Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay

Lời mở đầu Việc thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa với thế giới bên ngoài đã và đang làm thay đổi căn bản những vấn đề về nhận thức và phương thức điều tiết sự phát triển nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩađược đặt ra như là sự nhận thức lại và khắc phục những sai lầm của quá khứ trong việc xây dựng nền kinh tế theo mô hình thuần nhất, không có thị trường. Trong bối cảnh nước ta đang chuyển đ

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường như đường lối của Đảng đề ra từ Đại hội vi, vii thì vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trở nên vô cùng quan trọng. Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng đều có vai trò nhất định trong sự nghiệp của đất nước nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, Nhà nước thực hiện vai trò theo định hướng và mục tiêu khác nhau, tuỳ theo bản chất của hình thức nhà nước mà con đường mà mỗi quốc gia lựa chọn. Nhưng phải thừa nhận rằng: Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay. Trong phạm vi bài viết của mình, với đề tài này em hy vọng sẽ trình bày được một số vấn đề về tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên không thể tránh được những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy. Em xin chân thành cảm ơn thầy việt đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Với đề tài: “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay” Nội dung I .Sự cần thiết kháCH quan và vai trò kinh tế của nhà nước 1 .Lịch sử ra đời và vai trò kinh tế của nhà nước 1.1.Qúa trình hình thành nhà nước. Nhà nước là một phạm trù lịch sử . Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển lịch sử, và nhà nước sẽ mất đi khi các cơ sở tồn tại không còn nữa. Lịch sử cho thấy rằng , xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công hưu về tư liệu sản xuất , mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Chế độ tư hưu ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng-chủ nô và nô lệ. Quan hệ người áp bức bóc lột người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ . Mâu thuẫn giữi giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc ; cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được . Để bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỷ của mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp nô lệ, bắt họ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp. Bộ máy đó là nhà nước. Vậy, nhà nước là một tổ chức chính trị của giai cấp thống về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nhà nước này xuất hiện trong cuộc đấu ttanh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đến là nhà nước phong kiến. Nhà nước tư bản cũng xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng vốn có của mỗi xã hội ấy. ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà thì ở đó nhà nước xuất hiện. Lê-nin viết : " Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể diều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được "(1)(1)V.I . Lê - nin: Toàn tập, t.33 Nxb Tiến bộ. M. 1976, tr.9 (2)C. Mác - Ăng - ghen: Tuyển tập (gồm 6 tập ) t. VL. Nxb Sự thật. HN.1984, tr. 260 - 261. Như vậy, nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, không phải là cái được sinh ra từ bên ngoài xã hội áp đặt vào xã hội, cũng không phải do ý kiến chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào, sự ra đời và tồn tại của nó là một yếu tố khách quan " từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai cấp", làm cho cuộc đấu tranh giữa " những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không thể đi đến chỗ tiêu diệt nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội....và giữ cho sự sung đột đó nằm trong " vòng trật tự " (2) Trật tự đó hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Đương nhiên, giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế, là người chủ tư liệu sản xuất ( suy cho cùng thì địa vị ấy cũng do lịch sử quy định ) 1.2.Vai trò kinh tế của nhà nước. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế, song ở một chế độ xã hội nhất định, vai trò kinh tế của Nhà nước có những biểu hiện thích hợp với chế độ xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, vai trò kinh tế chỉ dừng lại ở việc điều tiết thuế và luật pháp là chủ yếu. ở đây, Nhà nước chưa ở bên trong quá trình sản xuất mà ở bên ngoài, bên trên theo cách nói của ăng ghen . Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện khu vực sở hữu nhà nước, làm cho nhà nước tư bản bắt đầu có vai trò kinh tế mới. Nhà nước tư sản ngoài việc can thiệp ( điều tiết ) nền sản xuất xã hội thông qua thuế và pháp luật, còn có vai trò tổ chức quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế của nhà nước. Chỉ đến nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân và vì dân, mới xuất hiện vai trò kinh tế đặc biệt và mới mẻ trong lịch sử phát triển. Nhà nước xét theo khía cạnh kinh tế. Nói một cách chính xác hơn, vai trò kinh tế này đã có mầm mống từ chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa nó được hoàn thiện hơn, điểm mới được quyết định ở đây là sự khác của tính chất Nhà nước. Vai trò kinh tế đó là tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh tế vĩ mô lẫn ở tầm kinh tế vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước là chủ yếu. Sở dĩ Nhà nước có vai trò kinh tế nói trên thông qua hai loại chức năng kinh tế sau: +Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế: Thực hiện chức năng quản lý kinh tế này, Nhà nước thông qua các công cụ: ngân sách, tín dụng, ngân hàng, dự trữ quốc gia, khu vực kinh tế nhà nước, luật kinh tế, các chính sách kinh tế đòn bẩy kích thích, kế hoạch với tư cách là công cụ đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng mục tiêu cân đối vĩ mô....Thông qua đó, Nhà nước tác động vào tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, tạo môi trường kinh tế ( sức mua đồng tiền và giá cả ) ổn định và hành lang cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong từng xí nghiệp và trên phạm vi toàn xã hội trong từng thời kỳ. +Chức năng "Chủ sở hữu tài sản công của nhà nước" Với tư cách là chủ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại biểu, Nhà nước có đủ tư cách quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Song nhà nước chỉ là người sở hữu đại biểu, chứ không phải là người sở hữu thực ( chiếm hữu và sử dụng các điều kiện của sản xuất trong quá trình sản xuất, làm cho sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế ). Người chủ sở hữu thực phải là giám đốc các xí nghiệp ( người đại diện cho công nhân viên chức của xí nghiệp). Sự phân biệt như vậy có tác dụng góp phần làm cho trong xí nghiệp nhà nước mọi tài sản đều có chủ và góp phần phát huy nguồn tự chủ về các mặt của xí nghiệp trên cơ sở xác định đúng chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Cần chú ý rằng: đối với khu vực kinh tế nhà nước với tư cách là người sở hữu đại biểu, Nhà nước có quyền quản lý, nhưng không quản lý trực tiếp (quyền quản lý sản xuất kinh doanh trực tiếp là của xí nghiệp ) mà chỉ quản lý gián tiếp qua các khía cạnh sau : Quyết định thành lập hay giải thể xí nghiệp Quyết định phương hướng kinh doanh chính của doanh nghiệp và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối vơí nhà nước. Bổ nhiệm hay miễn nhiệm giám đốc và các chức danh khác ở xí nghiệp Ban hành các chính sách cần thiết có tính pháp lệnh đối với doanh nghiệp Kiểm tra thực hiện các chính sách đó tại các doanh nghiệp + Vai trò kinh tế của nhà nước qua các giai đoạn lịch sử : Trong thời đại chiếm hữu nô lệ : Nhà nước chủ nô - Kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử. Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước ở đây đó là nhà nước trực tiếp can thiệp vào quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm, nhà nước này đã sử dụng các công cụ phi kinh tế để chiếm đoạt, cưỡng chế kinh tế. Trong thời đại Phong kiến : Nhà nước không chỉ can thiệp vào kinh tế mà còn có các chính sách để phát triển kinh tế, đứng ra tập hợp nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Nói chung ở thời kì này vai trò quản lý kinh tế của nhà nước được thể hiện khá rõ ràng. Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản: Khi chủ nghĩa tư bản hình thành quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện, nhà nước tư sản thực hiện chinh sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt, dùng hàng dào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao…. 2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của nhà nước. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C.Mác coi quyền lực của nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới “. Trong tác phẩm “Chống Đuy- Rinh” F.Anghen cũng nhấn mạnh rằng : “ giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước”. Vì vậy việc xuất hiện vai trò kinh tế của nhà nước là một yếu tố khách quan: 2.1 Nhà nước là một bộ máy, là một lực lượng quản lý toàn bộ xã hội trong đó có quản lý về kinh tế. Nhà nước là một bộ máy, là một hệ thống tổ chức chặt chẽ tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đặt trên hạ tầng cơ sở của xã hội – cơ sở kinh tế. Từ sự xuất hiện của nhà nước đến bản chất, chức năng, hình thức, bộ máy nhà nước đều phụ thuộc vào những đòi hỏi khách quan của cơ sở kinh tế mà có tính độc lập tương đối trong quan hệ với cơ sở kinh tế, thúc đẩy nó phát triển nhanh thông qua các chính sách kinh tế khoa học và phù hợp. Ngược lại, Nhà nước có thể đóng vai trò tiêu cực, cản trở sự phát triển kinh tế do các biện pháp kinh tế lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất. Hơn nữa nhà nước còn là tổ chức quyền lực chung, là phương thức tổ chức đảm bảo lợi ích xã hội, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý, chức năng kinh tế đẻ bảo vệ lợi ích chung cho xã hội và lợi ích giai cấp thống trị. 2.2 Sản xuất ngày càng được xã hội hoá vì thế cần phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất. Vào đầu những năm 30 của thế kỷ 20, thuyết “Bàn tay vô hình” đã bộc lộ những mặt hạn chế. Thời kỳ này những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên. Hơn