Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta

Lời nói đầu Xây dựng và phát triển nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước là chủ trương chiến lược, lâu dài, đúng đắn của đảng ta và bước đầu đã thu được những thành công hết sức đáng khích lệ. Sự thành công này là do công sức đóng góp to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước là cực kì quan trọng. Quản lý Nhà nước về kinh tế là một yếu tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển của mọi đất

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước. Do đó, việc nghiên cứu vai trò kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa to lớn. Đây là vấn đề lớn, nhưng trong giới hạn cho phép xin đề cập giải quyết một số nội dung cơ bản và được phản ánh ở 4 vấn đề chính sau: Thứ nhất, sự cần thiết, khách quan của vai trò quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước. Thứ hai , những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ ba, mục tiêu và chức năng quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước. Thứ tư, một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay. ************************* Nội dung I. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế 1. Lịch sử ra đời và vai trò quản lí kinh tế của nhà nước Con người ngay từ buổi sơ khai ban đầu đã biết quy tụ nhau lại thành bầy,nhóm để tồn tại với hai mục tiêu bảo đảm an toàn để tiến hành các hoạt động sinh sống;dần dần sự cộng sinh tồn tại đó được tổ chức ngày một chặt chẽ và tạo thành các xã hội với các hoạt động đa dạng và phong phú trên trái đất. Xã hội không phải là phép cộng đơn giản các cá nhân, mà là một hệ thống các hoạt động, các quan hệ của con người, có đời sống kinh tế, văn hoá chung, cùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi xã hội chưa phân thành giai cấp, chưa có sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người, thì qui tắc xử sự chung của toàn xã hội được thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người trong xã hôị, bằng uy tín của các thủ lĩnh, lãnh tụ trong cộng đồng. Sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, xã hội loài người phân chia thành giai cấp, bắt đầu sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các nhóm, các tập đoàn người thì sự đấu tranh giữa họ ngày càng gay gắt. trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng kỉ cương nhất định giai cấp thống trị nắm trong tay những lực lượng chủ yếu, những công cụ bạo lực lớn – các yếu tố chủ yếu tạo nên quyền lực xã hội, tìm cách tổ chức nên một thiết chế đặc biệt với những công cụ đặc biệt – thiết chế nhà nước và Nhà nước bắt đầu xuất hiện. Như vậy, Nhà nước ra đời khi sản xuất và văn minh xã hội phải phát triển và đạt đến một trình độ nhất định, cùng với sự phát triển đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu, và xuất hiện giai cấp trong xã hội. Nhà nước thực chất là một thiết chế quyền lực chính trị, là cơ quan thống trị giai cấp của một hoặc một nhóm giai cấp này đối với một hoặc toàn bộ các giai cấp khác, đồng thời còn để duy trì và phát triển xã hội mà Nhà nước đó quản lí trước các Nhà nước khác. Nhà nước còn là tổ chức công quyền thống nhất quản lý toàn xã hội hoặc đến các đối tượng liên quan đến xã hội nhằm sắp xếp, tổ chức, bảo toàn những đặc trưng về chất của chúng, hoàn thiện và phát triển chúng theo hướng nhất định, tức là:Nhà nước không chỉ là công cụ trong tay giai cấp thống trị mà quyền lực đại diện cho lợi ích chung của toàn cộng đồng xã hội. Trong các đặc trưng về chất, đặc trưng về mặt Kinh tế gồm: vấn đề sản xuất và vấn đề lợi ích Kinh tế là quan trọng nhất, vì các hoạt động Kinh tế ngày một trở nên là các hoạt động cốt lõi của xã hội. Các Nhà nước trước Chủ nghỉa xã hội về cơ bản là đại diện cho quyền lợi thiểu số giai cấp thống trị giàu có nhằm bóc lột, nô dịch đại đâ số nhân dân lao động trong và ngoài nước. Đặc biệt là Nhà nước tư sản, thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ quản lí khác để chi phối các hoạt động Kinh tế và xã hội, duy trì và phát triển lợi ích của các nhà tư bản. Dù dưới nhiều hình thức khác nhau, các nhà lí luận bênh vực cho các nhà tư sản đã không thể phủ nhận bản chất giai cấp Nhà nước, Nhà nước đó là tên lính canh cửa của chế độ sở hữu tư sản đúng như C. Mác đã phê phán: “chính những tư tưởng của các ông là con đẻ của chế độ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí cua giai cấp các ông, được đề lên thành pháp luật, các ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Trong lĩnh vực Kinh tế, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền ở các nước phát triển, để giải quyết những hiện tượng Kinh tế xã hội nảy sinh, đã có nhiều lí thuyết về vai trò thực tế của Nhà nước trong việc điều chỉnh nền Kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như những khó khăn về Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có sự phân tích tình hình mới. ở giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản, các lí thuyết Kinh tế tư bản đã chứng minh sự ra đời tất yếu và sứ mệnh tiến bộ của phương thức tư bản chủ nghĩa và chống lại các thế lực phong kiến. Nhưng, từ thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19, trường phái cổ điển và tân cổ điển mới coi nhà nước tư bản chỉ là người canh gác và bảo về tài sản cho Chủ nghĩa tư bản, họ ủng hộ nguyên tắc tự do Kinh tế, chưa nhìn thấy vai trò điều chỉnh Kinh tế của Nhà nước. Adam Smith một nhà Kinh tế học người Anh cho rằng: “hoạt động Kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối.” Tất cả được giải quyết thông qua thị trường. Sang thời kì công nghiệp hoá, Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn, người ta chỉ phê phán những tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối. Nhưng rồi Chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ những mâu thuẫn và nhược điểm, không chỉ những mâu thuẫn về giai cấp mà cả những mâu thuẫn giữa các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, giữa các ngành Kinh tế, giữa thành thị và nông thôn…đã làm xuất hiện tính khủng hoảng chu kì của nền Kinh tế TBCN. Trước đòi hỏi thực tiễn, nhiều nhà Kinh tế TB đã đưa ra các học thuyết khác nhau đễ lí giải mâu thuẫn và tìm đến vai trò của Nhà nước , trong việc điều chỉnh các mâu thuẫn nhằm giải quyết các mất cân đối trong quá trình tái sản xuất và giảm nhẹ các cuộc khủng hoảng mang tính chu kì. Tuỳ giác độ và điều kiện nghiên cứu cụ thể khác nhau và đưa ra các khuyến nghị khác nhau; trong đó chủ yếu là việc điều chỉnh sự bóc lột của giai cấp TS đối với người lao động. Tuy nhiên, trong các lí thuyết ấy, dù góc độ xem xét khác nhau, dù quan niệm khác nhau về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước nhưng họ đều thấy một thực tế là: theo đà phát triển của sản xuất, chức năng của Nhà nước sẽ tăng lên. Tuy nhiên họ vẫn cho rằng: tự do Kinh tế là sức mạnh hoạt động của nền Kinh tế TBCN . Họ tin vào cơ chế thị trường và sự điều tiết hoạt động theo cung cầu và giá cả. Theo sự điều tiết hoạt động của:”bàn tay vô hình” mà quá trình tái sản xuất bảo đảm được tỉ lệ cân đối và duy trì được sự phát triển bình thường. Song cuộc khủng hoảng Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản bắt dầu từ năm 1925 và trở nên thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ “bàn tay vô hình “ không thể bảo đảm cho nền Kinh tế TBCN phát triển bìmh thường. Hơn nữa, xu hướng xã hội hoá sản xuất càng cao đã cho thấy cần phải có một lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình Kinh tế , điều tiết Kinh tế. J. M. Keynes- Nhà Kinh tế học nổi tiếng người Anh, trên cơ sở đánh giá vai trò của Nhà nước ở vị trí hoàn toàn khác đã sáng lập ra lí thuyết “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết “. Ông cho rằng :Cơ chế thị trường không thể đẩm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất để đảm bảo cho Chủ nghĩa tư bản hoạt động bình thường , tránh đuược thất nghiệp và khủng hoảng. Keynes đã đứng trên giác độ quả lí Kinh tế vĩ mô nền Kinh tế để phân tích các mâu thuẫn và những mất cân đối vốn có trong nền Kinh tế TBCN ở giai đoạn Chủ nghĩa tư bản độc quyền . Ông cho rằng xã hội loài người có sự tồn tại “quy luật tâm lí chủ yếu “ là khi thu nhập cũng tăng thì khuynh hướng tiêu dùng giảm xuống” mà khuynh hướng tiết kiệm càng phát triên. Điều đó dẫn đến sự giảm “cầu” mà “cầu” lại là động lực để phát triển sản xuất. Để tiếp tục phát triển sản xuất, để khôi phục lại sự cân bằng phải tạo ra “cầu tích cực” bằng sự can thiệp của Nhà nước nhằm tăng chi phí cho ngân sách, cho đầu tư và tiêu dùng. J.M Keynes còn chứng minh rằng việc giải quyết vấn đề thất nghiệp phụ thuộc vào các điều kiện chung cuả tái sản xuất và là vấn đề Kinh tế vĩ mô, từ đó đặt lên vai Nhà nước chức năng “toàn dụng” tất cả các nguồn lực, trong đó có sức lao động. Để làm được điểu đó nhà nước không chỉ dừng lại ở việc thực hiện một số biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh của nhà tư bản mà phải thực hiện những chức năng quản lí vĩ mô nền Kinh tế với sự nghiên cưú và dự báo xu hướng phát triển trong tương lai, xây dựng các kế hoạch để tạo ra “cầu tích cực” và đề ra biện pháp can thiệp, điều chỉnh thích hợp nhắm khắc phục những mâu thuẫn quá trình tái sản xuất. Thực tế cho thấy vai trò quản lí của Nhà nước là cực kỳ quan trọng. Nhà nước quản lí tồi sẽ đưa tới đất nước nghèo, lầm than, đổ vỡ, chiến tranh. Nhà nước quản lí tốt sẽ đưa đất nước tới sự giàu mạnh, phát triển thậm chí có sự bành trướng 2. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam a. Bản chất Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với bản chất của Nhà nước giai cấp bóc lột. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nguyên lí này đúng với mọi Nhà nước nói chung, nhưng với Nhà nước ta, do những đặc điểm về mặt bản chất giai cấp, nó là sự thể hiện nền dân chủ cao nhất. Do đó nó có vai trò sáng tạo lớn nhất trong việc xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Mà đặc điểm cơ bản là: Thứ nhất, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nguyên tắc cao nhất của chế độ ta là “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” “Nhà nước Việt Nam là do giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức làm nền tảng; liên minh với tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và hơn nữa, thu hút cả những phần tử tư sản đang tồn tại và phát triển một cách hợp pháp đó là Nhà nước đảm bảo xây dựng xã hội đi theo con đường hướng lên Chủ nghỉa xã hội, theo lập trường tư tưởng, lí tưởng của giai cấp công nhân; mà cũng là nguyện vọng của nhân dân lao động, của dân tộc. Thứ hai, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ quan thống trị giai cấp, là một bộ máy thống nhất quản lí xã hội về mọi mặt. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức của Nhà nước. Một mặt Nhà nước thực hiện dân chủ với đại đa số nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác tổ chức xây dựng lên một xã hội mới – xã hội Xã hội chủ nghĩa và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội ấy không ngừng phát triển Các quan điển và nguyên tắc cơ bản của thiết chế Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thứ nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Thứ hai, quyền lực Nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng có phân công rành mạch giữa các quyền Thứ ba, nguyên tắc tập chung dâ chủ là chủ đạo Thứ tư, xây dựng một Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa 3. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền Kinh tế thị trường Vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất qui định. Lực lượng sản xuất càng phải phát triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Như đã biết nển Kinh tế hàng hoá với cơ chế Kinh tế thị trường là bước phát triển tất yếu của Kinh tế tự cấp, tự túc, một trình độ cao của sự xã hội hoá sản xuất… tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hoá sản xuất ở mỗi nước và trong từng thời kỳ mà giữa chúng có quan hệ tỉ lệ nhất định đảm baỏ cho sự phát triển cân đối, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của nhân tố tự nhiên, xã hội, Kinh tế, chính trị và đối ngoại làm cho các quan hệ tỉ lệ luôn biến động. Các quan hệ tỉ lệ đó có thể phù hợp với yêu cầu của các qui luật và tính qui luật vận động khách quan, phát triển Kinh tế xã hội và tạo điều kiện cho Kinh tế tăng trưởng; ngược lại các quan hệ tỉ lệ đó có thể không phù hợp và làm cho nền Kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Đặc biệt là, khi các quan hệ Kinh tế được hình thành và phát triển thì các hoạt động Kinh tế trong và ngoài nước xâm nhập, tác động lẫn nhau, các nguồn lực bên trong – bên ngoài có thể di chuyển phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu phát triển trong nước; qui mô và cơ cấu nền Kinh tế có thể dịch chuyển theo hướng tiến bộ, hợp lí tối ưu hay lạc hậu, bất hợp lí, mất cân đối, và nền Kinh tế dân tộc của mỗi quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một khâu cần thiết của hệ thống phân công lao động quốc tế. Có thể nối vận mệnh của mỗi nền Kinh tế quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các quan hệ bên trong, mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài: thị trường khu vực và quốc tế Tình hình đó đã đặt lên vai các Nhà nước nhiệm vụ không chỉ là “người lính” bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia, mà còn là người hiểu biết qui luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo các diễn biến Kinh tế trong và ngoài nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy Kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các qui chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động: Kinh tế, đối ngoại, định hướng phát triển của các ngành – vùng, lĩnh vực… nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong sự phát triển do chính các qui luật và tính khách quan của đời sống Kinh tế – xã hội quy định. Có thể khẳng định rằng, yêu cầu cân đối trong sự phát triển nền Kinh tế cơ sở kháh quan, sâu xa của vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế. Trong nền Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, được thể hiện như sau: Thứ nhất, trong nền Kinh tế hàng hoá vận độngtheo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh, mỗi