Lời mở đầu
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề của chiến tranh trong suốt thời kỳ dài và trên 40 năm sử dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung hay còn gọi là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Cho nên nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Nhưng nhờ có đường lối đổi mới phù hợp nên nền kinh tế nước ta đã vượt qua được khủng hoảng để đứng vững và đang ngày càng phát triển. Đạt được những thành tựu, kết quả to lớn ấy chúng ta không
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành & hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể phủ nhận vai trò của Nhà nước. Tại đại hội VI và nhất là tại đại hội VII của Đảng đã xác định và nhấn mạnh cơ chế quản lý mới ở nước ta phải là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCH.
Nhà nước trong lịch sử đã có vai trò quan trọng đặc biệt thì ngày nay để thực hiện cuộc cách mạng xã hội, để xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới, vai trò của Nhà nước còn tăng lên gấp bội. Không có Nhà nước nào lại đứng trên kinh tế hay đứng ngoài kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự kết hợp hài hoà tương hỗ giữa sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những tệ nạn và hậu quả xã hội một cách có hiệu quả nhất.
Vai trò của Nhà nước trong cơ chế thị trường định hướng XHCN là cần thiết và không thể thiếu được bởi nếu không có sự can thiệp của Nhà nước vào cơ chế thị trường ở tầm vĩ mô thì sẽ không đảm bảo được mục tiêu kinh tế XHCN và sẽ khó mà khắc phục, sữa chữa những hạn chế của cơ chế mới, những tàn dư còn đọng lại của cơ chế cũ. Việt Nam chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN nên càng cần có sự điều tiết kinh tế của Nhà nước để chúng ta thành công cơ chế mới, xây dựng thành công CNXH.
Chính vì tính cấp thiết và tầm quan trọng của vấn đề này đã thôi thúc em chọn đề tài: “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay”.
Vì thời gian có hạn, sự hiểu biết chưa đầy đủ, cho nên trong bài viết này còn nhiều thiếu sót, em kính mong thầy chỉ bảo thêm để em rút kinh nghiệm cho những bài viết sau. Em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Lê Việt đã giúp em hoàn thành bài viết!
nội dung
I. Sự cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung
1. Lịch sử ra đời và vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời đại lịch sử
Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử và nhà nước sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Cùng với sự phát triển của lịch sử, quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn có sự khác nhau.
1.1. Lịch sử ra đời của Nhà nước
Nhà nước là một thể chế chính trị, là một trong những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin thì “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà”. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Trong lịch sử xã hội loài người đã có một thời kỳ không có Nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất, con người cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thành quả lao động chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không có người giàu người nghèo, không phân chia giai cấp, không có đấu tranh giai cấp. Lực lượng sản xuất và năng suất lao động ngày một tiến bộ hơn, phát triển hơn. Sau ba lần phân công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, hình thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và sự đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức quyền lực đủ mạnh để dập tắt được cuộc xung đột giai cấp ấy. Đáp ứng nhu cầu này, một tổ chức ra đời đó là Nhà nước. Nhà nước xuất hiện một cách khách quan. Nhà nước là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.
Như vậy Nhà nước xuất hiện và hình thành từ giai đoạn xã hội chiếm hữu nô lệ. Nhà nước vẫn tiếp tục phát triển và tồn tại trong xã hội phong kiến, xã hội TBCN và xã hội XHCN. Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội thì đều có một kiểu Nhà nước đặc trưng. Nhưng dù trong bất cứ một xã hội nào thì Nhà nước luôn là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội. Hay có thể nói Nhà nước là sự chuyên chính về chính trị của giai cấp nắm sức mạnh kinh tế.
