MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế, là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, trong đó tín dụng là hoạt động xương sống của bất kì một NHTM nào. Tín dụng tuy là hoạt động sinh lời lớn nhất của NHTM nhưng đó cũng là hoạt động mang lại rủi ro, tổn thất cao nhất cho ngân hàng. Tổn thất nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ, phá sản cho ngân hàng. Do vậy, an toàn tín dụng là nội
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Xuất nhập khẩu (NHXuất nhập khẩu) Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dung chính trong quản trị rủi ro của mọi NHTM. Cho đến nay, quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM nước ta còn nhiều bất cập và ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập cũng như tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM nước ta sẽ chịu sự cạnh tranh đặc biệt gay gắt của các ngân hàng nước ngoài. Tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM nước ta nhằm lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, qua quá trình thực tập tại ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài:
"TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM - CHI NHÁNH HÀ NỘI"
cho chuyên đề tốt nghiệp của mình với mong muốn đề tài của mình có thể góp một phần nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh.
Nội dung của chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Hà Nội
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo - thạc sĩ Vũ Thu Thủy, ban lãnh đạo và các anh chị Phòng Tín Dụng - Chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu Hà Nội. Do thời gian nghiên cứu có hạn và những hiểu biết của em có thể còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo, ban lãnh đạo và các anh chị trong chi nhánh để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn nữa.
Chương 1: Lý thuyết chung về rủi ro tín dụng
1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, bao gồm cả đi vay và cho vay. Nhưng khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định như ngân hàng thương mại hay các trung gian tài chính khác thì tín dụng chỉ bao hàm nghĩa ngân hàng cho vay, có thể là dưới nhiều hình thức khác nhau: chiết khấu, bảo lãnh, cho vay, cho thuê... Đó là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng, trong đó ngân hàng (bên cho vay) sẽ chuyển giao tài sản (tiền hoặc hàng hóa) cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin tưởng rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Việc các nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà chỉ chú trọng đến đảm bảo đã làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
1.1.2.1. Tín dụng phân theo thời hạn cho vay
Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời hạn vay liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm, được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm, đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có qui mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Tuy nhiên, việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì có nhiều khoản vay không xác định được chính xác thời hạn. Nhiều khoản cho vay khách hàng được gia hạn nợ nên thời hạn cho vay thực tế lại dài hơn thời hạn ghi trong hợp đồng tín dụng. Cũng có trường hợp khách hàng trả nợ vay, kết thúc hợp đồng tín dụng truớc hạn. Vì vậy, cách phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối, giúp các ngân hàng quản lý các khoản vay và đánh giá rủi ro được chính xác hơn.
Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Ngoài ra,cũng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trung và dài hạn...
1.1.2.2. Tín dụng phân theo hình thức tài trợ
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được phân chia thành: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu...
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là hoạt động chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới đủ bù đắp chi phí huy động vốn, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư...
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo thỏa thuận và sau một thời gian nhất định, khách hàng có thể trả lại tài sản cho ngân hàng kèm với tiền thuê hoặc thỏa thuận mua lại tài sản đó.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách. Khi ký hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng không phải xuất tiền ra mà chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết với bên thứ ba, ngân hàng mới phải thực hiện nghĩa vụ chi trả thay khách hàng. Khi đó, khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản "xấu" trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn.
1.1.2.3. Tín dụng phân theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, thường được cấp cho các khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần đây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo là loại tín dụng dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn cần có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt tiềm ẩn nhiều rủi ro từ mọi nguồn gốc, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro do thiếu vốn khả dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản... Trong đó, rủi ro tín dụng là vấn đề nổi cộm nhất của các ngân hàng khi thực hiện các chiến lược quản lý rủi ro.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay hoặc một đối tác không hay không thể thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận dẫn đến việc các khoản cho vay hay các khoản phải thu của ngân hàng giảm giá trị hoặc không thu hồi được. Trong danh mục tài sản có của các ngân hàng, các khoản vay hiển nhiên là nơi phát sinh nhiều rủi ro tín dụng nhất. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng có thể còn xuất hiện ở rất nhiều hoạt động khác của ngân hàng, trong và ngoài bảng tổng kết tài sản. Ngoài danh mục cho vay, ngân hàng ngày càng đối mặt với nhiều rủi ro tín dụng hơn trong các sản phẩm, công cụ tài chính khác như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, các khoản phải thu... Các hoạt động ngoài bảng cân đối kế toán cũng chứa đựng rủi ro tín dụng gồm có: bảo lãnh, phát hành thư tín dụng, chấp nhận thanh toán...
