lời mở đầu
Vấn đề vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là một chủ đề đã được đề cập đến khá nhiều và cũng đã có rất nhiều ý kiến quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, không thể áp đặt một nguyên tắc chung nào cho các quốc gia với những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội khác biệt.
Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), Việt Nam được xếp là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp kém nhất trên thế giới, đó là một nền kinh tế què quặt, lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ và kinh tế nông nghiệp là c
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ yếu. Nhưng ở thời kỳ này, với sự xuất hiện của các nhà tư bản Pháp, các công ty Pháp, cùng với sự giao lưu hàng hoá giữa nước Việt Nam thuộc địa với các nước khác trên thế giới thì nền kinh tế Việt Nam cũng đã được coi là một nền kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai.
Cách mạng Tháng Tám (8/1945) thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, nhưng không giống các quốc gia khác chúng ta không có điều kiện để khôi phục và xây dựng kinh tế mà gần như ngay lập tức lại phải chịu đựng cảnh chiến tranh loạn lạc. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) nền kinh tế không thể phát triển một cách toàn diện, mà đó chỉ là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, lấy sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp là chính với mục đích trước tiên là phục vụ kháng chiến. Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết, những tưởng được sống trong hoà bình để phát triển kinh tế, nhưng không chúng ta lại phải trải qua một cuộc chiến tranh dài 20 năm (1955- 1975), đất nước bị chia cắt làm hai miền Bắc, Nam với hai chế độ chính trị, hai mô hình kinh tế khác nhau. Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa với mô hình kinh tế quản lý tập trung bao cấp giống các nước xã hội chủ nghĩa khác, miền Nam đi theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy trong điều kiện bị chi phối bởi qui luật của chiến tranh hai mô hình này cũng không mang đầy đủ đặc trưng và ý nghĩa của nó. ở miền Bắc không thể tập trung toàn bộ sức lực cho phát triển kinh tế mà lại phải chi viện lớn về người và của cho miền Nam, hơn nữa miền Bắc cũng phải chịu sự tấn công bằng hải quân và không quân Mỹ, trong điều kiện khó khăn đó quá trình thực hiện mục tiêu kinh tế không được hoàn hảo. Còn ở miền Nam cũng chưa thực sự là một nền kinh tế thị trường phát triển vì sức sản xuất trong nước còn rất yếu, thực chất miền Nam chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hoá của Mỹ và các nước tư bản khác.
Sau chiến thắng 1975 nước nhà thống nhất. Cả nước bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất trên toàn quốc. Cũng chính trong thời kỳ này mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bắt đầu bộc lộ khiếm khuyết của nó không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy rằng mô hình này có thể tập trung được sức người, sức của cho mục đích phát triển trong một giai đoạn nhất định nhưng vì nó không đề cao tới lợi ích cá nhân cho nên sau một thời kỳ dài phát triển điều này đã làm triệt tiêu động lực của mỗi cá nhân, tính ích kỷ của mỗi cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Hơn nữa, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ những qui luật của kinh tế như qui luật cung cầu, qui luật giá trị, qui luật phân phối bị biến dạng đi, nền kinh tế hàng hoá chỉ tồn tại trên danh nghĩa, lưu thông hàng hoá bị đình trệ. Chính vì những lý do này mà sau giai đoạn phát triển rực rỡ (những năm 60 của thế kỷ 20) thì tới những năm cuối của thập kỷ 70 ở những nước xã hội chủ nghĩa đã có những dấu hiệu chững lại và đồng thời những tư tưởng về cải cách bắt đầu xuất hiện. Quốc gia tiên phong trong vấn đề cải cách là Trung Quốc. Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận biết được xu hướng phát triển này và những tư tưởng về cải cách kinh tế đã được đề cấp tới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) và được chính thức quyết định đưa vào thực tiễn tại đại hội VI (12/1986), trong các kỳ đại hội VII, VIII tiếp theo vấn đề cải cách tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện.
Chúng ta khẳng định rằng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một tất yếu, nhưng sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế ở mức độ nào, thông qua những công cụ gì là một vấn đề không dễ quyết định. Trong lịch sử nhân loại có những thời kỳ Nhà nước hầu như không can thiệp vào nền kinh tế - thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, hoặc can thiệp rất sâu vào nền kinh tế như trong mô hình kinh tế tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa hay ở các nước tư bản chủ nghĩa sau khủng hoảng 1929 - 1933 theo lý thuyết Keynes nhưng những thành công do chúng mang lại chỉ mang tính lịch sử, nó không là một mô hình vĩnh viễn và hoàn hảo cho sự phát triển bền vững. Và tới nay các nhà kinh tế thống nhất với nhau rằng cần thiết có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế trong một cơ chế thị trường đầy năng động.
Nền kinh tế luôn vận động và phát triển trong mỗi thời kỳ nó lại có một số đặc trưng đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ phù hợp, chính vì vậy khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế mới thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là thiết yếu và việc nghiên cứu nó là vấn đề lâu dài đòi hỏi phải có quan điểm đứng đắn, lập trường vững vàng.
Trong giới hạn về kiến thức, đề án của em chỉ dừng lại ở việc tham khảo ý kiến từ một số bài viết và công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề “Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nói chung và thực tế Việt Nam nói riêng. Bài viết này được hoàn thành trước hết nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo. Em kính mong thầy cô cho em những ý kiến nhận xét để em hoàn chỉnh thêm việc nghiên cứu và có được những suy luận đúng đắn và logic.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường - Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I. Các quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà nước trong lịch sử:
Trong lịch sử xã hội loài người đã có một thời kỳ không có Nhà nước và pháp luật. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất, con người cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thành quả lao động chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không có kẻ giàu người nghèo, không phân chia thành giai cấp, không có đấu tranh giai cấp. Cơ sở kinh tế đó đã làm xuất hiện hình thức tổ chức xã hội là thị tộc. Nhiều thị tộc hợp lại thành bộ lạc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm thay đổi tổ chức xã hội thị tộc. Sau ba lần phân công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo, hình thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ... Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng dập tắt cuộc xung đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà nước. Như vậy Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, không phải là một lực lượng từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là "một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đang ở trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng bất tử" Mác - Ăng ghen: Tuyển tập VI, NXB sự thật 1984
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đi đến kết luận rằng "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Trong các xã hội bóc lột, Nhà nước (Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản) đều có bản chất chung là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột - giai cấp thiểu số trong xã hội. Ngược lại, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - lực lượng chiếm đa số trong xã hội để trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối cách mạng. Mặt khác, trong điều kiện của xã hội có nhiều giai cấp, Nhà nước không chỉ là người bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn phải quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội. Bên cạnh tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước thì tính xã hội cũng là một đặc trưng của Nhà nước.
Từ lý luận về Nhà nước ta đã thấy Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị dùng để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Khi đề cập tới chức năng của Nhà nước các nhà nghiên cứu thống nhất rằng Nhà nước có hai chức năng chính là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
- Chức năng đối nội bao gồm hai bộ phận chính là chức năng kinh tế và chức năng giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự chống đối của các giai cấp khác và các âm mưu phản động. Trong hai chức năng này thì chức năng kinh tế được đưa lên hàng đầu vì nó là cơ sở để Nhà nước có thể tồn tại và phát triển.
- Chức năng đối ngoại của Nhà nước cũng bao gồm hai chức năng chính là chức năng bảo vệ tổ quốc và chức năng củng cố mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước khác. Trong điều kiện ngày nay chức năng đối ngoại có vị trí đặc biệt quan trọng.
Sự suy tàn của Nhà nước phong kiến ở phương Tây (thế kỷ XV) gắn liền với sự hình thành Nhà nước tư sản, quá trình tích luỹ tư bản được bắt đầu thực hiện - nền kinh tế thị trường cũng bắt đầu được hình thành. Trong thời kỳ này để cho nền kinh tế phát triển nhanh giai cấp tư sản cần phải có sự trợ giúp của "bà đỡ" tức cần có sự can thiệp của Nhà nước. Vai trò quản lý của Nhà nước được xác lập và nâng cao, thể hiện ngay trong tư tưởng kinh tế của phái trọng thương. Cụ thể Nhà nước dùng chính sách tiền tệ nghiêm ngặt, tìm mọi cách để tích luỹ tiền tệ (tiền vàng), không cho tiền tệ chảy ra nước ngoài, có những qui định nghiêm ngặt đối với các thương gia. Trong chính sách ngoại thương họ đẩy mạnh xuất khẩu thành phẩm, không xuất khẩu sản phẩm dở dang, nguyên liệu thô, trợ giá giúp đỡ cho xuất khẩu trong khi đó lại dùng hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu. Cũng nhờ những chính sách này của Nhà nước mà trong giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ Nhà nước tư sản đã tích luỹ được một lượng của cải rất lớn.
Xã hội phát triển lên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất mới thì kiểu “mua rẻ bán đắt”, nền kinh tế quá chú trọng vào thương nghiệp không còn phù hợp nữa. Một quốc gia muốn phát triển thì phải tăng cường sức sản xuất trong nước thông qua tăng năng suất lao động, nền kinh tế cần một môi trường tự do hơn để các nhà sản xuất có thể phát huy hết tiềm lực của mình. Thời kỳ này đã dâng lên một làn sóng ủng hộ tự do cạnh tranh mà tiêu biểu nhất là nhà kinh tế học cổ điển Anh - Adam Smith (1723 - 1790) với học thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế. Ông cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của nền kinh tế là do các qui luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động trên thị trường là do quan hệ cung - cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định, quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Con người hoạt động chỉ nhằm lợi nhuận siêu ngạch. Song do "bàn tay vô hình" chi phối buộc người ta phải tuân theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Để cho nền kinh tế hoạt động đạt hiệu quả Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường và hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào những vấn đề, những mặt cần tiềm lực lớn mà sức một doanh nghiệp không thể với tới như xây dựng đường xá, cầu cống, bến cảng... (các công trình công cộng). Sự thực trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, nền kinh tế đã vận hành một cách năng động và đạt hiệu quả cao. Sự phát triển tự do cạnh tranh đến một mức độ nào đó dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền làm giảm hiệu quả kinh tế, dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh và một vấn đề mà các nhà kinh tế học cổ điển không nghĩ tới đó là khủng hoảng kinh tế. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng theo chu kỳ với khoảng cách ngày càng rút ngắn mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 (khủng hoảng sản xuất “thừa”). Điều đó chứng tỏ rằng thuyết "bàn tay vô hình" tỏ ra kém hiệu nghiệm và không còn phù hợp nữa. Thực tiễn đòi hỏi phải có một lý thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới dể điều chỉnh đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng. Và vào thời điểm này John Meynard Keynes (1884 - 1946) đã đưa ra lý thuyết Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường "bàn tay hữu hình". Theo lý thuyết Keynes Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm pháp, thuế, bảo hiểm , trợ cấp đầu tư phát triển, khuyến khích tiêu dùng cá nhân... ở tầm vĩ mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Để đẩy mạnh sản xuất đảm bảo cân đối cung cầu thì cần phải nâng cầu tiêu dùng, kích thích “cầu có hiệu quả”. J.M Keynes và những người ủng hộ lý thuyết của ông tin tưởng rằng sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục được tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp tạo ra sự ổn định lâu dài cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng thực tế những chấn động trong kinh tế xã hội vẫn diễn ra, thất nghiệp, lạm pháp, khủng hoảng không được cải thiện. Điều này đã làm tăng thêm làn sóng phản đối Keynes và xuất hiện tư tưởng mới: cần phối hợp "bàn tay vô hình" với "bàn tay hữu hình"để điều chỉnh kinh tế. Đó là quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại P.Samuelson với lý thuyết “kinh tế hỗn hợp” cho rằng để phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng, “điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì Nhà nước không phải là cái gì đó đứng ngoài nền kinh tế mà nó cũng là một trong những chủ thể của nền kinh tế.
Từ sau năm 1917, cùng với sự ra đời của Liên bang Xô Viết và sau đó là hệ thống XHCN từ sau năm 1945 là sự xuất hiện của nền kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và hàng loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Kết quả thì các nước này vẫn phải chuyển sang cơ chế thị trường và phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước sau một thời gian dài phát triển rồi suy thoái, khủng hoảng nặng nề. Đối với nước ta, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam nên sự quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường là theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hôị: thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của thiên nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Chuyển từ kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được thay đổi : từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến Chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển.
Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà bao hàm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện như sau:
Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động. Sự xuất hiện hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và làm chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được bước tiến bộ trong lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội – không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối của lợi ích kinh tế và chi phí cơ hội, người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất.
Hai là, phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận. Lí luận của trường phái trọng thương đã phản ánh rõ điều kiện tiền đề này.
Ba là, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ cho nên nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát triển, đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh.
Bốn là, sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá và tiền tệ thuận lợi, dễ dàng, tăng phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi.
Năm là, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta đây là điều kiện có tính then chốt để hình thành và hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời, Nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường bên cạnh những đặc điểm riêng phù hợp với tình hình cá biệt của mỗi quốc gia thì đều mang những nét chung nhất, những đặc điểm mang tính chất phổ biến. Các đặc điểm này xuất phát chủ yếu từ việc xoay quanh mối quan hệ giữa người sản xuất - thị trường - và người mua. Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh là một tất yếu do đó cũng sẽ dẫn đến rất nhiều vấn đề, các mối quan hệ nảy sinh đầy phức tạp. Để một nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng và đạt hiệu quả thì các mối quan hệ đó cần được điều chỉnh theo một nguyên tắc nhất định. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường càng đòi hỏi tất yếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước vào nên kinh tế.
2. Cơ chế thị trường - Đặc trưng và những ưu khuyết điểm của nó:
2.1. Khái niệm:
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào, và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
2.2. Các đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường:
Trước hết, thông qua cơ chế thị trường mà các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trường, đặc biệt là qui luật cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu mà hình thành nên giá cả thị trường, giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá trị thị trường và nó là kết quả thoả thuận giữa người mua với người bán, nó tạo lên mức lợi nhuận trên thị trường mà từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu tư sản xuất vào các lĩnh vực cho lợi nhuận cao
Thứ hai, trong cơ chế thị trường, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá thông qua giá cả thị trường, làm cho các hoạt động kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn.
Thứ ba, trong cơ chế thị trường, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận.
Thứ tư, cơ chế thị trường tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự chủ, các mối quan hệ kinh tế, các nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình phương án sản xuất và kinh doanh phù hợp nhất để thu được lợi nhuận tối đa, và người tiêu dùng được tự do lựa chọn tiêu dùng vì các quan hệ kinh tế đã được tiền tệ hoá.
Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường luôn duy trì được thế cân bằng giữa mức cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
Thứ sáu, cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản suất. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Thứ bảy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cũng có sự phát triển tương ứng.
Thứ tám, cơ chế thị trường đặt người tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trường có xu hướng thoả mãn nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân cư sao cho phù hợp với lối sống của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, bất chấp nhu cầu.
Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường, là nhân tố sống động của cơ chế thị trường. Nhà doanh nghiệp không đứng ngoài cơ chế thị trường. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trường.
2.3. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường:
Thực tế khó đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, có thể nêu lên những ưu điểm của cơ chế thị trường như sau:
- Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
- Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
- Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc đưa ra các quyết định.
- Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: Cần sản xuất loại hàng hoá gì với số lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, công nghệ gì được quyết định bởi cạnh tranh để cho tối đa hoá được lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai (phân phối) được quyết định bởi quan hệ cung – cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song bất kì một tấm huân chương nào cũng có mặt trái của nó. Cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samuelson đã nói rằng: “Sau khi tìm hiểu về bàn tay vô hình, chúng ta không nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị trường, coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo, là tinh tuý của sự hài hoà, của đấng cao siêu, nằm ngoài tầm tay con người”. Cũng như báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đại hội VII đã nêu rõ: “Sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội, thị trường như hiện tượng thai nghén chưa biết sẽ ra sao. Điều đó có nghĩa là bao hàm cả khả năng thất bại”. Cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết được:
- Tính tự phát: Do cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận, người sản xuất có thể đổ xô vào các ngành sản xuất có lợi nhuận cao nên sản xuất quá mức cần thiết hoặc do không dự kiến hết nhu cầu thị trường, nên sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu. Thị trường điều tiết các dòng hàng, những người buôn bán không thể tính hết được cầu của thị trường nên sẽ xảy ra tình trạng có lúc hàng hoá được tập trung vào một điểm trong một thời gian nhất định quá mức cầu thanh toán... cung lớn hơn cầu. Khi đó thị trường lại phải tự điều chỉnh. Tính tự phát cố hữu của thị trường gây ra cho xã hội những lãng phí không nhỏ. Tuy nhiên cần thấy rằng sự điều chỉnh tuy mang tính tự phát nhưng lại rất linh hoạt.
- Chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán và phân hoá thu nhập trong xã hội: Với mục đích bán được hàng, người sản xuất chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Trong khi đó toàn xã hội còn có những nhu cầu khác, mà nếu đáp ứng nó thì có ít lợi nhuận và có khi không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ, do đó các mặt hàng này bị mất nguồn cung. Song xã hội lại rất cần các ngành đó, nhất là các sản phẩm dịch vụ công cộng.
Do tác động của cạnh tranh, có người giàu lên và có người bị phá sản, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng không đều, gây ra hiệu quả tiêu cực về mặt xã hội, nhất là thất nghiệp.
- Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách tự phát: Do tác động của cạnh tranh, các đơn vị kinh tế sẽ tập trung vào các ngành có lợi nhuận cao, để thu hồi vốn, còn các ngành lãi ít hoặc có cơ sở hạ tầng đòi hỏi nhiều vốn và thu hồi vốn lâu sẽ không được quan tâm. Quá trình tự phát này kéo dài sẽ dẫn đến mất cân đối về cơ cấu ngành.
- Gây mất cân bằng sinh thái: Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà doanh nghiệp luôn luôn săn lùng lợi nhuận, tìm mọi cách nhằm đạt lợi nhuận tối đa chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, trước mắt, cục bộ... dẫn đến khai thác tự nhiên bừa bãi phá huỷ môi trường... làm phương hại đến lợi ích chung, lợi ích lâu dài, gây nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội.
- Phát sinh các tệ nạn xã hội: Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người, do đó làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả...
Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của kinh tế thị trường. Nhưng sự điều tiết đó mang tính chất mù quáng. Hơn nữa các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Tất cả đã gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là đòi hỏi khách quan, là nhu cầu nội tại của nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào, điều đó phụ thuộc vào bản chất của các hình thức Nhà nước và con đường phát triển mà nước đó lựa chọn. ở nước ta, sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế-xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao.
III. Tính tất yếu khách quan cần phải có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế thị trường, tính tất yếu của sự điều tiết của Nhà nước bắt nguồn từ hai mặt:
Từ sứ mệnh lịch sử của Nhà nước. Nhà nước là tổ chức quyền lực chung, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thông qua đó mà giai cấp thống trị thực hiện được sự thống trị của mình đối với toàn xã hội. Nhà nước xã hội c._.hủ nghĩa cũng vậy, thông qua quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội mà thực hiện được sự thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Một khi Nhà nước đã không thể quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, dẫn tới khủng hoảng kinh tế xã hội thì giai cấp thống trị cũng khó mà giữ được địa vị thống trị của mình đối với toàn xã hội.
Hơn nữa, từ những đặc điểm của kinh tế thị trường đòi hỏi có sự tác động năng động, tích cực từ phía Nhà nước thường xuất hiện ở các trường hợp sau:
- Kinh tế thị trường thừa nhận nguyên tắc tự do cạnh tranh, cạnh tranh trong kinh doanh, cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm, hành nghề... Từ đó, một mặt có thể dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất phá hoại; mặt khác, có thể xuất hiện hiện tượng độc quyền của các doanh nghiệp. Làm xuất hiện vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước là ngăn chặn sự độc quyền của thị trường, hướng vào sự cạnh tranh lành mạnh, phát triển sản xuất, bảo đảm cho sự bình đẳng của mọi doanh nghiệp tham gia thị trường, nhất là của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Sự vận động của kinh tế thị trường là theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, có thể dẫn tới tình trạng có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và phá sản, người lao động mất việc làm... mà bản thân kinh tế thị trường thì không thể giải quyết được những vấn đề đó. Nhà nước xuất hiện như người tổ chức phân phối lại. Nhà nước dùng tiền thu thuế để phân phối lại cho xã hội, nói cách khác Nhà nước có nhiệm vụ sửa chữa những khuyết tật của kinh tế thị trường, hoàn thiện thị trường. Đó là một vài thí dụ để minh họa tính tất yếu khách quan của vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, có thể nói không có một nền kinh tế thị trường nào mà ở đó lại không có vai trò của Nhà nước.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong nhiều năm trước đây với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và cả trong những năm đổi mới theo cơ chế thị trường vẫn còn nhiều khuyết điểm, vừa hạ thấp vai trò nhà nước làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế lại vừa gây ra nhiều vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm trì trệ thêm sự phát triển và gây ra những khó khăn mới cho đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Đã có một thời kỳ dài chúng ta phủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội nhưng khi chúng ta nhận thức lại, chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì vẫn có những sai lầm, chưa nhận thức đúng đắn vai trò nhà nước trong quản lý nền kinh tế nhằm hướng sự phát triển của nền kinh tế đảm bảo tính ổn định, công bằng và hiệu quả.
1. Cơ chế quản lý kinh tế trước đây và vai trò quản lý của Nhà nước:
Trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung do yêu cầu xây dựng nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá với nguyên tắc “tập trung cao độ”, gắn liền với quan hệ cấp phát, giao nộp, dựa vào mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, nên nhà nước đã đảm nhận vai trò quản lý tuyệt đối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước. Với cơ chế này, nhà nước đã thực hiện được những mục tiêu kinh tế và chính trị – xã hội, xây dựng lực lượng quốc phòng hùng mạnh, thực hiện các chính sách xã hội quan trọng như giáo dục, y tế, công bằng xã hội… thể hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa trên nhiều mặt. Song chức năng kinh tế của nhà nước được đề cao quá mức thể hiện trên những điểm chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất: Trong cơ chế cũ nhà nước mở rộng quá đáng kinh tế quốc doanh, gần như đồng nhất kinh tế quốc doanh với chủ nghĩa xã hội, chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế XHCN với hai loại hình sở hữu: toàn dân và tập thể. Các thành phần kinh tế khác bị hạn chế tới mức tối đa thậm chí còn bị triệt tiêu, kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động. Đến Đại hội Đảng VI mặc dù đã có sự đổi mới nhận thức nhưng vẫn còn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh phải chiếm tỷ trọng trong cả sản xuất và lưu thông.
- Thứ hai: Nhà nước đóng vai trò trung tâm và gần như độc tôn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nắm độc quyền ngân hàng, ngoại thương, ngoại hối, bao cấp tín dụng và do đó chưa khai thác được nguồn lực khác đầu tư cho phát triển.
- Thứ ba: Nhà nước trực tiếp điều hành và can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh tế, Nhà nước là “ông chủ của một doanh nghiệp lớn” với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, trong đó các đơn vị kinh tế cơ sở chỉ là những người thừa hành một cách thụ động mệnh lệnh chỉ huy từ trên xuống. Kế hoạch là công cụ quản lý số một có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế. Luật kinh tế và các công cụ quản lý khác đều xếp sau công cụ kế hoạch.
- Thứ tư: Nhà nước muốn nắm toàn bộ khâu phân phối lưu thông, dùng sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ ba biện pháp: Kinh tế, hành chính, giáo dục để nắm nguồn hàng vào tay mình.
Tóm lại, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với cơ cấu kinh tế công hữu và phi hàng hóa, quan hệ hàng hoá không được thừa nhận đầy đủ làm triệt tiêu động lực phát triển, hình thành sự khan hiếm. Các công cụ điều tiết vĩ mô như lãi suất, giá cả, thuế, tiền công và tiền lương không được sử dụng. Nhà nước tập trung mọi nguồn thu vào ngân sách Trung ương vì vậy cũng chi mọi khoản cần thiết liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của người lao động theo lối bình quân. Bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, phong cách quan liêu cửa quyền của cán bộ Nhà nước và tính thụ động, ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.
Hình thức quản lý là “cấp phát - giao nộp”. Đó là một nền “kinh tế hiện vật” còn hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Tình trạng “lãi giả, lỗ thật” là hậu quả nghiêm trọng của kiểu hạch toán này.
Như vậy cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, và kết quả là nền kinh tế Việt Nam trong thời gian này bị rơi vào khủng hoảng: sản xuất đình trệ, hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang dẫn tới lạm phát, đời sống nhân dân rất khó khăn. Chính vì thế vấn đề đổi mới là một yêu cầu bức bách được đặt ra.