Nhà nước Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển đã bỏ qua giai đoạn xã hội TBCN. Hiện nay Việt Nam chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhà nước XHCN là Nhà nước mới nhất, tiến bộ nhất và là nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình Nhà nước XHCN sẽ tiêu vong và xã hội sẽ không còn tồn tại Nhà nước nữa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời đại lịch sử
Vai trò kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước chỉ vừa mới xuất hiện. Sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Vai trò kinh tế của nhà nước ở các thời đại lịch sử khác nhau là khác nhau nhưng đều nhằm hướng tới một mục đích chung đó là “đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế và phát triển lâu dài”.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô đã trực tíêp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra bằng sức lao động của những người nô lệ, phục vụ giai cấp chủ nô, chiếm đoạt của cải đó bằng các thủ đoạn cưỡng bức phi kinh tế. Các cuộc cách mạng khác nhau đã chuyển xã hội chiếm hữu nô lệ thành một xã hội mới tiến bộ hơn. Xã hội phong kiến ra đời hình thành Nhà nước phong kiến. Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức di dân khai hoangvà đề ra các chính sách ruộng đất. Chung quy lại có thể nói vai trò kinh tế của các Nhà nước trước CNTB là đặt ra chế độ thuế khoá để nuôi sống bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại.
Từ thế kỉ 15 chủ nghĩa tư bản bắt đầu hình thành, Nhà nước tư sản ra đời thay thế cho nhà nước phong kiến. Thời kì này quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện, nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành. Giai cấp tư sản cần hỗ trợ của Nhà nước như vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Nhà nước tư sản sử dụng, thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt và hà khắc để tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ không cho tiền chạy ra nước ngoài. Bên cạnh đó Nhà nước tư sản còn có các chính sách, biện pháp cứng rắn để kiểm soát ngoại thương, lập hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao, thuế xuất khẩu thấp, quy định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái, khuyến khích và hỗ trợ thương nhân trong nước. Như vậy đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị bên ngoài, bên trên quá trình sản xuất mà Nhà nước đã phát hành hối phiếu, vay nợ. Sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất. Nhờ vai trò kinh tế của Nhà nước tư sản mà các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng lớn của cải và tiền tệ. Đầu thế kỉ 18, Nhà nước tư sản tập trung khuyến khích phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất, tự do cạnh tranh trở thành xu thế tất yếuvà đòi hỏi cấp bách.
Trong tình hình đó các nhà kinh tế cổ điển đã ủng hộ tự do cạnh tranh, đại biểu cho trường phái này là Adam Smith(1723- 1790) đưa ra thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp. Mặc dù coi trọng “bàn tay vô hình” song Adam Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn… Đầu những năm 30 của thế kỷ XX những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra thường xuyên, đặc biệt cuộc khủng hoảng quy mô lớn 1929- 1933 chứng tỏ “bàn tay vô hình” đã không thể bảo đảm những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát trỉên. Và nhà kinh tế học người Anh, John Maynard Keynes (1884- 1946) đã đưa ra lý thuyết “Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường”. Nhà nước can thiệp vào kinh tế ở tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, bảo hiểm, thuế, trợ cấp, đầu tư phát triển… ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Học thuyết Keynes đã cứu CNTB khỏi cơn khủng hoảng lớn của những năm 30- 40, song những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra, tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát vẫn xảy ra ngày càng trầm trọng. Để phê phán học thuyết Keynes, học thuyết kinh tế hỗn hợp của Paul A.Samuelson ra đời. Samuelson cho rằng “điều hành một nền kinh tế không có cả Nhà nước lẫn thị trường thì cũng như vỗ tay bằng một bàn”. Phối hợp “bàn tay vô hình” của thị trường với “bàn tay hữu hình” của Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường đã được ra đời và phát huy tác dụng. Thị trường là động lực mạnh mẽ đối với sự tăng trưởng. Nhà nước tạo ra môi trường an toàn để thị trường phát triển và hạn chế sự dư thừa của những thị trường khó kiểm soát.
Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản tuy có những đặc điểm riêng nhưng đều thuộc kiểu Nhà nước của giai cấp bóc lột. Cơ sở kinh tế của chúng là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ người bóc lột người. Các Nhà nước đó đều là công cụ thống trị của thiểu số giai cấp bóc lột đối với đại đa số nhân dân lao động.
