MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt - đó là tiền tệ. Vì thế hoạt động của một ngân hàng, của cả hệ thống ngân hàng mang rất nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro thanh khoản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro lớn nhất mà m
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột ngân hàng phải đối mặt, tất cả các rủi ro khác đều dẫn đến nguy cơ là làm ngân hàng giảm năng lực tài chính và từ đó không còn đảm bảo được thanh khoản. Thanh khoản cũng ví như sức khỏe của ngân hàng, một ngân hàng muốn hoạt động được thì phải luôn bảo đảm khả năng thanh khoản.
Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật tác động tới tất cả các lĩnh vực trong đời sống, trong đó có cả lĩnh vực tài chính ngân hàng. Công nghệ thông tin làm cho nguồn tiền của các ngân hàng thương mại thay đổi mạnh mẽ, tạo thuận lợi và khó khăn cho ngân hàng. Các nguồn tiền ngày nay trở nên nhạy cảm hơn và thay đổi thường xuyên hơn làm cho tính ổn định của ngân hàng trở nên yếu đi.
Từ 9/8/2007, trong không đầy một tháng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã phải bơm khoảng 200 tỉ USD vào hệ thống ngân hàng để tránh khủng hoảng thanh khoản, hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ vay mua nhà dưới chuẩn trước đó. Còn ở nước ta, 7 tháng đầu năm 2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Trong khi đó, về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm, đồng thời, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn luôn bị những áp lực rất căng thẳng. Hậu quả là hoạt động kinh doanh của hầu hết các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%. Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội. Qua đó cho ta thấy được tầm quan trọng của các nhà quản lý thanh khoản và công việc quản lý thanh khoản.
Một thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại đều thấy tầm quan trọng của chiến lược quản lý rủi ro trong đó có rủi ro thanh khoản, nhưng phương pháp thực hiện vẫn còn nhiều bất cập và chưa theo kịp với trình độ công nghệ, trình độ quản lý của hệ thống ngân hàng hiện đại. Tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, công tác quản lý thanh khoản vẫn còn một số tồn tại nhất định, việc quản lý thanh khoản đang trở nên lạc hậu trước xu thế phát triển chung và yêu cầu của hội nhập. Do đó, vấn đề chiến lược được đặt ra là cải cách hệ thống quản trị ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
Hiểu được tầm quan trọng của công tác quản trị ngân hàng nói chung và quản lý thanh khoan nói riêng, cũng như muốn đưa ra một số ý kiến nhằm giải quyết tình trạng còn nhiều bất cập trên và tăng cường hơn trong công tác quản lý thanh khoản tại hệ thống Ngân hàng thương mại mà cụ thể hơn là Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nên em đã chọn đề tài “Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam”
Bố cục bài viết của em như sau:
Chương I: Lý luận chung về quản lý thanh khoản tại ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam
Chương III: Tăng cường công tác quản lý thanh khoản
Đề tài được viết dựa vào các kiến thức mà em đã được các giảng dạy cộng thêm những kiến thức thực tế thu được trong thời gian thực tập. Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp toán học, lịch sử được em áp dụng để hoàn thành bài viết của mình.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các khái niệm liên quan đến thanh khoản
1.1.1. Dự trữ thanh toán
1.1.1.1. Vốn khả dụng
Thanh khoản luôn đi kèm với việc sử dụng vốn khả dụng. Nhu cầu thanh khoản là không như nhau tại mọi thời điểm, trong khi đó ngân hàng luôn phải đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ chi trả cho khách hàng một cách vô điều kiện. Muốn thế, ngân hàng phải có trong tay một lượng vốn khả dụng nhất định. Vốn khả dụng được hiểu là lượng tài sản cơ động mà ngân hàng có thể sử dụng ngay được. Thông thường vốn khả dụng bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác, là những tài sản mà ngân hàng có thể sử dụng bất kỳ lúc nào.