2. Cơ chế quản lý kinh tế mới và vai trò quản lý của Nhà nước:
Cơ chế quản lý kinh tế mới hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Nhà nước đóng vai trò điều hành kinh tế vĩ mô (định hướng và điều tiết) nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế ngăn ngừa tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nhà nước vừa phải thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản song song và đan xen lẫn nhau, đó là vừa đổi mới, cải cách hệ thống quản lý bao gồm cải tạo cơ cấu kinh tế cũ, xây dựng cơ cấu kinh tế mới, cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phù hợp với cơ chế mới; vừa phải điều hành nền kinh tế trong quá trình đổi mới, phải xử lý nhiều vấn đề mới nảy sinh hết sức phức tạp và khó khăn. Mặt khác, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế hết sức đa dạng, linh hoạt, luôn biến động do thực tế cuộc sống đặt ra. Nhưng Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể đó là:
Nhà nước ta đã phát huy vai trò trách nhiệm trong quản lý kinh tế – xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới quản lý kinh tế nhưng vẫn giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo tăng trưởng kinh tế khá, cải thiện nâng cao đời sống nhân dân, đưa nước ta cơ bản thoát khỏi khủng hoảng; đã mạnh dạn đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp có hiệu quả. Nhà nước cũng đã mạnh dạn đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, từng bước phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế mới… Do đó, đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế xã hội và thành công của công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới, quản lý nhà nước về kinh tế còn có nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng, chưa tăng cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
- Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, chưa nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
- Quản lý lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ, giá cả, kế hoạch, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa tốt, chưa hiệu quả và chậm đổi mới.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng và còn nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Thực trạng cụ thể những năm gần đây như sau:
Năm 2003 nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá, đạt được mục tiêu của kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cả năm 2003 ước đạt 7,2 - 7,3% đạt kế hoạch đề ra (kế hoạch là 7,0-7,5%) (1) Theo dự báo của Ngân hàng thế giới (WB - tháng 8-2003), tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2003 của Trung Quốc đạt 7,2%, Nhật Bản: 0,6%, Thái Lan: 4,5%, Singapore: 1,7%; Philippines: 4,0%; Malaysia: 4,2%; Inđonesia: 3,3%, Việt Nam: 7,0% (Việt Nam năm 2002: 6%). Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB, tháng 8-2003), tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2003 của Trung Quốc đạt 7,3%, Thái Lan: 5%; Singapore: 2,3%; Philippines: 4,0%; Malaysia 4,3%; Việt Nam: 6,9% (Việt Nam năm 2002: 6,4%).
. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng trong GDP toàn nền kinh tế tăng từ 38,5% năm 2002 lên 39,9% năm 2003; tỷ trọng dịch vụ tương ứng giảm từ 38,5% xuống 37,8% và tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 23% xuống còn 22,3%.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng cao và đang từng bước đi vào thế phát triển ổn định với chất lượng được chú ý nâng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 15,9%, cao hơn so với cùng kỳ nhiều năm trước đây Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp năm 2003 ước đạt 10,4%
Các ngành dịch vụ có sự chuyển dịch tích cực, thị trường trong nước đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Tổng mức hàng hoá bán lẻ và tiêu dùng xã hội cả năm ước thực hiện 306 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2002. Hoạt động hàng không, du lịch có nhiều cố gắng, do đã khống chế thành công dịch bệnh SARS, đồng thời đã đẩy mạnh các biện pháp quảng cáo, khuyến mại... nên đang từng bước phục hồi. Các dịch vụ bưu chính viễn thông, vận tải, tài chính, ngân hàng, bất động sản tiếp tục phát triển.
Xuất khẩu tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất khẩu ước cả năm 2003 đạt khoảng 19,5 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2002 và vượt mức kế hoạch đề ra (kế hoạch là 8,0- 8,5%). Kim ngạch nhập khẩu ước cả năm 2003 đạt 24 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2002. Nhập khẩu năm 2003 tăng so với năm 2002 là 4,3 tỷ USD.
Thu Ngân sách Nhà nước tăng, vượt dự toán đầu năm, hoạt động tiền tệ đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế. Thu ngân sách nhà nước năm 2003 ước đạt 132,5 nghìn tỷ đồng, vượt 7,1% dự toán năm, bằng 21,7% GDP và tăng 11,3% so với thực hiện năm 2002, là năm thứ 6 liên tiếp thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán đề ra (4) Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước năm 2000 vượt 21,9 % dự toán và đạt 20,5% GDP, năm 2001 vượt 20,4 % dự toán và đạt 21,4% GDP, năm 2002 vượt 13% dự toán và đạt 22% GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước hàng năm đã cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại: năm 2000 tăng 15,6%; năm 2001 tăng 14,5%, năm 2002 tăng 14,6%.
. Tổng chi Ngân sách nhà nước cả năm 2003 ước đạt 167,7 nghìn tỷ đồng, vượt 6,1% so với dự toán năm và tăng 14,1% so với thực hiện năm 2002.
Hoạt động tiền tệ trong năm 2003 đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Uớc cả năm 2003, tổng phương tiện thanh toán tăng 20,4% so với năm 2002; nguồn vốn huy động tăng 22,7%.
Nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đạt khá, cơ cấu đầu tư đã hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hạ tầng kinh tế và xã hội được cải thiện rõ rệt. Ước thực hiện cả năm vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 217 nghìn tỷ đồng, bằng 35,6% GDP(5) Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP năm 2001 đạt 34%, năm 2002 đạt 34,3%
.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2003 tuy đạt được kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu tăng trưởng trung bình của kế hoạch 5 năm 2001-2005 là 7,5%/năm. Tuy xu hướng phát triển là tích cực, song chất lượng phát triển chưa cao, chưa bền vững, mức tăng trưởng chưa tương xứng với mức tăng đầu tư. Phát triển chủ yếu dựa trên chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và bảo hộ của nhà nước, vào thị trường thế giới; chất lượng đầu tư còn thấp; mức tăng trưởng chưa tương xứng với tốc độ tăng đầu tư; số lao động thiếu việc làm còn lớn; kết cấu hạ tầng thấp kém so với yêu cầu phát triển. Tăng trưởng vẫn tập trung vào một số ngành, sản phẩm truyền thống nhưng công nghệ chưa cao như dệt may, thuỷ sản, và nông sản chưa chế biến. Đóng góp vào tăng trưởng của các ngành sử dụng công nghệ cao như điện tử, cơ khí chính xác... rất thấp.
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, cơ cấu kinh tế, tổ chức quản lý chưa phù hợp làm cho nền kinh tế phát triển thiếu vững chắc, hàng hoá cạnh tranh thấp, GDP bình quân đầu người năm 2003 chỉ đạt trên 480 USD, chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/9 của Malaixia. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP đạt khoảng 29,5%, thấp so với một số nước trong khu vực(7) Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP năm 2002 của Trung Quốc đạt 37,8%, Singapore 44,5%, Malaixia 41,8%.
.
Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều vướng mắc, cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là thị trường hàng hóa xuất khẩu. Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thủ tục còn nhiều rườm rà, phức tạp, vừa chưa thông thoáng, vừa quá dễ dãi; chi phí cho đầu tư, sản xuất kinh doanh còn cao; sự phối hợp giữa các cơ quan chưa tốt; chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước; môi trường đầu tư thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập, chưa tạo dựng được khung pháp lý đồng bộ cho các yếu tố của thị trường và các loại thị trường phát triển; thị trường vốn kém phát triển, các cơ chế huy động vốn và cho vay vốn thiếu đồng bộ, tín dụng cho vay nền kinh tế chưa hiệu quả; việc điều hành lãi suất còn lúng túng; còn tồn tại nhiều mức lãi suất ưu đãi đầu tư cho các ngành trong nền kinh tế (chỉ riêng các khoản vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển đã có tới hàng chục mức lãi suất) làm giảm khả năng giám sát và đánh giá hiệu quả đầu tư.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội chưa cao, công tác quản lý đầu tư và quản lý xây dựng còn nhiều yếu kém và chậm khắc phục.
Nguồn thu ngân sách nhà nước chưa thật vững chắc, chính sách tín dụng chưa thực sự lành mạnh, vẫn phụ thuộc vào bên ngoài. Gần 1/2 tổng thu ngân sách hàng năm là thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu (là những khoản thu phụ thuộc khá nhiều vào biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới), trong đó thu từ dầu thô chiếm khoảng 1/4 tổng thu ngân sách, thu từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1/4.
Thực trạng trên đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục đổi mới quản lý, tăng cường vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Đó là một tất yếu khách quan.
Chương II: Các mục tiêu và chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế - Nội dung và thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
I. Các mục tiêu quản lí kinh tế vĩ mô:
1. Tất cả các Nhà nước trên thế giới đều có một mục tiêu là đảm bảo được sự lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
- Mục tiêu sản lượng: Đạt được mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, giữ vững tốc độ tăng trưởng sản lượng cao và vững chắc.
- Mục tiêu việc làm: Tạo được việc làm tốt, hạ thấp tỉ thấp nghiệp (duy trì ở mức tự nhiên).
- Mục tiêu ổn định giá cả: hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện tự do đặc biệt là trong hoàn cảnh hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới liên tục xảy ra khủng hoảng và bất ổn định.
- Mục tiêu đối ngoại: ổn định tỷ giá hối đoái, cân bằng cán cân thanh toán. Mở rộng hợp tác trên phạm vi thế giới theo xu hướng quốc tế hoá sản xuất. Đây là mục tiêu mà các chính phủ hết sức quan tâm nhưng đồng thời rất thận trọng, một mặt mở rộng quan hệ thương mại quốc tế mặt khác vẫn giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền và độc lập, tránh phụ thuộc về kinh tế dẫn tới phụ thuộc về chính trị, đồng thời tạo vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế.