Đối lập với các Nhà nước trên là Nhà nước XHCN. Đó là Nhà nước kiểu mới. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước XHCN can thiệp vào các quá trình sản xuất xã hội, vào các quan hệ đối ngoại, sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ trương chính sách thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động kinh tế, định hướng cho sự phát triển cân đối. Tuy là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước tiến bộ nhất nhưng vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội XHCN cũng trải qua nhiều thăng trầm. Thời kỳ đầu do sự can thiệp quá lớn của Nhà nước vào nền kinh tế nên đã kìm hãm sự phát triển. Chỉ sau khi chuyển đổi sang cơ chế mới, vai trò kinh tế của Nhà nước XHCN mới thực sự có hiệu quả và thể hiện rõ nét thông qua những thành quả đạt được.
Như vậy qua những chặng đường phát triển của lịch sử, chúng ta thấy rằng ở những thời kì khác nhau vai trò kinh tế của Nhà nước tuy có những điểm khác nhau nhưng suy đến cùng nó rất quan trọng và không thể thiếu được.
2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước
Nhà nước ra đời, song song với sự ra đời của Nhà nước thì cũng đồng thời xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước. Việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước là mang tính tất yếu khách quan.
Nhà nước ra đời, quỳên lực được tập trung hoá vào một bộ máy mà bộ máy đó dường như đứng bên trên xã hội thống trị lại xã hội. Nhà nước ra đời thì dân cư được phân chia theo phạm vi lãnh thổ quốc gia, quyền lực của Nhà nước được thực thi trong toàn bộ phạm vi lãnh thổ. Nhà nước đặt ra chế độ thuế khoá-thực chất là khoản đóng góp bắt buộc của người dân để nuôi sống bộ máy thống trị lại chính mình. Nhà nước ra đời đồng thời có luật pháp ra đời, luật pháp trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý xã hội. Vì các đặc trưng trên nên Nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước. Chức năng đối ngoại thể hiện những mặt hoạt động của Nhà nước trong quan hệ với các Nhà nước và dân tộc khác. Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế, tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm ổn định xã hội, bảo đảm cơ sở hạ tầng cho phát triển, hỗ trợ phát triển, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tổ chức điều hành nền kinh tế, kiểm soát sự phát triển… Từ đặc trưng chức năng của Nhà nước ta có thể rút ra rằng Nhà nước là một bộ máy, một lực lượng quản lý toàn bộ xã hội trong đó có quản lý về kinh tế. Như vậy khi có Nhà nước thì tất yếu khách quan sẽ có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Hay việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước mang tính tất yếu khách quan.
Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ được chứng minh từ đặc trưng, chức năng của Nhà nước mà nó còn được chứng minh ở nhiều khía cạnh khác. Sản xuất ngày càng được xã hội hoá nhất là trong chủ nghĩa tư bản vì thế cần tới sự điều tiết của xã hội hay cụ thể hơn là của Nhà nước đối với sản xuất.