địa phương… đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm mọi biện pháp để tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi địa phương có thể nhìn hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đối với lợi ích của người khác, ngành, vùng khác; và do đó tất yếu nảy sinh hiện tượng lợi ích của cá nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể của nền Kinh tế quốc dân Biểu hiện: các hoạt động Kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỉ lệ Kinh tế quốc dân bị phá vỡ sự phân bố các nguồn lực không hợp lí, cơ cấu Kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh… Muốn khắc phục nhược điểm này, cần có một bộ phận điều hành vĩ mô bằng việc hoạch định chương trình, chiến lược về kế hoạch phát triển với các mục tiêu về qui mô, về cơ cấu, nhịp độ và tốc độ tăng trưởng của từng ngành – vùng, về các mục tiêu Kinh tế vĩ mô khác, cũng như của toàn bộ nền Kinh tế từng cá nhân, doanh nghiệp - ngành – vùng trong nước. Bộ phận điều hành việc đó không ai khác là Nhà nước – chủ thể Kinh tế của mỗi quốc gia. Như vậy nếu không có vai trò của Nhà nước, sẽ không có việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành – vùng để hình thành cơ cấu Kinh tế hợp lí tối ưu; sẽ không có sự phát triển của ngành có ý nghĩa thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ trong toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. Sẽ không có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, bảo hộ sản xuất trong nước, chiếm lính thị trường nước ngoài. Nếu không có Nhà nước, sẽ không có nguồn tích luỹ tập trung qui mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển Kinh tế xã hội và giải quyết những cơ chế thị trường không thể thực hiện được, đặt biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội. Thứ hai, trong nền Kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh, hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và các qui luật của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại hàng hoá và dịch vụ mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng lại không được thanh toán và bồi hoàn đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực tràn ra thị trường không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị Kinh tế, gây ra một tổn phí lớn trong xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên phạm vi toàn xã hội. Thì tư nhân không thể cung cấp được. Điều này là hiển nhiên vì tư nhân không thể chi phối được giá cả và thu hồi được chi phí bỏ ra, và xã hội cũng không chấp nhận những hoạt động sản xuất và tiêu dùng chỉ nhằm tối đa hoá lợi ích của người khác, và lợi ích cộng đồng. Do vậy, Nhà nước với tư cách chủ thể nền Kinh tế quốc dân, với mục tiêu Kinh tế vĩ mô, cần thiết phải nắm và đảm bảo cho xã hội những loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá ma nếu nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lí; vì lợi ích Kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm môi trường… Cơ chế thị trường “bàn tay vô hình” – không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Vì thế Nhà nước có chức năng bảo đảm về mặt chính trị và xã hội, bảo hiểm về mặt Kinh tế nhằm duy trì các quan hệ vì lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị và bảo vệ được quyền lợi và địa vị giai cấp thống trị. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị và môi trường Kinh tế, xã hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ Kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được mỗi nước Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền Kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày một tăng. Những diễn biến Kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi đòi hỏi có vai trò của Nhà nước. Nhà nước cần và có điều kiện để thực hiện vai trò này, vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là chủ thể của nền Kinh tế độc lập, có chu quyền có lợi ích Kinh tế tách biệt, Nhà nước lại nắm trong tay những quyền lực Kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích giai cấp, Nhà nước của mỗi nước phải trực tiếp tác động đến quan hệ Kinh tế đối ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi cho nền Kinh tế có lợi trong khu vực và quốc tế Thứ năm, vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, khống chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy Kinh tế và chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực Kinh tế cua Nhà nước – tức là sức mạnh của hệ thống Kinh tế Nhà nước và các công cụ Kinh tế đặc biệt khác Tóm lại, việc khắc phục những nhược điểm hạn chế và khuyết tạt của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt độngcó hiệu quả không thể không có Nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. II. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1. Nền Kinh tế nước ta trước cải cách năm 1986. Nền Kinh tế trước năm 1986 – nền Kinh tế kế hoạch hoá tập trung Những năm trước 1986, do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lí Kinh tế của ta được sao chép gần như nguyên vẹn từ mô hình phát triển Kinh tế xã hội và cơ chế quản lí Kinh tế các nước Xã hội chủ nghĩa mà đặc biệt là Liên Xô (cũ). Cơ chế quản lí Kinh tế của ta giai đoạn này là đề cao công cụ kế hoạch hoá, kế hoạch hoá mang tính pháp lệnh bắt buộc mà mọi ngành mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân phải theo, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định các vấn đề Kinh tế xã hội Đặc trưng cơ bản của cơ chế quản lí Kinh tế tập trung kế hoạch hoá Dựa trên cơ sở chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất. Nhà nước cải tạo các thành phần Kinh tế, chỉ chấp nhận thành phần Kinh tế Xã hội chủ nghĩa, các thành phần Kinh tế khác bị hạn chế, đặc biệt Kinh tế tư nhân bị loại bỏ Nhà nước quản lí Kinh tế thông qua chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác, tổ chức sản xuất …Nhà nước đặt ra kế hoạch sản xuất, giá cả thị trường, lỗ có Nhà nước chịu, Nhà nước bao cấp tất cả mọi mặt cho nên các cơ sở trở nên thụ động Chức năng của đồng tiền bị hạn chế, giá trị đất đai không được thừa nhận, sức lao động và tư liệu sản xuất được coi là hàng hoá nên không được mua bán. Các công cụ lãi suất, giá cả, thuế, tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh cân đối vĩ mô Với cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp như vậy sẽ kèm theo bộ máy quản lí Kinh tế cồng kềnh lại kém hiệu quả năng lực của cán bộ quản lí yếu kém, phong cách quan liêu của quyền Với đặc điểm như vậy cơ chế này có ưu nhược điểm sau: Uu điểm: - Phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trong thời kì chiến tranh, cơ chế đã động viên tích cực người lên đường chiến đấu, bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo được mức lương thực, họ yên tâm sản xuất, chiến đấu phục vụ tổ quốc. Nhược điềm: - Cơ chế này chỉ phù hợp với chiến tranh. Do đó khi chiến tranh kết thúc thì áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Điều này chúng ta không nhận thấy ngay nên trong một thời gian dài cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền Kinh tế nước ta và gây nhiều tác hại xấu tới đời sống Kinh tế xã hội - Do có sự phân phối bình quân cho nên đã khuyến khích được người sản xuất, không phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động, hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì đã có Nhà nước bao cấp bao tiêu sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm kém làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả Kinh tế lại thấp - Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu linh hoạt với thị trường, dẫn tới tình trạng sản xuất không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Mặt hàng cần thiết thì không sản xuất lại sản xuất hàng loạt mặt hàng không cần thiết gây tình trạng lãng phí - Công nghệ kỹ thuật chậm phát triển, cải tiến, chi phí cao mà chất lượng sản phẩm thấp. Cung cách hạch toán mang tính hình thức, phô trương, xuất hiện tình trạng “lãi giả lỗ thật” - Mặc dù hàng hoá kém phẩm chất nhưng làm đến đâu phân phối hết đến đó cho nên các cơ sở không tích cực sửa đổi mẫu mã, chất lượng,cải tiến cung cách làm ăn… 2. Nền Kinh tế đổi mới sau 1986 – nền Kinh tế thị trường Với cơ chế cũ đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển Kinh tế – xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý Kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hôi VII khẳng định “tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” Cơ chế thị trường có ưu - nhược điểm sau: Ưu điểm: - Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể Kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm nền Kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực xã hội vào phát triển Kinh tế - Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất, có thể được bằng cách áp dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá - Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó ó thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được - Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện Kinh tế thay đôỉ, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền Kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song “… cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” P. A Samuelsen, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội Nhược điểm: - Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền Kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đâù vào của sản xuất và đầu ra, tức đường Kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Như