Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố của tăng trưởng. Đánh giá vai trò của các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Tài liệu Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố của tăng trưởng. Đánh giá vai trò của các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: ... Ebook Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố của tăng trưởng. Đánh giá vai trò của các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 7633 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố của tăng trưởng. Đánh giá vai trò của các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ những năm đầu 90, kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu của quá trình đổi mới Việt Nam đã thu được những thành công về kinh tế đáng kể đó là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Thương mại chiếm tới 51% của GDP. Tháng 4 năm 2001 Đại hội Đảng lần thứ 9 đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2010. Trên cơ sở chiến lược này mục đích đưa ra đến những năm cuối của giai đoạn 2001 – 2010 sự tăng trưởng kinh tế phải tăng lên gấp đôi điều đó có nghĩa là đến năm 2005 mức tăng trưởng kinh tế hàng năm phải tăng 7% và từ năm 2006 – 2010 mức tăng trưởng kinh tế hàng năm phải là 7,5%. Năm 2007Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng là 8, 48% cao hơn tốc độ của các năm trước, đã khá sát với mục tiêu Quốc hội đề ra (8,5%) và thuộc loại cao đối với các nước trong khu vực ở Chấu Á và trên thế giới. Để thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng đề ra thì các nhân tố của tăng trưởng kinh tế: nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế đóng một vai trò quan trọng, cần phải được ưu tiên phát triển. Với sự giúp đỡ của thầy Phạm Ngọc Linh chúng tôi đã hoàn thành xong đề tài: “Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố của tăng trưởng. Đánh giá vai trò của các nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua”. A.Lý luận: I.Khái niệm về tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống hoàn thiện hơn. Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả những khái niệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề kinh tế, song nó mang tính chính trị, sâu sắc. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mối gia đình của mỗi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Trong phân tích kinh tế, để phán ánh mức độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được dùng. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc thời kỳ gốc. Tăng trưởng kinh tế được xem dưới góc độ số lượng và chất lượng. Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập bình quân trên đầu người, các chi tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập đựơc quyền chi (GDI)…Trong đó chi tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất. Như vậy bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo điều nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý. II. Các nhân tố ảnh hưởng: Có nhiều nhân tố khác nhau liên quan đến quá trình tăng trưởng kinh tế, có thể phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động khác nhau là: nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế. 1-Nhân tố kinh tế. Đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến các biến số đầu vào và đầu ra của nền kinh tế. Xuất phát của nghiên cứu được bắt đầu bằng hàm sản xuất tổng quát: Y=F(Xi) Trong đó: Y là giá trị đầu ra (phụ thuộc vào tổng cầu của nền kinh tế) Xi là giá trị các biến số đầu vào (liên quan trực tiếp đến tổng cung). Từ đó ta xét cụ thể hai nhóm nhân tố tác động: 1.1-Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung. Nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu, đó là: Vốn (K) Lao động (L) Tài nguyên, đất đai (R) Công nghệ kỹ thuật (T) Vốn (K). Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Đứng trên góc độ vĩ mô, vốn sản xuất có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá trị), nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của nền kinh tế và bao gồm: Vốn cố định (nhà máy, công xưởng, trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng) và vốn lưu động (tồn kho của tất cả các loại hàng hóa). Mặt khác, để duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất phải có một khoản chi phí gọi là vốn đầu tư sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Ở các nước đang phát triển, sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất, đó là sự thể hiện của tính tăng trưởng theo chiều rộng. Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trính sản xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đâu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. 1.1.2- Lao động (L). Lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu được trong các hoạt động kinh tế Lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu được trong các hoạt động kinh tế. Trước đây chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động cả mỗi quốc gia (tính bằng đầu người hay thời gian lao động). Tuy nhiên các mô hình tăng trưởng hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động, gọi là vốn nhân lực. Đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc nâng cao vốn nhân lực sẽ làm cho việc tổ chức lao động, việc ứng dụng công nghệ có hiệu quả, làm cho năng suất lao động tăng và từ đó là tăng hiệu quả sản xuất. Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. 1.1.3- Tài nguyên, đất đai (R). Tài nguyên, đất đai là một yếu tố sản xuất cổ điển. Đất đai là yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế. Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố tài nguyên đất đai với tư cách là một biến số của hàm tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng đất đai là yếu tố cố định còn tài nguyên thì có xu hướng giảm dần trong quá trình khai thác, chúng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). 1.1.4- Công nghệ kỹ thuật (T). Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: - Thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật. - Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Như đã nói ở trên, các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố tài nguyên, đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế. Yếu tố tài nguyên, đất đai có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). Vì vậy, 3 yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh là vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP- Total Factor Productivity). Trong đó, vốn và lao động được xem như là các yếu tố vật chất có thể lượng hoá được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng còn TFP (thể hiện hiệu quả của yếu tố công nghệ kỹ thuật hay cách đánh giá tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đến tăng trưởng kinh tế được xác định bằng phần dư còn lại của tăng trưởng sau khi đã loại trừ tác động của các yếu tố vốn và lao động). TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. 1.2-Các nhân tố tác động đến tổng cầu. Các yếu tố: khả năng chi tiêu, sức mua và năng lực thanh toán (tổng cầu AD) là các yế tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế. Kinh tế học vĩ mô đã cho trấy có 4 yếu tố trực tiếp cấu thành tổng cầu, bao gồm: -Chi cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chi thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi cho tiêu dùng cá nhân sẽ tác động đến tổng cầu AD và từ đó tác động đến sản lượng của nền kinh tế. Chi cho tiêu dùng cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập khả dụng (DI) và xu hướng tiêu dùng biên (MPC). -Chi tiêu của Chính phủ (G): Bao gồm các khoản mục chi mua hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ. Trong một nền kinh tế, chi tiêu của chính phủ vừa tạo ra hiệu ứng thu nhập vừa tạo ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, do vậy, tuỳ vào nền kinh tế là đóng, mở cửa với tỷ giá cố định hay tỷ giá thả nổi mà tác động của G vào sản lượng của nền kinh tế là khác nhau. Nguồn chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách (chủ yếu là các khoản thu từ thuế và lệ phí). -Chi cho đầu tư (I): Là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Các khoản đầu tư này sẽ là tiêu dùng của các nhà đầu tư, sau đó lại trở thành tư bản K và có tác động trực tiếp đến sản lượng của nền kinh tế. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là đầu tư bù đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỹ khấu hao còn đầu tư thuần tuý được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước, các hộ gia đình và doanh nghiệp. -Chi qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX=X-M): Thực tế, giá trị hàng hoá xuất khẩu là các khoản phải chi cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nươc nhưng lại không phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố yếu tố nguồn lực trong nước. Vì vậy, chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế. Như chúng ta đã biết, tăng trưởng có thể được đo bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP=C+I+G+NX. Do đó, sự thay đổi của một trong 4 nhân tố cũng đều có