Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay

Tài liệu Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay: A. LỜI MỞ ĐẦU Để xây dựng thành công mô hình chủ nghiã xã hội -hình thái nhà nước cao nhất hiện nay mà loài người đang hướng đến . Đất nước ta cần trải qua thời kì quá độ .Vận dụng lý luận Mác-Lênin vào tình hình đất nước , chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ….. tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại , có văn hoá và khoa học tiên tiến” Bước vào thời kì quá độ , ... Ebook Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển , lực lượng sản xuất ở nhiều thang bậc khác nhau , do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức tức là nền kinh tế sẽ có nhiếu thành phần. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất kinh tế -xã hội riêng , chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng nên bên cạnh sự thống nhất còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau .Bởi vậy việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc . Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến tới xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Nhận thức được tầm quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa nên em chọn đề tài: “Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay” Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Việt Tiến đã tận tình hướng dẫn chúng em thực hiện đề tài này. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I) LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC 1. Thành phần kinh tế Nhà nước. 1.1.Đặc điểm sở hữu của kinh tế nhà nước Trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay,lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau.Do đó,trong nền kinh tế tồn tại 3 hình thức sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản:sở hữu toàn dân,sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.Trên cơ sở 3 hình thức sở hữu cơ bản đó,hình thành năm thành phần kinh tế:kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế tư nhân(cá thể ,tiểu chủ),kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì chuyển biến từ sở hữu tư nhân thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.Sự chuyển biến đó mang tính khách quan tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất vừa là phương tiện,vừa là mục tiêu trong công cuộc xây dựng CNXH. Sở hữu nhà nước được xác lập trước hết đối với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng,các nguồn tài nguyên,các tài sản quốc gia…Sở hữu nhà nước còn được thiết lập trong những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: Ngân hàng,bảo hiểm bưu điện…Đồng thời,do hoàn cảnh lịch sử,sở hữu nhà nước còn được thiết lập ở các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá dịch vụ thông thường.Với sự thiết lập sở hữu nhà nước,nhà nước trở thành chủ thể kinh tế thực sự,thiết lập quan hệ kinh tế và tác động đến các chủ thể kinh tế khác. Sở hữu công cộng về TLSX gồm hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đảm bảo lợi ích của số đông người trong xã hội.Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về TLSX bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước.Bởi vậy sở hữu của KTNN chính là nền tảng cho việc xây dựng nhà nước XHCN,nhà nước mà Đảng và nhân dân ta đang hướng đến 1.2.Khái niệm kinh tế nhà nước Trước đây khái niệm thường dùng là kinh tế quốc doanh để chỉ bộ phận kinh tế thuộc sở hữu nhà nước,do nhà nước trực tiếp quản lý và kinh doanh.Báo cáo chính trị tại Đại hội VII (1991) nêu rõ:”Khẩn trương sắp xếp lại và đỏi mới quản lý kinh doanh,bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả,nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VIII (1994),khái niệm kinh tế quốc doanh không được sử dụng nữa mà thay vào đó là khu vực DNNN.Lý do: trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước,nhà nước chỉ nắm quyền sở hữu chứ không trực tiếp nắm quyền kinh doanh mà quyền này là thuộc doanh nghiệp.Văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc chủ trương phân biệt sở hữu nhà nước với hình thức DNNN. Đó là: Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức,vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao,vừa tăng cường khả năng thúc đẩy và kiểm soát trực tiếp của nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh,như đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước (gồm những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hay nhà nước nắm một tỉ lệ cổ phần đủ sức khống chế) :Cho thuê,liên doanh góp cổ phần,mua cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc những thành phần khác. Từ đại hội VIII(1996) trở đi,khái niệm kinh tế Nhà nước đã được sử dụng phổ biến và hoàn toàn thay thế cho khái niệm kinh tế quốc doanh. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng(công hữu) về TLSX(sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước).Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,các quỹ dự trữ quốc gia,các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. 2.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN 2.1.Kinh tế nhà nước cần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần định hướng XHCN. *Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trưòng gồm nhiều thành phần ở nước ta. -Bước vào thời kì quá độ,nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển,LLSX tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau,do đó chế độ sở hữu về TLSX sẽ có nhiều hình thức,tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần.Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau,tạo thành cơ cấu kinh tế. - Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại:thành phần kinh tế tư nhân(cá thể,tiểu chủ,tư bản tư nhân) các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế,có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm,tăng sản phẩm,huy động các nguồn vốn… -Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng CNXH như kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế tư bản nhà nước… Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ không những tồn tại khách quan mà còn có vai trò to lớn đảm bảo cho việc khai thác mọi nguồn lực kinh tế,nâng cao hiệu quả kinh tế phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung của kinh tế đất nước,xây dựng đất nước trong TKQĐ. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đó cần vận động và phát triển theo cơ chế thị trường vì: -Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi,mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. -Trong nền kinh tế nước ta,tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân,sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân,sở hữu hỗn hợp.Do đó,tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá-tiền tệ. -Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về TLSX nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định,có quyền tự chủ trong sản xuất,kinh doanh,có lợi ích riêng.Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuât-công nghệ,về trình độ tổ chức quản lí,nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. -Quan hệ hàng hoá-tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc,vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt,là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi.Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.Như vậy,phát triển kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách quan thì không thể lấy ý muốn chủ quan mà xoá bỏ được. *Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta , kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo .Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường TBCN.Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần .Bởi lẽ , mồi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó , KTNN cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Cần nhận thức rõ ràng , mỗi thành phần kinh tế trong TKQĐ lên CHXH có bản chất kinh tế - xã hội riêng chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng , nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế , còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau . Chẳng hạn , các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất , giải quyết việc làm nhưng chúng không tránh khỏi tính tự phát , chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội , làm chệch hướng bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa .Vì vậy , kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình , đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lí vĩ mô kinh tế - xã hội để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. *Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã được Đảng và nhà nước ta khẳng định qua các kì Đại hội : _Văn kiện Đại hội VIII(1996) nêu cụ thể : “ Tiếp tục đổi mới và phát triển hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo , làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đế xã hội , mở đường , hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển , làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lí vĩ mô , tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới’’. -Văn kiện Đại hội IX(2001)lại nêu : “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nển kinh tế , là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô kinh tế .DNNN giữ những vị trí then chốt , đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ , nêu gương về năng suất ,chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật’’. -Văn kiện Đại hội X(2006)lại một lần nữa khẳng định : “ KTNN giữ vai trò chủ đạo , là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế , tạo môi trường và điều kiện thúc đấy các thành phần cùng phát triển’’. 