Để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất cho ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của NHTM, quản lý rủi ro tín dụng là thật sự cần thiết. Tuy nhiên, cần xác định rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh ngân hàng, chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Để hạn chế rủi ro tín dụng, các NHTM cần phải áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn ngừa phát sinh rủi ro đồng thời có các biện pháp thích hợp để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Muốn vậy, trước hết các NHTM cần nghiên cứu những nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng, từ đó thực thi các giải pháp phù hợp với từng hoàn cảnh.
1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng
- Năng lực tài chính của khách hàng
Có thể thấy yếu tố đầu tiên và cốt lõi tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng là yếu tố tài chính. Nếu một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh thì việc một giao dịch không thành công sẽ không làm doanh nghiệp mất đi khả năng trả nợ, còn khi điều kiện tài chính suy yếu thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn. Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp gồm có:
+ Khả năng thanh khoản phản ánh thông qua các chỉ số như khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán hiện hành... Khả năng thanh toán cao sẽ làm giảm khả năng sinh lời của khách hàng nhưng khả năng thanh toán thấp sẽ làm tăng khả năng ngân hàng sẽ phải giải quyết các tài sản cố định khác của khách hàng để thu hồi vốn.
+ Khả năng sinh lời: ROA, ROE, EPS... Đây là thước đo mức độ thành công về mặt tài chính của khách hàng vay. Mặc dù vậy, ngân hàng cần đánh giá đúng triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp chứ không phải chỉ căn cứ vào thành công của doanh nghiệp trong những năm tài chính qua.
+ Đòn bẩy tài chính: Tỷ lệ đòn bẩy cao làm tăng suất sinh lợi cho doanh nghiệp đồng thời cũng làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Tùy thuộc vào tính chất của từng khoản vay, các ngân hàng có thể yêu cầu mức thế chấp và lãi suất cao hơn để bù đắp rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải từ khoản cho vay.
+ Hiệu quả quản lý vốn
+ Dòng tiền: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bức tranh cho ngân hàng cái nhìn toàn diện về chuyển động tiền mặt của các hoạt động đầu tư, kinh doanh, tài chính... của doanh nghiệp trong năm tài chính. Tất cả các doanh nghiệp có lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh dương đều trả được nợ vay ngân hàng thậm chí trong những kỳ tài chính kinh doanh lỗ trong khi các DN kinh doanh có lãi nhưng lưu chuyển tiền tệ âm không thể trả được nợ cho ngân hàng.
- Năng lực kinh doanh, quản trị của khách hàng
Năng lực quản trị của doanh nghiệp là yếu tố có tác động rất lớn và là yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trình độ yếu kém trong việc dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong quản lý, kinh doanh của người vay, chậm thích ứng khi môi trường kinh doanh thay đổi khiến việc kinh doanh thua lỗ và không trả được nợ cho ngân hàng. Doanh nghiệp có trình độ, năng lực quản trị cao luôn biết làm điều tốt nhất cho doanh nghiệp mình, khi gặp khó khăn thì thời hạn vay vốn có thể kéo dài nhưng khả năng trả nợ luôn được đảm bảo.
- Đạo đức của khách hàng
Người vay cố tình dùng các thủ đoạn để lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc đầu tư vào những dự án quá mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao mà không được sự chấp thuận của ngân hàng. Để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc cán bộ ngân hàng...
