Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Thực trạng & Giải pháp ở nước ta hiện nay

Lời nói đầu Từ đại hội VI đến nay, trải qua gần 20 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến to lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, trình độ dân trí ngày một được nâng cao, sức cạnh tranh và địa vị kinh tế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ngày một được khẳng định. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng s

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Thực trạng & Giải pháp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 đạt 7,4%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn ; 3% năm 2003; 5% năm 2005 Bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn thách thức. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước là đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển Xuất phát từ những thực tế nêu trên mà tôi nhận thấy việc xem xét nghiên cứu để nhận thức đúng đắn vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước, có biện pháp để phát huy có hiệu quả vai trò đó là hết sức quan trọng cần thiết hiện nay. Vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: "Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước: Thực trạng và giải pháp ở nước ta hiện nay". Tôi xin chân thành cảm ơn NGƯT - PGS.TS Phan Thanh Phố đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành bản tiểu luận này. Chương I: Lý luận chung về kinh tế Nhà nước. Tính tất yếu khách quan vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 1. Lý luận chung về kinh tế Nhà nước. 1.1. Đặc điểm sở hữu của kinh tế nhà nước Trước hết chúng ta cần khẳng định kinh tế Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước. Theo Lênin, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở công hữu XHCN về tư kiệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể quan trọng nhất là sở hữu toàn dân. ở nước ta trong thời kỳ quá độ hiện nay sở hữu toàn dân được nhận thức sáng tạo là sở hữu Nhà nước. “Sở hữu Nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư kiệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước”. Nhà nước là chủ sở hữu còn các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân được quyền sử dụng để phát triển kinh tế. ở đây có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu với chủ kinh doanh. Điều đó vừa nâng cao được hiệu quả kinh tế - xã hội vừa bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước. Theo Lênin, đây là hình thức sở hữu cao nhất, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nó phản ánh bản chất xã hội và xu hướng phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở hình thức sở hữu này mà giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản; đồng thời hịnh thành nên hệ thống quan hệ sản xuất và quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà thành phần kinh tế Nhà nước phải thuộc sở hữu Nhà nước, lấy sở hữu Nhà nước làm cơ sở kinh tế để đảm bảo thực hiện vai trò chủ đạo của mình. 1.2. Khái niệm về kinh tế Nhà nước Kinh tế nhà nước lấy sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế. Nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên khoáng sản, ngân sách, tài chính, các nguồn dự trữ quốc gia...., các doanh nghiệp cổ phần mà nhà nước chiếm cổ phần khống chế. Như vậy, hệ thống kinh tế nhà nước bao gồm 2 bộ phận cấu thành: các doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế Nhà nước phi doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Bao gồm DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt dộng kinh doanh. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế Nhà nước Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế này đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Định hướng xã hội chủ nghĩa là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: “Chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước.”. Như vậy theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, thành phần kinh tế Nhà nước sẽ không ngừng được củng cố và phát triển đảm định hướng nền kinh tế theo CNXH. 2. Vai trò chủ đạo của KT Nhà nước trong nền KT nhiều thành phần định hướng XHCN. 2.1. Vì sao KT Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền KT nhiều thành phần định hướng XHCN Về vai trò chủ đạo, khoa học Mác-Lênin khẳng định: sự tồn tại của nhiều kiểu quan hệ sản xuất trong cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế xã hội nhất định là tất yếu. Trong nhiều kiểu quan hệ sản xuất đó, có một kiểu quan hệ sản xuất giữ địa vị thống trị, tức giữ vai trò chủ đạo, không thể không có quan hệ sản xuất chủ đạo. Nếu không thì không có cơ sở kinh tế để duy trì, củng cố sự thống trị của giai cấp thống trị, cũng như bảo đảm sự vận động phát triển của