- Phân phối công bằng: Đây được coi là mục tiêu quan trọng nhất trong các mục tiêu kinh tế bởi có giải quyết được nó mới có thể ổn định được xã hội. Phân phối công bằng sẽ tránh được sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch quá lớn trong xã hội đồng thời cũng tạo vị trí vững chắc cho giai cấp cầm quyền.
Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng của nền kinh tế trong đó các mục tiêu có tác động tương hỗ, bổ sung cho nhau vì mục tiêu chung của quốc gia.
2. Cụ thể đối với Việt Nam, Nhà nước ta có các mục tiêu cơ bản sau:
- Đạt được trạng thái kinh tế tăng trưởng cao và lâu dài, cụ thể là trên dưới 10%, nâng cao thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi (500 USD) vào năm 2005.
- Giải quyết công ăn việc làm ở mức tốt nhất, không ngừng mở rộng các loại hình sản xuất, có nhiều biện pháp thu hút đầu tư, các chính sách giáo dục đào tạo để có được đội ngũ lao động có chuyên môn và tay nghề cao.
- Tiếp tục đẩy lùi kiểm soát lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát ở mức một con số (dưới 10%). Bắt đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
- ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm mức tiền lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập, chi phí bất công. Đảm bảo phân phối thu nhập cân bằng (đặc biệt giữa các ngành nghề và loại hình lao động khác nhau)
- Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, giảm chênh lệch cán cân thanh toán quốc tế, đảm bảo giá cả phản ánh đúng tín hiệu thị trường.
- Khuyến khích tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
II. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò đó được thể hiện qua các chức năng kinh tế của nó. Cụ thể như sau:
1. Định hướng sự phát triển của xã hội theo các đặc trưng và các yêu cầu đã định cho các chặng đường phát triển. ở nước ta đó là việc nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước với một cơ cấu phát triển kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đới sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.
2. Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và bộ máy quản lý kinh tế xã hội các cấp, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Những thất bại thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó là sự xuất hiện của độc quyền. Lợi dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền không ngừng tăng giá để thu lợi nhuận và như vậy phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo. Trong khi một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng hạn chế cạnh tranh. Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền. Đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Khi có cạnh tranh hoàn hảo, nó sẽ đảm bảo được sự ganh đua của những người sản xuất, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Các tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động thị trường và đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí-lợi ích cho doanh nghiệp khác, hoặc người khác mà doanh nghiệp hoặc con người đó không được nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả đúng số chi phí mà họ phải trả. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, thiếu an toàn trong sản xuất... mà xã hội phải gánh chịu. Những tác động bên ngoài như vậy làm cho hoạt kinh tế không hiệu quả. Vì vậy, Nhà nước nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như một phương pháp ngăn chặn những tác động bên ngoài, nâng cao hiệu quả như buộc phải bồi thường do ô nhiễm, phá huỷ môi trường, buộc ngừng sản xuất, khai thác...
Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải đảm bảo nhận việc sản xuất hàng hoá công cộng. ích lợi của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau và ích lợi giới hạn mà tư nhân thu đựoc từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ. Vì vậy tư nhân thường không muốn sản xuất hàng hoá công cộng, trong khi có nhiều loại hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng như Quốc phòng, luật pháp, trật tự... nên không thể giao cho tư nhân được. Việc Nhà nước phải tham gia sản xuất hàng hoá công cộng là tất yếu.
Nguồn thu chủ yếu của Nhà nước là từ thuế và phần chi phí của Nhà nước phải được trả bằng thuế thu được. Việc đề ra luật thuế qui định nghĩa vụ của mọi cá nhân và tổ chức cũng như đảm bảo công bằng trong xã hội là cần thiết. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật thuế.
Như vậy, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị trường thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách đối với nền kinh tế và xã hội. Từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ độc quyền chiếm thị trường, kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3. Nhà nước điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh tức là các dao động của tổng thu nhập quốc dân kèm theo các dao động lên xuống của mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nước cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Qua đó, Nhà nước ổn định nền kinh tế, duy trì nó càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Nhà nước có thể đầu tư vào một số lĩnh vực cần thiết, để hỗ tợ, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Kết hợp phân phối và phân phối thu nhập Quốc dân đặc biệt là việc thực hiện tốt luật ngân sách Nhà nước. Sự hoạt động của cơ chế kinh tế thị trường có thể đạt hiệu quả cao, nhưng cơ chế thị trường lại hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tối ưu. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Diều đó được thực hiện thông qua các chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Hiển nhiên Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo. Bất cứ điều gì đều có mặt trái của nó. Do đó việc vẫn còn tồn tại tình trạng lạm phát, suy thoái là không thể tránh khỏi. Nhà nước chỉ có thể góp phần giảm bớt hậu quả của nó hoặc giảm tần số xuất hiện của khủng hoảng kinh tế.
4. Nhà nước còn có chức năng quản lý kinh tế vĩ mô.
+ Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
+ Định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà nước lựa chọn chính sách và các liên kết đối ngoại có lợi cho sự phát triển đất nước, phát huy ảnh hưởng ngoại giao trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao của nền kinh tế Quốc dân.
+ Quản lý tài sản công, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội đặc biệt là quản lý đất đai, quản lý môi trường. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp.
+ Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cựu của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập Quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
III. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước và thực trạng của nó ở Việt Nam:
1. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước:
1.1. Hệ thống pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Phải thừa nhận rằng luật kinh tế ở nước ta chưa làm được nhiều, nền kinh tế đã chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhưng những luật rất cơ bản như luật đất đai, luật thuê mướn nhân công, luật phá sản, luật doanh nghiệp nhà nước, luật cạnh tranh và chống độc quyền… vẫn chưa hoàn thiện. Vì vậy trong giải quyết công việc hàng ngày các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vĩ mô và vi mô. Cũng do chưa có luật nên một số cơ quan nhà nước có trách nhiệm lại buông lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường vai trò của pháp luật thể hiện trên hai phương diện :
Thứ nhất, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo nên môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì không được làm và đương nhiên cái gì được làm là cái được pháp luật bảo hộ quyền tự do. Chính vì vậy, có sự rất khác nhau giữa pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá và pháp luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý. Trong pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá doanh nghiệp nhận thấy cái gì được làm thì trong pháp luật của kinh tế thị trường có sự quản lý doanh nghiệp sẽ nhận thấy cái gì không được làm, không được phép, ngoài những cái đó ra họ có quyền làm tất cả những gì họ có khả năng.
Phương hướng trong những năm tới là tiếp tục hoàn chỉnh, kiện toàn hệ thống pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, bảo đảm quyền bình đẳng như nhau trước pháp luật của các chủ thể kinh tế. Xây dựng và thông qua thêm nhiều luật mới trong kinh tế để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định xã hội.
1.2. Công cụ kế hoạch hoá.
Nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên kế hoạch hoá là một công cụ quan trọng để nhà nước tổ chức và quản lý nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng.
Đặc điểm kinh tế quyết định đặc điểm của kế hoạch hoá trong thời kì quá độ ở nước ta. Đó là kế hoạch hoá định hướng gắn liền với hoạch định các chính sách kinh tế và hệ thống đòn bẩy kinh tế như giá cả, thuế tín dụng, luật kinh doanh… Kế hoạch hoá trực tiếp chỉ diễn ra trong một phạm vi nhất định còn chủ yếu là kế hoạch hoá gián tiếp.
Mỗi thời kì nhất định có nội dung kế hoạch hoá thích hợp để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội. Trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ ở nước ta, nội dung của kế hoạch là xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm đạt được một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại gắn với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Trong điều kiện nước ta, cần “tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô trên cơ sở đổi mới kế hoạch hoá, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang kế hoạch hoá định hướng, bảo đảm các cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh tế(cân đối cung - cầu, tiền - hàng, thu - chi, xuất - nhập khẩu, tích lũy - tiêu dùng…). Kế hoạch Nhà nước có chương trình, dự án đầu tư của chính phủ bảo đảm điều kiện thự hiện các mục tiêu lớn, đi đôi với việc thực hiện các chính sách đòn bẩy kinh tế là chính để hướng dẫn và hỗ trợ các ngành, các địa phương và cơ sở phát triển theo định hướng kế hoạch”.
Để thực hiện được nội dung quan trọng trên phải nâng cao chất lượng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng nhất… nâng cao dần trình độ dự báo kinh tế - xã hội trong công tác kế hoạch hoá.
