Tăng cường vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ

Mục lục Lời nói đầu chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước ngoài. I/ khái niệm và phân nợ nước ngoài 1. Khái niệm nợ nước ngoài 2. Phân loại nợ nước ngoài 2.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ 2.2 Nợ nước ngoài của doanh nghiệp II/ Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài và sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài 1. Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài 2. Sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài III/ M

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục tiêu quản lý vay nợ trong thời gian tới IV/ Kinh nghiệm vay nợ của một số nước trên thế giới 1. Kinh nghiệm của Hàn quốc 2. Kinh nghiệm của Mêhicô 3. Kinh nghiệm của Thái lan chương II: Thực trạng quản lý vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua I/ Quan hệ tín dụng của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế 1.Quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ tín dụng của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế 2. Khái quát cơ chế tín dụng của các Tổ chức Tài chính Quốc tế 2.1. Thủ tục giải ngân (rút vôn) 2.2 Các thủ tục, chứng từ để thực hiện việc giải ngân. II/ Cơ chế quản lý của Việt Nam đối với các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ 1. Cơ chế rút vốn các khoản vay của Chính phủ 1.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý 1.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp quản lý 2. Cơ chế sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài của Chính phủ 3. Cơ chế trả nợ vốn vay III / Kết quả tham gia quản lý của Ngân hàng Nhà nước và những tồn tại trong việc quản lý vay nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua 1. Kết quả tham gia quản lý của Ngân hàng Nhà nước 1.1 Về vay nợ 1.2 Về trả nợ 2. Đánh giá kết quả tham gia quản lý 2.1 Về cơ chế nhận nợ rút vốn 2.2 Về cơ chế kiểm soát đơn rút vốn 2.3 Về cơ chế hạch toán 2.4 Đối với thể thức hoàn vốn 2.5 Về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các Tổ chức Tài chính Quốc tế Chương III : Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại I/ Giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ 1. Đối với cơ chế nhận nợ, rút vốn 2. Đối với cơ chế hạch toán 3. Thành lập Hội đồng quản lý nợ nước ngoài II/ Một số kiến nghị Kết luận Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo Lời nói đầu Trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiếnthì nhu cầu vốn đầu tư luôn là sự mâu thuẫn giữa khả năng tích luỹ có hạn với yêu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy việc huy động vốn vay nước ngoài là vấn đề tất yếu. Đối với Việt Nam chúng ta, để đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, bằng con đường duy nhất là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong hoàn cảnh là một quốc gia được xếp vào nhóm các nước nghèo nhất trên thế giới bởi kết quả của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ dành độc lập, tự do cho đất nước thì sự bất cập giữa yêu cầu đầu tư với khả năng tích luỹ là điều dễ thấy. Mặc dù những năm qua khi bước vào giai đoạn phát triển kinh tế nhằm nhanh chóng hoà nhập với các nước trong khu vực, quan điểm phát huy tối đa nội lực của Đảng và Nhà nước ta cũng không thể đáp ứng được yêu cầu đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Do vậy nguồn vốn vay nợ nước ngoài (mà chủ yếu là các khoản vay của Chính phủ) tuy không là yếu tố quyết định song là cần thiết như Đảng và Nhà nước ta đã xác định là “quan trọng”. Ngân hàng Nhà nước tuy không trực tiếp quản lý chính với các khoản vay của Chính phủ nhưng với vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý vay nợ của Chính phủ như hiện naylà điều chưa hợp lý. Trên phạm vi rộng, công tác vay và trả nợ nước ngoài hiện nay còn rất nhiều những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Chỉ xét riêng dưới góc độ là Ngân hàng Nhà nước, cơ chế vay và trả nợ nước ngoài đã bộc lộ khá nhiều những tồn tại, chưa phù hợp với yêu cầu đối với công tác quản lý. Sự chồng chéo về tổ chức, sự trùng lặp về nội dung quản lý,... đã gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý, rất có thể ảnh hưởng tới uy tín của Chính phủ trên thị trường quốc tế. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài “Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ”. * Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về cơ chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ hiện nay, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu về lĩnh vực này. Bài viết này xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề tồn tại dưới góc độ quản lý của Ngân hàng Nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để phân tích những cơ chế, tồn tại trong quản lý vay nợ nước ngoài của Chính phủ, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại đó. * Bài viết này được trình bày làm 3 chương: - Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước ngoài. - Chương II: Thực trạng quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua. - Chương III: Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại. Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý nợ nước ngoài I/ Khái niệm và phân loại nợ nước ngoài 1/ Khái niệm nợ nước ngoài Vay nợ nước ngoài hay tín dụng nước ngoài là quan hệ tín dụng phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa bên vay ở trong nước và bên cho vay ở nước ngoài . Theo khái niệm thông thường nhất, nợ nước ngoài là tổng số tiền nợ mà quốc gia đi vay có trách nhiệm và ràng buộc phải trả, thanh toán cho một hay nhiều quốc gia khác hay có thể là các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài. Gần đây một nhóm tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài bao gồm đại diện của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã thoả thuận và đưa ra một định nghĩa chung về nợ nước ngoài như sau: “Nợ nước ngoài tính gộp tại một thời điểm nhất định tương ứng với hạn mức cam kết hợp đồng đang có hiệu lực và đã tạo ra việc người cư trú của một nước chuyển vốn cho người không cư trú bao gồm nghĩa vụ phải trả lại gốc cùng với lãi “ ở Việt nam, Nghi định 58/ CP ban hành ngày 30/8/1998 thống nhất một số khái niệm sau : - Vay nước ngoài là những khoản vay ngắn, trung hoặc dài ( có lãi hoặc không có lãi ) các khoản bảo lãnh và các hình thức vay khác như việc thỏa thuận hoãn nợ hoặc các hình thức vay mới trả cũ với các chủ nợ nước ngoài . -Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các khoản vay do Chính phủ uỷ quền cho các doanh nghiệp vay hộ, được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh. *Khái niệm chủ nợ và con nợ . Chủ nợ (hay nói cách khác là bên cho vay) là các tổ chức Tài chính (như Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB ...), các chính phủ hay các Ngân hàng Thương mại, các Công ty, tư nhân cho một quốc gia nào đó cho vay theo những thoả thuận ( như về thời hạn trả, về lãi suất...) nhất định. Ngược lại, một Chính phủ hay một doanh nghiệp của một quốc gia đi vay các tổ chức Tổ chức Tài chính Quốc tế, các quốc gia khác theo những thoả thuận nhất định thì gọi là con nợ (hay còn gọi là bên vay). 2/ Phân loại nợ nước ngoài. Để phát huy hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các khoản nợ vay nước ngoài phù hợp với đối tượng sử dụng người ta phân chia nợ nước ngoài ra làm hai loại: Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ nước ngoài của doanh nghiệp. 2.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ. Nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ bao gồm vốn vay từ Chính phủ các nước, các tổ chức tài chính như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)... Đối với các khoản vốn vay này, các Bộ, Ngành, địa phương và doanh nghiệp không được thoả thuận hoặc ký các hiệp định, hợp đồng vay nếu không được Chính phủ uỷ quyền. Việc sử dụng vốn vay nước ngoài và chi trả nợ nước ngoài của Chính phủ phải được cân đối vào kế hoạch thu, chi ngân sách hàng năm . Tất cả các khoản vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ phải được tập trung quản lý qua Bộ Tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xem xét và tổng hợp kế hoạch tổng hạn mức vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tham khảo các cơ quan có liên quan để trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt cùng với kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm. Vấn đề đặt ra là dựa vào cơ sở nào để hàng năm có thể lập ra kế hoạch tổng hạn mức vay nợ của Chính phủ? Vốn vay của Chính phủ trước hết được sử dụng cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước. Đó là các dự án đầu tư thuộc cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và các dự án khác có khả năng hoàn vốn hoặc không có khả năng hoàn vốn. Đối với những dự án đầu tư không có khả năng hoàn vốn (các dự án đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế v.v...), vốn được đầu tư theo chế độ cấp phát hiện hành. Ngược lại một số dự án có khả năng hoàn vốn (cung cấp nước sinh hoạt, cầu cảng, điện dân dụng v.v...) sẽ được Chính phủ đầu tư theo cơ chế cho vay lại. Vốn vay của Chính phủ có thể phục vụ cho nhu cầu Ngân sách Nhà nước thực hiện theo chế độ quản lý vốn Ngân sách Nhà nước hiện hành. Khoản vốn vay này bao gồm cả các khoản do Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp nhà nước vay hộ Ngân sách Nhà nước sẽ do Bộ Tài chính trực tiếp lập kế hoạch vay, tham khảo ý kiến của các cơ quan và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.Trong trường hợp nguồn vốn vay bằng hàng hoá thì căn cứ vào các hợp đồng, hiệp định đã ký với nước ngoài, Bộ Tài chính cùng Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Thương mại và Bộ ngành chủ quản xem xét để giao cho các đơn vị đầu mối đứng ra nhập hàng, bán và nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn hình thức vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp không được Chính phủ uỷ quyền nhưng được Chính phủ bảo lãnh (việc bảo lãnh vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp được thực hiện theo quy chế bảo lãnh vốn vay nước ngoài của Chính phủ). Trường hợp vay cho đầu tư xây dựng cơ bản (trừ vốn góp liên doanh), doanh nghiệp phải tuân thủ theo trình tự lập và xét duyệt dự án đầu tư xây dựng cơ bản hiện hành. Mọi khoản vay nước ngoài của Chính phủ, bao gồm trực tiếp vay, uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay hộ v.v... đều phải được quản lý thông qua hạn mức vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Kế hoạch tổng hạn mức vay nợ nước ngoài hàng năm được xây dựng trên cơ sở nhu cầu thực tế về sử dụng vốn vay nước ngoài trong năm kế hoạch được xây dựng trên các căn cứ chủ yếu sau đây: - Căn cứ vào số vốn vay cho các dự án đã được ký kết trong các hợp đồng, hiệp định vay vốn với nước ngoài do Chính phủ ký kết hay uỷ quyền cho các doanh nghiệp ký kết hay có sự bảo lãnh của Chính phủ. - Căn cứ vào nhu cầu vốn vay nước ngoài cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản dự kiến bắt đầu thực hiện từ năm kế hoạch đã có đối tác nước ngoài nhưng chưa ký kết được hợp đồng ngay. - Cân đối thu, chi Ngân sách Nhà nước năm kế hoạch và các dự kiến nhu cầu vay vốn nước ngoài để bù đắp thiếu hụt ngân sách; - Và cuối cùng là căn cứ vào khả năng trả nợ nước ngoài trong năm kế hoạch được Bộ Tài chính xem xét. 2.2 Nợ nước ngoài của doanh nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả. Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ của Chính phủ tức là các khoản do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài hoặc các khoản vay Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay, được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh. Song các doanh nghiệp tầm cỡ đủ lớn để được người cho vay tin tưởng mà không cần sự bảo lãnh của nhà nước, có thể vay trực tiếp theo hình thức tự vay tự trả. Các doanh nghiệp này thường là các Ngân hàng, các xí nghiệp ... có các hoạt động quốc tế (luyện kim, vận tải biển, hàng không, du lịch...). Các doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo hình thức đó gọi là nợ của doanh nghiệp. Cho vay của các Tổ chức Tài chính Quốc tế phần lớn dành cho Nhà nước hoặc dạng được Nhà nước bảo lãnh. Đối với các khoản cho vay song phương của Nhà nước cũng chủ yếu là như vậy. Ngược lại các khoản cho vay của các ngân hàng và các công ty tư nhân trong một số trường hợp không được Nhà nước đảm bảo. Chính những nước nợ nhiều nhất của các chủ nợ tư nhân là những nước có thể vay nhiều mà không cần sự bảo lãnh như ở Chi lê, Bờ Biển Ngà và Vênêzuêla với số nợtư nhân chiếm đến 1/4 tổng số nợ dài hạn. Tuy nhiên tình trạng tài chính và sự phát triển kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc các công ty có thể tự vay tự trả cho các chủ nước ngoài hay không? Một công ty hoạt động kém hiệu quả, khả năng trả nợ kém thì sẽ khó có thể vay nợ nước ngoài dưới hình thức trực tiếp tự vay tự trả. Về nguyên tắc thì Chính phủ không can thiệp vào vay nợ của các doanh nghiệp dưới hình thức tự vay tự trả, tuy nhiên mọi nhu cầu vay nợ nước ngoài, ngoài phần vay của Chính phủ thì nhu cầu vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nói chung qua hình thức tự vay tự trả đều phải nằm trong tổng hạn mức vay nợ nước ngoài được Chính phủ xem xét và chấp nhận. II/ Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài và sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài . 1/ Tính tất yếu của việc vay nợ nước ngoài . Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới (nhất là các nước phát triển từ sau đạI chiến thế giới thứ hai tới những năm của thập kỷ 80 và các nước đang phát triển hiện nay ở khu vực Đông á , Mỹ La tinh) đã khẳng định chắc chắn rằng vay nợ nước ngoài là một tất yếu trong tiến trình phát triển. Thật vậy, trong bối cảnh của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm đạt tới mục tiêu tăng trưởng dự kiến thì nhu cầu vốn đầu tư luôn là một vấn đề nan giải bởi nó luôn là sự mâu thuẫn bất cập giữa khả năng tích luỹ có hạn với nhu cầu đầu tư lại lớn. Do vậy, việc huy động vốn nước ngoài là một vấn đề tất yếu. Đối với Việt nam, chúng ta thực hiện phát triển kinh tế trong điều kiện từ một đất nước vừa thoát khỏi hàng chục năm chiến tranh liên miên và trong thế bị bao vây cấm vận của Hoa Kỳ, cùng với một nền kinh tế đặc trưng nông nghiệp lạc hậu vào loại nghèo nhất thế giới. Do vậy, thực hiên công nghiệp hóa, hiện đại hoá là giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, đồng thời công nghiệp hóa, hiện đại hoá cũng là mục tiêu duy nhất của Đảng và Nhà nước ta để đưa nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế trên thế giới và trong khu vực, là cơ sở để thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hôi trong giai đoạn 2001-2005 là tăng gấp đôi GDP so với năm 1995 và tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9-10 % thì chúng ta cần một lượng vốn đầu tư khoảng 40-42 tỷ USD, trong khi đó khả năng đáp ứng vốn từ nền kinh tế trong nước theo quy hoạch đầu tư đạt khoảng 45 % (xấp xỉ 20 tỷ USD). Vậy số thiếu hụt lấy từ đâu? Một câu hỏi không dễ trả lời, nhưng chắc chắn phải là nguồn vốn từ bên ngoài thông qua hoạt động vay nợ. 2/ Sự cần thiết tăng cường quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài. Để hiểu rõ được vấn đề, trước hết chúng ta hãy xét thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam : Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến 31/12/2001, nợ nước ngoài của Việt Nam bằng ngoại tệ chuyển đổi là 3,6 tỷ đô -la Mỹ và hơn 10 tỷ đồng rúp chuyển nhượng, chiếm 50 % GDP, trong đó 1/3 số nợ của Chính phủ do hậu quả từ thời cơ chế bao cấp để lại. Xét về số tuyệt đối, đây là con số không lớn nhưng là không nhỏ so với thu nhập quốc dân và điều kiện kinh tế của nước ta. Đáng lưu ý hơn là năm 1999,WB căn cứ vào các chỉ tiêu đánh giá mức độ vay nợ của một quốc gia đã xếp Việt Nam vào nhóm các nước mắc nợ trầm trọng trong nhóm các nước có thu nhập thấp. Theo sốliệu này, nợ của Việt Nam so với GDP là 92,1 % và so với xuất khẩu là 282,8 %. Hơn nữa, trong một tương lai gần, khi mà quan hệ của chúng ta với các Tổ chức Tài chính Quốc tế ngày càng thắt chặt, qui mô tín dụng nước ngoài của chúng ta sẽ tăng lên nhiều hơn nữa: Biểu 1. Khuynh hướng tích lũy trong nước ở Việt Nam ,1994-2001 (% của GDP) 1994 1996 1998 2000 2001 2002 khoảng 2005 dự đoán 2010 dự đoán Tích lũy quốc gia 3 13 17 17 17 18 19 22 Tích lũy của Ch. Phủ .a/ -2 1 2 5 6 5 7 8 Tích lũy phi Ch. Phủ .b/ 5 12 15 12 11 13 13 14 Ghi chú: a/Thu ngân sách và viện trợ trừ đi chi thường xuyên (cơ sở tiền mặt). Tích lũy Chính phủ bao gồm cả trung ương và địa phương. b/Tích lũy quốc gia trừ đi tích lũy tổng cộng. Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng Cục Thống Kê. Tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá cao so với các nước có thu nhập thấp khác.Chỉ có Trung Quốc và các nước Nam á gồm ấn độ, Pakistan và Sri Lanka có tỷ lệ tích lũy cao hơn. Nếu xem xét trong điều kiện của các nứơc Đông á, tỷ lệ tích lũy của Việt Nam khá thấp, nhưng điều đó có thể do nguyên nhân chủ yếu do sự khác biệt về thu nhập. Tỷ lệ tích lũy của Việt Nam đã được nâng lên trong suốt thập kỷ vừa qua,nhưng nỗ lực sẽ hết sức cần thiết để ngăn chặn khuynh hướng giảm gần đây và phục hồi tỷ lệ tăng trưởng tích lũy nhanh, nhằm đạt được mức tăng tỷ lệ tích lũy dự kiến là 20 % GDP vào năm 2005. Mặc dù tích lũy trong nước tăng đáng kể, nhu cầu tài trợ từ bên ngoài của Việt Nam vẫn lớn (Biểu 1). Trong năm 2003, Ngân hàng Thế giới dự tính nhu cầu tài chính bên ngoài là 3,7 tỷ đô -la Mỹ. Với mức tổng dư nợ nước ngoài cao và khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Nam trong trung hạn vẫn còn hạn chế, phần lớn nhu cầu tái chính bên ngoài này cần phải ở dưới dạng tài trợ với điều kiện ưu đãI, và cả nguồn vốn FDI nữa. Biểu 2. Nhu cầu tài trợ từ bên ngoài và nguồn. (Tỷ đô-la Mỹ) Thực 2001 Ước tính 2002 2003 Dự 2004 báo 2005 2005-2010 TB năm Nhu cầu tài trợ Thâm hụt cán cân vãnglai 2,6 2,5 2,6 2,9 2,1 3,7 Khấu trừ nợ chính thức trung và dài hạn 0,9 0,5 0,6 0,8 0,8 1,0 Những khoản khác (ròng) -0,3 - - - - - Dự trữ bắt buộc 0,5 0,5 0,4 0,5 0,7 0,7 Tổng số 3,7 3,5 3,7 4,1 4,5 5,4 Nguồn tài trợ Viện trợ không hoàn lại chính thức 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 Vay nợ dài hạn 0,6 1,2 1,5 1,6 1,9 2,3 trong đó: ODA giải ngân 0,4 0,7 0,9 1,1 1,4 1,8 IMF(ròng) 0,2 0,03 0,0 -0,0 -0,0 -0,08 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1,8 1,9 2,0 2,1 2,1 2,2 Vốn ngắn hạn (ròng) 0,3 0,1 -0,0 0,3 0,4 0,5 Dư nợ quá hạn tồn đọng 0,6 -4,1 - - - - Giảm nợ - 4,1 - - - - Tổng số 3,7 3,5 3,7 4,1 4,5 5,4 Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới . Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới , trong khuôn khỏ đẩy mạnh cải cách của Chính phủ, tuy có một khối lượng luồng FDI lớn, nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) vẫn đóng một vai trò to lớn và quan tọng , vẫn cần có một nguồn ODA đáng kể để có thể đạt được các mục tiêu phát triển trung hạn. Giải ngân của ODA, kể cả viện trợ không hoàn lại, cần dược tăng từ khoảng 900 triệu đô - la Mỹ lên 1 tỷ đô -la Mỹ trong năm 2003. Mặc dù phần lớn số tiền này sẽ là giải ngân từ những cam kết đã có, mức cam kết mới của Hội Nghị Tài Trợ cần phải tương đương với mức cam kết năm ngoái là 2,4 tỷ đô- la Mỹ. Cần có mức cam kết này để đảm bảo việc xây dựng một nguồn vốn tài trợ đầy đủ để giúp giải ngân đều đặncho các dự án trong rung hạnvà có đầy đủ luồng vốn ưu đãI. Những ưu tiênvề phát triển của Việt Nam, mà luồng ODA cần hỗ trợ, đã được trình bày trong kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội của Chính phủ và trong văn bản chính thức chuẩn bị cho hội nghị Tài trợ năm 2002. Những nhu cầu này rất đáng kể và cần thiết ở Việt Nam. Khoảng 50 % dân số vẫnsống dưới mức nghèo khó và không có đủ các dịch vụ xã hội quan trọng trong khi chất lượng các dịch vụ lại yếu kém. Khoảng 40 % dân số có nước sạch trong khi các dịch vụ y tế chỉ phục được 21% dân số. Những chứng cứ về các chỉ tiêu trong các lĩnh vực y tế đã bị xấu đi từ thập kỷ 80 chothấy những thành quả về dịch vụ y tế mà Việt Nam đã bị đảo ngược. Mặc dù chi phí của khu vực tư nhân trong lĩnh vực y tế là nguồn lớn nhất để tài trợ cho lĩnh vực này ,cần phải tăngthem chi phí công cộng trong lĩnh vực y tế để cải thiện chất lượng dịch vụ y tế công cộng và đáp ứng được nhu cầu của người nghèo khó. Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã đạt được mức học sinh đến trường đáng khâm phục so với mức thu nhập hiện nay. Tuy nhiên, giáo dục và chất lượng cần được cải thiện hơn nữa để có thể cung cấp được lao động và tay nghề cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh. Về cơ sở hạ tầng kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn còn thấp và cải thiện hệ thống này rất cần thiết cho sự tăng trưởng chung và cho sự phát triển nông thôn. Nhu cầu năng lực cũng rất cao và sẽ tăng nhanh cùng với sự tăng trưởng : nhu cầu về điện được dự đoán tăng từ 14 đến 16 %mỗi năm trong thập niên sắp tới. Dự đoán cần 5 %của GDP để đầu tư vào lĩnh vực năng lực để có thể đáp ứng nhu cầu này . Như vậy, trong những năm tới, tín dụng nước ngoài của Việt Nam ngày càng phát triển, vì vậy cần thiết phải quản lý nợ nước ngoài một cách có hiệu quả và phải tăng cường hơn nữa vai trò hệ thống quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và vai trò của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân hàng Trung ương nói riêng vì những lý do sau: Thứ nhất, nợ nước ngoài tác động mạnh mẽ tới sự tăng trưởng theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào việc quản lý những khoản nợ vay nước ngoài hiệu quả hay không: Trong sự phát triển của các nước đi sau việc tìm kiếm các nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế bổ sung cho nguồn tích lũy trong nước là sự cần thiết khách quan. Nó không những chỉ đơn thuần là cung cấp nguồn tài chính để chi trả các khoản đầu tư phát triển mà nếu quản lý tốt thì sẽ kéo theo sự chuyển giao công nghệ và góp phần tạo ra sự phát triển bền vững, tránh sự tụt hậu về kinh tế. Thông thường trong giai đoạn khởi động nền kinh tế các nước đang phát triển có tỷ lệ tích lũy nội bộ chỉ trên dưới 10 % GDP, trong khi muốn tăng trưởng nhanh thì tỷ lệ đầu tư ít nhất cũng phải là 20 % GDP. Nhìn chung nếu tỷ lệ tích lũy nội bộ cao, nguồn vốn nước ngoài chỉ mang tính bổ sung thì nền kinh tế chẳng những phát triển nhanh mà còn đảm bảo phát triển trong thế ổn định. Chẳng hạn như Hàn quốc,để gia tăng nhịp độ phát triển kinh tế đã phải tăng cường vay nợ đến mức trở thành đất nước có số nợ nước ngoài lớn thứ tư trên thế giới (sau Brazin, Chile và Mexico), song do quản lý vay nợ chặt chẽ trong diều kiện nền kinh tế hoạt động có hiệu qủa nên không những trả được nợ lãi và gốc, tổng số nợ không những giảm mà còn có khả năng xuất khẩu vốn ra nước ngoài. Nguồn ngoài nước trở thành nhu cầu tất yếu khi mà tích lũy trong nước không đủ trang trải nhu cầu đầu tư. Độ chênh lệch lớn hay nhỏ phản ánh mức độ nội lực kinh tế yếu hay mạnh. Các nguồn vốn nước ngoài tuy rất quan trọng nhưng không phải bao giờ cũng trực tiếp dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh: trong nhiều thập niên qua một số nước Châu phi đã nhận được nhiều viện trợ ODA song do sử dụngkhông hiệu qủa nguồn vốn viện trợ và vay nợ nên nhịp độ tăng trưởng kinh tế chỉ có 0,2 %/năm. Đánh giá mức độ nợ của một quốc gia thật không đơn giản bởi nó không chỉ liên quan đến quy mô của khoản nợmà còn có những tiêu thức khác liên quan đến mối quan hệ tương hỗ chẳng hạn giữa xuất khẩu và trả nợ hoặc cơ cấu các khoản nợ. Nếu xử lý đúng hướng thì dù quy mô nợ hay số nợ tính trên đầu người là lớn nhưng vấn đề nợ có thể không phải là gánh nặng nếu trong nước giải quyết tốt vấn đề quản lý tốt các khoản vay nợ, tăng cường tiềm lực xuất khẩu (trường hợp Hàn quốc là ví dụ minh chứng). Trái lại, có những nước khối lượng nợ ban đầu không lớn lắm nhưng do công tác quản lý kém , vốn được sử dụng không hiệu quả đã làm cho tổng số nợ tăng lên nhanh chóng.Thực tế, vấn đề nợ trở nên gay gắt không chỉ đơn giản là do tổng số nợ tăng lên mà chủ yếu là do tỷ lệ dịch vụ trả nợ tăng lên, phản ánh tỷ lệ xuất khẩu không tăng lên tương ứng với nguồn vốn nước ngoài đưa vào, trong trường hợp đó các nước cho vay không muốn cho vay thêm. Như vậy, các khoản vay nợ nước ngoài tác động mạnh mẽ tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế . Đó làmột lý do tại sao phải tăng cường quản lý các khoản vay nợ nước ngoài . Thứ hai, nhìn chung vay nước ngoài nhàm tạo ra nguồn vốn ( bằng ngoại tệ hay hàng hoá) bổ sung đáp ứngnhu cầu trogn nước song thực chất vay nước ngoài là việc sử dụng có điều kiện các nguồn vốn tín dụng nước ngoài , bởi vậy nguồn vốn này tác động trực tiếp tới hoạt động tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hoá và cán cân thanh toán quốc tế thông qua mối quan hệ qua lại giữa lãi suất, tỷ giá, chính sách tài chính quốc gia với vay nợ nước ngoài. Do vậy, cần thiết có sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý vay nợ nước ngoài nhằm kiểm soát luồng vốn ngoại tệ vào, ra khỏi Việt Nam, lập cán cân thanh toán quốc tế, nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn vốn vay nước ngoài đến tỷ giá, cung ứng tiền ...để điều hành chính sách tiền tệ, góp phần hoạch định và thực hiện chiến lược vay và trả nợ nước ngoài , tìm kiếm và khai thác các nguồn vốn vay ưu đãi. Thứ ba, trước thời gian các nước Đông âu và Liên Xô cũ tan rã chúng ta đã nhận được một lượng lớn nguồn viện trợ từ nước ngoài (chủ yếu là các nước thuộc khối Xã hộị Chủ nghĩa) .Trong năm 2001 và năm 2002, nguồn viện trợ không hoàn lại chính thức của chúng ta là 0,2 tỷ đô-la Mỹ, chiếm khoảng 5 % tổng số nguồn tài trợ mỗi năm. Theo dự báo của các chuyên gia Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thế giới, trong những năm tới nguồn viện trợ này về trị số tuyệt đối vẫn giữ ở mức 0,2 tỷ đô-la Mỹ (theo biểu 2) song các nguồn này sẽ giảm một cách tương đối ( khoảng 4 % mỗi năm trên tổng số nguồn tài trợ từ 4 đến 5 tỷ đô-la Mỹ ). Đối với các nguồn viện trợ chính thức này, chúng ta sử dụng chúng như là một nguồn vốn trong nước mà không phải bận tâm về việc hoàn trả. Ngoài các khoản viện trợ không hoàn lại đang có xu hướng giảm này, các khoản còn lại đều là các khoản vay nợ với trách nhiệm hoàn trả phần lãi và phần gốc khi tới hạn, vì vậy vấn đề đặt ra là phải có một chính sách, chiến lược huy động, sử dụng và quản lý sao cho có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ lãi và đặc biệt là vốn gốc. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài nhất trí với kết luận rằng “huy động vốn là quan trọng , nhưng chính sách quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là quyết định” , nghĩa là không có chính sách quản lý vay nợ nước ngoài tốt tất yếu sẽ đưa đến khủng hoảng nợ , kế tiếp là khủng hoảng kinh tế , tài chính và thậm chí cả về chính trị. Chừng nào vốn vay được quản lý và sử dụng có hiệu quả cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều nguồn thu hơn làm cơ sở đảm bảo cho việc trả nợ sau này và tăng thêm phúc lợi xã hội cho nước đi vay. Thứ tư, hoạt động tín dụng quốc tế có ảnh hưởng rất lớn tới uy tín ( về ngoại giao, ngoại thương ...) của Chính phủ đối với các Tổ chức Tài chính-Tín dụng Quốc tế, đối với Chính phủ các nước và cộng đồng tài chính quốc tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại là một vấn đề quan trọng mà mỗi quốc gia đều trú trọng nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức tài chính quốc tế . Để có thể thực hiện được theo phương đó nhằm củng cố và giữ vững uy tín về mặt đối ngoại, chúng ta cần xây dựng một lòng tin, một chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế .Muốn vậy ,cần phải giải quyết nợ tồn đọng , đó là một vấn đề phải được coi như là một nhiệm vụ trọng yếu trong chính sách phát triển kinh tế và chính sách đối ngoại nói chung của đất nước. Nợ tồn tại do những khoản nợ cũ chưa trả, những khoản nợ vay mới cộng với khoản lãi, vì thế giải quyết nợ là một vấn đề rất nan giải có ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế , tới quan hệ kinh tế đối ngoại, tới việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia ...Chẳng hạn Việt Nam dư nợ nước ngoài rất lớn ( hơn 14 tỷ đô-la Mỹ tính tương đương), hàng năm ngân sách phải chi ra khoảng 2500 tỷ đồng ( tương đương trên 200 triệu đô-la Mỹ ) để trả một phần nợ quá hạn và nợ đến hạn , số này chiếm tới 10 % tổng số thu về xuất khẩu. Trong bối cảnh nên kinh tế Việt Nam hiện nay còn rất thiếu vốn để mở rộng và đầu tư chiều sâu cho sản xuất thì vấn đề này càng trở nên quan trọng. Khi một đất nước có nền kinh tế đang phát triển thì nhu cầu đầu tư vào sản xuất sẽ rất cao nhằm tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống của người dân. Song quốc gia đó có những khoản nợ tồn đọng đang phải trả hay nợ chồng chất thì buộc họ phải trích từ thu nhập quốc dân để trả nợ . Điều này làm giảm khả năng nhập khẩu đồng thời hoạt động xuất khẩu cũng bị hạn chế, hàng trong nước không được bảo vệ trước sự cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu thất nghiệp gia tăng và cán cân thương mại mất cân đối nghiêm trọng ... Nợ nước ngoài nhiều hay ít không phải là tiêu chuẩn để đánh giá một nước giầu hay nghèo. Nó tác động đến sự tăng trưởng kinh tế trong nước , đến mối quan hệ tín dụng ngoại thươn, đến cán cân thanh toán ,tỷ giá và lạm phát, làm ảnh hưởng tới việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần quyết định chính sách kinh tế đối ngoại. Với tầm quan trọng như vậy nợ và trả nợ phải được quản lý chặt chẽ hơn nữa cơ chế cần phải chỉnh sửa cho phù hợp với chức năng của các cơ quan chủ quản. Thứ năm, thực trạng hệ thống quản lý vĩ mô (về cơ chế, chính sách quản lý ...) nợ nước ngoài của Việt Nam còn rất yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của hệ thống quản lý có hiệu quả. Thêm vào đó, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một cơ quan nào đứng ra thống nhất quản lý vay và trả nợ nước ngoài . Sự phối hợp của các cơ quan còn chưa đúng chức năng, chồng chéo hoặc thiếu sự chặt chẽ và đồng bộ. Xét trong tổng thể kinh tế vĩ mô, hoạt động vay nợ phải hướng theo các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và có khả năng tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống. Bởi vậy, tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý nợ nước ngoài nói chung và nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết. III/ Mục tiêu của quản lý vay nợ trong thời gian tới. Về cơ bản, mục tiêu của hoạt động vay nợ của Việt Nam trong thời gian tới phải phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tổng thể hay nói cách khác chính sách quản lý vay nợ nước ngoài phải nằm trong hệ thống quản lý vĩ mô hướng tới tăng trưởng và ổn định kinh tế, xã hội , ổn định giá trị của đồng tiền. Tuy nhiên mục tiêu cơ bản này sẽ phải được cụ thể hoá trên từng phạm vi cụ thể : Trên phạm vi nền kinh tế : - Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay nước ngoài phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế -xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, trên cơ sở tạo lập một hệ thống quản lý vay nợ hữu hiệu; - Gó._.p phần phát triển nhanh, cân đối và ổn định nền kinh tế quyết quốc dân, giảm thiểu tác động tiêu cực của việc vay nợ đến nền kinh tế quốc dân ; - Đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn tư bản quốc tế trong qúa trình phát triển kinh tế, nghĩa là xác định được 3 vấn đề lớn của vay nợ nước ngoài là : Đâu là lợi ích tiềm năng của nguồn vốn tư bản quốc tế ? Vay bao nhiêu và vay dưới hình thức nào là tối ưu ? Vốn vay được sử dụng cho mục đích nào ? Từ đó có chiến lược huy động và sử dụng có hiệu quả . Đối với Ngân hàng Nhà nước : - Góp phần khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn vay nước ngoài, nhằm kiểm soát nguồn ngoại tệ vào ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, ổn định thị trường tiền tệ tài chính và điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ . - Đảm bảo nguồn ngoại tệ dự trữ ở mức cần thiết đáp ứng các nhu cầu trả nợ. Thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ như tỷ giá lãi suất để hỗ trợ cho việc phòng tránh rủi ro cho các hoạt động vay và trả nợ cũng như duy trì sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng , nghĩa là nhằm nghiên cứu tác động ảnh hưởng của nguồn vốn vay nước ngoài tới tỷ giá, lượng tiền cung ứng và lạm phát để điều hành chính sách tiền tệ. - Góp phần hoạch định và thực hiện một cách tốt nhất chiến lược, kế hoạch vay trả nợ nước ngoài, lựa chọn nguồn vốn vay thích hợp cũng như các điều kiện vay vốn. IV/ Kinh nghiệm vay nợ của một số nước trên thế giới. Trong hai cuộc hội thảo lớn tại các nước Châu á và Thái Bình Dương do tổ chức ES (hội đồng kinh tế xã hội các nước Châu á - Thái Bình Dương) đứng ra tổ chức tại Bắc Kinh năm 1986 và ở Cameroune năm 1987, các nhà quản lý và nghiên cứu kinh tế đều đI đến kết luận là : Muốn phát triển kinh tế Châu á -Thái Bình Dương phải ra sức huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Các hội nghị này đã tổng kết kinh nghiệm của các nước đang phát triển trong việc vay vốn nước ngoài và đã có những kết luận rất đáng được quan tâm. Trong giai đoạn cuối thập kỷ 70 cho tới năm 1983 nợ quốc tế của các nước đang phát triển lên đến 810 tỷ đô-la Mỹ ,trong đó có những nước thành công trong vay nợ để phát triển kinh tế như Hàn quốc,nhưng cũng có những nước thất bại, rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ để lại gánh nợ chồng chất cho hậu thế mà có khi phải trả giá bằng sự khủng hoảng về kinh tế - chính trị như: Thái lan, Braxin, Mehico, Chi le, Peru, Venezunea. Nguyên nhân của sự thất bại của các nước phát triển dựa vào vay nợ là do sai lầm trong chính sách quản lý vay nợ nước ngoài. Sau đây là một vài ví dụ điển hình về quản lý vay nợ nước ngoài : 1. Kinh nghiệm của Hàn quốc. Vào cuối năm 1965, khi công cuộc cải cách kinh tế , tài chính, thương mại của Hàn quốc đã được tiến hành có hiệu quả, xuất khẩu bắt đầu tăng lên nhanh chóng, giá cả trong nước ổn định, đầu tư vào sản xuất trong nước đã bắt đầu kích thích kinh tế tăng trưởng, các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá lạc quan về triển vọng kinh tế tốt đẹp của nền kinh tế Hàn quốc (giống trường hợp của Việt Nam hiện nay).Vì vậy vào giữa năm 1966, nguồn vốn ngắn hạn ồ ạt chảy vào Hàn quốc một cách đột ngột, đặt chính sách kinh tế vĩ mô trước một vấn đề nan giải: nếu Ngân hàng Trung ương để mặc cho đồng vốn đó chạy vào quá nhiều, đồng Won sẽ lên giá, công nghiệp xuất khẩu non trẻ sẽ bị giáng một đòn nặng nề. Nhưng nếu Ngân hàng Trung ương tìm cách giữ cho tỷ giá đồng Won ổn định trong khi nguồn vốn tài chính tràn ngập, Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát tiền tệ trong nước và nạn lạm phát lại tiếp tục bùng nổ, đúng như đã xảy ra cuối những năm 60. Vào những năm 70 Hàn quốc phải tiếp tục chịu sự lạm phát trong nước kèm theo gánh nặng nợ nước ngoài, Ngân hàng Trung ương Hàn quốc đã phải tiến hành liên tục nhiều cuộc phá giá nhỏ (mini devaluation) để cứu nguy cho các nhà xuất khẩu.Từ thập kỷ 70 Hàn quốc đã sử dụng nguồn vốn nước ngoài vào chiến lược tăng trưởng hàng xuất khẩu (chủ yếu là gia tăng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo và nhờ đó ngày nay Hàn quốc đã trở thành một trong số những con rồng Châu á. 2. Kinh nghiệm của Mêhicô. Qua bài phát biểu của ông Camdessus, giám đốc điều hành IMF ngày 25/5/2000 “tiến tới một khu vực tự do mậu dịch ở Châu Mỹ” và các tài liệu khác cho thấy một bài học quan trọng về thất bại của Mêhicô trong vay nợ nước ngoài. Trong những năm 1993-1998 với sự hỗ trợ tích cực của IMF, Mêhicô đã tạm thời ổn định kinh tế vĩ mô, trang trải được nợ nước ngoài, đặt nền móng cho nền kinh tế khu vực tư nhân, tự do ngoại hối và thương mại, cơ cấu lại các khoản nợ nước ngoài. Nhưng tiếp sau đó, vào cuối năm 1999 nền kinh tế Mêhicô lại bộc lộ những dấu hiệu một cuộc khủng hoảng mới: Bội chi cán cân thanh toán trở nên rất nghiêm trọng. Từ đó Mêhicô lại phải tiếp tục vay nợ ngắn hạn để bù đắp cho số bội chi này. Vốn nước ngoài chạy vào nhiều đã làm cho đồng Peso tăng giá , nhưng sự tăng giá này trong điều kiện lúc đó là giả tạo. Đầu năm 2000 cán cân thanh toán lại tiếp tục bội chi trầm trọng hơn, buộc Chính phủ Mêhicô phải phá giá đồng Peso. Sau khi phá giá, cuộc khủng hoảng kinh tế lại trở nên nghiêm trọng. Mêhicô được coi là mất khả năng thanh toán trên thị trường tài chính quốc tế. Đồng Peso bị các lực lượng đầu cơ tiền tệ tung ra, cuộc khủng hoảng đồng Peso kéo đồng đô-la Mỹ vào cơn lốc đầu cơ, hàng tỷ đô-la Mỹ đã tung ra để mua các đồng tiền mạnh. Trước tình trạng đó Chính phủ Mêhicô phải tìm biện pháp cứu nguy nhưng không thay đổi chính sách tiền tệ để lành mạnh hoá nền kinh tế mà vẫn tiếp tục nhờ vào vay nợ nước ngoài. Trong khi đó Quỹ tiền tệ Quốc tế và Mỹ lại sẵn sàng hỗ trợ : ngày 1/2/2000, IMF cho Mêhicô vay 17,8 tỷ USD trong vòng 18 tháng, Mỹ cho vay 20 tỷ USD và nhóm G10 cho vay ngắn hạn 10 tỷ USD . Như vậy Mêhicô đã vay thêm nợ ngắn hạn 47,8 tỷ USD để giải quyết khủng hoảng kinh tế . Ông Camdessus lại coi đó là “một sự giúp đỡ lớn nhất của IMF đối với một nước hội viên từ trước đến nay” ,và liều thuốc đó lập tức phát huy hiệu quả, ông Camdessus cho biết cán cân thanh toán của Mêhicô đã bắt đầu bội thu vào quý I năm 2000, đồng Peso đã lên giá so với đồng đô-la Mỹ từ 8,1 Peso/1 USD lên 6 Peso/ 1USD. ĐIều này lại có nghĩa là có lợi cho các nhà xuất khẩu Mỹ bán hàng sang Mêhicô - thị trường xuất khẩu đứng thứ 3 của Mỹ, còn Mêhicô thì lại chủ yếu nhập khẩu, xuất khẩu kém làm cho cán cân thương mại của Mêhicô thâm hụt - những tiền đề cho cuộc khủng hoảng mới lại xuất hiện. Bài học lớn từ sự kiện Mêhicô cho thấy : Một nước nếu chỉ dựa vào vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế sẽ có thể đưa nền kinh tế nước đó vào một vòng luẩn quẩn đầy bế tắc :vay nợ để phát triển dãn tới khủng hoảng kinh tế, tiền tệ, để giải nguy lại tiếp tục vay nợ vay nợ lại dẫn tới khủng hoảng mới với công nợ chồng chất ... Một nước ban đầu tưởng chừng rất thành công trong vay nợ nước ngoài song cuối cùng lại vấp ngã . Để làm rõ hơn về vấn đề này chúng ta nghiên cứu thêm một trường hợp của Thái lan trong việc quản lý vay nợ nước ngoài. 3. Kinh nghiệm của Thái lan . Vay nợ nước ngoài của Thái lan được thực hiện theo Luật vay nợ nước ngoài ( năm 1976). Theo luật này, Bộ Tài chính được phép huy động vốn vay từ nước ngoài phục vụ các mục đích phát triển kinh tế - xã hội . Việc cấp bảo lãnh cho các khoản vay của xí nghiệp quốc doanh được quy định trong luật (năm 1976) và sau này có sửa đổi. Đạo luật Hoàng gia (năm 1985) trao quyền cho bộ phận quản lý và Chính sách vay nợ (LPMD) của Bộ Tài chính tiến hành cơ cấu lại nợ nước ngoài của khu vực Nhà nước. Hoạt động của LPMD được các khối thương mại song phương và đa phương giải quyết trong khi các chức năng quản lý nợ được giao cho khối lập kế hoạch và chính sách. Tất cả các thoả thuận về vay nợ nước ngoài của Chính phủ các thông báo giải ngân và hoá đơn thanh toán mà chủ nợ gửi đến đều được giữ ở LPMD . Việc thanh toán nợ do khối chính sách khởi xướng, khối lập kế hoạch và vụ tổng kiểm soát sẽ ghi chép, nơi chịu trách nhiệm hạch toán những khoản vay và hoàn trả nợ. Vì vậy những sổ sách đầy đủ chi tiết đối với vay Chính phủ yêu cầu được vi tính hóa tại LPMD LPMD có thể lấy đầy đủ thông tin và nợ Chính phủ trong cơ sở dữ liệu của mình. Các báo cáo về nợ nước ngoài được giải trình thường xuyên cho Bộ Tài chính và Uỷ ban chính sách nợ quốc gia. Cơ quan này chịu trách nhiệm xác định hạn mức vay nợ và bảo lãnh hàng năm của Chính phủ dựa trên những kiến nghị của cơ quan chính sách tài chính. Uỷ ban hoạt động dưới sự chủ toạ của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thứ trưởng là phó chủ tịch. Những cơ quan kinh tế chủ chốt khác mà hoạt động của nó tác động tới chính sách quản lý nợ có đạI diện trong Uỷ ban là Ban ngân sách , Ban phát triển kinh tế -xã hội quốc gia, cơ quan tổng kiểm soát và Ngân hàng Trung ương Thái lan. Biểu 3. Tình hình nợ nước ngoài của Thái lan . Nợ nước ngoài 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 Tổng số nợ (tỷ đô-la Mỹ ) 6,7 8,8 10,1 11,2 12,8 14,7 16,0 Tỷ lệ % so với xuất nhập khẩu 15,6 16,5 18,0 20,4 20,8 22,7 20,6 Những khoản tiền vay nợ của nước ngoài , một phần để chi tiêu quốc phòng, phần còn lại để đầu tư cho các công trình kinh tế , đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Để giữ được lòng tin với các Tổ chức Tài chính Quốc tế , Thái lan đã đề ra cả một chiến lược vay nợ và trả nợ có tính chất khả thi. Thật vậy từ đầu thập niên 80 , Thái lan đã ban hành chính sách hạn chế vay nợ nước ngoài . Chính sách này chỉ áp dụng cho khu vực kinh tế Nhà nước . Trong kế hoạch năm năm lần thứ 5 (1982-1986), giới hạn vay nợ cho khu vực Nhà nước đã giảm từ 2400 triệu đô-la Mỹ xuống 2060 triệu đô-la Mỹ cho mỗi năm tài chính 1983,1984 ; 1600 triệu đô-la Mỹ cho năm tài chính 1985 và 1000 triệu cho năm tài chính 1986. Việc vay nợ là một điều không tránh khỏi với một nước đang phát triển như Thái lan. Nhưng làm thế nào để có thẻ trả nợ thì không đơn giản. Vì thế vào năm 1984, Nhà nước đã phải đề ra một chiến lược phát bốn điểm nhằm thanh toán dần các khoản nợ đó. Bốn điểm đó là : 1. Chuyển từ vay lãi suất cố định sang vay với lãi suất thả nổi 2. Chuyểntừ vay với lãi suất chênh lệch cao sang vay với lãi suất chênh lệch thấp. 3. Chuyển từ vay ngoại tệ với lãi suất cao sang vay ngoại tệ với lãi suất thấp. 4. Chuyển vay vốn lãi suất cao của các tổ chức đa phương sang vay vốn lãi suất thấp trên thị trường vốn quốc tế. Nhờ kinh tế phát triển nhanh từ nửa sau những năm 80 và áp dụng chiến lược trả nợ trên, Thái lan đã thanh toán được và thanh toán đúng hạn các khoản tiền đã vay để tiếp tục được vay. Trong thời gian này (1982-1986), Thái lan là nước mắc nợ ít nhất so với các nước ASEAN khác. Chính phủ không khống chế giới hạn vay nợ của khu vực tư nhân, nhưng thông qua Ngân hàng Trung ương Thái lan, Nhà nước đã giám sát việc vay nợ để đảm bảo tổng số nợ không vượt quá giới hạn có thể trả được . Tuy nhiên, Thái lan đã không giữ được danh hiệu “tấm gương sáng” về quản lý vay nợ nước ngoài. Các nhà phân tích đã đưa ra kết luận về cuộc khủng hoảng tiền tệ của Thái lan trong thời gian gần đây, đó là: trong những năm qua, Thái lan đã mua sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài nhiều hơn là số tiền nhận được từ xuất khẩu và đầu tư. Hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai của Thái lan chiếm tới 8 % GDP vào năm 2001. Biểu 4. Nợ nước ngoài của Thái lan (tính đến 5/2002) Nợ dài hạn (tỷ USD) %nợ dài hạn trên tổng nợ Nợ ngắn hạn (tỷ USD, dưới 3 năm) % nợ ngắn hạn trên tổng nợ Tổng số nợ (tỷ USD) Chính phủ 18,681 21,96 - - 18,681 Tổ hợp ngân hàng quốc tế Bangkok 28,183 33,13 7,046 8,28 35,229 Khu vực phi ngân hàng 22,250 26,15 8,914 10,47 31,164 Tổng cộng 69,114 81,24 15,960 18,76 85,074 Để tài trợ cho đầu tư trong nước và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội địa, mỗi tháng Thái lan phải vay trên thị trường tiền tệ từ 800 triệu đến 1 tỷ đô-la Mỹ, con số này chưa kể đến nợ nước ngoài của khu vực tư nhân (trên 60 tỷ đô-la Mỹ). Các khoản vay được đầu tư chủ yếu vào những khu vực có giá cả khá nhạy cảm như bất động sản. Hơn nữa nợ ngắn hạn lại chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số nợ, xuất khẩu của Thái lan bị giảm sút, điều này khiến cho các chủ nợ, các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại rằng đất nước này không trả nổi các khoản tín dụng khổng lồ. Thực ra, nếu nguồn vốn vay nước ngoài mà chủ yếu là dài hạn thì khả năng xảy ra những vấn đề đáng tiếc có thể được khắc phục bởi nước đI vay có nhiều thời gian để sử dụng vốn vào sản xuất sinh lời (mà chưa phải trả nợ gốc), hay chí ít cũng có thể lo liệu được nguồn để trả nợ. Song trên thực tế, như đã đề cập ở phần trên, các nước vẫn có những khoản tín dụng ngắn hạn khổng lồ đó là nguồn gốc của khủng hoảng nợ, khủng hoảng tài chính. Thật vậy, ở các nước Mỹ La tinh, đặc biệt là Chi lê, và cả Hàn quốc, khi quá trình tự do hoá và ổn định kinh tế trong các nước đã có những thành công, tính sinh lợi của nền kinh tế đã tăng lên, thường có một xu hướng xuất hiện: các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài đều muốn ồ ạt bỏ vốn vào đầu t. Một điều nguy hiểm là các nhà kinh tế tư nhân trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài không dự đoán được những gì sẽ xảy ra trong tương lai và nguy hiểm hơn là các luồng vốn này là ngắn hạn. Khi vốn chạy vào quá nhiều, tỷ giá danh nghĩa và thực tế đồng tiền trong nước tăng lên, xuất khẩu bị hạn chế, lạm phát có chiều hướng gia tăng thì chính vào lúc đó các khoản nợ ngắn đã đến hạn phải trả. Chi lê vào cuối những năm 70, Hàn quốc giữa những năm 60 các nước này đã không đề phòng tình trạng số nợ ngắn hạn của khu vực tư nhân tăng lên vào giai đoạn này. Mặc khác, trong những năm 70 và 80 Chính phủ của các nước này đã đứng ra bảo lãnh tất cả các khoản tín dụng nước ngoài của kinh tế tư nhân, do đó trên thực tế người cho vay không gắn liền với người đI vay đã làm cho tình trạng nợ nước ngoài tăng lên khủng khiếp trong hai thập kỷ này. Chính vì sự bảo lãnh này của Chính phủ nên các doanh nghiệp trong nước tha hồ vay vốn nước ngoài với bất kỳ ở mức lãi suất nào và gánh nặng công nợ đều đổ lên vai Chính phủ, kết cục đã làm tăng thêm gánh nợ cho đất nước. Do tình trạng thiếu vốn, thiếu ngoại tệ các Chính phủ lại tìm mọi cách khuyến khích luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Nhiều nước đã vội vàng huỷ bỏ các biện pháp quản lý ngoại hối, tự do hoá nhanh việc xuất nhập khẩu vốn ngoại tệ. Một nhà kinh tế học đã cho rằng tình trạng đó là “một quả bom nổ chậm” làm bùng nổ gánh nợ nước ngoài và lạm phát trong nước. Tình hình này diễn ra ở Issariel cuối năm 1977, ở Azentina năm 1981 và cả Ba lan, Nam tư khi họ để cho tình trạng “đô la hoá“ quá lớn trong nền kinh tế của họ trong những năm 1980. Từ những bài học thành công và thất bại về vay nợ nước ngoài của một số nước tiêu biểu đã đề cập ở trên ta có thể rút ra một bài học là: Quản lý nợ nước ngoài tồi là căn nguyên của khủng hoảng nợ và hậu quả cuối cùng là khủng hoảng kinh tế tài chính. Qua đó một lần nữa cho thấy quan hệ nhân quả giữa chính sách tiền tệ (tỷ giá, lãi suất ) với vay nợ nước ngoài đồng thời khẳng định sự cần thiết phải tăng cường các biện pháp quản lý vay nợ nước ngoài, trong đó không thể thiếu vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Chương II Thực trạng quản lý vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong thời gian qua I/ Quan hệ tín dụng của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế . 1./ Quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ tín dụng của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế . a) Với Quỹ tiền tệ Quốc tế(IMF). * Giới thiệu sơ lược. Quỹ tiền tệ Quốc tế là một tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, được thành lập từ hội nghị Bretton Wood năm 1945. Đây là một tổ chức tiền tệ lớn nhất bao gồm 176 nước thành viên và đóng vai trò quan trọng trong quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế. Quỹ tiền tệ Quốc tế được thành lập và hoạt động trên cơ sở hoạt động của các nước hội viên qua hình thức hiệp định . Hoạt động và giao dịch của Quỹ được thông qua hai vụ: - Vụ tổng hợp : Vụ điều hành hoạt động của Quỹ. - Vụ SDR (Special Drawing Rigts): Xác định quyền và nghĩa vụ của các nước hội viên( quyền rút vốn đặc biệt). Đây là vụ quan trọng bởi nó xác lập được quyền của các nước hội viên trong việc sử dụng số SDR cho phép (số SDR được sử dụng phụ thuộc vào sự đóng góp cổ phần khi tham gia vào Quỹ của hội viên). Việc thanh toán trên thị trường quốc tế sẽ dựa vào đồng SDR - là đồng tiền không bị mất giá ( bởi nó được xác định từ rổ tiền tệ với 5 đồng tiền mạnh trên thế giới, bao gồm: đô-la Mỹ, Mác Đức, Bảng Anh, France Pháp và Yên Nhật). Khác với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á (sẽ được trình bày ở phần sau), mục đích trực tiếp của Quỹ tiền tệ Quốc tế không phải là phát triển mà là : - Khuyến khích hợp tác tiền tệ quốc tế ( sử dụng một đơn vị tiền tệ chung hay cùng sử dụng một đơn vị ngang giá với các đơn vị tiền tệ của tất cả các nước hội viên thông qua một tổ chức . Chẳng hạn như liên minh tiền tệ Châu âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu á trong tương lai. - Tạo điều kiện phát triển cân đối mậu dịch quốc tế, tạo điều kiện để phát triển các nguồn lực sản xuất của các nước hội viên, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho các nước hội viên . - Tăng cường sự ổn định tỷ giá của đồng tiền, tránh sự cạnh tranh về tỷ giá giữa các đồng tiền thông qua phương thức cạnh tranh. - Hạn chế về cạnh tranh tỷ giá giữa các đồng tiền có phương hại tới giải quyết cán cân thanh toán, sự phương hại đến thịnh vượng của quốc gia cũng như quốc tế. - Giảm bớt mức độ bất quân bình trong cán cân thanh toán thông qua việc tạo ra các điều kiện, phương tiện thanh toán quốc tế ( cho vay để bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán ...) *Quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ. Ngay từ thời kỳ ngụy quyền Việt Nam đã chính thức là thành viên của IMF. Tới năm 1979, quân Nhật chủ trì cùng 7 nước khác là: Phần lan, Thụy điển, Thụy sĩ, úc, Canada, Bỉ và áo. Nhóm nước này đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 56,2 triệu đô-la Mỹ cùng với 18 Ngân hàng Thương mại do Ngân hàng Ngoại thương Pháp và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Nhật bản chủ trì cho Việt Nam vay bắc cầu 85,447 triệu đô-la Mỹ để trả hết nợ quá hạn vay của IMF một khoản là 100,179 ngàn SDR ( khoảng 140 triệu đô-La Mỹ ) vào tháng 10 năm 1998 . Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành nhiều cuộc thương lượng ký kết và xử lý hàng loạt khâu kỹ thuật để giải quyết vấn đề nợ quá hạn tạo cơ sở cho Ban Giám đốc điều hành IMF thông qua chương trình kinh tế 1 năm, khôi phục quyền vay vốn của Việt Nam tăng vốn cổ phần của Việt Nam tại Quỹ từ 176 triệu SDR lên 241,6 triệu SDR và quỹ quyết định cho Việt Nam vay theo ba thể thức: dự phòng, chuyển tiếp kinh tế và điều chỉnh cơ cấu mở rộng trị giá lên tới 800 triệu đô-la Mỹ trong đó lần một đã rút 102 triệu đô-la Mỹ để trả nợ vay bắc cầu. Như vậy sau hơn 10 năm bị IMF đình chỉ quan hệ tín dụng, ngày 6/10/1998, quan hệ vay vốn của Việt Nam với IMF được khôi phục lại và có nhiều triển vọng. Đây là chìa khoá quan trọng khai thông quan hệ của chúng ta với cộng đồng tài chính quốc tế. b) Với Ngân hàng Thế giới(WB) và Ngân hàng phát triển Châu á(ADB). * Giới thiệu chung. Mặc dù Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển Châu á là hai tổ chức khác biệt song do đều là hai tổ chức tài chính - phát triển do vậy ta sẽ xem xét nội dung , các nguyên tắc và đặc điểm cho vay chung của cả hai tổ chức này(dưới đây xin được gọi với một tên khác là các Ngân hàng ). - Nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển của WB và ADB là tăng cường đầu tư vào các nước đang phát triển, giúp những nước này thay đổi tình trạng kinh tế nghèo nàn, nâng cao mức sống của đông đảo quần chúng nghèo khổ. Chiến lược phát triển này chủ yếu biểu hiện ở những nước, những khu vực được trợ vốn và các dự án xây dựng, đặc biệt là với các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn ngày càng thể hiện rõ tư tưởng chiến lược phát triển này. Nhiều năm gần đây, việc trợ vốn cho các nước đang phát triển vẫn bảo lưu các dự án xây dựng đã trở thành truyền thống nhưng Ngân hàng luôn điều chỉnh những dự án này mục đích là nhằm đặt trọng điểm vào các dự án xây dựng trực tiếp liên quan tới lợi ích của tầng lớp nghèo khổ nhất trong các nước đang phát triển (WB cung cấp cho 163 nước thànhviên và ADB cung cấp cho các nước đang phát triển của khu vực Châu á). - Nguyên tắc cho vay : Căn cứ vào quy định trong hiệp định ngân hàng, WB và ADB có một số nguyên tắc cho vay chung sau: + Ngân hàng chỉ cho vay với các nước thành viên. WB và ADB chỉ cung cấp các khoản cho vay đối với Chính phủ các nước thành viên có thu nhập thấp hoặc đối với các tổ chức công cộng và tư nhân được Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của nước thành viên bảo trợ. Các nước mới độc lập, dù dự tính chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành thành viên, cũng chỉ có thể xin vay sau khi đã chính thức trở thành nước thành viên. Tuy nhiên trên thực tế vẫn có những trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như trước khi Niu Ghinê giành được độc lập vào tháng 9 năm 1975, WB đã cấp cho họ 5 khoản vay, đều do Chính phủ Oxtơraylia bảo trợ. + Thông thường các khoản vay của WB và ADB phải được dùng cho các dự án cụ thể của nước vay nợ, các dự án này phải được Ngân hàng thẩm định và phê chuẩn là có tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế, phải được bàn bạc và thống nhất với nước vay nợ đó, phải là những dự án thật sự ưu tiên nhất trong chương trình phát triển kinh tế. Bởi vậy nước vay nợ phải cung cấp cho các tổ chức này tình hình và tư liệu về kinh tế, tài chính có liên quan đến dự án và của chính dự án xin vay vốn. Dự án vay vốn chỉ có thể được chấp nhận sau khi đơn vị có dự án đánh giá trước, một nhóm thẩm định của Ngân hàng đã phân tích, đánh giá được hội đồng giám đốc điều hành phê chuẩn. Trong quá trình thực hiện dự án thường mỗi năm Ngân hàng sẽ tới kiểm tra đôn đốc và chỉ đạo kỹ thuật một hoặc hai lần , khi kết thúc dự án phải có đánh giá mang tính chất tổng kết. Các khoản cho vay không mang tính chất dự án thường là cấp ngoại tệ cho nhu cầu nhập vật tư, thiết bị để giúp cho các công trình sản xuất đã có sẵn của nước vay nợ. Cũng có một số ít khoản cho vay không mang tính dự án cụ thể được cấp cho các nước vay nợ thực hiện tổng kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế của họ, cũng có một số ít khoản cho vay này được cấp cho nước vay nợ duy trì kế hoạch phát triển sản xuất sau thiên tai. + Chỉ cho vay đối với những nước thành viên có khả năng trả nợ. WB và ADB là những tổ chức phát triển (cho các nước vay nợ để phát triển kinh tế ). Mặt khác WB và ADB lại là những tổ chức tài chính, chủ yếu là vay vốn trên thị trường tiền tệ thế giới rồi lại cho các nước thành viên vay, cho nên chúng phải đảm bảo chắc chắn rằng đồng vốn cho vay phải thu về được đúng hạn. - Đặc điểm cho vay: Tôn chỉ của WB và ADB là cho vay sản xuất dài hạn đối với các nước đang phát triển để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động của họ. Các khoản cho vay này khác với các khoản cho vay của các Ngân hàng Thương mại nói chung . Một cách khái quát,ta có đặc điểm sau: + Thời hạn cho vay tương đối dài thường là 40 năm ( trong đó khoảng 10 năm ân hạn ) . Phương thức trả vốn sau khi hết thời kỳ ân hạn nói chung là chia bình quân cho các năm, cứ nửa năm trả một lần. + Lãi suất tương đối ưu đãi, thường ở mức 1 %/năm. + Ngoài ra còn một đặc điểm khác nữa là trong các dự án do WB và ADB tài trợ luôn đòi hỏi phải có nguồn vốn đối ứng trong nước (vốn tham gia của nước đi vay). * Quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ. Trước năm 1998, WB chỉ cung cấp cho chúng ta một khoản tín dụng cho dự án Thuỷ lợi Dầu Tiếng trị giá 60 triệu USD (vào 24/8/1978). Số lượng dự án do ADB cung cấp nhiều hơn của WB: 7 dự án với tổng trị giá 27,385 triệu USD và đã rút được 24 triệu USD Tháng 10 năm 1998 ngay sau khi quan hệ vay vốn giữa Việt Nam và IMF được trở lại bình thường, WB và ADB đã khẩn trương cùng phía Việt Nam chuẩn bị đàm phán các hiệp định theo một số dự án. Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định vay. Kết quả là WB đã cho vay hai dự án về giáo dục tiểu học và dự án quốc lộ 1A trị giá là 218 triệu đô-la Mỹ ( được ký kết vào ngày 1/11/1998) Trong tài khoá năm 1998, 1999, IMF, WB, ADB dự kiến cho Việt Nam vay khoảng từ 1 đến 1,5 tỷ đô-la Mỹ chi cho tài khoá. Tháng 10 năm 1998 các đơn vị đứng đầu các tổ chức này đã thăm chính thức Việt Nam để cam kết việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam , để có thể cho Việt Nam vay trong những năm tiếp theo, đồng thời khẳng định những thành quả của Việt Nam đã đạt được trong công cuộc đổi mới kinh tế và Việt Nam đã hoà nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Tiếp đó ngày 8 - 10 /11/1998 tại thủ đô Paris, trung tâm chính trị và văn hoá nổi tiếng trên thế giới đã chứng kiến một sự kiện vô cùng quan trọng đối với Việt Nam là Hội nghị quốc tế đầu tiên của các nước và các Tổ chức Tài chính Quốc tế tài trợ cho Việt Nam với sự có mặt của đông đảo các đạI diện của 24 quốc gia và 17 tổ chức quốc tế. Các nước và các tổ chức quốc tế đã tuyên bố tài trợ cho Việt Nam tài khoá năm 1999là 1,86 tỷ đô-la Mỹ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước Và tới ngày 13,14/12/1998, chúng ta đã đủ điều kiện để giải quyết nợ qua câu lạc bộ Paris với số tiền là 1 tỷ USD. Đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu một giai đoạn mới với nhiều triển vọng trong quan hệ vay nợ nước ngoài của Việt Nam, là điều kiện để ta giải quyết nợ qua Câu Lạc Bộ London ( tới nay chúng ta đã xử lý nợ qua câu lạc bộ London được 1,5 tỷ Rúp và hơn 3 tỷ đô-la Mỹ ). Quan hệ tài chính, tín dụng của chúng ta ngày càng phát triển và không ngừng được mở rộng với cả các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế khác. Biểu hiện điều này như việc Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các Bộ , Ngành để đàm phán và ký kết những hiệp định vay vốn: Quỹ KUWAIT cho vay dự án thuỷ lợi Yazun trị giá 15 triệu USD, với Quỹ xuất khẩu dầu lửa (OPEC) ... Đối với Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (MBEC) và Ngân hàng Đầu tư Quốc tế (MIB) của cộng đồng các nước XHCN trước đây, trong thời gian qua có nhiều biến động lớn, có nguy cơ sụp đổ, chúng ta đã góp phần đấu tranh để duy trì và điều chỉnh hoạt động của hai tổ chức này, cụ thể là đã trình Chính phủ giải quyết trả trước số nợ với MBEC và cùng các ngành, địa phương xử lý nợ của những công trình đã vay vốn của MIB. Như vậy, sau gần 5 năm, tính cho tới 4/2003, chỉ tính riêng ba tổ chức là IMF, WB, ADB đã ký cho Việt Nam vay vốn với tổng trị giá lên tới 3,6 tỷ USD. Số vốn này được tài trợ cho các dự án trọng điểm trên mọi lĩnh vực như: giáo dục, cấp nước, y tế, giao thông, điện, ...