kinh tế, xã hội theo một hướng nhất định. Văn kiện Đại hội Đảng VIII cũng đã khẳng định: “ Nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta là nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong việc xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới, không phải mọi thành phần kinh tế đều có vai trò như nhau. Thành phần kinh tế Nhà nước là hạt nhận của quan hệ sản xuất mới. Kinh tế Nhà nước là một lực lượng kinh tế một công cụ kinh tế có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng định hướng. Vì vậy, phủ nhận sự tồn tại và vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng tức là phủ nhận tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế”. Do đó kinh tế Nhà nước cần và phải nắm giữ vai trò chủ đạo vì nhưng lý do sau: - Thành phần kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong các hình thức sở hữu: sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Đó là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Hơn nữa nó lại dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao, trình độ quản lý và trình độ phân phối sản phẩm gắn với mục tiêu chủ nghĩa xã hội của thời kỳ quá độ. - Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo còn vì kinh tế Nhà nước đã tạo được một tiềm lực kinh tế chính trị đủ mạnh, có khả năng và sức mạnh vật chất to lớn chi phối, định hướng sự vận động của các thành phần kinh tế khác, điều tiết thị trường. - Kinh tế Nhà nước luôn nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân như điện, than, thép, bưu chính viễn thông, cơ khí chế tạo, công nghiệp quốc phòng, dầu khí, là thành phần nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia như tài nguyên thiên nhiên đất đai, sông, rừng, biển, là người đảm bảo chủ yếu các dịch vụ quan trọng như tài chính tiền tệ, bảo hiểm, hàng không, đường sắt, là lực lượng thay mặt xã hội nắm hầu hết vai trò đối tác của phía Việt Nam trong các hoạt động kinh tế quốc tế. - Kinh tế Nhà nước là do Nhà nước trực tiếp quản lý và giúp đỡ. Kinh tế Nhà nước chính là đại diện về kinh tế của Nhà nước là công cụ vật chất quan trọng cùng với hệ thống công cụ chính sách đòn bẩy khác của Nhà nước thực hiện sự điều tiết và chi phối quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Vì vậy mà Nhà nước phải trực tiếp quản lý các hoạt động của kinh tế Nhà nước, trực tiếp hỗ trợ và giúp đỡ cho kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu quả, đảm bảo thực hiện được những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội. Được sự giúp đỡ của Nhà nước, kinh tế Nhà nước có điều kiện để đổi mới khoa học công nghệ nhanh chóng, áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến, tạo ra giá trị sản phẩm lớn trong xã hội, cung ứng số lượng lớn các hàng hoá và dịch vụ trong xã hội, bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. - Kinh tế Nhà nước là đại biểu cho lợi ích xã hội, cung cấp dịch vụ và phúc lợi xã hội, là thành phần đảm bảo công bằng xã hội và duy trì mối quan hệ song song giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Như vậy, từ sự phân tích trên ta thấy ở nước ta kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo ttong nền kinh tế nứơc ta hiện nay là một tất yếu, không thể phủ nhận. 2.2. Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. 2.2.1. Là lực lượng vật chất để điều tiết vĩ mô nền kinh tế Trong văn kiện đại hội Đảng IX đã viết: “Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Việc can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế đã đưa kinh tế nhà nước trở thàh khu vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một chủ thể kinh tế lớn giúp cho nhà nước thực hiện chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả. Với tư cách là chủ thể kinh tế, nhà nước trước hết đóng vai trò là người chi tiêu lớn nhất. Hiện nay ở nhiều nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ chi tiêu của chính phủ chiếm tới 50% tổng sản phẩm quốc dân. Và nhà nước cũng là người thu lớn nhất tương đương với khoản chi của nó. Do đó nhà nước đã trở thành không chỉ là mốt thị trường tiêu thụ lớn, mà còn là một nhà tài chính mạnh. Hơn thế nữa, với tiềm năng kinh tế mạnh, nhà nước đã tham gia vào vòng chu chuyển kinh tế, và đã sử dụng lực lượng tài chính tiền tệ này như một công cụ mạnh mẽ trong việc phân phối các nguồn lực, và hướng nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã định. Ngoài việc chi tiêu của chính phủ có tính chất phi doanh nghiệp, bộ phận quan trọng khác của kinh tế nhà nước đã được thể hiện dưới hình thức doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở kinh tế _lực lượng vật chất góp phần tạo ra của cải phục cụ nhu cầu của xã hội.Với tư cách này, doanh nghiệp nhà nước cần đạt được một tỷ lệ nhất định về GDP trong tổng số GDP của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đó nhà nước đủ sức quản lý nền kinh tế và thực hiện các chức năng xã hội của mình. Kinh tế Nhà nước làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, có nhiều khuyết tật, hạn chế, không cẩn thận sẽ bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nên kinh tế Nhà nước phải trở thành một lực lượng vật chất để Nhà nứơc điểu tiết quản lý và hạn chế khuyết tật của nền kinh tế thị trường, điều tiết giá cả thị trường hệ thống tài chính tiền tệ, điều tiết các lỗ hổng của thị trường. 