thể làm cho GDP thay đổi, sự thay đổi đó thể hiện sự biến động trong tăng trưởng kinh tế. Dưới tác động của thị trường các yếu tố của tổng cầu thường xuyên biến đổi, nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ gây ra lãng phí rất lớn các yếu tố nguồn lực của quốc gia đã có nhưng chưa được huy động và làm hạn chế mức tăng trưởng thu nhập. Ngược lại, nếu mức tổng cầu quá cao sẽ làm cho mức thu nhập của nền kinh tế tăng nhưng giá cả các yếu tố nguồn lực trở nên đắt đỏ, đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên. Căn cứ vào tính chất tác động này mà Chính phủ có các chính sách điều tiết tổng cầu sao cho bảo đảm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng tương ứng với yêu cầu ổn định giá. 2.Các nhân tố phi kinh tế Các nhân tố phi kinh tế có ảnh hưởng gián tiếp và không thể lượng hoá được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng rẽ mà mang tính chất tổng hợp, đan xen, tất cả lồng vào nhau, tạo nên tính chất đồng thuận hay không đồng thuận trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà người ta không thể phân biệt và đánh giá phạm vi, mức độ tác động của từng nhân tố đến nền kinh tế. Có rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, như: Thể chế chính trị - xã hội, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo trong xã hội, các đặc điểm tự nhiên khí hậu, địa vị của các thành viên trong cộng đồng, và khả năng tham gia của họ vào quản lý phát triển đất nước.Các nhân tố quan trọng nhất bao gồm: 2.1. Đặc điểm văn hoá - xã hội: Đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát triển của đất nước. Nhân tố văn hoá xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông đến các tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, văn học , lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong tục tập quán…Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, của kỹ thuật của trình độ quản lý kinh tế - xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển. Vì thế trình độ phát triển cao của văn hoá là mục tiêu phấn đấu của sự phát triển. Mặc dù trên thực tế có sự khác biệt phấn đấu của sự phát triển. trong mỗi khía cạnh của nội dung văn hoá giữa các dân tộc, song điều đó không có trở ngại cho sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia và thường tìm được sự hoà hợp. Để tạo dựng quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững thì đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hoá phải được coi là những đầu tư cần thiết và đi trước một bước so với đầu tư sản xuất. 2.2.Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội Các nhân tố này tác động đến quá trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư. Thể chế được biểu hiện như một lực lượng đại diện cho ý chí của cộng đồng nhằm điều chỉnh các mới quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi ích của cộng đồng đătj ra. Thể chế được thể hiện thông qua các dự kiến mục tiêu phát triển, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế xã hội, hệ thống luật pháp, các chế độ chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện. Một thể chế chính trị - xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp sẽ gây ra cản trở, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra những xung đột chính trị, xã hội. Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại mang trong mình những đặc trưng: Có tính năng động, nhạy cảm và mềm dẻo, luôn thích nghi được với những biến đổi phức tạp do tình hình trong nước và quốc tế xảy ra; Bảo đảm sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra trong quá trình phát triển; Tạo điều kiện cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới; Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lý, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; Tạo được sự kích thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất trong nứơc hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Tuy vậy cũng cần lưu ý rằng, dù quan trọng đến đâu chăng nữa , yếu tố thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tức là tạo các điều kiện thuận lợi để hướng các hoạt động theo mục tiêu có lợi và hạn chế các bất lợi. Sẽ là sai lầm nếu dùng thể chế làm thay cho tất cả và tạo ra tất cả theo ý muốn. 2.3.Cơ cấu dân tộc Trong cộng đồng quốc gia, có các tộc người khác nhau cùng sống, các tộc người có thể khác nhau về chủng tộc (sắc tộc, bộ tộc), khác nhau về khu vực sinh sống ( miền núi, đồng bằng, trung du) và với quy mô khác nhau so với tổng dân số quốc gia (thiểu số, đa số..). Do