Bởi theo quá trình phát triển của nhân loại khi trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ngày càng đan chéo phức tạp thì vai trò của Nhà nước ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là một lí do tại sao cần thiết khách quan xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước để can thiệp vào quá trình sản xuất xã hội. Trong CNTB đặc biệt là trong giai đoạn độc quyền, quá trình xã hội hoá sản xuất diễn ra hết sức mạnh mẽ, sâu sắc trên quy mô rộng lớn. Tích tụ và tập trung sản xuất đạt tới quy mô to lớn chưa từng có, hình thành các tổ chức độc quyền, phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu, quan hệ trao đổi, hợp tác kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau mở rộng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế. Các mâu thuẫn xảy ra kéo theo khủng hoảng kinh tế TBCN. Sự can thiệp của Nhà nước tư sản mặc dù không xoá bỏ được khủng hoảng và tính chu kì trong nền kinh tế nhưng làm giảm tác động phá hoại của khủng hoảng kinh tế. Khi hình thành các tổ chức độc quyền, các tổ chức này cố gắng tạo ra lợi nhuận độc quyền cao bằng việc định ra giá cả độc quyền cao, ra sức chiếm đoạt giá trị thặng dư, tìm cách thâu tóm thị trường, xuất khẩu tư bản ra nước ngoài. Vì thế cần có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình kinh tế nhằm đảm bảo mức lợi nhuận độc quyền cao cho các tổ chức độc quyền, giữ lợi nhuận cho nó ổn định, cứu nguy cho CNTB và giúp CNTB thoát khỏi khủng hoảng. Nhà nước giúp tạo nguồn vốn, hạn chế bớt độ rủi ro trong kinh doanh, giữ vững tốc độ tăng trưởng, tìm kiếm và phân chia thị trường, tác động ảnh hưởng tới các chính sách theo hướng có lợi cho các tổ chức độc quyền. Xã hội hoá đạt cao độ xuất hiện CNTB độc quyền Nhà nước. CNTB độc quyền Nhà nước xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống. CNTB độc quyền Nhà nước là sự phát triển tất yếu của CNTB độc quyền khi mà trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất vượt khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự điều tiết của Nhà nước.
Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước còn thể hiện rất rõ trong nền kinh tế cơ chế thị trường. Bởi cơ chế thị trường là một cơ chế rất tinh vi. Nếu hoạt động trôi chảy, cơ chế đó sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế rất cao, có khả năng điều tiết cung cầu, điều phối việc phân bổ các nguồn lực một cách mau lẹ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh… Nhưng cơ chế thị trường không phải là cơ chế có thể giải quyết mọi vấn đề. Cùng với mặt tích cực, nó cũng có mặt tiêu cực. Cơ chế thị trường tự phát tất yếu dẫn đến làm mất cân đối cơ cấu kinh tế, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo quá mức, lợi nhuận luôn đặt lên hàng đầu, làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường… Vì vậy tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế và ổn định tình hình chính trị.
Ngày nay xu hướng hoà nhập nền kinh tế thế giới ngày càng tăng. Những biến động kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích kinh tế của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước. Thông qua sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ đối ngoại để khống chế những hoạt động bất lợi và phát huy những hoạt động có lợi cho sự phát triển kinh tế trong nước .
Còn rất nhiều lí do để có thể chứng minh tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhưng những lí do trên là cơ bản đủ cho chúng ta thấy rằng việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế là một tất yếu khách quan không thể thiếu được để giúp nền kinh tế sữa chữa, khắc phục hạn chế những khuyết tật để phát triển đi lên.
II. Sự hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới ở Việt Nam
1. Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở Việt Nam. Sự hình thành và ưu nhược điểm của nó
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung- cơ chế cũ ở Việt Nam
Trong những năm sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng( năm 1954) Nhà nước ta bắt tay vào khôi phục và xây dựng nền kinh tế miền Bắc XHCN. Do điều kiện lịch sử lúc đó, Việt Nam đã sao chép hầu như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của các nước XHCN đặc biệt là của Liên Xô.
Vấn đề chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này là: Kế hoạch hoá được coi là cơ chế quản lý với kế hoạch là công cụ quản lý số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và công dân. Luật pháp về kinh tế mới có rất ít và các công cụ quản lý kinh tế khác đều được xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ của một doanh nghiệp lớn”, thông qua hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp quyết định tất các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Cơ chế quản lý kinh tế giai doạn này có những đặc trưng cơ bản sau đây:
a. Cơ chế quản lý kinh tế được thiết kế dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Nhà nước tập trung cải tạo XHCN đối với mọi thành phần kinh tế. Trên thực tế, Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế XHCN với hai loại hình sở hữu là toàn dân và tập thể. Các thành phần khác bị hạn chế tới mức tối đa, thậm chí bị triệt tiêu, kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động.
b. Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết với chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức sản xuất v.v… quyết định tất cả(từ kế hoạch sản xuất, giá cả sản phẩm, thị trường tiêu thụ đến lỗ, lãi cũng như biên chế của doanh nghiệp) nhưng không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Các doanh nghiệp vừa không có quỳên tự chủ về tài chính, kinh doanh vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả kinh doanh.