2.2.2. Là đòn bẩy để tăng trưởng và phát triển kinh tế Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước tạo ra môi trường ổn định cho các thành phần kinh tế khác cũng như toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Kinh tế nhà nước, nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế và do đó, tạo ra giá trị hàng hoá và dịnh vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp. Kinh tế nhà nước còn kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Chính sách tài chính tiền tệ là một trong hai công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ hoạt động ổn địnhvà phát triển thì thị trường hàng hoá, dịch vụ mới ổn định và phát triển. Kinh tế nhà nước đièu chỉnh được các lỗ hổng trong quan hệ cung cầuvà dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra các lĩnh vực kinh doanh cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn khu vực tư nhân đầu tư, như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường,v.v... Ngoài ra, kinh tế nhà nước còn tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các nghành và các thành phần kinh tế khác phát triển. 2.2.3. Mở đường định hướng chi phối các thành phần kinh tế khác Kinh tế Nhà nước mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển. Kinh tế Nhà nước phải thực hiện vai trò “anh cả” đi đầu trong các lĩnh vực, mở đường hướng dẫn các thành phần kinh tế khác. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường có những lĩnh mới, tính rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn nhưng thu hồi chậm, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công trình công cộng an ninh quốc phòng.là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, nhưng các thành phần kinh tế khác chưa muốn làm hoặc chưa có khả năng, điều kiện làm thì kinh tế Nhà nước phải đi đầu mở đường tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2.4. Giải quyết các vấn đề chính sách xã hội Hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ để nhà nước can thiệp trực tiếp nhằm giải quyết việc làm và thu nhập, kích thích tiêu dùng, chống đỡ khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt khi nền kinh tế suy thoái, mứcđộ sử dụng lao động thấp, để giảm độ chênh lệchcủa sự phân phối thu nhập trong xã hội và tăng công ăn việc làm, vực nền kinh tế qua thời suy thoái, nhà nước trong các nước công nghiệp phát triển đã dùng biện pháp quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân. 2.2.5. Làm nền tảng cho chế độ xã hội mới Kinh tế Nhà nước tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiện nay công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn nhiều bất cập, kinh tế Nhà nước với vai trò một người “anh cả” cùng với kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác phải tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tạo nền tảng cho chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng một Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến bộ văn minh gắn với công bằng xã hội. Khi nói đến vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước chúng ta cũng không thể không nói đến vai trò của các doanh nghiêp Nhà nước, một thành phần quan trọng, nòng cốt của kinh tế Nhà nước. Bởi vì để kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình thì doanh nghiệp Nhà nước cũng cần phát huy tối đa vai trò của mình, và để hiểu rõ hơn vai trò của kinh tế Nhà nước chúng ta cũng cần tìm hiểu vai trò của doanh nghiệp Nhà nước. Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị khoá VII nêu rõ ba vai trò của doanh nghiệp Nhà nước: Làm nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Cung ứng những hàng hoá dịch vụ công cộng cần thiết, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng vật chất (giao thông thuỷ lợi, điện , nước, thông tin liên lạc) và xã hội (giáo dục, y tế), quốc phòng, an ninh, một số ngành sản xuất kinh doanh trọng yếu khác. Là một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết vĩ mô và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội. Làm rõ về mặt lý luận, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước sẽ giúp chúng ta đề ra cơ chế chính sách phù hợp và biện pháp quản lý hữu hiệu đối với kinh tế Nhà nước, phát huy