Trong một số trường hợp, khách hàng mặc dù kinh doanh có lãi nhưng lại chây ỳ không trả nợ hoặc trả không đúng hạn cho ngân hàng với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Đạo đức của khách hàng tác động đến việc thu hồi nợ của ngân hàng. Tuy nhiên yếu tố đạo đức này không dễ đánh giá khi nguồn thông tin hiện tại ở Việt Nam chỉ là phi chính thức và hiện tại, hầu như các ngân hàng đều cấp tín dụng chủ yếu dựa vào nhận biết cảm tính.
Rủi ro từ phía khách hàng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM. Việc phòng tránh là rất khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, nguyên nhân này có thể nắm bắt và đối phó được nếu NHTM thực hiện tốt việc giám sát, kiểm tra và quản lý khách hàng trước trong và sau khi giải ngân.
1.2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng và quy trình cấp tín dụng
Chính sách tín dụng là chính sách phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, nó cũng là hướng dẫn chung cho cán bộ ngân hàng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng phải bao gồm định hướng chung trong việc cho vay, các quy định về đảm bảo tiền vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn... Một chính sách tín dụng tốt phải là ứng dụng thông minh của những nguyên tắc tín dụng thích hợp với những thay đổi của các nhân tố và môi trường kinh tế. Công việc của cán bộ tín dụng là nên cho ai vay, áp dụng loại sản phẩm nào, với những điều kiện như thế nào... Khi chính sách tín dụng chỉ được lập ra mang tính thủ tục, thiếu nhất quán, thiếu cẩn trọng chắc chắn sẽ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Quy trình cấp tín dụng hiện tại đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do các khoản vay chưa được rà soát rủi ro một cách độc lập với bộ phận khách hàng. Việc để một bộ phận thực hiện toàn bộ chức năng cho vay, thu nợ, thẩm định và quản lý rủi ro dẽ làm quá tải và tăng nguy cơ xảy ra rủi ro đạo đức ở cán bộ làm tín dụng.
- Năng lực của cán bộ tín dụng
Nhân viên tín dụng khi cho vay sẽ phải tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành nghề khác nhau, ở các vùng khác nhau, thậm chí là ở nhiều quốc gia khác nhau... Để cho vay tốt họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống và có khả năng dự đoán các vấn đề liên quan đến người vay…Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với những khách hàng mà họ chưa đủ thông tin hoặc chưa thực sự hiểu về khách hàng, về năng lực tài chính của khách hàng mà chỉ đơn thuần dựa trên phương án kinh doanh hay tài sản thế chấp thì rủi ro tín dụng là rất dễ xảy ra.
- Rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng
Sống trong môi trường "tiền bạc", nhiều cán bộ ngân hàng không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Bộ phận tín dụng là nơi trực tiếp thẩm định dự án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho hàng, tài sản thế chấp, giám sát giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên nếu đạo đức nghề nghiệp không tốt, cán bộ tín dụng tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng mình thì hậu quả sẽ rất nặng nề.
- Không đa dạng hóa danh mục đầu tư
Những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh của người vay là khó tránh khỏi nên nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng của một ngành hoặc một vùng thì rủi ro sẽ rất cao. Ngoài ra, việc không duy trì được tỷ trọng đầu tư đối với từng ngành hàng, loại cho vay theo thời gian trong tổng thể danh mục cho vay của mình phù hợp với chiến lược, cơ cấu nguồn và năng lực của bản thân ngân hàng sẽ khiến ngân hàng có nguy cơ rơi vào tình trạng không kiểm soát được các khoản cho vay và rủi ro tín dụng cao là tất yếu.
1.2.2.3. Nguyên nhân tác động từ môi trường bên ngoài
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra do những thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng cũng như người vay như: chu kì kinh tế, thay đổi lãi suất và tỷ giá, thay đổi trong chính sách của chính phủ, thị trường bất động sản... Những sự thay đổi này là thường xuyên diễn ra và tác động liên tục đến người vay, tạo thuận lợi cũng như khó khăn cho người vay. Khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng này là nặng nề thì khả năng trả nợ của người vay bị suy giảm, ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro không thu hồi được nợ.