vậy, hiệu lực của cơ chế phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm - Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội gánh chịu do đó hiệu quả Kinh tế – xã hội không được đảm bảo - Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động hoàn hảo cũng không thể đạt được sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo ngỳ càng sâu sắc - Một nền Kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng Kinh tế có tính chu kì Như vậy, cơ chế thị trường có mọt loạt những khuyết điểm vốn có của nó. Do đó, ngày nay trên thực tế không tồi tại cơ chế thị trường thuần tuý mà có sự can thiệp của Nhà nước Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. a. Cơ chế vận hành nền Kinh tế là cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Điều đó có nghĩa là nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của Kinh tế thị trường, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực Kinh tế, khắc phục những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Tuy nhiên cần nhấn mạng rằng sự can thiệp của Nhà nước vào Kinh tế phải sao cho tương hợp với thị trường. Vì vậy Nhà nước phải sử dụng các biện pháp Kinh tế là chính để điều tiết nền Kinh tế Vai trò quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa trong nền Kinh tế thị trường hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho nền Kinh tế thị trường phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nền Kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt sự phân hoá giàu – nghèo, thành thị – nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện Kinh tế thị trường Để thực hiện vai trò đó, cần phải giữ vững và tăng cường bản chất Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay với việc nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Kinh tế của Nhà nước, cần có biện pháp hữu hiệu làm trong sạch bộ máy Nhà nước, kiên quyết bài trừ tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và hệ thống quản lý Kinh tế. Chỉ có vậy mới giữ vững được bản chất Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhờ đó thực hiện được vai trò đặc biệt là một nhân tố đảm bảo sự định hướng xã hội của nền Kinh tế ở nước ta. b. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng là nền Kinh tế mở, hội nhập với Kinh tế khu vực và thế giới Đây là hướng chung của các nền Kinh tế trên thế giới hiện nay, ở đây muốn nhân mạnh sự khác biệt nền Kinh tế mà chúng ta đang xây dựng với nền Kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. Trong điều kiện Kinh tế hiện nay chỉ có mở cửa Kinh tế hội nhập vào Kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năngvà thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển Kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa Kinh tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, thị trường trong nước gắn với thị trương khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ Kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ Kinh tế đối ngoại Trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả Kinh tế đối ngoại hiện nay, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của Kinh tế đối ngoại, điều chỉnh cơ cấu thị trường để hội nhập khu vực và thế giới, bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Cần có sự điều chỉnh trong chính sách và hoạt động Kinh tế đối ngoại cho phù hợp với tình hình thực tế từng thời kỳ Để hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (APTA) và tổ chức thương mại quốc (WTO), cần có sự chuẩn bị tích cực ngay từ bây giờ không chỉ ở cấp trung ương mà ở cả các cấp cơ sở, các doanh nghiệp phải tính đến điều kiện hoạt động khi hội nhập đầy đủ để có biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, nhờ đó tồn tại và phát triển c. Sự phát triển Kinh tế thị trường gắn liền với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Điều đã được thừa nhận rộng rãi là nền Kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về đạo đức và xã hội. Ngay từ 1884 trong “tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” C. Mác và Ph. Angen đã chỉ ra rằng xã hội tư bản “không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mới lạ lạnh lùngvà lối “ trả tiền ngay không tình nghĩa” . Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phưong Tây Edgan Morin đã chua chát nhận xét rằng : “trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”. Khi chuyển nền Kinh tế nước ta sang Kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường thì cũng nảy sinh trong đời sống thực tế những hiện tượng: Thương mại hoá không chỉ các quan hệ Kinh tế , mà cả những quan kệ xã hội sống vụ lợi,sùng bái đồng tiền, coi thường các giá trị ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0112.doc
Tài liệu liên quan