c. Kế hoạch giá trị hầu như không được tính tới. Tiền tệ- một trong những công cụ năng động nhất trong quản lý kinh tế- không được coi trọng và sử dụng đúng mức. Các chức năng vốn có của đồng tiền bị hạn chế tới mức tối đa và thậm chí còn bị khoác thêm tiếng xấu. Giá trị của đất đai không được thừa nhận, sức lao động và các tư liệu sản xuất cơ bản không được coi là hàng hóa nên không được mua bán. Tóm lại, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan hệ hàng hóa tiền tệ không được thừa nhận đầy đủ, các công cụ như lãi suất, giá cả, thuế, tiền công, tiền lương… không được sử dụng để điều chỉnh các cân đối vĩ mô.
d. Nhà nước tập trung moị nguồn thu vào ngân sách trung ương, vì vậy cũng chi(hay bao) mọi khoản cần thiết liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của người lao động theo lối bình quân.
e. Bộ máy quản lý kinh tế cồng kềnh nhưng kém hiệu quả. Mọi quyết định quan trọng đều xuất phát từ Nhà nước Trung ương, bộ máy nhà nước ở địa phương có rất ít thực quyền. Biên chế của bộ máy quản lý kinh tế ngày càng phình to nhưng năng lực lại yếu kém, phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền.
Do những đặc trưng trên nên cơ chế quản lý cũ được gọi là cơ chế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất hay cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp.
1.2. Ưu nhược điểm của cơ chế kế hoạch hoá tập trung đối với sự phát triển của Việt Nam
Từ quan điểm lịch sử mà xét, với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta lại có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN cũ , mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá ta đã tập trung được vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền bạc để ổn định và phát triền kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ 60, ở miền Bắc đã có những chuyển biến quan trọng về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra phù hợp với kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó. Đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước ta huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. Có thể nói, cơ chế quản lý này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Tuy vậy sau ngày giải phóng miền Nam, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất thì bức tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội ở nước ta đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là một tồn tại khách quan sau năm 1975, chúng ta đã không thay đổi kịp thời cơ chế quản lý cho phù hợp, trái lại vẫn tiếp tục duy trì kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá ở miền Bắc và áp dụng nguyên xi vào miền Nam. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi không phù hợp gây ra nhiều hậu quả với những tác hại khôn lường đã xảy ra. Do chủ quan, không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn lực và đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những điều đó đã gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế chậm chạp, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu phải dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang dẫn đến siêu lạm phát và khủng hoảng kinh tế đỉnh cao là cuối năm 85 lạm phát trên 500% đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập.
Việc áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung kém hiệu quả làm suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do nhiều nguyên nhân. Nhưng chủ yếu và sâu xa là do ta đã rập khuôn một mô hình chưa thích hợp và kém hiệu quả. Theo tư tưởng của Các Mác và Ph.Ănghen: chỉ khi nền sản xuất xã hội hoá cao lúc đó đòi hỏi khách quan phải quản lý toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung thống nhất. ở nước ta, trong hoàn cảnh trình độ phát triền sản xuất không đồng đều và còn thấp nhưng ta đã tiến hành quốc hữu hoá ngay toàn bộ các tư liệu sản xuất chủ yếu và tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch hóa kinh tế quốc dân là chưa thích hợp. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng. Việc thực hiện phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp vừa phân phối bình quân vừa phân phối một cách gián tiếp đã làm triệt tiêu động lực của sự phát triển, của người lao động và của cán bộ quản lý. Bởi khi thực hiện bình quân trong phân phối thì người lao động sẽ không năng động sáng tạo, không nhiệt tình làm việc, không quan tâm tới tiết kiệm vật tư, nguyên liệu,… dẫn đến năng suất lao động ngày càng giảm và chi phí trên một đơn vị sản phẩm ngày càng tăng.