- Chu kỳ kinh tế
Trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng, các ngành kinh doanh nói chung đều thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ tăng, nhu cầu vốn tăng làm dư nợ đối với nền kinh tế cũng tăng làm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn giảm. Nhưng khi nền kinh tế kém tăng trưởng, các ngành kinh doanh đều gặp khó khăn, trong đó các ngành kinh doanh hàng cao cấp, các ngành dịch vụ du lịch, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản... sẽ gặp khó khăn hơn so với các ngành hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nhiên liệu... Các món vay, đặc biệt là trung, dài hạn được quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng trưởng sẽ trở thành khó đòi trong những năm sau. Do vậy, các ngân hàng cần lưu ý đến yếu tố này khi ra quyết định cho vay.
- Lãi suất, lạm phát
Khi lạm phát vượt quá một giới hạn nhất định, ngân hàng nhà nước có thể điều chỉnh bằng cách tăng lãi suất cơ bản. Khi lãi suất tăng, hoạt động tín dụng trở nên rủi ro hơn do lãi suất cao buộc người vay phải thực hiện các phương án kinh doanh mạo hiểm hơn hoặc khuyến khích các khách hàng có độ rủi ro cao hơn vay vốn của ngân hàng.
- Rủi ro chính sách
Một môi trường kinh doanh không ổn định sẽ gián tiếp làm suy yếu điều kiện tài chính của người vay do người vay không thể chủ động trong chiến lược kinh doanh của mình. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, làm rủi ro tín dụng của ngân hàng tăng lên.
Trong các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng thì nguyên nhân xuất phát từ môi trường bên ngoài là khó phòng tránh nhất nhưng tổn thất do nó gây ra thường chiếm tỷ trọng không lớn. Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể giảm bớt tổn thất nếu dự đoán đúng xu hướng để thực thi chính sách phân tán rủi ro hợp lý.
1.2.3. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động của ngân hàng và cả nền kinh tế
- Đối với NH
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM, thông thường chiếm khoảng 70% tài sản có của ngân hàng. Do vậy, rủi ro tín dụng xảy ra sẽ có ảnh hưởng lớn đến ngân hàng ở các mức độ khác nhau. Là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng nên khi rủi ro tín dụng xảy ra, đầu tiên sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, cao hơn là ngân hàng có thể bị mất vốn từ những khoản cho vay không thu hồi được. Tình trạng thua lỗ kéo dài này sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng và dẫn tới phá sản ngân hàng. Như vậy, rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến tính thanh khoản và có thể gây ra nguy cơ phá sản ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng tổn thất về tài chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là "ngòi nổ", tự mình nó sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, nhưng khi có chất kích nổ, sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dụng khi đó sẽ có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội.
Khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng và dẫn đến phá sản thì các ngân hàng khác cũng bị ảnh hưởng do tâm lý hoang mang của những người gửi tiền, ồ ạt kéo nhau đến rút tiền ở cả những ngân hàng khác. Nếu không có những sự điều chỉnh kịp thời thì cả hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào khủng hoảng. Trong khi đó, ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng liên quan chặt chẽ đến hoạt động của các cá nhân, doanh nghiệp, các ngành kinh tế khác. ngân hàng phá sản gây tổn thất cho những người gửi tiền còn DN thì sẽ không vay được vốn để sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng và trì trệ.
1.2.3.2. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng
Trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng thì rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Do vậy, mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng là tối đa hoá tỷ lệ thu nhập đã được điều chỉnh rủi ro của ngân hàng bằng việc duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong phạm vi mà các ngân hàng cho là hợp lý, được kiểm soát và trong nguồn lực tài chính của họ. Các ngân hàng cần phải quản trị rủi ro của cả danh mục đầu tư cũng như trong từng khoản vay, từng hoạt động kinh doanh riêng lẻ và cần xem xét rủi ro tín dụng trong mối tương quan với các loại rủi ro khác.