tối đa vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước, hạt nhân của quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Chương II: Thực trạng vai trò chủ đạo của KT Nhà nước ở nước ta hiện nay 1. Tình hình chung về thành phần kinh tế Nhà nước Chiến lước 10 năm 1991-2000 được thực hiện khi nền kinh tế đang có một số chuyển biến tích cực, nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng KT-XH, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ, Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận ta, các thế lực thù địch tìm cách chống phá ta về nhiều mặt. Những năm cuối thập kỉ 90, nước ta lại chịu tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính,kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng. Mặc dù có nhiêu khó khăn, thách thức gay gắt nhìn chung việc thực hiện chiến lược 1991-2000 và gần đây nhất là kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH. Tổng sản phẩm quốc nội sau hơn 15 năm tăng gần 3 lần, hàng hoá không còn khan hiếm mà đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, xuất khẩu tăng. Kết cấu hạ tầng KT-XH phát triển nhanh, quan hệ sản đã có những bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới thích nghi với cơ chế mới. Các thành phần kinh tế khác cũng có những bước phát triển mới. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với nhiều nước khác, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập với các nước trên thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP, thu hút được nhiều vốn từ bên ngoài đầu tư vào trong nước. Tình hình kinh tế phát triển, xã hội ổn định làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí nâng cao. Tuy nhiên trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thời gian và các nước xung quanh. Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Bên cạnh những tiến bộ trong việc phát triển khu vực kinh tế Nhà nước còn có những hạn chế. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể. Sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và đặc biệt là các DNNN còn nhỏ bé về quy mô và dàn trải về ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp cùng loại hoạt động chông chéo về ngành nghề kinh doanh cấp quản lí và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực kinh tế Nhà nước với nhau. DNNN còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ gây tình trạng phân tán, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, gây chi phối, xé lẻ các nguồn lực kể cả các hoạt động quản lí nhà nước, không thể tập trung vào những ngành lĩnh vực chủ yếu, then chốt. Trình độ khoa học kĩ thuật còn lạc hậu dẫn đến năng lực cạnh tranh kém và thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế. Hầu hết trong khu vực kinh tế Nhà nước, đặc biệt là các DNNN có máy móc, thiết bị nhập khẩu từ nhà nước, thuộc nhiều thế hệ, nhiều chủng loại. Máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với khu vực và thế giới từ 10-30 năm. Trong khu vực kinh tế Nhà nước đang tồn tại hiện tượng thiếu việc làm lực lượng lao động dư thừa nhiều. Số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả chiếm tỉ trọng thấp trong tổng số các DNNN, nhiều DN hoạt động thua lỗ. Tỷ lệ tăng trưởng đóng góp vào GDP của hệ thống DNNN không đáng kể trong thời gian qua, trong khi đó ngân sách Nhà nước liên tục phải cấp vốn cho đầu tư xây dựng, cấp bổ sung vốn lưu động, bù lỗ, hỗ trợ giảm bớt khó khăn về tài chính cho các DNNN. Theo đánh giá, hiện nay chỉ có 40% DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả. 2. Đánh giá tình hình hoạt động của DNNN trong thời gian qua. Trong những năm vừa qua hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân, nơi tập trung chủ yếu giai cấp công nhân và cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý của đất nước nơi đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong thời gian qua. Theo tinh thần Nghị định này, Chính phủ đã phê duyệt phương án tài chính cho thời kỳ 3 năm 2001-2004( với tổng kinh phí trên 35.000 tỷ đồng, đến nay đã xử lý trên 16.000 tỷ đồng) để hỗ trợ xử lý công nợ tồn đọng của doanh nghiệp và ngân hàng và xử lý chế độ cho lao động dôi dư khi thực hiện việc sắp xếp và chuyển đổi DNNN( cổ phần hoá, giải thể ...) Chính nhờ vậy trong những năm qua, việc sắp xếp, đổi mứi doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những kết quả nhất định. Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều phát triển tốt, không chỉ bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu nhập cho ngan sách mà còn duy trì mức trả cổ tức cho các cổ đông ở mức bình quân từ 10-15%. Qua cổ phần hoá 722 doanh nghiệp, Nhà nước đã huy động trên 2440 tỷ đồng vốn nhà rỗi để đầu tư phát triển các doanh nghiệp cổ phần hoá và củng cố doanh nghiệp nhà nước cần thiết nắm giữ, bao gồm: 1.470 tỷ đồng thu từ bán phần vốn Nhà nước và thu thêm 970 tỷ đồng thông qua bán đấu giá cổ phần cao hơn giá sàn và phát hành thêm cổ phần thu hút vốn. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, đặc biệt là đối chiếu với tinh thần Nghị quyết TW9 và Nghị quyết 01/2004/NQ-CP của Chính phủ về đẩy nhanh đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp còn bộc lộ một số tồn tại sau: - Tiến độ sắp xếp, chuyển đổi DNNN còn chậm so với kế hoạch đề ra, cũng như so với yêu cầu đổi mới, sắp xếp DNNN. Mức độ triển khai giữa các Bộ, các địa phương, các Tổng công ty không đồng đều, chưa đúng lọ trình, kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp. - Hiệu quả sắp xếp , đổi mới DNNN chưa cao: Phương án sắp xếp DNNN tập trung thu gọn đầu mối theo hướng mỗi Bộ, mỗi địa phương, mỗi Tổng công ty co một đề án sắp xếp riêng, chưa kết hợp được sắp xếp theo ngành và lãnh thổ nên còn tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý trên cùng một địa bàn. Nhiều DNNN theo Quyết định số 58/TTg thuộc diện cổ phần hoá hoặc đa dạng hoá nhưng vẫn đưa váo danh mục Nhà nước giữ 100% vốn. Cụ thể: Qua rà soát có 968/1391 được xác định Nhà nước nắm giữ 100% vốn đề án được duyệt ( chiếm 70% số doanh nghiệp ) không đủ điều kiện quy định tại Quyết định 58/TTg. Còn duy trì một số Tổng công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực không cần tổ chức Tổng công ty Nhà nước, hoạt động của một số Tổng công ty còn mờ nhạt quy mô vốn thấp( sau sắp xếp còn 24 Tổng công ty có quy mô dưới 100 tỷ- không đúng tiêu chí quy định tại Quyết định 58/TTg), mức thu nộp ngân sách thấp, trình độ công nghệ chưa cao. Tuy chúng ta đã cổ phần hoá gần 800 doanh nghiệp nhưng mức vốn chỉ bằng 3% tổng số vốn của nhà nước tại doanh nghiệp. Nếu hoàn thành 104 đề án được duyệt (2053 doanh nghiệp) thì mới chyển đổi được tối đa 21% tổng số vốn trong doanh nghiệp (41.000 tỷ / 189.000 tỷ). Các doanh nghiệp cổ phần hoá hầu hết có quy mô nhỏ( chiếm 84% tổng số DN cổ phần hoá); số DN thuộc diện Nhà nước nắm tối thiểu 51% cổ phần phát hành lần đầu còn nhiều (chiếm 46,6% tổng số DN cổ phần hoá, trong đó kể cả các DN có qui mô nhỏ, chủ yếu bán phần vốn hiện có, chưa mở rộng huy động thêm vốn nên số lượng cổ phần bán ra ngoài còn thấp ( bình quân chỉ có 10% vốn điều lệ) nên hạn chế khả năng tham gia góp vốn của nhà đầu tư tiềm năng, có trình độ quản lý, đồng thời tạo thêm nguồn hàng mới cung cấp cho thị trường chứng khoán để thúc đẩy thị trường vốn tại Việt Nam. Có nhiều DNNN không đủ điều kiện tồn tại( nợ và tài sản tồn đọng nhiều, thu lỗ mất hết vốn nhà nước) nhưng vẫn được đưa vào diện được thực hiện cổ phần hoá, dẫn tới thời gian cổ phần hoá bị kéo dài do phải xử lý những tồn đọng về tài chính, thậm chí có trường hợp chưa xử lý đã không có vốn để cổ phần hoá. Tổng số vốn nhà nước khoảng trên 189.000 tỷ thì tổng số nợ phải trả đã trên 300.000 tỷ. Việc giao, bán doanh nghiệp cho tập thể người lao động trong thời gian qua đã tránh được tình trạng giải thể, phá sản cho danh nghiệp và duy trì việc làm cho người lao động. Nhưng qua hoạt động của các doanh nghiệp loại này cho thấy chưa có sự đổi mới phương thức quản lý, khả năng đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng thị trường hạn chế, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, tình trạng lao động xin nghỉ nhiều. Nội dung, phạm vi quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Các cơ quan Nhà nước còn can thiệp hành chính sâu vào hoạt động của DNNN. - Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, hiệu quả kinh doanh chưa cao Tỡnh hỡnh hoạt đụng kinh doanh của doanh nghiệp TT Chỉ tiờu Đơn vị Năm 2002 Năm 2003 1 Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp - Số lượng doanh nghiệp DN >71500 - Số vốn đầu tư so với tổng mức đầu tư toàn xó hội % 25.3 27 2 Doanh nghiệp cú vốn đầu tư nước ngoài (FDI) DN 4,159 3 Doanh nghiệp Nhà nước a Số lượng doanh nghiệp: DN 5,175 4,800 - Doanh nghiệp cú lói % 78.5 77.2 + DNTW % 80.7 80.4 + DN ĐP % 75.8 75.2 - Doanh nghiệp lỗ % 15.8 13.5 + DNTW % 11.8 10.9 + DN ĐP % 18.8 15.2 b Vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tỷ đồng 173,000 189,293 + DNTW tỷ đồng 129,750 144,179 + DN ĐP tỷ đồng 43,250 45,114 c Doanh thu tỷ đồng 422,004 464,204 d Lợi nhuận tỷ đồng 18,860 20,428 e Lỗ luỹ kế tỷ đồng 997 1,077 f Tỷ suất lợi nhuận trờn vốn % 10.9% 10.8% g Tỷ suất lợi nhuận trờn doanh thu % 4.5% 4.4% h Tổng số nợ phải thu tỷ đồng 97,977 96,775 i Tổng số nợ phải trả tỷ đồng 188,898 207,788 k Tổng nộp ngõn sỏch tỷ đồng 78,868 86,754 + Nguồn vốn thiếu, công nợ lớn, khả năng thanh toán hạn chế. + Khả năng cạnh tranh của DN thấp, chi phí sản xuất, giá thành cao + Chi phí quản lý tương đối cao so với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp( như lãi vay, giao dịch, tiếp khách, tiếp tân, khách tiết, quảng cáo, xúc tiến thương mại...) Nhìn chung trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có xu hướng ngày càng giảm. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã chậm dần. Thực trạng kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các DNNN đã phản ánh trình độ phát triển sản xuất của nền kinh tế, phản ánh trạng thái chưa ổn định và quy mô nhỏ của hầu hết các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, phản ánh tâm lý và phương thức kinh doanh chưa thoát khỏi cung cách của sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp là chủ yếu. Đồng thời thực trạng đó phản ánh năng lực quản lý xã hội và Nhà nước của các DNNN chưa theo kịp, đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Chương III: Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 1. Các giải pháp đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá DNNN: * Sửa đổi tiêu chí, danh mục phân loại sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và quy định về tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia trong cơ cấu vốn phát hành lần đầu tại quyết định 58/2002/QĐ-TTg và Chỉ thị 01/2003/CT-TTg theo nguyên tắc: - Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn ở những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và một số doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như hệ thống truyền tải điện, trục thông tin, khai thác quặng có chất phóng xạ, các doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các doanh nghiệp còn lại đều có thể thực hiện cổ phần hoá hoặc đa dạng hoá sở hữu kể cả một số Tổng Công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... - Chuyển từ hình thức doanh nghiệp công ích sang cơ chế sản phẩm công ích và dịch vụ công ích, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đấu thầu thực hiện các sản phẩm và dịch vụ này để nâng cao chất lượng và giảm chi phí cho ngân sách. - Bỏ quy định tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ để tạo cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp và tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng sản xuất kinh doanh. * Sửa đổi cơ chế cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP và Nghị định 103/1999/NĐ-CP, Nghị định 49/2002NĐ-CP theo hướng: - Mở rộng đối tượng cổ phần hoá bao gồm cả các tổng Công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn và các nông, lâm trường quốc doanh; thu hẹp đối tượng Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ. Nhà nước chỉ công bố danh mục các doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ 100% còn lại thực hiện đa dạng hoá sở hữu bằng nhiều hình thức khác nhau theo lộ trình. - Chuyển cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp sang thực hiện đấu thầu bán doanh nghiệp (bao gồm cả quyền sử dụng đất) gắn với điều kiện đảm bảo việc làm cho người lao động và đảm bảo môi sinh. Cho phép áp dụng hình thức đấu thầu bán doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khách sạn, du lịch. Mở rộng quyền mua cổ phần, tham gia góp vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước để chuyển thành Công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Đổi mới phương thức định giá doanh nghiệp: bỏ cơ chế định giá thông qua hội đông, thực hiện định giá thông qua các tổ chức kế toán kiểm toán, thuê tư vấn tài chính trong nước và ngoài nước đẻ tạo điều kiện nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và nâng giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá. - Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vườn cây, rừng trồng vào giá trị doanh nghiệp để thực hiện việc bán cổ phần hoặc bán đấu giá doanh nghiệp. - Đổi mới phương thức bán cổ phiếu đối với doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng: + Đấu giá niêm yết qua trung tâm giao dịch chứng khoán (kể cả lần đầu đối với các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, có đủ điều kiện và tiêu chuẩn niêm yết). + Đấu giá bán trực tiếp đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thông qua Hội đồng đấu giá. + Xoá bỏ việc bán cổ phiếu ưu đãi theo giá sàn qua cơ chế Hội đồng định giá. Người lao động được dành 30% số cổ phiếu bán ra để mua với giá ưu đãi (<= 50% giá giao dịch) và bỏ quy định bắt buộc sau 3 năm mới được bán ra. - Điều chỉnh chính sách đối với lao động dôi dư ở các doanh nghiệp sắp xếp lại theo hướng có thời hạn để đảm bảo tính kịp thời và sự giám sát của Nhà nước, bổ sung quy định khống chế về tỷ lệ lao động được áp dụng chính sách lao động dôi dư, cùng chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích doanh nghiệp sắp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0058.doc
Tài liệu liên quan