Đây là kết quả rất thành công của cả một sự cố gắng, nỗ lực lớn của Chính phủ Việt Nam trong đó không thể không kể đến sự đóng góp không nhỏ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2. Khái quát cơ chế tín dụng của các Tổ chức Tài chính Quốc tế. Sau khi hiệp định vay có giá trị hiệu lực, Tổ chức cho vay (Tổ chức Tài chính Quốc tế) sẽ tiến hành mở cho Chính phủ Việt Nam một tài khoản vay nhưng đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tài khoản vay này sẽ được ghi nợ mỗi khi người vay (Chính phủ Việt Nam) rút vốn vay để sử dụng, chi tiêu cho dự án đầu tư đã được Tổ chức cho vay thống nhất. Thời hạn rút vốn của người vay (Chính phủ đi vay) thường được quy định (cam kếta0 trong phạm vi là 5 năm (phải rút hết số vốn vay đã cam kết). Tổ chức cho vay quy định một lịch trả nợ từ sau thời gian ân hạn (thời gian chưa phải trả nợ sau khi đã hoàn thành thời gian rút vốn) cho tới hết thời hạn vay. 2.1 Thủ tục giải ngân (rút vốn). Do đặc điểm nguồn vốn cho vay của Tổ chức cho vay đối với nước đi vay thường được tài trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, các công trình phúc lợi xã hội với quy mô lớn. Do vậy hình thức giải ngân (cho rút vốn) của Tổ chức cho vay được áp dụng với nước đi vay gồm 4 hình thức: a) Thanh toán trực tiếp ( Direct Payment). Theo hình thức này, bên vay sẽ yêu cầu bên cho vay thanh toán trực tiếp cho người cung cấp hàng. Bên vay phải chỉ rõ trong đơn xin rút vốn vay ngày đến hạn phải thanh toán với người cung cấp hàng. Hình thức này nói chung thích hợp với việc thanh toán theo tiến độ thi công các công trình xây lắp lớn, các chi phí về tư vấn và các khoản nhập khẩu nhỏ gọn không cần thiết phải mở thư tín dụng . Khi nhận được thông báo để thanh toán của bên cho vay gửa trở lại, phải kiểm tra xác nhận và gửi cho Bộ Tài chính (bản sao) để theo dõi quá trình rút vốn và nhận nợ với nước ngoài. b) Phương thức hoàn vốn (Reimbursement Procedure) Phía bên vay đã thanh toán trước các chi phí phát sinh cho người nhận thầu và cung ứng hàng hóa hoặc các khoản mua sắm , chi phí xây lắp nhỏ , lặt vặt mà người vay đã đứng ra chi trước mà những chi phí này được Tổ chức cho vay chấp nhận thuộc chi phí tài trợ của dự án. Chủ dự án được Bộ Tài chính uỷ quyền có trách nhiệm làm các đơn xin hoàn lại vốn, cũng như các chứng từ chứng minh đã thanh toán cho người nhận thầu và cung cấp hàng hoá để gửi cho bên cho vay. Các thủ tục thanh toán và hoàn vốn được thực hiện qua một ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chỉ định và thông báo với phía cho vay. Chủ dự án phải mở tài khoản riêng để theo dõi các chi phí đã ứng trước, đồng thời căn cứ vào báo có của bên cho vay ( đã hoàn trả vốn ) để lập báo cáo chi và thu hoàn vốn gửi cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Thương mại được chọn (nếu chi phí đó có liên quan tới vốn của Ngân hàng Thương mại). c) Phương thức cam kết (Commitment Procedure). Thủ tục cam kết được áp dụng rộng rãi trong việc thanh toán hàng nhập khẩu bằng thư tín dụng thương mại (L/C) . Thư tín dụng do bên vay mở tại các ngân hàng của nước cung cấp hàng phải được phía cho vay cam kết thanh toán bằng một thư cam kết ( Commitment Letter) Thực hiện hình thức này chủ dự án được Bộ Tài chính uỷ nhiệm phối hợp với Ngân hàng Thương mại phục vụ mình mở các thư tín dụng theo hợp đồng thương mại đã ký, đồng thời yêu cầu bên cho vay có thư cam kết việc thanh toán các thư tín dụng đã mở. c) Qũy tạm ứng ( Imporest Fund) hay còn được gọi là “ Tài khoản đặc biệt” (Special Account). Bên cho vay sẽ ứng cho bên vay một khoản tiền ứng trước và có thể được bổ su._.g tiền thì WB thanh toán qua Tài khoản tiền gửi ngoại tệ (TKTG ngoại tệ) tại cục dự trữ liên bang. Quá trình hạch toán tại Cục dự trữ liên bang diễn ra như sau: -Nợ TKTG ngoại tệ đứng tên WB: 50 triệu USD -Có TKTG ngoại tệ đứng tên NHNNVN : 50 triệu USD Tại Việt Nam (Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước), khi nhận được báo có về khoản ngoại tệ đi vay đã được chuyển vào TKTG ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước tại Cục dự trữ thì hạch toán: - Nợ TK 221 (Tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài): 50 triệu USD - Có TK 271 (Vay ngoại tệ của các TCTDQT): 50 triệu USD Theo nguyên tắc, mọi khoản vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ đều phải được tập trung hạch toán qua Ngân sách Nhà nước để đầu tư cho các dự án phát triển thông qua các Ngân hàng Thương mại (Ngân hàng Thương mại tiến hành cho vay lại hoặc ngân hàng phục vụ chủ dự án). Do vậy quá trình này được hạch toán tiếp như sau: - Nợ TK 321 (Cho vay Kho bạc Nhà nước): 50 triệu USD - Nợ TK 3312 (Tiền gửi Kho bạc Nhà nước): 50 triệu USD Đồng thời ghi : -Nợ TK 3312 (Tiền gửi Kho bạc Nhà nước): 50 triệu USD - Có TK 463 (Tiền gửi của các Tổ chức tín dụng): 50 triệu USD Việc theo dõi và thu hồi nợ từ các Ngân hàng Thương mại, doanh nghiệp sẽ do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm và cũng phải được hạch toán qua Ngân sách Nhà nước. Quá trình trả nợ cho WB: ở đây chúng ta cần lưu ý rằng mặc dù chúng ta ( Chính phủ Việt Nam ) nhận được vốn bằng tiền mặt là 50 triệu USD, bằng hàng hóa là 50 triệu USD nhưng thực chất WB lại phải chi ra 100 triệu USD tiền mặt (trong đó 50 triệu USD thanh toán cho nhà cung ứng thiết bị máy móc...). Hơn nữa WB là một tổ chức tài chính chứ không phải là một quốc gia hay một đơn vị buôn bán do vâỵ khi thu nợ gốc thì WB sẽ lấy đủ 100 triệu USD bằng tiền mặt chứ không phải là bằng 50 triệu USD tiền mặt và 50 triệu USD bằng hàng hoá. Quá trình thanh toán cho WB cũng được thông qua tài khoản tiền gửi ngoại tệ đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Cuc dự liên bang. Quá trình này được hạch toán như sau: -Ngân hàng Nhà nước (Sở giao dịch) trích từ tài khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước để trả nợ: - Nợ TK 3312 (Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước): 100triệu USD - Có TK 321 (Cho vay Kho bạc Nhà nước : 100 triệu USD Đồng thời ghi : - Nợ TK 271 (Vay các Tổ chức Tài chính Quốc tế): 100 (tr)USD - Có TK 221 (Tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài): 100 triệu USD Khi nhận được giấy báo nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cục dự trữ hạch toán để trả lại vốn cho WB: - Nợ TK Tiền gửi ngoại tệ Việt Nam: 100 triệu USD - Có TK Tiền gửi ngoại tệ WB: 100 triệu USD Chúng ta có thể khái quát quá trình vay và trả nợ nước ngoài bằng sơ đồ hạch toán ở trên. Từ sơ đồ này ta có thể dễ dàng nhận thấy nguyên tắc hạch toán bị vi phạm: - Tài khoản 221 (Tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài) là tài sản có do vậy phải dư nợ nhưng theo cơ chế hạch toán như đã trình bày ở trên thì lại dư có. - Tài khoản 271 (Vay các Tổ chức Tài chính Quốc tế) là tài sản nợ , theo nguyên tắc phải dư có nhưng ở đây lại dư nợ. 2.4/ Đối với thể thức hoàn vốn: Như đã được trình bày ở trên thể thức hoàn vốn thường áp dụng cho những khoản thanh toán bằng nội tệ nhưng vốn vay từ các Tổ chức Tài chính Quốc tế cũng như Chính phủ các nước lại bằng ngoại tệ do vậy làm phát sinh nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, cụ thể là Ngân hàng Nhà nước phải bán nội tệ (VND) đổi lấyngoại tệ. Trường hợp vốn vay bằng ngoại tệ mạnh hoặc ngoại tệ nằm trong nhu cầu dự trữ của Việt Nam thì không có vấn đề gì để bàn cãi nhưng trường hợp lượng ngoại tệ này lại không nằm trong nhu cầu dự trữ ngoại tệ quốc gia thì có nên mua hay không? Câu trả lời là : Nếu số ngoại tệ này không nằm trong hiệp định, hợp đồng vay thì đương nhiên Ngân hàng Nhà nước sẽ từ chối việc mua bán này song nếu đã nằm trong hiệp định, hợp đồng ký vay thì buộc Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Để thực hiện được nghiệp vụ này thì một vấn đề được đặt ra là lượng ngoại tệ sẽ mua bán này là bao nhiêu ? Theo quy định hiện hành thì Ngân hàng Nhà nước chỉ đảm nhiệm quản lý rút vốn theo thể thức tạm ứng (chứ không bao gồm các thể thức khác), các đơn vị khác thực hiện rút vốn vay của Chính phủ (Bộ Tài chính , Ngân hàng Thương mại,...) phải báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về lượng vốn rút này song trên thực tế thì có đơn vị thực hiện, cũng có đơn vị không thực hiện.Điều này dẫn tới việc Ngân hàng Nhà nước không có cơ sở để xác định chính xác khối lượng ngoại tệ cần mua bán trong hiệp định, hợp đồng. Đây là một vấn đề còn tồn tại hiện đang gây không ít khó khăn cho phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Sở giao dịch). Ngoài ra, để có thể xuất đồng nội tệ cho chủ dự án (hoặc Ngân hàng Thương mại phục vụ) thì ngoài việc căn cứ vào số lượng ngoại tệ cần mua bán còn căn cứ vào tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ này. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ, do Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp quản lý đối với hình thức giải ngân này nên dẫn tới hiện tượng tuỳ tiện trong việc ấn định tỷ giá. Về nguyên tắc, khi giải ngân theo thể thức hoàn vốn, để có thể chuyển đổi vốn ngoại tệ ra đồng nội tệ thì tổ chức cho vay phải liên hệ với Ngân hàng Nhà nước để nắm bắt tỷ giá mua vào ngoại tệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên không phải bao giờ tổ chức cho vay cũng tuân thủ nguyên tắc này. Cụ thể: Đầu tháng 4 /2003, khi giải ngân dự án “Cải tạo quốc lộ 1A” của ADB theo thể thức hoàn vốn, tổ chức này đã không xin tỷ giá mua vào ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước mà tuỳ tiện áp đặt một tỷ giá 11.000VND/1USD. Đây có thể là tỷ giá được thông báo trên ti vi hay một phương tiện nào đó ở một thời điểm trong quá khứ. Tỷ giá lúc bấy giờ của Ngân hàng Nhà nước là 12.985 VND/1USD. Vấn đề này đã được kịp thời phát hiện, giải quyết, song nếu không được phát hiện chúng ta sẽ bị thiệt hại 652.000.000 VND (tương đương với 50.211 USD) khi giải ngân 330.000 USD. Nếu xét ở một góc độ khác, điều này đã làm tăng chi phí của dự án: Chẳng hạn một dự án cần một lượng vốn là 1.000.000.000.000 VND được tài trợ băng nguồn vốn vay nước ngoài . Với tỷ giá 12.985VND/1USD lượng vốn này tương đương với 77 triệu USD, nhưng với tỷ giá 11.000 VND/1USD, lượng vốn này lại là 90,9 triệu USD. Đương nhiên, ADB cho vay bằng USD thì khi thu nợ tổ chức này cũng thu bằng USD và cùng một dự án 1000 tỷ VND, với tỷ giá 12.985 VND/1USD thì chúng ta (Chính phủ Việt Nam) chỉ phải trả nợ gốc là 77 triệu USD nhưng với tỷ giá 11.000 VND/1USD thì chúng ta phải trả nợ gốc tới 90,9 triệu USD. Một con số quả là không nhỏ. 2.5 Về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các Tổ chức Tài chính Quốc tế. Theo điều lệ tổ chức của các Tổ chức Tài chính Quốc tế, để trở thành hội viên của các tổ chức này, nước thành viên phải có những ràng buộc, điều kiện nhất định, trong đó có một ràng buộc là phải tham gia đóng góp cổ phần. Riêng cổ phần đóng góp bằng đồng bản tệ sẽ được tổ chức cho vay lưu ký tại nước hội viên dưới hình thức mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương (Sở giao dịch) nước hội viên. Cho tới 30/ 9/ 2002, số dư tiền gửi bằng đồng bản tệ (VND) của các tổ chức cho vay mở tại Sở giao dịch là 5.425.056.162.649 VND, bao gồm: - IMF: + Tài khoản số 1: 5.336.348.929.510 VND + Tài khoản số 2: 75.820.871 VND - WB: +TK của Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): 16.257.228.000 VND + TK của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD): 66.854.098.562 VND - Tổ chức Miga: 654.342.450. VND - ADB: 4.865.734.256 VND Do điều kiện ngân sách của ta có hạn, do vậy, ít lâu nay việc góp vốn cổ phần cho các Tổ chức Tài chính Tíin dụng Quốc tế bằng đồng bản tệ (VND) để duy trì tài khoản tiền gửi của các tổ chức cho vay mở tại Sở giao dịch thường là xác nhận khống (không có tiền thực) và hàng tháng Sở giao dịch đều phải xác nhận số dư với tổ chức cho vay. Dựa trên cơ sở xác nhận số dư đó, khi có nhu cầu sử dụng đồng bản tệ (VND) các tổ chức cho vay thực hiện lệnh chi cho