú trọng nâng cao kiến thức phân tích về nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế và những tác động tới xã hội và tới đói nghèo của các cải cách kinh tế. Cần tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó phải đặc biệt chú trọng tăng cường năng lực cho các cán bộ được dân bầu giữ các trọng trách ở địa phương và đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở. Ngoài ra, cần tiếp tục cải thiện chất lượng quan hệ giữa dân, nhất là dân nghèo, với cán bộ và các cấp chính quyền. 3.2.3. Tăng cường trao đổi, phổ biến thông tin về chính sách Việc trao đổi, phổ biến các thông tin về hệ thống chính sách đề ra trong tăng trưởng, phát triển kinh tế và XĐGN cần được tăng cường ở tất cả các cấp để mọi tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện có nhận thức chung về những chính sách cần thiết triển khai từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô và cơ sở. Khi được tiếp cận với những thông tin trên , người dân sẽ nhận thức cao hơn, tích cực tham gia và ủng hộ nhiều hơn đối với chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh cũng như của Chính phủ. Trong quá trình trao đổi, phổ biến thông tin về chính sách, cần chú ý thu hút ý kiến của khu vực kinh tế tư nhân vì hoạt động của khu vực này gắn liền với đời sống kinh tế - xã hội tỉnh. Nâng cao chất lượng tham gia của người dân, phát huy vai trò của phụ nữ và những đối tượng yếu thế như tầng lớp dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn… trong các hoạt động của cộng đồng. Để làm được điều này, phải phát triển nhanh hơn nữa mạng lưới cung cấp thông tin cho người dân, làm sao để những người nghèo nhất cũng được tiếp cận với những thông tin gần nhất. 3.2.4. Tăng cường công tác thống kê phục vụ tăng trưởng và XĐGN Việc hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu, quy định chu kỳ thu nhập cũng như báo cáo và quy định nội dung báo cáo của các cấp có ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả của công tác giám sát đánh giá hiệu quả thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội tỉnh. Cần triển khai xây dựng các chỉ số phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Quy trình thu thập thông tin cần được tiếp tục cải thiện tiến tới thống nhất về phương pháp tính toán cũng như thu thập các chỉ số với cả nước. Bên cạnh đó, chuẩn nghèo chính thức của nước ta hiện nay còn thấp so với một số nước trong khu vực và thế giới, nhiều đối tượng đã thoát nghèo song cuộc sống vẫn còn khó khăn và có nguy cơ tái nghèo cao, nhất là vùng thường xuyên xảy ra thiên tai và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do chuẩn nghèo còn thấp nên tại địa phương đặc biệt là các xã nghèo thuộc miền núi có tỷ lệ nghèo thấp, nhận thức của cán bộ và người dân về tầm quan trọng của công tác giảm nghèo bị hạn chế; công tác XĐGN chưa thực sự được coi là ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động của các cấp chính quyền. 3.2.5. Tăng cường việc lồng ghép các mục tiêu, chính sách của Chiến lược phát triển kinh tế và Chương trình XĐGN với các mục tiêu, giải pháp thực hiện kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm Việc lồng ghép các hoạt động triển khai kế hoạch 5 năm và hàng năm vừa cho phép đẩy nhanh tốc độ thực hiện các mục tiêu của Chiến lược, vừa cho phép tiết kiệm được chi phí. Đặc biệt, khi các hoạt động của Chiến lược được lồng ghép tốt với các hoạt động ngân sách, sẽ có thể đảm bảo được tính hiện thực của các chương trình, mục tiêu đề ra trong Chiến lược. Những mối quan hệ hợp tác chặt chẽ cũng sẽ góp phần củng cố và tăng cường lòng tin của các nhà tài trợ quốc tế. 3.2.6. Tăng cường sự tham gia của các nhà khoa học, các viện nghiên cứu để có những phân tích sâu và đánh giá từ nhiều góc độ hơn Tạo điều kiện cho các nhà khoa học dễ dàng tiếp cận với các nguồn số liệu thống kê, bao gồm cả số liệu tổng hợp và số liệu thô. Mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học, các