Như vậy, đổi mới công tác kế hoạch hoá là một tất yếu khách quan theo phương hướng:
Một là, lấy thị trường làm căn cứ và đối tượng chủ yếu của kế hoạch hoá.
Hai là, thay hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối mang tính định hướng .
Ba là, thực hiện kế hoạch hoá hai cấp: cấp nhà nước gắn với kế hoạch hoá vĩ mô và cấp cơ sở gắn với kế hoạch hoá vi mô.
Bốn là, nâng cao trình độ dự báo kinh tế-xã hội trong công tác kế hoạch hoá.
Năm là, cải tiến hệ thống bộ máy làm kế hoạch và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm kế hoạch.
1.3. Chính sách tài chính - tín dụng.
Một trong các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường là cần có hệ thống tài chính tín dụng tương đối phát triển. Hệ thống tài ._.đó là điều hoà khối tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối....
- Về điều hoà khối tiền tệ: NHTW phải có các giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng, tức là phải khống chế sao cho khối lượng cung ứng tiền tệ trong một thời kỳ nhất định cân đối vơí mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (mức tăng thực tế cộng với tỷ lệ trượt giá) và vòng quay tiền tệ trong cùng thời kỳ.
Khối tiền tệ cung ứng thậm chí chỉ là chỉ tiêu định hướng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, biến động về giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối tiền tệ tăng hay giảm đi không làm tăng giá hoặc tắc nghẽn lưu thông.
Từ tổng lượng tiền cung ứng được xác định , NHTW chủ động dự kiến trước nhu cầu tiền mặt. Nhất thiết không được đưa thêm tiền mặt ra lưu thông nếu làm tăng tổng lượng cung ứng tiền đã xác định
- Về chính sách tín dụng cho nền kinh tế. Từ khối lượng tiền tệ được cung ứng thêm đã xác định, MHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến mức lạm phát (nếu có) đã được khống chế trong một thời kỳ nhất định.
Khi các ngân hàng trung gian thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin tái cấp vốn tiền trung ương. ở đây, NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ, nhằm kiểm soát được chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Qua hoạt động này, NHTW vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ vừa tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của mình đối với các tổ chức tín dụng.
- Về chính sách ngoại hối. Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, NHTW ở các nước thường đảm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại. Có thể kể ra những nội dung chính như vậy dùng các qui định về quản lý ngoại hối, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế; xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của đất nước; tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, quan hệ với các NHTW khác, với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài và thu hút kiều hối; phấn đấu ổn định tỷ gia hối đoái để kìm chế làm phát, ổn định giá cả trong nước..
Thực hiện quản lý Nhà nước các vấn đề trên không nhằm mục đích nào khác là nhằm ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ, góp phần thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ (vì đây là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tẹ và giá trị đồng tiền trong nước).
Khi nguồn vốn nước ngoài được đổ vào Việt Nam nhiều hơn thì đồng tiền Việt Nam sẽ có xu hướng mạnh lệ tức là cần ít đồng Việt Nam để đổi lấy một USD, kinh nghiệm trong những năm qua cho ta thấy rằng, khi lạm phát hàng tháng vẫn như vậy sẽ có tác động xấu đối với các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp xuất khẩu, cũng như trong các ngành sản xuất cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Hậu quả cuối cùng là sẽ gây áp lực dẫn đến việc phá giá mạnh đồng tiền nội địa, nếu không cán cân thương mại sẽ ngày một mất cân đối còn nguồn vốn bên ngoài sẽ đổ vào chậm hơn. Một trong những giải pháp giải quyết hiện tượng này là tiến hành phá giá đồng tiền nội địa làm cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp có thể trụ được. Đúng là việc phá giá đồng tiền mạnh và đột ngột như vậy có thể gây hoang mang về sự ổn định của đồng tiền Việt Nam và nói chung là không nên làm nhưng cũng phải có chính sách lựa chọn một tỷ giá hối đoái thực tế hợp lý hơn là giữ một tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định. Điều này có nghĩa là phải từng bước phá giá đồng tiền Việt Nam ở mức bằngvới tỷ lệ lạm phát. Tỷ giá hối đoái là loại giá cả tỷ lệ quan trọng nhất trong nền kinh tế. Giữ nó ở mức bất lợi sẽ làm phương hại đến các triển vọng tăng trưởng nhanh.
b. Quản lý Nhà nước về hoạt động của các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính.
Tiếp tục lành mạnh hoá các ngân hàng thương mại nhà nước, nghiên cứu cho phép ngân hàng phát hành cổ phiếu để thu hút vốn trong dân.
Có biện pháp thích hợp để giảm lãi suất tín dụng, điều chỉnh lại mức lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đang quá cao hiện nay và hệ thống lãi suất quá phức tạp với nhiều mức khác nhau (18 mức) của các ngân hàng chính sách và các quỹ hỗ trợ đầu tư.
Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng trên cơ sở các đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; lành mạnh hoá tình hình tài chính của các ngân hàng trên cơ sở có phương án cụ thể xử lý vấn đề nợ xấu đối với từng khoản nợ và từng ngân hàng thương mại quốc doanh.
Soát xét lại chức năng, nhiệm vụ, tình hình hoạt động của các quỹ tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư để có những chấn chỉnh kịp thời. Tạm thời chưa lập mới các quỹ loại này.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế; đổi mới, hoàn thiện chính sách thuế phù hợp thực tế Việt Nam, thực hiện các cam kết quốc tế và phục vụ đàm phán gia nhập WTO.
c. Điều kiện để thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng.
Để quản lý Nhà nước dù ở lĩnh vực nào cũng đều phải có luật hoặc những văn bản pháp quy dưới luật do Nhà nước ban hành. Bên cạnh đó phải có tổ chức hoặc bộ máy đủ mạnh với những chức năng nhiệm vụ được giao để thực hiện.
Hầu như tất cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều có các luật về ngân hàng: luật về ngân hàng trung ương và luật chung về hoạt động ngân hàng. Các nước đó đều hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp tách bạch rõ ràng và dứt khoát chức năng hoạt động giữa ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Bằng luật pháp quy định ngân hàng trung ưng được tổ chức đủ mạnh để xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ và để thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng.
Ngoài các luật hoặc văn bản dưới luật về ngân hàng, tổ chức hệ thống ngân hàng hai cấp: trong đó ngân hàng trung ương được xác định chức năng là người quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng, việc ban hành đồng bộ của luật lệ khác như luật phá sản, luật thế chấp và luật thương mại cùng là những điều kiện không thể thiếu được để quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
Hệ thống ngân hàng ở nước ta trước đây là hệ thống ngân hàng một cấp, vừa làm nhiệm vụ của ngân hàng trung ương, vừa làm chức năng của các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Từ tháng 5/1990 thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng cũ đã được tổ chức thành hai hệ thống ngân hàng hai cấp:
- Ngân hàng Nhà nước làm công việc của ngân hàng trung ương với chức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và là ngân hàng của các ngân hàng.
- Ngân hàng là các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh vì doanh lợi, thông qua huy động tiền tệ vốn để mở rộng tín dụng đó là các ngân hàng thương mại quốc doanh và cổ phần, ngân hàng đầu tư và phát triển các Công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng.
Cuộc chiến đấu chống lạm phát vẫn đang tiếp diễn và chưa thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên trong khi vẫn chú ý tới vấn đề then chốt này, ngân hàng trung ương cũng nên quan tâm tới vấn đề khác như tính hiệu quả và sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại. Điều này có nghĩa là phải làm sao luôn có tiền mặt để người gửi tiền ngân hàng có thể rút bất cứ lúc nào và rút ngắn thời gian thanh toán séc. Ngoài ra ngân trung ương phải cho phép nới rộng khoảng cách giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi để những ngân hàng hoạt động tốt có thể có lãi. Cũng trong tinh thần này nên cổ vũ các ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho những đối tượng xứng đáng chứ không phải chỉ cho các Công ty Nhà nước được một số tỉnh hay Bộ ưu đãi mà thôi. Giúp các ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả là một quá trình lâu dài, nhưng nếu không có cạnh tranh và tiến bộ thì không thể huy động được tiền tiết kiệm đầu tư thoả đáng. Mặt khác nếu hệ thống ngân hàng không hoạt động tốt hơn thì những thành quả hiện nay về chống lạm phát cũng sẽ không duy trì được.
4. Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng - hiệu quả tạo ra động lực của sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng, sự hoạt động của quy luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vự chính trị xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp cớ thể dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị.
Do sản xuất và giá cả nông sản năm 2003 tăng so với năm 2002, nên thu nhập và đời sống của nông dân nhiều vùng được cải thiện. Theo số liệu điều tra mức sống hộ gia đình, mức thu nhập ở khu vực nông thôn tăng nhanh hơn khu vực thành thị, năm 2001-2002 đạt bình quân 276 nghìn đồng/người/tháng, tăng 22,5% so với năm 1999. Năm 2001-2002, thu nhập bình quân ở khu vực thành thị đạt 626 nghìn đồng/người/tháng, tăng 21,1% so với năm 1999.
Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giàu có. Nhà nước cần phải giúp đỡ họ tạo công ăn việc làm ,bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn, bán đất với chế độ ưu đãi thích đáng ...
5. Đổi mới cách thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường, tạo ra cơ chế phù hợp với các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá khi tác động vào nền kinh tế các Chính phủ thường sử dụng một hệ thống các đòn bẩy kinh tế tác động vào cơ chế giá - lương - tiền khi chuyển sang kinh tế thị trường giá và lương (giá cả sức lao động) không chỉ là công cụ mà còn là một trong những mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô chính vì vậy cùng với việc đổi mới cơ chế kinh tế phải đổi mới các chính sách kinh tế là lẽ đương nhiên. Trên bình diện tổng thể chúng ta thấy rằng:
a. Nhà nước cần phân loại hệ thống hoá các chính sách kinh tế thành các nhóm để xử lý theo tình huống. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường phân loại theo hai nhóm cơ bản:
- Các chính sách tác động vào phía cầu.
- Các chính sách tác động vào phía cung.
b. Sau khi đã phân loại các chính sách theo nhóm để xử lý theo tình huống Chính phủ cần tạo ra cơ chế để phối hợp các chính sách ổn định về kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế này môĩ chính sách không có mục tiêu nào riêng ngoài mục tiêu định hướng. Tác động của tất cả các chính sách cần phải được hội tụ ở việc giải quyết các mục tiêu định hướng của nền kinh tế. Chính phủ đề ra cho mỗi thời kỳ như tăng trưởng sản lượng, lạm phát, thất nghiệp...
6. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Sức cạnh tranh của quản lý Nhà nước chính là nhờ phương hướng hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động toàn xã hội theo trật tự và phương hướng đã đề ra. Quản lý theo mệnh lệnh tác động trực tiếp đến đối tượng thực hiện. Còn quản lý vĩ mô tác động gián tiếp đến các đối tượng, gây nên phản ứng dây chuyền và từ đó có thể gặt hái những thành tựu to lớn. Nếu sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô một cách riêng lẻ như quản lý theo mệnh lệnh, chẳng những kém hiệu quả mà có thể gây nên những thiệt hại nặng nề do tác động triệt tiêu lẫn nhau trong cả hệ thống dây chuyền. Vì vậy cần sớm:
- Tổ chức một bộ phận cán bộ chuyên trách đủ mạnh để:
a. Giúp Chính phủ nghiên cứu một cách đồng bộ hệ thống mô hình cần tạo lập và lộ trình thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta.
b. Hình thành chương trình đổi mới toàn diện và những giải pháp thực hiện từng bước một cách nhất quán.
c. Giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng của Chính phủ trong việc phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô: kế hoạch, ngân sách, tiền tệ, lao động tiền lương... hạn chế những mâu thuẫn trong sử dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội.
- Cần phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước. Với chức năng quản lý kinh doanh, giảm dần các bộ chuyên ngành, thu gọn các đầu mối tổ chức quản lý cấp trên trực thuộc. Tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước thực sự chăm lo quy chế luật pháp, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh phát triển theo pháp luật.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý vì tác động vĩ mô là tác động gián tiếp, gây phản ứng dây chuyền để đạt được hiệu quả tổng thể. Không thể tách rời việc nghiên cứu cơ cấu với cơ chế, tách rời việc nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý với nghiên cứu cơ chế quản lý. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ việc sử dụng cơ cấu ngân sách gắn với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, thực hiện quy trình hợp lý trong việc chuẩn bị ban hành các chính sách một cách có hệ thống.
- Cần mở rộng thêm phạm vi tác động của cơ chế thị trường. Tổ chức thị trường tài chính và thị trường sức lao động ở một số trung tâm kinh tế lớn trong cả nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
- Tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng các cấp đủ sức thực hiện chức năng trung tâm tiền tệ, thanh toán và tín dụng trong điều kiện thừa nhận cơ chế thị trường.
Việc sử dụng công cụ quản lý vĩ mô có thành công hay không một phần lớn phụ thuộc vào công tác cán bộ. Một yêu cầu rất cấp bách là phải đào tạo lại cán bộ và bố trí cán bộ đúng với năng lực chuyên môn của từng người. Khoa học quản lý khác với khoa học cơ bản ở chỗ vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật và gắn liền với các yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội và tư duy.
7. Đổi mới ở một số lĩnh vực khác:
7.1. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế và chính sách của Nhà nước phải được thể chế hoá một cách đồng bộ và nhất quán tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa cạnh tranh vào quĩ đạo đúng đắn. Nhà nước cần xác lập một hệ thống chính sách và công cụ quản lý kinh tế để làm sao cho vừa chấp nhận sự tự điều chỉnh cuả thị trường lại vừa chủ động điều tiết nền kinh tế, vừa ổn định được kinh tế vĩ mô lại vừa tác động đến cung cầu trên thị trường, cơ chế thị trường không thể tách rời việc phát triển môi trường bền vững, công nghệ tiên tiến và xã hội văn minh ở nước ta. Vì vậy vấn đề xuyên suốt toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế là sự phối hợp đồng bộ hệ thống pháp luật, chính sách và công cụ kinh tế của Nhà nước gắn với việc lựa chọn sử dụng tối ưu các vấn đề môi trường, công nghệ và xã hội.
Chúng ta cần tăng cường nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước để nó thực sự làm chủ được các lĩnh vực then chốt từ đó điều chỉnh nền kinh tế của hệ thống này thông qua tổng cung và tổng cầu.
Nhà nước cần xác định các quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước, làm rõ các quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước, Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các doanh nghiệp Nhà nước đồng thời hạn chế tối đa tình trạng độc quyền.
7.2. Nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết.
Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược lâu dài. Trong quá trình thực hiện chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những "cú sốc" làm chệch mục tiêu là không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra.
7.3. Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cầu vừa đủ. Thực tiễn cho thấy rằng: con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu dài. Ngày nay, khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách: Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng - quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó Nhà nước ta cần phải:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế
- Qui định và đảm bảo các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
- ổn định về chính trị và xã hội.
7.4. Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế.
- Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn.
- Cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong cương vực quốc gia. Về mặt đối ngoại có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời, vùng biển. Về mặt đối nội Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này, phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế với tư cách là người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
7.5. Tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn là nhiệm vụ trọng tâm trong những năm trước mắt mặc dù đến thời điểm này nước ta đã đạt được những kết quả nhất định.
Lạm phát "phi mã" ở Việt Nam chỉ được chặn đứng sau khi thực sự hiểu rằng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm cho lạm phát gia tăng là có quá nhiều tiền trong lưu thông (chứ không phải cứ nghèo và kinh tế kém phát triển thì tất yếu có lạm phát cao) hàng chục năm chống lạm phát không thành công bằng cơ chế và công cụ cũ. Chỉ sau khi kiên quyết sử dụng biện pháp của kinh tế thị trường đặc biệt là chính sách lãi suất hạn chế phát hành để bù đắp thiếu hụt ngân sách... thì mới kiềm chế được lạm phát. Hiện nay tốc độ lạm phát hàng năm đã giảm xuống nhưng vẫn chưa thực vững chắc và còn ở mức cao. Năm 2003, giá hàng tiêu dùng tăng khoảng 3% so với kế hoạch đề ra là dưới 5%.
Để thành công bước ngoặt sang kinh tế thị trường, khâu cấp bách nhất là giải pháp chống lạm phát, chống lạm phát ở nước ta hiện nay thực chất là đổi mới căn bản, cũng tức là xây dựng lại cơ chế, định chế tiền tệ tín dụng tài chính vĩ mô theo nguyên tắc thông lệ của kinh tế thị trường. Như vậy nhằm tạo ra đồng tiền ngân hàng Nhà nước tương đối vững giá, từ đó mới có thể hình thành hệ thống giá cả, lãi suất và tỷ giá thị trường, tăng khả năng động viên tích tụ và tích tụ các nguồn vốn trong nước và ngoài nước nhằm đảm bảo cân đối chiến lược về vốn - nhân tố trực tiếp quyết định giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội, đồng thời từng bước làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, tạo ra và tăng cường tiềm lực và công cụ kinh tế của sự điều tiết vĩ mô. Cũng từ đó thúc đẩy phát triển hệ thống thị trường ngày càng đầy đủ và tương đối ổn định làm môi trường và mọi thành phần kinh tế hợp tác và đua tranh phát triển kinh tế quốc doanh thực sự đi vào kinh doanh. Giải pháp chống lạm phát như vậy là cái ngưỡng mà chỉ khi vượt qua ta mới có thể thực hiện bước ngoặt đầu tiên song quỹ đạo của nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô với định hướng XHCN.