Như vậy, vốn khả dụng được coi là tài sản có tính “lỏng” nhất, và do vậy, nó hầu như không hoặc có tính sinh lời rất ít. Ngân hàng phải luôn tìm cách để tối thiểu hóa lượng vốn khả dụng dù quan trọng nhưng không sinh lời này tại mỗi thời điểm, đủ để phục vụ nhu cầu thanh toán.
1.1.1.2. Dự trữ thanh toán
Là khoản dự trữ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng với khách hàng. Dự trữ thanh toán bao gồm vốn khả dụng và các tài sản có tính thanh khoản khác.
Tài sản thanh khoản thường bao gồm:
- Các giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi thành tiền với chi phí thấp, bao gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ. Chúng có độ rủi ro bằng 0, được giao dịch trên thị trường mở, được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận cầm cố, cho vay chiết khấu.
- Trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước cũng được đánh giá là có độ rủi ro thấp.
- Các khoản dự trữ ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
- Các tài sản có tính thanh khoản khác.
1.1.2. Thanh khoản
1.1.2.1. Thanh khoản của ngân hàng
Thanh khoản của ngân hàng được hiểu đơn giản là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Một ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai sao cho phù hợp với nhu cầu thanh khoản.
Như vậy khi ngân hàng không đáp ứng kịp thời nghĩa vụ thanh toán hoặc phải chịu tổn thất, chi phí cao để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán này sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Thanh khoản là một nội dung quản lý đặc biệt phức tạp trong công tác quản trị ngân hàng, khi mà dòng tiền vào, dòng tiền ra phát sinh không lường trước được, thay đổi liên tục hàng ngày, hàng giờ.
1.1.2.2. Tính thanh khoản của tài sản
Tính thanh khoản của mỗi tài sản là khả năng chuyển tài sản thành tiền được đo bằng thời gian và chi phí. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản càng giảm và ngược lại.
Trong kế toán tài sản lưu động chia làm năm loại và được sắp xếp theo tính thanh khoản từ cao đến thấp như sau: tiền mặt,chứng khoán, đầu tư ngắn hạn, khoản phải thu, ứng trước ngắn hạn, và hàng tồn kho. Như vậy rõ ràng tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ; còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt.
1.1.2.3. Tính thanh khoản của nguồn
Được đo bằng thời gian và chi phí cơ hội để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của nguồn càng giảm.
Khả năng huy động nguồn cũng góp phần tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng.
1.1.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá mức khả năng thanh khoản dự kiến. Rủi ro thanh khoản ở mức cao làm cho ngân hàng phải gia tăng chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng. Ở mức cao hơn ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
Rủi ro thanh khoản có thể đến từ hoạt động bên nợ hoặc bên có hoặc từ hoạt động ngoại bảng của bảng cân đối tài sản.
Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn. Với một lượng tiền gửi đọt ngột được rút ra lớn sẽ buộc ngân hàng phải đi vay thêm để bổ sung hoặc bán bớt tài sản. Do cần gấp nên khi huy động thì ngân hàng phải chịu lãi suất cao, hoặc bán gấp tài sản thì phải bán với giá thấp so với giá trên thị trường và từ đó làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có chủ yếu phát sinh khi nhu cầu vay tiền của khách hàng tăng đột ngột làm ngân hàng không đảm bảo đủ tiền ngay lập tức theo yêu cầu của khách.
Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ phái sinh khiến cho rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng gia tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi hay quyền chọn đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản và ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản.
1.1.4. Khe hở thanh khoản
Cung thanh khoản: là khả năng cung ứng tiền của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc bán tài sản thanh khoản, khả năng huy động vốn mới và thu hồi các khoản cho vay đến hạn.
Cầu thanh khoản: là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng, bao gồm nhu cầu chi trả từ tài khoản tiền gửi và nhu cầu vay của khách hàng.
Khe hở thanh khoản: là chêch lệch giữa cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nhất định.
Khe hở thanh khoản chính là nguyên nhân gây nên rủi ro thanh khoản, khi cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nào đó không cân bằng:
- Khi cung thanh khoản > cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái thặng dư vốn khả dụng. Trường hợp lượng vốn khả dụng lớn hơn mức cần thiết, ngân hàng sẽ bị dư thừa, ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả kinh doanh.