2.2Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 2.2.1 Là lực lượng vật chất để điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Trong văn kiện Đại hội Đảng IX đã viết : “ Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế , là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Việc can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế đã đưa kinh tế nhà nước trở thành khu vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân , là một chủ thể kinh tế lớn giúp cho nhà nước thực hiện chức năng ổn định , công bằng và hiệu quả . Với tư cách là chủ thể kinh tế ,nhà nước trước hết đóng vai trò là người chi tiêu lớn nhất . Và nhà nước cũng là người thu lớn nhất tương đương với khoản chi của nó. Hơn thế nữa , với tiềm năng kinh tế mạnh ,nhà nước đã tham gia vao vòng chu chuyển kinh tế , và đã sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ này như một công cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực,và hướng nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã định. Ngoài việc chi tiêu của chính phủ có tính chất phi doanh nghiệp , bộ phận quan trọng khác của kinh tế nhà nước đã được thể hiện dưới hình thức doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở kinh tế- lực lượng vật chất góp phần tạo ra của cải phục vụ nhu cầu của xã hội. Với tư cách này, doanh nghiệp Nhà nước cần đạt được một tỷ lệ nhất định về GDP trong tổng số GDP của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đó nhà nước đủ sức quản lý nền kinh tế và thực hiện các chức năng xã hội của mình. 2.2.2 Là đòn bẩy để tăng trưởng và phát triển kinh tế . Kinh tế nhà nước tạo ra môi trường ổn định cho các thành phần kinh tế khác cũng như toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển . Kinh tế nhà nước , nắm giữ phấn lớn tài sản của nền kinh tế và do đó ,tạo ra gía trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường , dẫn dắt giá cả thị trường bắng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp . Kinh tế nhà nước còn kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước . Chính sách tài chính tiền tệ là một trong hai công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lí kinh tế vĩ mô.Thị trường vốn và thị trường tiền tệ hoạt động ổn định và phát triển thì thị trường hàng hoá ,dịch vụ mới ổn định và phát triển . Kinh tế nhà nước điều chỉnh được các lỗ hổng trong quan hệ cung cầu và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra các lĩnh vực kinh doanh cần thiết cho sự phát triển kinh tế -xã hội , nhưng khả năng sinh lời thấp , không hẫp dẫn khu vực tư nhân đầu tư , như đầu tư vào cơ sở hạ tầng , các công trình phúc lợi xã hội…. Ngoài ra ,kinh tế nhà nước còn tạo ra các sản phẩm dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các nghành và các thành phần kinh tế khác phát triển . 2.2.3Mở đường định hướng chi phối các thành phần kinh tế khác . Kinh tế nhà nước mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển .Trong nền kinh tế thị trướng có nhứng lĩnh vực mới ,tính rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn nhưng thu hồi vốn chậm , các lĩnh vực kết cấu hạ tầng,công trình công cộng ,an ninh quốc phòng ….là những nghành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn họăc không có khả năng làm thì kinh tế nhà nước phải đảm nhận ,mở đường tạo điếu kiện cho cho các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả đúng định hướng xã hội chủ nghĩa . 2.2.4 Giải quyết các vấn đề chính sách xã hội . Hệ thống DNNN là công cụ để nhà nước can thiệp trực tiếp nhằm giải quyết việc làm và thu nhập ,kích thích tiêu dùng ,chống đỡ khủng hoảng kinh tế . Kinh tế nhà nước còn là cơ sở để nhà nước giải quyết các vấn đề chính sách xã hội ,phúc lợi xã hội , đảm bảo mức sống và nhu cầu ngày càng cao cho nhân dân , đó chính là mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta . 2.2.5 Làm nền tảng cho chế độ xã hội mới . Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất .Lợi ích của kinh tế nhà nước gắn liền với lợi ích của đại bộ phận nhân dân , người lao động .Phát triển kinh tế nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu ngày càng cao của nhân dân , ổn định và phát triển đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh”. Bởi vậy , kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới , xã hội Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. . II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP. 1) Thực trạng vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước . 1.1 Hiện trạng . Từ sau năm 1986 ,khắc phục những sai lầm và hạn chế trước thời kì đổi mới , Đảng và nhà nước ta đã có những chiến lược tổng thể ,những định hướng đúng đắn trong phát triển kinh tế . Đây là một bước ngoặt quan trọng trong tíên trình phát triển kinh tế -xã hội ở đất nước ta . Chịu ảnh hưởng của những điều kiện bất lợi : Đó là chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ , Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận ta , các thế lực thù địch tìm cách chống phá ta vế nhiều mặt .Những năm cuối thập kỉ 90, nước ta lại chịu tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính , kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng . Mặc dù gặp nhiều khó khăn thách thức , nhưng việc thực hiện chiến lược 1991-2000 và gần đây nhất là kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng , đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội , và có bước phát triển ổn định . *Thành từu đạt được . Tổng sản phẩm quốc nội sau hơn 15 năm tăng gần 3 lần , hàng hoá không còn khan hiếm mà đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế ,xuất khẩu tăng . Kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội phát triển nhanh , quan hệ sản xuất đã có những bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của LLSX. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển .Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ,DNNN được sắp xếp , đổi mới và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh .Các thành phần kinh tế khác cũng có bước phát triển mới . Kinh tế đối ngoại , hội nhập với các nước trên thế giới được mở rộng , thu hút được nhiều vốn từ bên ngoài đầu tư vào trong nước . Tình hình kinh tế xã hội ổn định làm cho đời sống vật chất , tinh thần của nhân dân được cải thiện , trình độ dân trí nâng cao . Nguyên nhân : -Định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của nhà nước , chủ trương phát triển kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. - Bản chất nhà nước ta là nhà nước của dân ,do dân và vì dân vì vậy chính sách của nhà nhà nước đã huy động ,phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân trong kiến tạo xây dựng đất nước . - Sự ủng hộ của bạn bè thế giới . *Hạn chế : Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới .Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước .Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo. Nguyên nhân : -Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối với mô hình CNXH mà Đảng và nhà nước ta đang xây dựng . -Nước ta bước lên xây dựng CNXH trong điều kiện xuất phát điểm thấp . -Ảnh hưởng của cơ chế quản lí cũ :quan liêu , bao cấp . -Sự tha hoá của một số cán bộ lãnh đạo . 1.2 Đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua . Trong những năm vừa qua , hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước giữ một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế . Nó là bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu , huyết mạch của nền kinh tế quốc dân , nơi tập trung chủ yếu giai cấp công nhân , cán bộ kỹ thuật , cán bộ quản lý của đất nước , nơi đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước . Trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước , Đảng và nhà nước ta có nhiều chủ trương ,biện pháp ,chính sách hố trợ , sắp xếp , tổ chức lại các DNNN . Nhờ vậy số DNNN đã giảm từ 12000 xuống còn khoảng 5000 , quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp từ 3 tỷ đồng lên hơn 12 tỷ đồng , tốc độ tăng GDP của DNNN cao hơn tốc độ tăng của nền kinh tế , nộp ngân sách chiếm khoảng 50% ngân sách nhà nước , giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu người . Tuy nhiên , tình hình hoạt động kinh doanh của các DNNN mấy năm gần đây đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết cần giải quyết .Số DNNN làm ăn thua lỗ tăng lên , biên chế quản lí DNNN thường nhiều gấp 2-3 lần doanh nghiệp tư nhân và số lao động nhiều gấp tới 10 lần doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có cùng một tổng tài sản cố định .Không ít doanh nghiệp DNNN trở thành gánh nặng cho nhà nước trên nhiều phương diện. Có tổng công ty lâm vào tình trạng mất đoàn kết liên miên, cán bộ chủ chốt lo đối phó lẫn nhau, sao nhãng việc đào tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư chiều sâu, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Có tổng công ty quản lý lỏng lẻo để diễn ra tệ tham nhũng nghiêm trọng, làm thiệt hại cho nhà nước hàng trăm tỷ đồng, gây mất lòng tin đối với người lao động. Doanh nghiệp nhà nước chưa làm tốt chức năng bình ổn giá cả thị trường gây tác động xấu đến mọi hoạt động trong xã hội. Chính vì vậy nên Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó cổ phần hoá là khâu có tính quyết định nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và các văn bản hướng dẩn liên quan đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong thời gian qua. Theo tinh thần nghị định này, Chính phủ đã phê duyệt phương án tài chính cho thời lì 3 năm 2001-2004( với tổng kinh phí trên 35.000 tỷ đồng, đến nay đã xử lý trên 16.000 tỷ đồng) để hỗ trợ sử lý công nợ tồn đọng của doanh nghiệp và ngân hàng xử lý chế độ cho lao động dôi dư khi thực hiện việc sắp xếp và chuyển đổi DNNN(cổ phần hoá, giải thể…) chính nhờ vậy trong những năm qua, việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những kết quả nhất định. Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều phát triển tốt, không chỉ bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước. Qua cổ phần hoá 722 doanh nghiệp , nhà nước đã huy động trên 24440 tỷ đồng vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển các doanh nghiệp cổ phần hoá và củng cố doanh nghiệp nhà nước cần thiết nắm giữ tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, đặc biệt là đối chiếu với tinh thần nghị quyết TW9 và nghị quyết 01/2004/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp còn bộc lộ một số tồn tại sau: -Tiến độ sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước còn chậm so với kế hoạch đề ra. - Hiệu quả sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa cao: Phương án sắp xếp DNNN tập trung thu gọn đầu mối theo hướng mỗi bộ, mỗi địa phương, mỗi tổng công ty có một đề án sắp xếp riêng, chưa kết hợp được sắp xếp theo ngành và lãnh thổ nên còn tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý trên cùng một địa bàn. Các doanh nghiệp cổ phần hoá hầu hết có quy mô nhỏ( chiếm 84% tổng số doanh nghiệp cổ phần hoá ). Việc giao, bán doanh nghiệp cho tập thể người lao động trong thời gian qua đã tránh được tình trạng giải thể, phá sản cho doanh nghiệp và duy trì việc làm cho người lao động. Nhưng qua hoạt động của các doanh nghiệp loại này cho thấy chưa có sự đổi mới phương thức quản lý, khả năng đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng thị trường hạn chế, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, tình trạng lao động xin nghỉ nhiều. Nhìn chung trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của caácdoanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm thực trạng đó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của nền kinh tế, phản ánh trạng thái chưa ổn định và quy mô nhỏ của hầu hết các chủ thể sản xuất kinh doanh, chưa thoát khỏi cung cách của sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp. Đồng thời phản ánh năng lực quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém chưa theo kịp, chưa đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. 2) Các giải pháp chủ yếu để tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 2.1 Các giải pháp đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng sau: - Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao dộng của doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. - Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nướckhông cần nắm 100% vốn. - Giao bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. - Sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên . Để việc sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN nói chung và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá cần làm tốt một số việc sau: Tăng cường công tác tuyên truyền: Đối với người lao dộng để họ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa tầm quan trọng của việc cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn hiện nay, giải thích rõ cho họ biết lợi ích của người lao dộng trong các công ty cổ phần từ đó họ hiểu và sẵn sàng chấp nhận việc thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp nhà nước vốn đã tồn tại nhiều năm. Đối với nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp, cũng là một rào cản lớn trong tiến trình cổ phần hoá DNNN, vì họ nhận thức rằng chuyển DNNN thành công ty cổ phần sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và vị thế của họ trong doanh nghiệp. Trong khi đó sự đầu tư công sức, trí tuệ thực sự cho doanh nghiệp sẽ cao hơn nhiều so với trước đây. Tuy quyền lợi về mặt vật chất thì giảm sút , song trách nhiệm với nhà nước, doanh nghiệp và người lao động lại tăng lên. Đây chính là nguyên nhân cơ bản làm cho công tác cổ phần hoá DNNN còn chậm so với khu vực và các nước trên thế giới. b)Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá một cách thực sự như: Được hưởng ưu đãi về vốn theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp mới thành lập, được miễn nộp lệ phí trước bạ đối với việc chuyển nhượng tài sản thuộc quyền sỡ hữu Nhà nước thuộc quyền sỡ hữu của Công ty cổ phần. Được tiếp tục kinh doanh nhưữngngành nghề đã dăng kí trước khi cổ phần hoá. Được tiếp tục vay vốn ngân hàng ngoại thương để phát triển và mở rộng sản xuất. Đối với người lao động chuyển sang làm việc tại Công ty cổ phần được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi bảo hiểm, được hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm cổ phần hoá và được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành. c) Bổ xung chế độ đối với trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước có cung cấp sản phẩm cho hoạt động công ích của nhà nước, sau khi chuyển sang Công ty cổ phần mà đơn vị vẫn phải cung cấp các sản phẩm cho hoạt động công ích, thì Nhà nước phải hỗ trợ toàn bộ về giá cho những sản phẩm này theo đúng với giá bán bình quân của sản phẩm trên thị trường, để đảm bảo việ thu hồi vốn và thực hiện tái sản xuất của công ty cổ phần. d) Bảo đảm lợi ích Nhà nước và người mua cổ phiếu trong việc định giá doanh