Sở giao dịch (Uỷ nhiệm chi). Do số dư trên tài khoản tiền gửi của các tổ chức này thường là số dư khống nên Sở giao dịch thường phải đề nghị Bộ Tài chính chuyển tiền cho Sở để có nguồn thực hiện lệnh chi. Việc thực hiện lệnh chi của chủ tài khoản (tổ chức cho vay) phụ thuộc vào nguồn tiền do Bộ Tài chính chuyển sang nên tiền thường tới vẫn quá chậm trễ (thường sau 15 ngày thậm chí có lệnh chi sau một tháng mới thực hiện được) dẫn tới sự tra soát của các tổ chức cho vay, gây ảnh hưởng không có lợi cho quan hệ giữa Sở giao dịch với các tổ chức cho vay. Trên đây là một số tồn tại nảy sinh trong quá trình Ngân hàng Nhà nước quản lý vay nợ nước ngoài của Chính phủ mà chúng ta cần sớm có biện pháp khắc phục bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới Chính phủ Việt Nam nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng. Chương III Những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại I./ Giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ 1./ Đối với cơ chế nhận nợ, rút vốn. Trước hết cần khẳng định lại rằng cơ chế nhận nợ hiện nay mà Ngân hàng Nhà nước đại diện cho Chính phủ Việt Nam nhận nợ trước các Tổ chức Tài chính Quốc tế, Chính phủ các nước là đúng đắn bởi những lý do sau: Ngân hàng Nhà nước là đơn vị đại diện cho Chính phủ Việt nam trước các Tổ chức Tài chính Quốc tế, đồng thời Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại hầu hết các Tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Do vậy mọi hoạt động tín dụng của Chính phủ Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế và Chính phủ các nước có thể được hạch toán qua tài khoản này. Bộ Tài chính là đơn vị quản lý các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ song không thể nhận nợ trước các Tổ chức Tài chính Quốc tế bởi Bộ Tài chính không có tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các nước. Hơn nữa, việc Ngân hàng Nhà nước đại diện cho Chính phủ Việt Nam để nhận nợ là phù hợp với thông lệ của hầu hết các nước và điều này cũng phù hợp với nghiệp của Ngân hàng Nhà nước hơn là Bộ Tài chính hay bất kỳ một đơn vị nào khác. Tuy nhiên, với một cơ chế nhận nợ tập trung thì cũng cần phải có một cơ chế rút vốn tập trung. Ngân hàng Nhà nước ngoài chức năng là đơn vị đầu mối để tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên ngoài thì Ngân hàng Nhà nước còn có nhiều chức năng, nhiệm vụ quan trọng khác đối với toàn bộ nền kinh tế đó là việc lập và điều hành các chính sách tiền tệ thông qua các công cụ tỷ giá, lãi suất,...Việc hoạch định chính sách tiền tệ ngoài việc căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế thì một căn cứ rất quan trọng là lượng ngoại tệ vào, ra khỏi đất nước mà chủ yếu là từ các khoản đầu tư nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước cần nắm bắt được khối lượng ngoại tệ vào trong thời kỳ hiện tại và đồng thời cũng cần phải biết được khối lượng tiền phải trả nợ trong tương lai để có thể có một chiến lược về chính sách tiền tệ phù hợp, bởi các nguồn vốn nước ngoài được huy động quá mức có thể dẫn tới việc giảm lãi suất tiền gửi trong nước, ảnh hưởng tới chính sách tiết kiệm trong nước. Trường hợp huy động vốn nước ngoài nhiều mà không đi liền với tăng nhanh tích luỹ và đầu tư bằng vốn trong nước có thể dẫn tới việc tăng giá trị đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Trong một nền kinh tế thị trường thì điều này sẽ kéo theo sự phân bổ lại các nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế . Các chủ đầu tư chuyển nguồn lực vào sản xuất hàng hoá và các dịch vụ cho nhu cầu trong nước. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu này nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì có thể là nguyên nhân gây ra sự mất khả năng trả nợ của nền kinh tế trong tương lai do mất cân đối về cung cầu ngoại tệ. Để có thể khấc phục được những tồn tại như phần trên đã nêu, một giải pháp cần được thực hiện là tăng cường vai trò giám sát, kiểm soát tình hình rút vốn của các dự án của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể là: - Ngoài thể thức rút vốn tạm ứng/ tài khoản đặc biệt như hiện tại được quy định, do Ngân hàng Nhà nước ký đơn rút vốn, còn lại 3 thể thức rút vốn (thanh toán trực tiếp, phát hành thư cam kết, hoàn vốn) cũng phải được đặt dưới sự kiểm soát thông qua việc đồng tham gia ký trên đơn rút vốn của Ngân hàng Nhà nước (hiện tại ba thể thức này theo quy định được giao cho chủ dự án và ngân hàng thương mại phục vụ ký). Giải pháp khắc phục này sẽ giúp cho : + Ngân hàng Nhà nước có cơ sở để theo dõi việc ghi nợ trên tài khoản vay của các tổ chức cho vay, đồng cũng có điều kiện để theo dõi, kiểm soát việc tính phí, lãi phải trả của Chính phủ Việt nam đối với tổ chức cho vay. + Cùng với việc có cơ sở theo dõi việc ghi nợ tài khoản vay, giải pháp này cũng giúp cho Chính phủ Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) có thể nắm chính xác lượng ngoại tệ vào Việt Nam qua luồng vốn đầu tư nước ngoài, giúp cho việc thiết lập cán cân thanh toán, cán cân ngoại tệ được chính xác. + Có điều kiện để điều hành chính sách tỷ giá phù hợp với chủ trương kìm chế lạm phát gắn liền với tăng trưởng kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Với cơ chế này, quá trình kiểm soát đơn rút vốn của ba thể thức còn lại như sau: Chủ dự án lập hồ sơ xin rút vốn gửi tới Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Bộ Tài chính tiến hành kiểm soát đơn yêu cầu xin rút vốn của chủ dự án, nếu hợp lệ (nằm trong kế hoạch rút vốn đã được duyệt) thì sẽ có văn bản chấp thuận đề nghị rút vốn của chủ đầu tư. Bộ chứng từ này (gồm hồ sơ xin rút vốn và văn bản chấp thuận của Bộ Tài chính) được chuyển tới Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm soát thủ tục, điều kiện rút vốn, nếu hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ đồng ký trên đơn rút vốn của chủ dự án, gửi Ngân hàng Thương mại phục vụ và yêu cầu chủ dự án cùng ngân hàng thương mại gửi đơn rút vốn cho Tổ chức cho vay. Khi Tổ chức cho vay chấp nhận đơn xin rút vốn và tiến hành giải ngân, Tổ chức cho vay sẽ thông báo kết quả giải ngân cho Ngân hàng Nhà nước để Ngân hàng Nhà nước có cơ sở để xác nhận dư nợ trên tài khoản vay. Để thực hiện theo cơ chế kiểm soát rút vốn này, một vấn đề chúng ta cần đề cập tới là nếu có sự phân công cụ thể giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát rút vốn sao cho vừa nâng cao hiệu quả của quá trình rút vốn, đồng thời vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nằm trong kế hoạch hạn mức rút vốn (như thông tư 09/ NH-TC ngày 30/5/1999 đã quy định). Theo cơ chế kiểm soát này, trên cơ sở kế hoạch rút vốn 6 tháng, năm của các chủ dự án lập gửi Bộ Tài chính. Bộ Tài chính tiến hành xét duyệt và kết quả xét duyệt này sẽ được thông báo cho Ngân hàng Nhà nước để Ngân hàng Nhà nước thực hiện yêu cầu quản lý mức độ rút vốn, đảm bảo không được vượt quá hạn mức rút vốn cho từng dự án được Bộ Tài chính phê duyệt. Từng lần rút vốn, chủ dự án lập hồ sơ đề nghị rút vốn gửi trực tiếp tới Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành kiểm soát thủ tục , điều kiện của các đơn rút vốn, nếu hợp lệ và nằm trong hạn mức vốn rút được Bộ Tài chính thông báo thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trực tiếp ký trên đơn rút vốn đối với đơn rút vốn bằng tiền và đồng ký trên đơn rút vốn không phải bằng tiền (thanh toán trực tiếp, phát hành cam kết, hoàn vốn), gửi tập hồ sơ này cho chủ dự án để chủ dự án gửi cho Tổ chức cho vay. Khi Tổ chức cho vay chấp nhận các đơn rút vốn, Tổ chức này sẽ thực hiện giải ngân theo các hình thức giải ngân tùy theo điều kiện của từng dự án và kế hoạch của Tổ chức cho vay, ghi nợ cho tài khoản vay đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đồng thời thông báo kết quả giải ngân (ghi nợ tài khoản vay) cho Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và chủ dự án biết. Riêng đối với thể thức hoàn vốn (giải ngân theo hình thức chuyển tiền), theo cơ chế hiện nay, sau khi nhận được hồ sơ, nếu chấp nhận giải ngân theo yêu cầu của chủ dự án thì tổ chức cho vay phải liên hệ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xin tỷ giá mua vào ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước và mức độ giải ngân qua thể thức này chỉ được thực hiện khi có sự thống nhất tỷ giá mua bán ngoaị tệ của Ngân hàng Nhà nước cùng với chỉ dẫn thanh toán của Ngân hàng Nhà nước. 2./ Đối với cơ chế hạch toán. Mặc dù sau gần 5 năm kể từ khi quan hệ tín dụng của Chính phủ Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế được tái lập, chúng ta đã thu được những thành công lớn trong việc thực hiện chủ trương tranh thủ nguồn vốn vay nước ngoài để hỗ trợ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên vì là vốn vay do đó vấn đề hoàn trả (gốc và lãi) là vấn đề có tính thiết yếu. Hơn nữa với đặc thù của quan hệ vay mượn quốc tế thì việc hoàn trả (gốc và lãi) đúng hạn định đã cam kết là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đảm bảo uy tín của Chính phủ Việt Nam trên thị trường tài chính tín dụng quốc tế. Bởi vậy, một vấn đề có ý nghĩa then chốt là phải có một cơ chế hạch toán đối với hoạt động vay nợ của Chính phủ, sao cho cơ chế hạch toán đó phải vừa phản ánh một cách đầy đủ quá trình vận động của vốn vay, vừa tuân thủ theo những quan điểm, chủ trương chỉ đạo của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ. Với cơ chế hạch toán như hiện nay (theo công văn số 516/ KT.NHNN ngày 31/8/1999 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cơ chế hạch toán các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ), một vấn đề nổi lên là: chỉ hạch toán những khoản vốn rút bằng tiền (ngoại tệ được chuyển vào tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước tại nước ngoài), và sử dụng tài khoản “vay ngoại tệ nước ngoài” để hạch toán theo dõi những khoản vốn rút. Trong khi đó, với trách nhiệm của người đại diện cho Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức cho vay, tài khoản vay được mở cho nước vay phải đứng tên Ngân hàng Nhà nước để theo dõi tình hình rút vốn (bao gồm rút vốn bằng tiền và rút vốn không bằng tiền). Với cơ chế hạch toán như vậy, rõ ràng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chúng ta chưa có một tài khoản đối ứng với tài khoản vay do tổ chức cho vay mở đứng tên Ngân hàng Nhà nước, và như vậy đã xảy ra hiện tượng số phát sinh tài khoản vay đứng tên Ngân hàng Nhà nước tại Tổ chức cho vay luôn lớn hơn số phát sinh trên tài khoản 271- vay ngoại tệ nước ngoài, dẫn tới tài khoản thuộc tài sản có lại dư có, tài khoản thuộc tài sản nợ lại dư nợ. Để khắc phục tồn tại này, chúng tôi xin đề xuất: cần nghiên cứu một cơ chế hạch toán sao cho TK 271 là tài khoản không chỉ đơn thuần theo dõi rút vốn bằng ngoại tệ, mà nó phải là tài khoản theo dõi kết quả rút vốn của Chính phủ đối với các Tổ chức cho vay (luôn tương ứng với tài khoản vay được Tổ chức cho vay mở cho Chính phủ Việt Nam). Muốn vậy: a/ Khi rút vốn bằng ngoại tệ (rút vốn thông qua tài khoản tạm ứng/ tài khoản đặc biệt). Sau khi tổ chức cho vay ghi nợ tài khoản vay và chuyển ngoại tệ cho Chính phủ Việt Nam qua tài khoản tiền gửi ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Ngân hàng đại lý ở nước ngoài, khi nhận được báo có của Ngân hàng đại lý, Ngân hàng Nhà nước hạch toán: - Nợ TK 221 (Tiền gửi ở tại Cục dự trữ) - Có TK 271 (Vay ngoại tệ của các TCTDQT) Đồng thời ghi: - Nợ TK 321 “Cho vay kho bạc Nhà nước” nhưng tài khoản này phải được đổi tên “Chính phủ nhận vay nước ngoài” - Có TK 3312 “Tiền gửi kho bạc Nhà nước” (nhằm thực hiện chủ trương mọi khoản vay từ nước ngoài của Chính phủ đều phải được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Khi có ý kiến của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước hạch toán chuyển tiền cho chủ dự án qua ngân hàng thương mại phục vụ: - Nợ TK 3312 (Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước) - Có TK 463 (Tiền gửi của các Tổ chức tín dụng) b/ Khi rút vốn không bằng ngoại tệ (thông qua hình thức thanh toán trực tiếp, phát hành cam kết, hoàn vốn). Trên cơ sở sao kê tài khoản vay mà Tổ chức cho vay dgửi Ngân hàng Nhà nước (có thể bằng đường thư, có thể bằng hệ thống EMAIL), Ngân hàng Nhà nước đối chiếu với đơn rút vốn đã đề xuất - có sự kiểm soát (ký) của Ngân hàng Nhà nước và hạch toán tiếp: - Nợ TK 321 “Chính phủ nhận vay nước ngoài” - Có TK 271 “Vay nước ngoài” Và như vậy, số phát sinh của tài khoản 271 là tài khoản luôn tương ứng với số phát sinh (dư nợ) của tài khoản vay mà tổ chức cho vay mở cho Chính phủ Việt Nam - tài khoản đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. c/ Khi hạch toán trả nợ. Việc bổ sung hạch toán vào tài khoản 271 và tài khoản 321 phần nhận vốn không phải bằng tiền sẽ giúp cho Chính phủ có cơ sở để trả nợ (gốc và lãi), phù hợp với chu trình trả nợ, đồng thời khắc phục được hiện tượng khi trả nợ tài khoản 321 sẽ dư có (doanh số có lớn hơn doanh số nợ) và tài khoản 271 sẽ dư nợ (doanh số nợ sẽ lớn hơn doanh số có). Để hiểu rõ hơn về giải pháp này, chúng ta quay trở lại thí dụ ở phần những tồn tại trong cơ chế hạch toán: Dự án X sau khi kết thúc thời hạn giải ngân 100 triệu USD (trong đó rút bằng ngoại tệ 50 triệu USD và không bằng ngoại tệ là 50 triệu USD). Dư nợ tài khoản vay được tổ chức cho vay ghi nợ 100 triệu USD. Tại Ngân hàng Nhà nước quá trình này được thể hiện bằng sơ đồ như sau: TK 221 TK 271 TK 321 TK 3312 100 (2b) 100 50 50 100 (1b) 100 50 50 50 50 50 (1a) (2a) (3a) TKTGTCTD 50 Ghi chú: 1a, 2a, 3a - quá trình rút vốn vay 1b, 2b - quá trình trả nợ vốn vay Như vậy, tồn tại đã được khắc phục, số phát sinh nợ và có của hai tài khoản 271 và 321 đã cân xứng, Với những suy nghĩ như trên, tôi thấy rằng một cơ chế hạch toán, một giải pháp như đã đề cập là phù hợp với nội dung và tính chất của các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, về lâu dài, chúng ta cần nghiên cứu để có một hệ thống kế toán hoàn chỉnh sao cho đảm bảo tính cân đối giữa các tài khoản, phản ánh chính xác các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình rút vốn, nhận nợ và trả nợ. 3./ Thành lập Hội đồng quản lý nợ nước ngoài. Khái quát tất cả những vấn đề đã được đề cập trong phần những tồn tại và những nhu cầu đặt ra cho phần giải pháp góp phần hoàn thiện công tác quản lý vay và trả nợ nước ngoài ta thấy có một vấn đề cần được quan tâm xem xét. Đó là: Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa có một cơ quan nào đứng ra thống nhất quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Hiện vẫn đang tồn tại 3 cơ quan có chức năng quản lý nợ nước ngoài là Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đầu mối trong việc điều phối và quản lý vốn ODA - hỗ trợ phát triển chính thức), Bộ Tài chính (quản lý nợ của Chính phủ) và Ngân hàng Nhà nước (quản lý nợ nước ngoài của doanh nghiệp và một phần nợ của Chính phủ). Tuy nhiên, sự phối hợp giữa ba cơ quan này còn thiếu chặt chẽ và đồng bộ. Điều này gây không ít khó khăn trong việc xác định chính xác tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam cũng như việc hoạch định một chiến lược vay và trả nợ nước ngoài phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Những câu hỏi như : nợ nước ngoài bao nhiêu là hợp lý, từ nay cho tới năm 2005 hoặc 2010 chúng ta vay bao nhiêu là phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tỷ lệ giữa vốn vay nước ngoài với vốn huy động trong nước ở mức nào là tối ưu v.v...vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Hơn nữa, trong phần giải pháp về cơ chế nhận nợ rút vốn, mấu chốt của vấn đề là mọi khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ phải được tập trung qua Ngân hàng Nhà nước. Trong phần cơ chế hạch toán, các giải pháp cũng chỉ có thể phát huy được hiệu quả nếu Ngân hàng Nhà nước trực tiếp ký trên đơn rút vốn đối với các khoản vốn vay của Chính phủ. Do vậy cần phải có một cơ quan đứng ra quản lý và điều phối chung trong công tác vay nợ nước ngoài để tránh sự chồng chéo về mặt tổ chức, trùng lặp về mặt nội dung quản lý. Từ những lý do trên, ta thấy việc thành lập một cơ quan quản lý chung các vấn đề vay, trả nợ nước ngoài là việc cần thiết và cấp bách. Theo tôi, cơ quan này sẽ là “Hội đồng quản lý nợ nước ngoài” và cấu trúc hoạt động của cơ quan này như sau: Hội đồng quản lý nợ nước ngoài: Đây là cơ quan quan trọng nhất trong khâu quản lý nợ nước ngoài. Hội đồng này phải trực thuộc Chính phủ và sẽ do một Phó Thủ Tướng Chính phủ thành lập và đứng đầu. Hội đồng này bao gồm các đại diện cấp cao của một số Bộ, ngành như: - Ngân hàng Nhà nước. - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hội đồng này có chức năng hoạt đông như Uỷ ban điều hành và quản lý nợ nước ngoài. Các thành phần quan trọng như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính... đều nối mạng với cơ quan này, do vậy, Hội đồng có thể tập hợp tất cả các thông tin cập nhật liên quan tới nợ nước ngoài, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành để điều hành quá trình quản lý vay nợ nước ngoài. Thực chất hội đồng này là tập hợp của tất cả các Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan tới nợ nước ngoài. Định kỳ Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phải có trách nhiệm báo cáo lên Hội đồng về những tồn tại cũng như các chủ trương, giải pháp để Hội đồng xem xét. Hội đồng này sẽ đề ra quy chế cụ thể về vay việc và trả nợ nước ngoài, tiến tới soạn thảo Luật vay và trả nợ nước ngoài của Việt Nam. - Ngân hàng Nhà nước là đơn vị đầu mối trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Tiến hành đàm phán và ký kết với các Tổ chức Tài chính Quốc tế hoặc Chính phủ các nước. Mọi vấn đề cụ thể của quá trình vay và trả nợ nước ngoài đều phải thông qua Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành giải ngân và quản lý với các khoản vốn vay. Đối với các khoản vay của doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước vẫn trực tiếp quản lý, còn đối với các khoản vay của Chính phủ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trực tiếp giải ngân trên cơ sở hạn mức mà Bộ Tài chính đã đề ra, là đơn vị nhận nợ trước các tổ chức cho vay và đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng là đơn vị tiến hành trả nợ đối với các khoản vay này, với nguồn trả nợ lấy từ Bộ Tài chính. - Bộ Tài chính sẽ tiến hành quản lý những vấn đề tài chính trong nước, lập nhu cầu vay vốn và hạn mức giải ngân để trình Hội đồng quản lý nợ nước ngoài. Trên cơ sở đó, Hội đồng xem xét và giao chỉ tiêu cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Bộ Tài chính cân đối nguồn thu, chi trong nước để chuẩn bị nguồn trả nợ khi tới hạn để Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện được công việc trả nợ cho các Tổ chức cho vay. Ngoài ra, để tránh tổn thương tới quan hệ của Chính phủ Việt Nam nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng (như đã trình bày trong phần những tồn tại với việc thực hiện nghĩa vụ khi trở thành thành viên), Bộ Tài chính nên ứng trước một số tiền nhất định chuyển tới Sở giao dịch để Sở giao dịch chủ động đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ tài khoản tiền gửi của Tổ chức cho vay. Ngoài ra, các cơ quan khác như Bộ Ngoại giao, là cơ quan tham mưu của Nhà nước về công tá đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham gia quản lý các luồng vốn ODA song phải nằm dưới sự điều hành của Hội đồng quản lý nợ nước ngoài và phối hợp với các Bộ, ngành đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước. II./ một số kiến nghị . Kể từ khi quan hệ tín dụng của chúng ta với cộng đồng tài chính quốc tế được tái lập(10/1998), tính cho tới nay, chỉ sau gần 5 năm, chúng ta đã gặt hái được không ít những thành công, củng cố và tăng cường uy tín của Chính phủ Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên, như đã được trình bày, trong quá trình Ngân hàng Nhà nước tham gia quản lý một số tồn tại đã bộc lộ cần được chỉnh sửa. Với tư cách là sinh viên nghiên cứu, tôi có một số kiến nghị sau: Kiến nghị 1: Rất cần thiết phải có một cơ quan tập trung số liệu thống kê, tình hình vay và trả nợ vay nước ngoài để tư vấn cho Chính phủ về chính sách, hoạch định chính sách vay và trả nợ hay chiến lược vay của quốc gia - đó là Hội đồng quản lý nợ nước ngoài. Việc một Phó Thủ tướng làm Chủ tịch cơ quan này là một điều hết sức cần thiết, giúp cho cơ quan này có một hiệu năng nhất định, tránh lập lại những trường hợp, những tổ chức tư vấn mà trước đây chúng ta đã thực hiện. Kiến nghị 2: Ngân hàng Nhà nước vẫn quản lý với các khoản vay của doanh nghiệp. Đối với các khoản vốn vay của Chính phủ thì Bộ Tài chính vẫn chịu trách nhiệm quản lý, song Bộ Tài chính chỉ quản lý về mặt kế hoạch (hạn mức), phần giải ngân cụ thể sẽ do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý: ký trên các đơn rút vốn, tiến hành rút vốn... Kiến nghị 3: Cần phải nghiên cứu để tìm ra một hoặc một số tài khoản đối ứng với tài khoản mà Tổ chức cho vay ghi nợ. Kiến nghị 4: Bộ Tài chính cần ứng trước cho Ngân hàng Nhà nước một lượng tiền để Ngân hàng Nhà nước có thể thanh toán cho chủ tài khoản khi chủ tài khoản yêu cầu. kết luận Như chúng ta đã biết, lượng vốn vay nước ngoài của chúng ta mà chủ yếu là các khoản vay của Chính phủ ngày một gia tăng bởi quan hệ tín dụng của Chính phủ Việt Nam trên thì trường quốc tế đang được củng cố, nhu cầu vay vốn của chúng ta cũng rất lớn. Do vậy, chúng ta cấn phải thiết lập được một cơ chế quản lý chặt chẽ, thống nhất với công tác vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ để đảm bảo nguồn vốn vay được trả nợ đúng hạn (cả gốc và phí, lãi) và tăng cường hơn nữa sự hợp tác kinh tế quốc tế của Chính phủ Việt Nam. Để góp phần nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý các khoản vay nợ của Chính phủ, bài viết này đã giải quyết được những vấn đề sau: - Khẳng định tính tất yếu và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý vay nợ nước ngoài, qua đó nói lên tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược vay nợ nước ngoài. - Khái quát được cơ chế của các Tổ chức Tài chính Quốc tế cũng như cơ chế quản lý hiện nay của Chính phủ Việt Nam đối với các khoản vay nợ. - Thông qua cơ chế quản lý, bài viết đã chỉ ra được những tồn tại dưới góc độ Ngân hàng Nhà nước tham gia quản lý các khoản vay nợ của Chính phủ. - Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần kiện toàn công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ. Danh mục Tài liệu tham khảo 1/ Nghị định 58/ CP ngày 30 tháng 8 năm 1998 về việc ban hành quy chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài. 2/ Thông tư liên bộ Ngân hàng Nhà nước - Tài chính số 09/NH - TC ngày 30 tháng 5 năm 1999 về việc quản lý và sử dụng vốn vay của các Tổ chức Tài chính Quốc tế. 3/ Thông tư hướng dẫn việc lập kế hoạch vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ. 4/ Thông tư hướng dẫn việc quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ. 5/ Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính của Frederic S. Mishkin. 6/ Báo cáo số 17031 - VN ra ngày 31 táng 3 năm 2002 của Ngân hàng Trung ương. 7/Sổ tay giải ngân (3/2001) của Ngân hàng Thế giới. 8/ Công văn số 516/KT-TC2 (31/8/1999) về việc hạch toán việc vay ngoại tệ của các TCTC quốc tế. 9/ Báo cáo kết quả hoạt động nghiệp vụ thanh toán vay nợ các TC.TC.QT đến hết 31/3/2003. 10/ Các báo, tạp chí liên quan tới vay nợ nước ngoài của Việt Nam từ năm 2000 trở lại đây. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0348.doc