- Khi cung thanh khoản < cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái thâm hụt vốn khả dụng, không đáp ứng được nhu cầu chi trả và phải tìm kiếm nguồn thanh khoản bổ sung.
Với sự biến động của lãi suất hị trường trong tương lai, khe hở thanh khoản sẽ ảnh hưởng đến thu nhập ròng từ lãi của ngân hàng, cụ thể:
NII = GAPL * ∆I
Trong đó:
• NII : Thu nhập ròng từ lãi
• GAPL : Giá trị khe hở thanh khoản hay chênh lệch giữa cung thanh khoản và cầu thanh khoản tại thời điểm tính
• ∆I : Sự thay đổi của lãi suất thị trường
Như vậy để nâng cao thu nhập ròng từ lãi khi có sự biến động của lãi suất, khi dự đoán lãi suất tăng thì ngân hàng nên duy trì khe hở thanh khoản dương và ngược lại, khi dự đoán lãi suất thị trường giảm ngân hàng sẽ duy trì khe hở âm.
1.2. Nội dung quản lý thanh khoản
1.2.1. Xác định mục tiêu của quản lý thanh khoản
Trước hết mục tiêu quản lý thanh khoản của ngân hàng được xác định là nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng với mức chi phí thấp nhất. Mặc khác, bài toán giữa chỉ tiêu sinh lời và an toàn luôn luôn được đặt ra cho các nhà quản lý. Thanh khoản và lợi nhuận của ngân hàng là hai tiêu chí trái ngược nhau, có tính chất đánh đổi. Muốn duy trì một tỷ lệ an toàn thanh khoản cao đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản thanh khoản nhưng ít sinh lợi hoặc hầu như không sinh lời. Và ngược lại, nếu theo đuổi mục đích lợi nhuận, ngân hàng sẽ muốn nắm giữ những tài sản sinh lợi cao, kỳ hạn dài nhưng thanh khoản kém dẫn tới nguy cơ về rủi ro thanh khoản. Nhà quản lý ngân hàng sẽ cần phải cân đối hợp lý giữa hai mục tiêu này để phù hợp với mục tiêu, chiến lược hoạt động trong từng thời kỳ của ngân hàng.
Như vậy, ngân hàng quản lý thanh khoản để:
* Đảm báo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí thấp nhất, hợp lý nhất.
* Dự đoán nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
1.2.2. Xác định cung cầu thanh khoản
1.2.2.1. Xác định cung thanh khoản
a. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Có
Tiền mặt: Tiền mặt của ngân hàng được đánh giá là một trong những khoản mục mang tính lỏng (tính thanh khoản) cao nhất, toàn bộ số dư tiền mặt được coi là nguồn cung thanh khoản nhanh chóng và ít chi phí nhất.
Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: là khoản mục mang tính lỏng không kém gì tiền mặt.
Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng: Do các tổ chức tín dụng được coi là những đối tác có độ tín nhiệm cao nên khả năng thanh toán gần như là chắc chắn. Đối với một số giao dịch có thỏa thuận được rút trước hạn thì tính thanh khoản cũng gần như tiền gửi thanh toán.
Các khoản cho vay các tổ chức tín dụng được hoàn trả: khoản mục này tính thanh khoản cũng tương đương như tiền gửi tại các tổ chức tín dung tuy nhiên trong xếp loại thứ tự ưu tiên trong thanh toán thì tiền vay nằm sau tiền gửi.
Các khoản cho vay các tổ chức kinh tế, các nhân được hoàn trả: khoản mục này không được đánh giá cao về tính thanh khoản, trong báo cáo khe hở thanh khoản khoản mục này chỉ được lấy ở mức khoảng 70% số dự kiến phát sinh.