có những điều kiện sông khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất, về mức sống vật chất, về vị trí địa lý và địa vị chính trị - xã hội trong cộng đồng. Sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này, nhưng bất lợi cho những dân tộc kia. Đó chính là những nguyên nhân nảy sinh xung đột giữa các dân tộc ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc,nhưng lại bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục được xung đột và mẩt ổn định chung của cộng đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển. 2.4.Cơ cấu tôn giáo. Vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người đều theo một tôn giao. Trong một quốc gia có nhiều tôn giáo. Các dân tộc ít người ít tiếp xúc với thế giới hiện đại thường tôn thờ các thần linh tuỳ theo quan niệm .Mỗi tôn giáo còn chia ra làm nhiều giáo phái.Ngoài ra còn có nhiều đạo giáo riêng mà chỉ có một số dân tộc tôn thờ. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triếy lí tư tưởng riêng, bám sâu vào cuộc sống của dân tộc. Những ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự phát triển kinh tế xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ của xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể là sự hoà hợp , nếu có chính sách đúng đắn của Chính phủ. 2.5. Sự tham gia của cộng đồng Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân chủ của cộng đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại, về phía mình sự tham gia của cộng đồng là nhân tố bảo đảm tính chất bền vững và tính động lực nội tại cho phát triển kinh tế, xã hội. Các nhóm cộng đồng dân cư tham gia trong việc xác định các mục tiêu của chương trình, dự án phát triển quốc gia, nhất là mục tiêu phát triển các địa phương của họ, tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát các hoạt động phát triển tại cộng đồng và tự quản lý các thành quả của quá trình phát triển. Đó chính là yếu tố cần thiết cho một xã hội phát triển nhằm tạo dựng sự nhất trí cao, tính hiệu quả và sự thích ứng, ổn định trong thực hiện mục tiêu phát triển, đồng thời khích lệ được tiềm năng của mọi cá nhân và cả cộng đồng vào trong quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu hiện tượng tham nhũng trong xã hội. Tuy vậy, để sự tham gia của cộng đồng thực sự có hiệu quảvà tránh những hệ quả không tích cực của yếu tố này , cần thiết phải có cơ chế xác định mức độ tham gia của dân cửtong các hoạt động phát triển như quy định những việc dân cần biết, dân cần được bàn, được trực tiếp quyết định và được kiểm tra. Cơ chế tham gia trên phải gắn với hình thức tổ chức sự tham gia cụ thể như: công đoàn các hiệp hội trên địa bàn dân cư, hiệp hội ngành nghề trong các tồ chức kinh doanh, các hội đồng trong đó có sự góp mặt của thành phần dân cư. B.Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam I. Những thành tựu. Theo công bố của tổng cục thống kê,năm qua ca nước đã sản xuất và cung ứng một khối lượng hàng hóa,dịch vụ giá trị :1143442 tỷ đồng,tương đương 71,4 tỷ USD. Nếu tính theo giá trị so sánh của năm 1994(kỳ gốc để tính số liệu),GDP ước tính đạt 461189 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước(GDP) năm 2007 đạt 8,48%. Chúng ta thấy gì từ những con số này? Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế năm 2007 cao hơn tốc độ của các năm trước,đã khá sát với mục tiêu Quốc hội đề ra (8,5%) và thuộc loại cao đối với các nước trong khu vực,ơ Châu Á và trên thế giới.Theo đánh giá của ngân hàng phát triển Châu Á-ADB, Việt Nam có tốc đọ tăng trưởng cao thứ 2 so với các nước trong khu vực,sau Trung Quốc(11,2%);vượt qua cả Singapore(7,5%). Việc tăng trưởng cao(>8%) này có ý nghĩa rất lớn,tạo tiền đề để có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng 7,5%- 8%/năm của kế hoạch 5 năm (2006-2010). Thứ hai: nhờ tăng trưởng kinh tế cao,tốc độ tăng dân số có chiều hướng giảm, nên GDP bình quân đầu người đã đạt 820 USD / người. Đây là dấu hiệu để nước ta vượt qua ranh giới của một nước đang phát triển có thu nhập thấp. Nhờ kinh tế tăng trưởng,lượng lao động được thu hút nhiều,thất nghiệp giảm,tỷ lệ nghèo giảm nhanh. Đến nay,có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của nhà nước,góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18%(2006) xuống còn 14,7% năm 2007. Thứ ba: Tăng trưởng kinh tế đạt ở cả 3 nhóm ngành: nông-lâm nghiệp-thủy sản;công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Trong đó dịch vụ được xem là điểm sáng nhất. Nếu như năm ngoái khu vực này tăng trưởng với mức 8,29% thì năm