Còn bao nhiêu nhược điểm của cơ chế quản lý kinh tế cũ nữa mà chúng ta không có thể kể ra được hết như do chỉ sản xuất theo kế hoạch nên sản xuất không phù hợp với tiêu dùng gây ra lãng phí rất lớn. Do chậm đổi mới và chậm áp dụng thành tựu KHKT &CN nên các doanh nghiệp phát triển chậm thậm chí ngày một đi ngược lại v.v…
Tóm lại, hơn 40 năm chúng ta sử dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung là đã quá nhiều và quá đủ, không thể cứ để cho kinh tế xã hội tiếp tục bị kìm hãm. 40 năm một sự trả giá hơi đắt nhưng thôi dù sao chúng ta cũng biết được cơ chế cũ đã bị thất bại. Yêu cầu đặt ra là phải xoá bỏ cơ chế cũ- cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển đổi sang cơ chế mới – cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng cơ chế đó vào Việt Nam
2.1. Khái niệm cơ chế thị trường
Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng: lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất đó là thời đại kinh tế chỉ huy, tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn phát triển cao của nó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế xã hội mà là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định. Thị trường là nơi gặp gỡ, trao đổi giữa người bán và người mua, là yếu tố chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, là nét đặc trưng bao quát của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng mở rộng và trở thành yếu tố quan trọng kích thích sản xuất phát triển. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định việc sản xuất. Có thể nói, đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thực tế đã ghi nhận trong nền kinh tế hàng hoá, các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng hoá được phản ánh và tác động khách quan thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường.
Như vậy có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường.
Hiện nay còn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về cơ chế thị trường. Chẳng hạn, theo Paul A.Samuelson thì cơ chế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế:
Sản xuất cái gì ?
Sản xuất như thế nào ?
Sản xuất cho ai?
2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường
Cái gì cũng có tính hai mặt của nó, cơ chế thị trường cũng vậy. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ chế thị trường luôn nảy sinh những ưu điểm, khuyết tật. Vì còn có sự hạn chế về mặt nhận thức nên trong đề án này em chỉ xin nêu lên những ưu điểm và khuyết tật cơ bản của cơ chế thị trường.
a. Những ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Thông qua các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá, cơ chế thị trường với sự dẫn dắt của giá cả đã có tác dụng trực tiếp điều tiết sản xuất, tiêu dùng và đầu tư. Chính “bàn tay vô hình” này làm cho khối lượng và cơ cấu của sản xuất thích ứng với khối lượng và nhu cầu của xã hội.
Samuelson đã nói rằng “cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, là một bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường, là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của Đảng trên các cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày naykhông thể giải nổi”.
Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Nhu cầu xã hội, nhu cầu con người không ổn định đa dạng và luôn thay đổi, chỉ có thị trường mới hoàn thành chức năng sứ giả nối người sản xuất với người tiêu dùng. Cơ chế thị trường đã đặt người tiêu dùng lên hàng đầu : “khách hàng là thượng đế”.
Cơ chế thị trường giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất, đó là sản xuất cái gì? như thế nào? và cho ai? thông qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế trước đây không thể giải quyết được hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều vướng mắc.
Cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ cần mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất các mặt hàng có mức lợi nhuận cao. Do đó mà đáp ứng được nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phương thức nào, bằng công nghệ gì được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Để có thể cạnh tranh được buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách năng động trong sản xuất kinh doanh, áp dụng kĩ thuật công nghệ mới vào sản xuất, tăng năng suất lao động, thay đổi mẫu mã, tìm kiếm thị trường. Hệ thống giá cả là một tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất, phân phối và tiêu dùng một phần được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường.
Như vậy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ và tài lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích chung của xã hội. Đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Các nhà kinh tế đã khẳng định rằng cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá cho hiệu quả cao, cơ chế thị trường đã tạo ra được những thành tựu to lớn nhất mà từ trước đến nay chưa một nền kinh tế nào đạt được.
b. Khuyết tật của cơ c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0126.doc