Các khoản đầu tư chứng khoán đến hạn: chứng khoán ngân hàng nắm giữ hiện nay thường có độ an toàn cao như Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho Bạc Nhà Nước, trái phiếu công trình…Do vậy tính thanh khoản cũng được đánh giá tương đối cao, ở mức khoảng 90-95%
Ngoài ra còn một số Tài sản Có khác đến hạn như các khoản phải thu, các khoản tạm ứng…
b. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ
Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá nhân: khả năng tăng cung thanh khoản từ huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá nhân là thanh khoản trong dài hạn và thể hiện ở chính sách, kế hoạch huy động của ngân hàng. Đây cũng là một trong những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng và được coi là nguồn thanh khoản mang tính ổn định nhất, là nền tảng lợi nhuận của ngân hàng.
Phát hành giấy tờ có giá: tương tự như trên, phát hành giấy tờ có giá cũng là biện pháp tăng cung thanh khoản. Tuy nhiên các đợt phát hành thường phục vụ cho mục tiêu nhất định ntrong thời hạn nhất định, lãi suất có thể cao hơn tiền gửi tiết kiềm nên khoản mục này có thể tăng cung thanh khoản một cách linh động hơn.
Vay cầm cố, vay chiết khấu Ngân hàng nhà nước: Nguồn tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước được coi là sự hỗ trợ thanh khoản cuối cùng của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trên thực tế, các ngân hàng thương mại thường xuyên sử dụng nguồn này để bổ sung nguồn vốn kinh doanh cũng như hỗ trợ thanh khoản qua sử dụng hạn mức chiết khấu, vay cầm cố giấy tờ có giá do đây là nguồn vốn có chi phí thấp, quy mô lớn.
Nhận tiền gửi Kho bạc Nhà nước, nhận tiền gửi, vay các Tổ chức tín dụng khác: Đây cũng là nguồn cung thanh khoản dồi dào vì có chi phí thấp và quy mô lớn, nhưng với nguồn này ngân hàng không chủ động được mà phụ thuộc vào khả năng của đối tác và khả năng huy động của chính ngân hàng.
c. Cung thanh khoản phát sinh từ khoản mục ngoại bảng:
Thị trường tài chính ngày nay ngày càng được phát triển và mở rộng, các sản phẩm phái sinh và dịch vụ trở nên đa dạng và linh hoạt hơn. Do đó, sử dụng các sản phẩm này cũng là công cụ giúp ngân hàng gia tăng lợi nhuận và tăng cung thanh khoản khi cần. Các sản phẩm phái sinh thông dụng hiện nay như là : Hợp đồng repo, mua bán kỳ hạn trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ, quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ, các hối phiếu của bộ chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận...
1.2.2.2. Xác định cầu thanh khoản
a. Cầu thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ
Nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước: theo quy định hiện nay, tiền gửi Kho bạc Nhà nước được thực hiện như ở tiền gửi thanh toán, do vậy với nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, yêu cầu một lượng thanh khoản cao và khối lượng lớn.
Nhu cầu rút tiền gửi của các tổ chức tín dụng: tương tự tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi đến hạn của các tổ chức tín dụng có khối lượng lớn, kỳ hạn ngắn nên yêu cầu thanh khoản thường cao và lớn.
Vay Ngân hàng Nhà nước đến hạn: Theo quy định hiện nay các khoản vay tái cấp vốn Ngân hàng Nhà nước cho mục tiêu thanh khoản không được gia hạn, quay vòng do vậy yêu cầu thanh khoản cho khoản mục này cũng thường ở mức cao.
Vay tổ chức tín dụng khác đến hạn: đây cũng lã khoản mục có yêu cầu thanh khoản cao, tuy nhiên do phụ thuộc vào khả năng thanh khoản của đối tác nên nên vẫn còn khả năng quay vòng, gia hạn.
Nhận vốn cho vay đồng tài trợ đến hạn: vốn cho vay đồng tài trợ là các khoản vốn các ngân hàng đồng thời góp vốn cho ngân hàng đầu mối để cho vay theo một dự án, chương trình nhất định, do vậy yêu cầu thanh khoản đối với khoản mục này cũng tương đối cao.
Nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn của dân cư và tổ chức kinh tế: là khoản mục có tính thay đổi cao tùy thuộc vào từng thời kỳ và khó lường trước hết được. Do đó, ngân hàng cần chú ý để bảo đảm cho nhu cầu thanh khoản này thường xuyên. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại quyết định 457/QĐ-NHNN thì tỷ lệ dự trữ thanh khoản cho khoản mục này tối thiểu ở mức 15% cho ngày làm việc tiếp theo.
Nhu cầu rút tiền gửi có kỳ hạn đến hạn, rút tiền gửi trước hạn của tổ chức kinh tế, dân cư: Theo lý thuyết thì khoản tiền gửi này sẽ bị rút khỏi ngân hàng khi đến hạn. Nhưng thường thì luôn có một tỷ lệ nhất định được quay vòng hoặc chuyển sang kỳ hạn khác. Ngân hàng cũng phải duy trì một tỷ lệ dự trữ nhất định cho khoản mục này, để xác định tỷ lệ dự trữ khá phức tạp nên các ngân hàng thường dựa vào dữ liệu lịch sử của mình.
Vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá đến hạn: vốn từ phát hành giấy tờ có giá có yêu cầu thanh khoản tương tự tiền gửi có kỳ hạn.Ngân hàng cũng cần căn cứ số liệu lịch sử để lập kế hoạch thanh khoản cho khoản mục này.
Các Tài sản nợ khác: các Tài sản nợ khác bao gồm các khoản phải trả,thanh toán…nên kế hoạch thanh khoản tương đối khó xác định. Ngân hàng thường xác định một tỷ lệ dự trữ nhất định trên tổng giá trị tài sản nợ khác tại mỗi thời điểm.
b. Cầu thanh khoản phát sinh từ Tài sản có
Dự trữ bắt buộc: nhu cầu về thanh khoản đầu tiên mà một ngân hàng thương mại phải đáp ứng là việc phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Đó là khoản tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được thay đổi trong từng thời kỳ phụ thuộc vào mục tiêu và chính sách tiền tệ.
Cam kết cho vay: Cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng thương mại, chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập cũng như trong tổng tài sản ngân hàng. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng dư nợ cho vay trên tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại thường chiếm đến 60-80%, do vậy nhu cầu thanh khoản đáp ứng được cam kết cho vay thường là rất lớn. Danh mục cho vay tương đối đa dạng như : cho vay tổ chức kinh tế, cho vay các nhân, đầu tư tiền gửi và cho vay liên ngân hàng…
Các khoản cho vay được cam kết trong tương lai: đây là những khoản đã ký hợp đồng tín dụng với khách hàng nhưng chưa đến kỳ giải ngân. Ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng phí cam kết (phí áp dụng đối với số tiền cho vay đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chưa giải ngân), do vậy việc kế hoạch các khoản này tương đối khó khăn cho công tác quản lý thanh khoản trong khi lượng thanh khoản là rất lớn.
c. Cầu thanh khoản phát sinh từ khoản mục ngoại bảng
Hợp đồng repo đến hạn: một giao dịch repo luôn kèm theo nó là cam kết mua lại, do đó nhu cầu thanh toán để mua lại khi hợp đồng repo đến hạn cũng làm tăng cầu thanh khoản của ngân hàng.
Cam kết mua kỳ hạn trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ: khi thực hiện giao dịch tại thời điểm kì hạn cũng là lúc sẽ phát sinh nhu cầu thanh toán.
1.3. Phương pháp quản lý thanh khoản
1.3.1. Quản lý thanh khoản theo phương pháp truyền thống
1.3.1.1. Nội dung của phương pháp
Quản lý theo phương pháp truyền thống
Quản lý theo phương pháp truyền thống hay còn gọi là Phương pháp phân tích thanh tĩnh, là phương pháp quản lý thanh khoản bằng cách phân tích các chỉ số rút ra từ bảng tổng kết tài sản và cơ sở dữ liệu hiện tại, từ đó đưa giới hạn cho các chỉ số đảm bảo thanh khoản.