nay đạt 8,68%. Cơ cấu đóng góp trong GDP củng nâng từ mức 38,08% năm 2006 lên 38,14% trong năm 2007. Tỷ trọng đóng góp của CN-XD trong GDP cũng cải thiện hơn năm 2006 chiếm 41,61%(2006:41,52%) .tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 10,6%. Mức tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh,song không sa sút so với năm 2006. tốc đọ tăng trưởng 3,41% .tuy nhiên tỷ trọng đọng góp GDP giảm từ 20,4%(2006) xuống 20,25%(2007). II. Nhân tố tác động đến sự tăng trưởng 1. Nhân tố kinh tế 1.1. Các nhân tố tác động đến tổng cung 1.1.1. Vốn Trong những năm gần đây,vốn được xem là nhân tố đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng kinh tế VN . Nói một cách khác, những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước phần nhiều xuất phát từ khả năng huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước. Trong những năm qua,môi trường đầu tư ở nước ta đã được cải thiện tích cực.Hệ thống cơ chế,chính sách,pháp luật về tài chính đã từng bước được đổi mới theo hướng tạo cở sở sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước cũng đã huy động các nguồn lực, tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, góp phần giảm bớt các yếu tố chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho các doanh nghiệp. Nhờ đó môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh ở nước ta đã cởi mở, thông thoáng, minh bạch và có tính cạnh tranh cao. Điều đó thể hiện tỷ trọng vốn dành cho đầu tư phát triển ngành càng tăng. Theo thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước và tăng 15,8% so với năm 2006. a)Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Trước thời kỳ đổi mới nguồn thu của ngân sách nhà nước ta từ thuế, phí, lệ phí và toàn bộ số thu khác trong nước cộng lại, thường không đảm bảo đủ chi thường xuyên chứ chưa nói gì tới chi đầu tư phát triển . Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, cải cách hệ thống thu ngân sách nhà nước dẫn đến những thay đổi tích cực:ngân sách hằng năm đều tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế với nguồn thu luôn được đảm bảo dù thu nhập từ thuế nhập khẩu giảm theo tiến trình hội nhập quốc tế, tốc độ năm 2004 tăng 17,5%; 2005 tăng lên 38% b)Vốn đầu tư của khu vực tư nhân Bên cạnh sự đầu tư từ ngân sách nhà nước thì vốn đầu tư của khu vực tư nhân cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế. Việc ban hành luật doanh nghiệp mới đầy đủ và hoàn thiện hơn cho khu vực kinh tế tư nhân vào tháng 6/1999 có hiệu lực 1/1/2000 đã tạo ra bước đột phá trong công cuộc cải cách kinh tế Việt Nam.Đặc biệt vào cuối năm 2005,Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư,kinh doanh,trong đó có luật đầu tư(chung) và luật đoanh nghiệp (thống nhất). triển vọng tương đối lạc quan về sự phát triển kinh tế của VN cùng với thực hiện các cam kết song phương và đa phương trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nên sức hút mạnh mẽ cho đầu tư của khu vực tư nhân. c)vốn đầu tư thông qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng thơi gian qua,các ngân hàng thương mại VN đã có những bước phát triển vượt bậc về số lượng,quy mô,thực hiện tốt nhiệm vụ trung tâm thanh toán và dẫn vốn trong nền kinh tế,đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới kinh tế,góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001-2005,vốn đầu tư thông qua kênh trung gian tài chính(hệ thống ngân hàng) vào nền kinh tế chiếm trung bình từ 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bình quân tăng trưởng huy động vốn giai đoạn 2001-2005 đạt khá cao,từ 20-25% hàng năm. d)vốn nước ngoài Viêc gia nhậpTổ chứcThương mại thế giới (WTO) của nước ta, ngoài nhiều mục tiêu khác, thì việc thu hút các nguồn vốn đâù tư nước ngoài là một trong những mục tiêu quan trọng. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã nhận ra việc tăng tốc đầu tư vào Việt Nam là “trông giỏ bỏ thóc”. Sự tăng tốc đầu tư nước ngoài vào VN được thể hiện ở cả ba nguồn, bao gồm nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn hỗ trợ phát triễn chính thức và nguồn vốn đầu tư gián tiếp. +vốn đầu tư trực tiếp-FDI Ngay từ khi chỉ mới nghe tin VN chuẩn bị gia nhập WTO đã có dấu hiệu khởi sắc,năm 2006 đã đạt kỷ lục cả về lượng vốn đăng ký(10,2 tỉ USD),cả về lượng vốn thực hiện(4,1 tỉ USD) Với chỉ 2 tháng đầu năm 2007,đă có nhiều dự án lớn được đề xuất.Như dự án xây dựng khách sạn, trung tâm hội nghị, văn phòng ,căn hộ cao cấp tại Hà Nội của tập đoàn Gamuda(Malaysia) với số vốn 1 tỉ USD; dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện công suất 2.640 MW và 2 cảng trung chuyển container quóc tế Vân Phong (Khánh Hòa) CỦA Tập đoàn Foxcon (Đài loan) dự kiến đầu tư 5 tỉ USD xây dựng thành phố công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp tại Bắc Ninh-Bắc Giang ; Tập đoàn Rivier( Đài Loan) dự định đầu tư khách sạn 5 sao với trên 500 triệu USD ở Hà Nội ; tại Vĩnh Phúc, Tập đoàn Compell (Đoàn Loan) dự định đầu tư 500 triệu USD cho dự án sản xuất điện tử và một số nhà đầu tư Hàn Quốc đề nghị đâu tư 500 triệu USD xây dựng trường đua ngựa… Tăng tốc vốn đăng ký là quan trọng , nhưng tăng tốc vôn s thực hiện còn quan trọng hơn, bởi vì đây mới là lượng vốn thực tế đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Sản xuất kinh doanh của khu vưc FDI trong 2 tháng đầu năm 2007 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Chưa kể dầu khí ,khu vực này đạt doanh thu khoảng gần 4 ti USD , tăng 25% so vơi cùng kỳ ; xuất khẩu đạt trên 2,7 tỉ USD ,tăng 41,1%;giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của toàn ngành công nghiệp(25,5% so với 17,5%)… +Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức-ODA Cuối năm 2006 , các nhà tài trợ đã cam kết cho Việt Nam đạt cao nhất tư trước đến nay (4,45 ti USD).Cơ sở hạ tầng là linhw vực thu hút viện trợ ODA lớn nhất. Những thành tích sử dụng viện trợ cho xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững của VN trong những năm qua là tín hiệu cho thấy VN đang sử dụng có hiệu quả ODA . Các dự án phát riển nộng thôn và cơ sở hạ tầng hàng năm đã giúp cải thiện đời sống địa phương và nâng cao tiềm lực sản xuất của địa phương,góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. +Vốn đầu tư gián tiếp Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nươc ngoài những năm trước kia không đáng kể , tử nửa cuối năm 2006 đã chảy vào VN khá mạnh (lên đến 3 tỉ USD) góp phần làm cho thị trường chứng khoán “phi mã”. Đầu năm nay, lượng vốn thuộc nguồn vốn này còn tăng mạng hơn,ước tính đến nay đã lên đến trên 4 tỉ USD ,chiếm gần 1/3 tổng giá trị vốn hóa thị trường (khoảng 14 tỉ USD,bằng 23% GDP).Tới đay , khi có nhiều công ty đại gia được cổ phần hóa và niêm yết lên sàn,số vốn này sẽ tiếp tục chảy vào. Bên cạnh những nguồn vốn nêu trên,còn có 1 nguồn không kém phần quan trọng đó là nguồn kiều hối. Nhiều hội thảo doanh nhân Việt Kiều ,các buổi họp mặt của các hội người VN ở nước ngoài đã góp phần của Việt Kiều với quê hương đất nước. Cộng đồng người Việt có cống hiến cho đất nước đang được dành nhiều ưu đãi và được khuyến khích mở rộng kinh doanh tại VN.Đó là định hướng nhất quán và đang được triển khai thực hiện từ trung ương đến địa phương. Việt Nam có những hạn chế trong trong việc huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế. Việc cải thiện môi trường đầu tư chưa đạt được kết quả như chúng ta mong muốn. Nhiều câu hỏi đặt ra vẫn chưa tìm được câu trả lời xác đáng : Tại sao môi trường đầu tư đã được cải thiện mà nguồn vốn tiềm ẩn trong dân cư và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn chưa huy động nhiều cho đầu tư? Tại sao vốn FDI vẫn không vào nhiều so với các nước khác trong khu vực? Điều đó phải chăng do môi trường đầu tư ở nước ta vẫn chưa thực sự hấp dẫn hoặc là cơ chế chính sách còn bất cập. Vì vậy chúng ta cần phải cố gắng hơn trong việc cải thiện môi trường này. 1.1.2. Lao động Việt Nam với một nguồn lao động dồi dào, một đội ngũ dân số vào loại trẻ: đã đóng góp một phần quan trọng tới sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế thế giới cho rằng: dân số Việt Nam có “cơ cấu vàng” nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế của đất nước. Theo kết quả điều tra về “thực trạng lao động- việc làm” của bộ lao động thương binh xã hội thì năm 2007, lực lượng lao động cả nước là 46,61 triệu người (chiếm 54,8% dân số cả nước) tăng 2,27% so với năm 2006. Trong đó lao động trẻ từ 15-30 tuổi chiếm gần 50% tổng lực lượng lao động cả nước. Tỷ lệ lao động trẻ cao so với nhiều nước trong khu vực là một lợi thế của lao động Việt Nam. Bên cạnh những ưu thế về thể chất, lao động trẻ thường là đội ngũ có học thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, tiếp thu nhanh kỹ thuật và công nghệ mới. Mặt khác nhờ chính sách quan tâm đến tăng giáo dục của nhà nước nên lao động Việt Nam có trình độ học vấn tương đối cao. Nhiều nghiên cứu định lượng trong thời gian từ 1995-2006 cho thấy lao động đã đóng góp trên 29,2% v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30516.doc
Tài liệu liên quan