nữa trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng : cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, đIũu tiết nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý thuyết “Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường” . Tư tưởng nhà nước can thiệp vào nền kinh tế thị trường của Keynes xuất phát từ chỗ cho rằng : sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, vì vậy cầu giảm xuống.Sự giảm sút của cầu tiêu dùng hay tiêu dùng không chỉ kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá từ đó làm cho tỷ xuất lợi nhuận giảm xuống. Nếu tỷ xuất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi xuất vay thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn đầu tư nên sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này chắc chắn sẽ dẫn nền kinh tế đi đến chỗ trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng tăng. Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, can thiệp vào thị trường, mở ra các cuộc đầu tư lớn. Làm như vậy mới huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Khi nhu cầu tăng lên sẽ làm cho sản xuất tăng nhanh, nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi xuất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển… ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Trong số các nhà kinh tế theo xu hướng “ hỗn hợp “, nổi bật là nhà kinh tế học người Mỹ Paul Samuelson với quan điểm “Kinh tế hỗn hợp “. Trong kinh tế học ông cho rằng : “ Điều hành một nền kinh tế không có cả kinh tế lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, khi mà quá trình xã hội hoá sản xuất ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc thì càng cần có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. 2.3 Do khuyết tật của cơ chế thị trường tác động vào kinh tế vì thế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Do chạy theo lợi nhuân tối đa nên trong sản xuất và kinh doanh các doanh nghiệp có thể gây nên hậu quả xấu đối với môi trường : gây nên tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường, khai thác tài nguyên quá mức. Cơ chế thị trường dễ làm nảy sinh các vấn đề xã hội : thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo tác động xấu đến đạo đức và tình người, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, tiêu cực trong xã hội. Cơ chế thị trường chứa đựng những khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế làm mất kinh tế vĩ mô. Do những khuyết tật trên nên nói chung cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế với những mức độ khác nhau. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, đạt hiệu quả kinh tế xã hội, ngăn chặn và giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, giữ vững được quá trình phát triển kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nhà nước quản lý nền kinh tế tạo ra hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vô cùng quan trọng. Sự quản lý của nhà nước không những nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh mà còn phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là gắn bó phát triển kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội, xây dựng một xã hội văn minh. II. Sự hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới ở việt nam 1.Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở Việt Nam 1.1 Cơ chế này được hình thành như thế nào? Khác với một số nước Đông Âu chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Để sớm có chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải sử dụng mô hình kinh tế mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang có. Đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân là quy luật đặc thù riêng có của chủ nghĩa xã hội, là quy luật điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế, nên nhà nước ta đã lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế: Vấn đề này trong văn kiện Đại hội lần thứ ba của Đảng ta đã ghi:"Chúng ta đều biết rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa về bản chất là một nền kinh tế kế hoạch hoá, các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội gồm cả quy luật phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đều phát sinh từ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chúng ta cũng biết rằng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội phản ánh tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng tự nó không thể phát huy tác dụng được mà chúng ta phải biết vận dụng các quy luật ấy. Cho nên việc lãnh đạo phát kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm vụ quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa". 1.2 Đặc trưng của cơ chế cũ Thứ nhất : Nhà nước nắm trong tay toàn bộ nguồn lực và thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh để chỉ huy nền kinh tế, vì vậy nó đã thủ tiêu đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế cơ sở. Thứ hai : Các cơ quan hành chính kinh tế của nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động nội bộ các đơn vị cơ sở bằng các chỉ thị, nhưng lại không chịu hoàn toàn về vật chất đối với các quyết định của mình đưa ra. Thứ ba : Cơ chế kế hoạch hoá đã tạo ra một bộ máy trung gian kém năng lực nhưng cửa quyền, quan liêu từ đó tạo ra một đội ngũ cán bộ kém chuyên môn. Thứ tư : Bao cấp tràn lan, bao cấp vật tư, bao cấp lương thực … bao cấp việc tiêu thụ sản phẩm ở đầu ra và cung ứng ở đầu vào. 1.3 Ưu điểm của cơ chế cũ Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc… Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. 