viện nghiên cứu trong xây dựng và đánh giá tác động của chính sách tăng trưởng và giảm nghèo trên địa bàn tỉnh. Từ đó những phân tích sâu sắc hơn, khách quan hơn về tình hình tăng trưởng kinh tế và XĐGN của tỉnh nhằm kịp thời rút kinh nghiệm và đưa ra phương hướng, giải pháp mới đáp ứng yêu cầu thực tế. 3.2.7. Gắn chặt chẽ sự giúp đỡ của cộng đồng trong nước và quốc tế vào thực hiện các mục tiêu, chính sách nhằm tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Bên cạnh sự nỗ lực của các cấp các ngành và nhân dân tỉnh trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế- xã hội cần tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng trong nước và quốc tế đối với quá trình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu tăng trưởng và XĐGN của tỉnh. Vì vậy, các cam kết trợ giúp của các nhà tài trợ quốc tế phải gắn chặt với những điểm đề ra trong quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội tỉnh và việc triển khai các hoạt động tài trợ quốc tế phải gắn liền với việc triển khai các chương trình, dự án trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ hài hoà và đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến tài trợ. Huy động các nhà tài trợ trực tiếp cho tỉnh để tăng cường năng lực của tỉnh trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm có tính đến các yếu tố tăng trưởng và giảm nghèo. KẾT LUẬN Bên cạnh tăng trưởng kinh tế nhanh, đói nghèo hiện vẫn đang là một vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của Việt Nam. Cùng với cả nước, trong thời gian qua Phú Thọ đã đạt được những thành tựu to lớn trong tăng trưởng kinh tế hơn 9%/ năm góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm liền, đời sống nhân dân phú Thọ không ngừng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đặc biệt là các xã thuộc vùng núi, tỷ lệ hộ nghèo giảm, thu nhập người dân tăng đã giúp giảm khoảng cách giàu nghèo một cách đáng kể, góp phần xây dựng, phát triển xã hội công bằng, văn minh. Tuy nhiên, dù đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ giảm nghèo đáng ghi nhận nhưng về cơ bản Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo so với cả nước còn cao, tăng trưởng kinh tế chưa thực sụ bền vững, nhân dân nhiều nơi, nhất là các xã thuộc vùng núi đời sống còn khó khăn. Yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với lãnh đạo tỉnh trong thời gian tới là cần có chính sách, đường lối hợp lý nhằm khuyến khích, thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà ngày một ổn định, công cuộc xóa đói giảm nghèo hiệu quả ngày một cao. Chỉ có tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo mới có thể xây dựng được một Phú Thọ giàu đẹp, xứng danh với “Đất tổ hùng Vương”. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách: 1/ Giáo trình kinh tế phát triển 2/ Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua. GS-TS. Nguyễn Văn Thường 3/ Chiến lược về tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo 4/ Việt Nam. Tăng trưởng và giảm nghèo. Báo cáo thường niên 2004-2005. Tổ công tác liên ngành CPRGS 5/ Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2020. UBND tỉnh Phú Thọ. 6/ Tăng trưởng kinh tế công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. GS-TS. Vũ Thị Ngọc Phùng. 7/ Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay. Nguyễn Thị Hằng. 8/ Tăng trưởng với các nước đang phát triển_ Vấn đề và giải pháp. Viện thông tin KHXH. Trang web: 1/ Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn 2/ Cổng giao tiếp điện tử Phú Thọ: www.phutho.gov.vn 3/ Cổng thông tin điện tử, khoa học công nghệ: www.vista.gov.vn 4/ Liên hợp quốc tại Việt Nam: www.undp.org.vn 5/ Ngân hàng thế giới tại Việt Nam: www.worldbanhk.org.vn 6/ Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn 7/ Trung tâm Phát triển Việt Nam: www.vdic.org.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28558.doc