7.6. Một số biện pháp nhằm hợp lý hoá chính sách xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, thương mại quốc tế thúc đẩy phân công lao động và hợp tác hai bên cùng có lợi. Thương mại tự do mở cửa tạo điều kiện cho mỗi nước mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ của mình, nâng cao sản lượng và mức sống của toàn thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có mối quan hệ thương mại với trên 100 quốc gia và khu vực, trở thành thành viên của ASEAN năm 1995 và APEC năm 1998. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động trong khuôn khổ hợp tác á-Âu và đang trong quá trình chuẩn bị những bước cơ bản để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động ngoại thương Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn về chất lượng. Từ chỗ chủ yếu chỉ trao đổi hàng hoá với các nước thuộc Liên Xô (cũ) và một số nước Đông Âu trên cơ sở các hiệp định do Chính phủ ký kết và giao cho một số Công ty ngoại thương Nhà nước độc quyền thực hiện, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những nước có mức độ mở cửa với thương mại thế giới cao.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1996-2000 đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bước. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thủy sản tuy vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000, tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% lên 34,3%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% lên 35,7%. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu dạt trên 184 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển. Thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường châu á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam; riêng thị trường các nước ASEAN tương ứng trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, châu Mỹ, Trung Đông hàng xuất khẩu của ta đã có mặt và đang tăng đần. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm 1996 - 2000 khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%; tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm 1996 còn 5,2% năm 2000. Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6% năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 19,5 tỷ USD, tăng 16,7% so với kế hoạch là 8-8,5%, vượt mức kế hoạch đề ra.
Trong chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005 là tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Năm 2004 phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đạt 21,7 tỷ USD, tăng 11,3% so với năm 2003. Kim ngạch nhập khẩu năm 2004 đạt 26 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm 2003.
Song song với việc không ngừng mở rộng thị trường và thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu, Việt Nam cần có những chính sách và cơ chế thương mại phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Nghiên cứu các thị trường khác như EU, Nga, Trung Quốc... chúng ta rút ra nhận định chung: tính cạnh tranh của hàng Việt Nam còn yếu. Muốn mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cần thực hiện các biện pháp sau.
- Cho phép các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh của họ, đồng thời bãi bỏ các giấy phép xuất nhập khẩu cùng với những yêu cầu về vốn tối thiểu và những điều kiện khác.
- Tiếp tục cải cách các chính sách và các quy định liên quan đến thương mại quốc tế nhất là về thuế, thuế quan và hàng rào phi thuế quan... cùng với những thủ tục hành chính rườm rà trong nhiều khâu, đặc biệt là hải quan... theo hướng đơn giản, thuận lợi cho các hoạt động thương mại quốc tế.
- Bộ máy hành chính và quản lý kinh tế thương mại phải được cơ cấu lại cho gọn nhẹ và có hiệu năng, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu mới về kỹ năng công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Những ưu tiên hàng đầu có tầm quan trọng đặc biệt là phải nhành chóng xây dựng chiến lược, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Những chính sách cụ thể phải tập trung giải quyết từng bước vững chắc sớm là: các biện pháp để thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia tối huệ quốc, lịch trình cắt giảm thuế quan một cách hợp lý và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, các hạn chế về số lượng lựa chọn những biện pháp bảo hộ có điều kiện... và cuối cùng là thực hiện các nguyên tắc minh bạch và công khai.
- Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu: Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì đây là biện pháp quan trọng hàng đầu. Các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư chiều sâu tiếp nhận công nghệ tiên tiến, củng cố khâu quản lý, tăng năng suất lao động thực hành tiết kiệm vật tư, giữ chữ tín với khách hàng. Đặc biệt cần sớm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, năng suất theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp là đói thông tin về thị trường nước ngoài. Đề giải quyết vấn đề này Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nước ngoài, trước mắt là 68 thị trường có quan hệ ưu đãi thương mại với Việt Nam bằng nhiều cách: thông tin đại chúng, tập san, nói chuyện chuyên đề.
- Đào tạo đội ngũ doanh nhân Việt Nam giỏi nghiệp vụ, ngoại ngữ, có bản lĩnh, giàu nghị lực, dám đương đầu với khó khăn, dám cạnh tranh và giành chiến thắng.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Cần thành lập cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia có chi nhánh ở các trung tâm thương mại lớn của đất nước, để quản lý và định hướng cho hoạt động quan trọng này.
Thách thức và khó khăn rõ ràng là rất lớn, song Việt Nam đã và đang nổ lực để thực hiện đầy đủ những cam kết song phương và đa phương, đưa thương mại Việt Nam sang một trình độ và giai đoạn phát triển mới.
Kết luận
ở nước ta kể từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954 và cho đến trước năm 1986 chúng ta đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Trong giai đoạn này Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế làm cho các quy luật kinh tế khách quan hoạt động sai lệch, chẳng hạn như việc ổn định giá cả làm cho quan hệ trao đổi ngang bằng bị méo mó, phân phối vật tư thiết bị định hướng thực chất cũng làm giảm yếu tố đầu vào thì làm sao có sản phẩm đầu ra tăng lên. Để ổn định kinh tế, Nhà nước chủ trương giải quyết việc làm cho tất cả bằng cách áp dụng biên chế theo kiểu biên chế suốt đời không có sự cạnh tranh nào, do đó dẫn đến làm giảm lao động xã hội và không còn động lực cho sự phát triển vì lợi ích bị xoá bỏ... sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào nền kinh tế đã dẫn đến sự thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng những biểu hiện như khủng hoảng, lạm phát... ở nước ta những năm 1980.
Trước thực trạng kinh tế như vậy, Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên cơ chế thị trường ngoài những ưu điểm của nó ra thì nó cũng đã bộc lộ những khuyết điểm hạn chế. Mặc khác, nền kinh tế nước ta còn phân tán mạnh cán bộ quản lý còn chưa có kinh nghiệm, do đó vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ đạo đã vạch ra. Sự can thiệp đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Ngay từ đầu Nhà nước phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình, có như vậy mới có được sự thành công trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế thị trường phải được thực hiện từng bước, không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn, nếu không sẽ đưa đến hậu quả khó lường. Nhà nước cần phải nhìn nhận được những lợi thế so sánh của mình về các nguồn lực để nâng cao dần vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Do đó, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước phải được đổi mới, phát triển theo thời gian và ngày càng được củng cố hoàn thiện để đáp ứng và khắc phục tốt hậu quả của cơ chế thị trường.
Qua tham khảo các tài liệu cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo em đã hoàn thành đề án này một cách tốt đẹp.
Tuy nhiên, do vấn đề: "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" là một vấn đề lớn cần có sự nghiên cứu sâu và kiểm nghiệm trên thực tế, do đó với phạm vi và nội dung của bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong thầy giáo sửa chữa và bổ sung những thiếu sót này để đề án cũng như nhận thức của em về vấn đề này được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX.
Kinh tế học – Paul Samuelson.
Cơ chế thị trường và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam- GS.TS Lương Xuân Quỳ – Nhà xuất bản thống kê.
Giáo trình kinh tế chính trị, tập II.
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế.
Vũ Ngọc Nhung- Bàn thêm về kinh tế thị trường định hướng XHCN-Tạp chí kinh tế phát triển.
Dương Thị Liễu – Vai trò Nhà nước trong việc định hướng XHCN kinh tế thị trường của nước ta. ( Kinh tế phát triển , số 13/1996).
Nguyễn Thị Việt Hưng – Nâng cao vai trò của Nhà nước XHCN trong nền kinh tế thị trường ( Thông tin-lí luận, số 27/1998).
Phạm Văn Hùng – Xung quanh vấn đề vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước Thông tin-lí luận, số 5/1998).
Đào Duy Tùng – Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1955 đến năm 1993.
Võ Kim Sơn – Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập và toàn cầu hoá ( Tạp chí Quản lí nhà nước, số 4/1998).
Đặng Biên – Nền kinh tế rhị trường theo định hướng XHCN ở nước ta ( Thông tin- lí luận, số 1/1995).
Nguyễn Hữu Vượng – Từ phương diện triết học suy nghĩ về đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. ( Tạp chí Triết học, số 1/1998).
Dương Bá Phượng, Nguyễn Minh Khải – Kinh tế thị trường và định hướng XHCN (Tạp chí cộng sản, số 18/1998).
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000, 2001-2005, và năm 2004 của bộ kế hoạch và đầu tư - www.mpi.gov.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33785.doc