1.4 Nhược điểm của cơ chế cũ Khi đất nước đã được hoà bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế này đã bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển. Điều này thể hiện ở những mặt hạn chế sau: Một là: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính theo kiểu chỉ huy. Nhà nước quản lý các cơ sở, các doanh nghiệp thông qua việc giao những chỉ tiêu pháp lệnh hết sức chi tiết và tỉ mỉ. Chính vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh của cấp trên, nên người lao động và các cơ sở sản xuất hoàn toàn thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị thui chột. Hai là: các cơ quan hành chính – kinh tế của nhà nước như các bộ, các cục, các sở thường can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng họ lại không chịu trách nhiệm trức những quyết định của mình. Ba là: Cơ chế cũ coi nhẹ quan hệ hàng hoá, tiền tệ và hiệu quả kinh tế trong sản xuất. Nhà nước quản lý các doanh nghiệp bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật ( chế độ tem phiếu ) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Bốn là: Bộ máy quản lý cồng kềnh có nhiều khâu trung gian kém hiệu lực. Từ đó nảy sinh một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta thời kỳ này đã tích cực ghép những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Sau một quá trình dài thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung này Đảng và Nhà nước đã nhận thức được thiếu sót và hạn chế của nó. Vì vậy từ những năm 1986 cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước thì ở nước ta cũng thực hiện đổi mới từ cơ chế cũ ( cơ chế kế hoạch hoá tập trung ) sang cơ chế mới ( cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa) như là một yếu tố để phát triển nền kinh tế của đất nước, nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế của thời đại. 2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng cơ chế đó vào Việt Nam 2.1 Khái niệm cơ chế thị trường Cơ chế đang hình thành ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy cơ chế thị trường là gì? Một hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra những hàng hoá gì, việc sản xuất được tiến hành theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế- xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó ?. Trong một nền kinh tế, mà người ta gọi là kinh tế chỉ huy, những vấn đề cơ bản đó do cơ quan của nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thi trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ …và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất đối với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Như vậy có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hóa do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. 2.2 Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường Ưu điểm: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra quyết định. Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khẳ năng thích nghi cao hơn khi những đIều kiện kinh tế thay đổi, là thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu dòng tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có lợi nhuận cao. Do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương thức nào, bằng công nghệ gì. Được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá cả. Và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất ( đất đai, lao động, vốn ). Thu nhập của các tầng lớp dân cư phụ thuộc vào số lượng và giá cả các nhân tố sản xuất. Như vậy, thi trường giải quyết vấn đề cái gì, như thế nào và cho ai. Khuyết tật: Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế đIều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là sự hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội: +Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn đến phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Như vậy hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của chạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả của kinh tế- xã hội không được đảm bảo. + Có những mục tiêu xã hội mà dù ở cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nhà nghiên cứu phương tây đã nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau: “ trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người “ + Một nền kinh tế do cơ chế thị trường đIều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hỏng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giảI của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp và công ăn việc làm đầy đủ. Như vậy, cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó. Do đó, ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi nền kinh tế hỗn hợp. 2.3 Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam Sau Đại hội VI của Đảng, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ hơn, toàn diện hơn việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Có thể nêu ra những điểm đổi mới cơ bản sau: Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Nếu trước đây kinh tế tư nhân, cá thể không được thừa nhận thì nay được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Nhà nước đã ban hành nhiều luật như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các công dân Việt Nam theo đúng luật pháp, không hạn chế về vốn đầu tư và số lượng lao động.Trong nông nghiệp, nông dân được quyền sử dụng đất lâu dài và tự do bán sản phẩm trên thị trường. Các hợp tác xã được cải tổ lại theo hướng tập chung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Chuyển mạnh cơ chế thị trường với việc sử dụng mạnh mẽ các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế. Trong thời gian qua chúng ta đã có những thay đổi có ý nghĩa trong xuất nhập khẩu và đầu tư hợp tác nước ngoài. Về xuất khẩu: Tự do hoá thương mại, giảm bớt một số thủ tục xuất nhập khẩu không cần thiết. Thay đổi định hướng thị trường xuất nhập khẩutheo hướng mở rộng thị trường ra một số nước mới, nhất là các nước trong khu vực.Việc áp dụng tỷ giá hiện thực và tự do trao đổi ngoại tệ tại các thị trường ngoại hối chính thức cũng góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Cải cách một bước bộ máy kinh tế. Vai trò lập pháp, kiểm soát, giám sát của Quốc hội được tăng cường. Bộ máy quản lý các cấp được sắp xếp một bước theo hướng thu gom đầu mối, tinh giảm biên chế, phân định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp. Từng bước phân định tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp. Từng bước thay đổi phương thức đIều khiển nền kinh tế từ ra các mệnh lệnh trực tiếp là chủ yếu sang gián tiếp là chủ yếu. Bước đầu tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cho phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu phát huy đựoc năng lực nội tại nền kinh tế, làm cho nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn ra khỏi khủng hoảng. Quan trọng nhất là đã phát huy được động lực, nhân cách, sức sáng tạo, tính chủ động và đức tính cần cùcủa người lao động. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát. Tăng mạnh đầu tư trong nước. Trong tổng vốn đầu tư trong nước thì đầu tư của nông dân, kinh tế tư nhân, cá thể chiếm một phần quan trọng. Sản xuất trong nước có phát triển, đặc biệt là khu vực tư nhân. Việt Nam đã từ nước phải thường xuyên nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thên thế giới. Xuất nhập khẩu về cơ bản đã bảo đảm được các nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế và xã hội. Ngân sách Nhà nước có thể bảo đảm được các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Hiệu quả chung của nền kinh tế được nâng cao hơn trước. Đã tạo được những điều kiện ban đầu cho tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật làm cho công nghệ, kỹ thuật nhanh chóng được đổi mới, chất lượng sản phẩm được nâng cao và giá thành hạ, bao bì đóng gói phù hợp hơn, nghĩa là guồng máy kinh tế bớt trì trệ, người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá và dịch vụ nên sản xuất phù hợp hơn với tiêu dùng, tránh cho xã hội những tổn thất lớn do sản xuất không phù hợp với tiêu dùng. Đời sống phần lớn lao động được cải thiện đáng kể trên nhiều chỉ tiêu tiêu dùng cá nhân. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn trên trường quốc tế. Tuy nhiên còn không ít thiếu sót cần khắc phục trong thời gian tới, đó là : Tự do kinh doanh và cạch tranh theo pháp luật – hai thế mạnh của cơ chế thị trường- chưa được quán triệt đầy đủ và thực thi hữu hiệu trên thực tế. Hệ thống thị trường chưa đầy đủ. Một số thị trường đã có mới ở giai đoạn kém phát triển nên hoạt động chưa hoàn hảo, gây ra nhiều ách tắc trong nền kinh tế. đổi mới không đồng bộ, chưa toàn diện. Mới chú trọng đổi mới về các chính sách kinh tế. một số lĩnh vực quan trọng khác đổi mới rất chậm hoặc chưa đổi mới,ví dụ, kế hoạch hoá định hướng. Bộ máy Nhà nước trên thực tế vẫn còn can thiệp sâu vào quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước chưa thật sự điều hành nền kinh tế theo pháp luật, cộng với cơ chế phân phối chưa phát huy đầy đủ và đúng đắn động lực vật chất cũng như động lực tinh thần của cán bộ và người lao động nên tham nhũng buôn lậu v.v…. đã trở thành quốc nạn. Có thể nói đây là vấn đề nhức nhối liên quan đến sự tồn, vong của chế độ. III. Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1 Nội dung. Thứ nhất, về chế độ sử hữu. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hoá, trao đôỉ mua bán hàng hoá, dịch trên thị trường theo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo nguyên tắc trên, sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào kinh tế thị trường ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ sự trao đổi đó. Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những người tư nhân mới đối ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28045.doc