Một số chỉ tiêu quản lý thanh khoản thông dụng:
a. Chỉ số trạng thái tiền mặt:
Chỉ số trạng thái tiền mặt = Vốn khả dụng / Tổng Tài sản Có
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng thanh toán nhanh của ngân hàng tại thời điểm báp cáo. Về lý thuyết, nếu chỉ số thạng thái tiền mặt càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng thanh khoản tức thời để xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao thì lại làm giảm lợi nhuận của ngân hàng bởi vì đây là các tài sản không sinh lời hoặc hầu như không sinh lời cho ngân hàng. Điều này thể hiện công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng chưa có hiệu quả về chi phí cho dù có hạn chế được rủi ro thanh khoản. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại nên duy trì chỉ tiêu này dao động từ 2%-3% là hợp lý.
b. Chỉ số dự trữ thanh khoản
Chỉ số dự trữ thanh khoản = Dự trữ thanh toán/Tổng Tài sản Có
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng thanh toán của ngân hàng tại thời điểm báo cáo. Thông thường các ngân hàng không đặt ra giới hạn cho chỉ tiêu này, trên thực tế hiện nay các ngân hàng đang có xu hướng tăng đầu tư vào giấy tờ có giá và đầu tư liên ngân hàng nhằm mục tiêu lành mạnh hóa tình hình tài chính do đây là những khoản mục sinh lợi được đánh giá là độ rủi ro thấp hoặc không có rủi ro.
c. Chỉ số cho vay/ tiền gửi
Chỉ số cho vay / tiền gửi = Dư nợ cho vay khách hàng trước dự phòng rủi ro/Tiền gửi của khách hàng
Đây là chỉ tiêu thể hiện khả năng tự huy động để sử dụng cho vay (tự cấp tín dụng) của ngân hàng. Dư nợ cho vay được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất và đem lại lợi tức cao nhất, do vậy nếu chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng thanh khoản của ngân hàng sẽ thấp tuy nhiên lại đem lại mức lợi nhuận cao cho ngân hàng. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại chỉ nên duy trì chỉ tiêu này tối đa ở mức 75% để đảm bảo khả năng thanh khoản.
d. Chỉ số tiền gửi cơ sở
Chỉ số tiền gửi cơ sở = Tiền gửi cơ sở/ Tổng tài sản nợ
Tiền gửi cơ sở là các khoản tiền gửi có tính ổn định cao, thường là các khoản tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế, các nguồn vốn huy động được từ việc phát hành các chứng chỉ, công cụ nợ. Nếu chỉ tiêu “tiền gửi cơ sở” càng lớn thì ngân hàng càng được coi là có khả năng thanh khoản ổn định do huy động được các nguồn vốn ổn định.
e. Chỉ số cơ cấu tiền gửi
Chỉ số cơ cấu tiền gửi = Tiền gửi không kỳ hạn/ Tiền gửi có kỳ hạn
Nếu chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi càng thấp thì nhu cầu về thanh khoản của ngân hàng càng thấp và ngân hàng được coi là càng có khả năng thanh khoản ( và ngược lại). Tuy nhiên trong thực tiễn, các ngân hàng lại muốn có một chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi cao (nghĩa là tiền gửi không kỳ hạn chiếm một tỷ lệ lớn nhất định so với tiền gửi có kỳ hạn) để có thể có mức giá vốn huy động đầu vào bình quân thấp nhằm giảm chi phí về vốn và nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh.
f. Chỉ số nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn
Chỉ tiêu này = (Dư nợ trung, dài hạn – nguồn vốn trung, dài hạn)/ Nguồn vốn ngắn hạn
Chỉ tiêu này thể hiện việc ngân hàng đã sử dụng bao nhiêu % các nguốn vốn ngắn hạn để tài trợ cho vay trung, dài hạn. Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt và ngược lại. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại nên duy trì chỉ tiêu này tối đa ở mức 20% để đảm bảo thanh khoản trong hoạt động.
g. Tỷ lệ khả năng chi trả
Tỷ lệ khả năng chi trả = Tổng Tài sản Có có thể thanh toán ngay/Tổng Tài sản Nợ đến hạn thanh toán ngay.
Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh khoản của ngân hàng trong tương lai, phản ánh trạng thái thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng bằng việc dùng các Tài sản Có có thể thanh toán ngay để đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn thanh toán. Nếu chỉ số này càng cao thì ngân hàng được xem là có khả năng thanh khoản ngắn hạn càng cao và ngược lại. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng nên duy trì chỉ tiêu này tối thiểu ở mức 25% tại bất kỳ thời điểm nào để đảm bảo khả năng thanh khoản. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hiện nay (QĐ 457/QĐ-NHNN của NHNN), việc tính toán duy trì khả năng thanh toán được xem xét trong vòng 7 ngày và 1 tháng tiếp theo.
h. Chỉ số Chứng khoán thanh khoản
Chứng khoán thanh khoản = Số chứng khoán thanh khoản/Tổng tài sản thanh khoản
1.3.1.2. Điều kiện áp dụng
Khi áp dụng phương pháp này, ngân hàng cần xây dựng các giới hạn để thực hiện phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động của ngân hàng và phù hợp cả với thông lệ quốc tế. Mặt khác cũng phải tuân thủ theo một số các hạn mức mà Ngân hàng Nhà nước đề ra.
1.3.1.3. Đánh giá phương pháp
a.Ưu điểm
Nhìn chung đây là phương pháp yêu cầu khả năng công nghệ cũng như dữ liệu đầu vào tương đối đơn giản. Ngân hàng chỉ cần xây dựng các chỉ số dựa trên bảng tổng kết tài sản. Ở nước ta hiện nay Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định giới hạn thực hiện đối với tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và tỷ lệ khả năng chi trả, các chỉ số còn lại ngân hàng chủ động quản lý nên việc thực hiện tương đối dễ dàng. Một ưu điểm nữa là với khả năng và trình độ công nghệ còn hạn chế của ngân hàng thương mại Việt Nam, chưa ngang tầm với khu vực và thế giới, thì sử dụng phương pháp đơn giản này là tương đối phù hợp. Bên cạnh đó phương pháp này cũng không yêu cầu cao về công tác phân tích dự báo trong điều kiện công tác phân tích dự báo cín nhiều hạn chế hiện nay ở nước ta và Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có hệ thống cảnh báo sớm về tình hình thanh khoản.
b. Nhược điểm
Với phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh yêu cầu ngân hàng phải duy trì một lượng cụ thể về tài sản thanh khoản tương quan với những khoản nợ tại mỗi thời điểm nhất định đảm bảo ngân hàng có đủ những tài sản dự trữ có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền để làm tăng vốn khả dụng đáp ứng bất kỳ nhu cầu chi trả nào. Tuy nhiên thực tế hoạt động cho thấy việc tuân thủ các yêu cầu về tỷ lệ tài sản thanh khoản không chỉ ra được tình trạng thanh khoản thực tế của ngân hàng. Danh mục kỳ hạn tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng phụ thuộc vào loại thị trường cụ thể tài trợ cho chúng và một chính sách thanh khoản hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào “lớp đệm” do tài sản dự trữ mà còn phụ thuộc vào phụ thuộc vào sự quản lý, theo dõi và dự báo trạng thái thanh khoản tương lai cũng như chính sách đa dạng thích hợp về nguồn tài trợ. Việc quản lý bằng cách duy trì các tỷ lệ tài sản thanh khoản có thể dẫn đến việc ngân hàng nắm giữ một lượng quá mức tài sản thanh khoản để bù đắp rủi ro làm giảm hiệu quả kinh doanh hoặc ngược lại nắm giũ 1 lượng tài sản thanh khoản quá ít không đủ cho yêu cầu thanh khoản sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản.