nghiệp trong điều kiện giá cả thị trường có sự biến động như hiện nay. Nếu việc định giá không chính xác sẽ khó khuyến khích cho các nhà đầu tư cổ phiếu và cũng gây bất lợi cho Nhà nước.Ngoài định giá cá tài sản cố định còn định rõ giá những tài sản vô hình như: Quyền sử dụng đất, lợi thế thương mại, nhãn hiệu thương mại, độc quyền sản xuất… đó là những tài sản rất khó xác định giá bán chính xác của nó. Tuy nhiên để khuyến khích các nhà đầu tư và giảm bớt thiệt hại cho Nhà nước cũng như doanh nghiệp, thì việc định giá doanh nghiệp phải xuất phát từ lợi ích của hai đối tượng chính, đó là Nhà nước và người lao động đang làm việc trong các DNNN tai thời điểm cổ phần hoá, có như vậy mới tạo ra được nguồn thu hợp lý cho Nhà nước và đảm bảo được quyền lợi cho người mua cổ phần. e) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách cổ phần hoá. Tạo lập môi trường pháp lý để khuyến khích thúcđẩy cổ phần hoá, đa dạng các hình thức sở hữu, đổi mới quy trình cổ phần hoá, có chế độ chính sách phù hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. Bao gồm: * Sửa đổi tiêu trí, danh mục phân loại sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và quy định về tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia trong cơ cấu vốn phát hành lần đầu tại quyết định 58/2002/QĐ-TTgvà chỉ thị 01/2003/CT-TTg theo nguyên tắc: -Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn ở những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và một số doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như hệ thống truyền tải điện, trục thông tin… Các doanh nghiệp còn lại đều có thể thực hiện cổ phần hoá hoặc đa dạng hoá sở hữu. - Bỏ quy định tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ để tạo cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp và tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng sản xuất kinh doanh. * Sửa đổi cơ chế cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp tại nghị định 64/2002/NĐ-CP và nghị định 103/1999/NĐ-CP, Nghị định 49/2002/NĐ-CP theo hướng: - Mở rộng đối tượng cổ phần hoá bao gồm các tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn và các nông, lâm trường quốc doanh. - Chuyển cơ chế giao, bán, khoán, kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp sang thực hiện đấu thầu bán doanh nghiệp. - Đổi mới phương thức định giá doanh nghiệp: Bỏ cơ chế định giá thông qua hội đồng, thực hiện định giá thông qua các tổ chức kế toán, kiểm toán, thuê tư vấn tài chính trong nước và nước ngoài để tạo điều kiện nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và nâng giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá. - Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình để thực hiện việc bán cổ phần hoặc bán đấu giá doanh nghiệp. - Đổi mới phương thức bán cổ phiếu đối với doanh nghiệp cổ phần hoá. Theo hướng: + Đấu giá niêm yết qua thị trường giao dịch chứng khoán. + Đấu giá bán trực tiếp đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ thông qua hội đồng đấu giá. - Hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá và niêm yết giá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. - Hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán. f) Kiện toàn ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp ở các Bộ, Ngành, Tỉnh, Thành phố để có đủ năng lực thẩm quyền thực hiện tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc sắp xếp cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó, cần gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý công ty theo chế độ hiện đại. 2.2 Hoàn chỉnh các cơ chế chính sách, tài chính đối với doanh nghiệp. - Ban hành cơ chế tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm bớt sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp. - Ban hành cơ chế, chính sách xoá bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý bao cấp đối với các DNNN như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ… chuyển cơ chế doanh nghiệp công ích sang cơ chế sản phẩm và dịch vụ công ích để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia. - Chuyển từ chính sách hỗ trợ trực tiếp sang chính sách hỗ trợ gián tiếp phù hợp với quy định của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tạo điều kiện giúp cá doanh nghiệp giảm các chi phí đầu vào, nâng cao tính cạnh tranh. - Ban hành cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp phải chủ động xử lý các tồn tại về nợ và tài sản tồn đọng ngay trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.3 Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Theo đánh giá chung, ở các doanh nghiệp Nhà nước đã có những đổi mới đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài. Tuy nhiên hoạt động đổi mới công nghệ trong các DNNN cho đến nay chưa phải là rộng khắp và có chiều sâu. Năng lực cạnh tranh dựa trên công nghệ còn yếu, theo ước tính chung thì ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10611.doc