Do vậy ta nghiên cứu tiếp phương pháp hiện đại sau:
1.3.2. Quản lý theo phương pháp hiện đại
1.3.2.1 Nội dung phương pháp
Phương pháp quản lý thanh khoản hiện đại hay còn gọi là phương pháp phân tích thanh khoản động là phương pháp đánh giá trạng thái thanh khoản của ngân hàng bằng cách dự đoán cung, cầu thanh khoản, dự đoán chênh lệch cung cầu (khe hở) thanh khoản, từ đó đưa ra quyết định quản lý thanh khoản bằng những hạn mức, giới hạn thực hiện. Theo phương pháp này, bộ phận có chức năng quản lý thanh khoản cần thực hiện các công việc sau:
a. Lập báo cáo dự tính thanh khoản
Để dự tính một cách tương đối cung cầu thanh khoản theo các khoảng thời gian trong tương lai thì theo phương pháp này, khi lập báo cáo, mọi khoản mục thuộc bảng cân đối kế toán đều phải được báo cáo bằng cách phân bổ dữ liệu gốc luồng tiền vào, luồng tiền ra đến hạn vào các dải kỳ hạn: từ 1 ngày → 7 ngày, 8 ngày → 1 tháng, 1 tháng → 3 tháng, 3 tháng → 6 tháng. Đối với những khoản mục không có kỳ hạn hoặc không có ngày đến hạn cần thì sử dụng các giả thiết kết hợp với phân tích dữ liệu lịch sủ để chia vào các thang kỳ hạn thích hợp.
Cụ thể như sau:
* Cung thanh khoản
- Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi thanh toán tại các tổ chức tín dụng : 100% giá trị được phân bổ vào dải kỳ hạn 1 ngày.
- Tiền gửi có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng khác : phân bổ 100% theo kỳ hạn của nó.
- Tín phiếu và trái phiếu Chính phủ : phân bổ 5% giá trị vào dài kì hạn 1 ngày, 15% giá trị vào dải kỳ hạn 2 → 7 ngày, 40% giá trị vào dải kỳ hạn 8 ngày → 1 tháng, 40% giá trị vào dải kỳ hạn > 1 → 3 tháng.
- Giấy tờ có giá phân bổ 100% theo kỳ hạn.
- Dự thu lãi và các khoản phải thu khác : phân bổ 50% giá trị vào dải kỳ hạn > 3 → 6 tháng. 50% giá trị còn lại của khoản mục này được coi như có kỳ hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản.
- Góp vốn liên doanh cổ phần, tài sản cố định, dự phòng rủi ro được coi như có kỳ hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản.
- Huy động vốn mới kể cả phát hành giấy tờ có giá: dự đoán doanh số huy động vốn mới tương ứng với các dải kỳ hạn (trường hợp không có biến động bất thường có thể sử dụng số liệu lịch sử phát sinh của các năm trước tương ứng với các dải kỳ hạn).
- Các khoản mục ngoại bảng : giữ nguyên số dư gốc.
* Cầu thanh khoản
- Tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, cá nhân, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác: căn cứ vào phân tích số liệu lịch sử và thông tin cập nhật từ phía khách hàng, bộ phận phân tích thanh khoản xác định lượng tiền ổn định và lượng tiền không ổn định của tiền gửi không kỳ hạn. Lượng tiền ổn định được coi như không bị rút khỏi ngân hàng hoặc có kỳ đến hạn > 6 tháng nên không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. Lượng tiền gửi không ổn định được phân bổ 20% vào dải kỳ hạn 1 ngày, 30% vào dải kỳ hạn 2 → 7 ngày, 50% vào dải kỳ hạn 8 ngày đến 1 tháng.
- Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức và cá nhân, giấy tờ có giá đến hạn: căn cứ vào số liệu lịch sử để xác định khả năng tỷ lệ tiền gửi rút trước hạn và được phân bổ vào dải kỳ hạn 1 ngày; số dư tiền gửi còn lại được giữ nguyên dữ liệu gốc.
- Tiền gửi kỳ hạn, vay các tổ chức tín dụng khác, vay Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính: giữ nguyên dữ liệu gốc.
- Dự chi lãi và các khoản phải trả khác: phân bổ 50% giá trị vào dải kỳ hạn 3 tháng → 6 tháng, 50% giá trị của khoản mục này được coi như có kỳ đến h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22118.doc