Thực hiện tốt công tác quản lý rủi ro tín dụng là cơ sở cho lợi nhuận,sự tăng trưởng bền vững và thành công lâu dài của mỗi ngân hàng, đồng thời nó còn là cơ sở cho một nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững.
1.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng. Nợ quá hạn là các khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng kém, khả năng thu hồi vốn sẽ khó khăn, tiềm ẩn nguy cơ mất vốn cao. Nợ khó đòi là nợ quá hạn đã quá một kì gia hạn nợ, do đó các khoản nợ được xếp vào nợ khó đòi sẽ có nguy cơ mất vốn rất cao.
Trong quá trình định lượng, các chỉ tiêu trên có thể phản ánh không thực sự mức độ rủi ro tín dụng của một ngân hàng do các chỉ tiêu này có thể bị biến dạng do nhiều nguyên nhân:
- Định kì hạn nợ không đúng: Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không chú ý thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu nên định kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Do không có sự phù hợp giữa kì hạn nợ và kì hạn của thu nhập của người vay nên ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người vay, gây ra nợ quá hạn cho ngân hàng mặc dù có thể tình hình tài chính của khách hàng là tốt. Khoản nợ này trở thành mối de dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm một khoản phụ phí để gia hạn nợ hoặc phải gánh chịu một lãi suất phạt. Với ngân hàng, việc nợ quá hạn tăng buộc ngân hàng phải trích lập rủi ro lớn và điều này ảnh hưởng đến lượng vốn khả dụng của ngân hàng, làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.
- Đảo nợ, giãn nợ: Nhân viên ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận với nhau để khách hàng vay khoản mới để trả nợ cũ nhằm che dấu đối với ngân hàng cấp trên và khách hàng không phải chịu lãi phạt hoặc thực hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà chắc chắn người vay không trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
- Chính sách cho vay: Rất nhiều khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi được bằng cách phát mại tài sản (cho vay doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng..) và những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ. Xử lý các khoản nợ này rất phức tạp, nhiều ngân hàng đã loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi xếp vào "nợ khoanh". Tuy nhiên chúng thực sự đe doạ thu nhập của ngân hàng nếu Chính Phủ không tìm được nguồn để bù đắp.
1.2.1.2. Các khoản tín dụng “có nguy cơ”
Có nhiều khoản tín dụng mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn nhưng trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy những khoản tài trợ này đang có dấu hiệu kém lành mạnh và có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Thông thường thì điều này có nghĩa là người vay đã không thực hiện thanh toán đúng như kế hoạch hay giá trị tài sản thế chấp của người vay đã sụt giảm đáng kể. Nếu ngân hàng xem xét thấy có nhiều khoản cho vay có vấn đề thì tức là rủi ro tín dụng đang rình rập. Khi đó ngân hàng cần sớm tìm cách giải quyết để tránh nguy cơ các khoản vay này trở thành nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Các biểu hiện của một khoản tín dụng có nguy cơ:
Trả nợ vay không đúng kỳ hạn hoặc thất thường
Thường xuyên sửa đổi thời hạn hoặc xin gia hạn nợ
Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới thì nợ gốc chỉ giảm xuống một ít)
Lãi suất tín dụng cao không bình thường để bù đắp rủi ro
Tài khoản phải thu hay hàng tồn kho tăng không bình thường
Hệ số đòn bẩy tăng
Thất lạc hồ sơ, đặc biệt là các báo cáo tài chính
Chất lượng tài sản đảm bảo giảm
Dựa vào đánh giá lại tài sản để tăng vốn chủ sở hữu của khách hàng
10) Thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ hay dự báo luồng tiền
11) Khách hàng dựa vào thu nhập bất thường để trả nợ
( Nguồn FDIC Bank Examination Policies)
1.2.1.3. Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn và các khoản cho vay có vấn đề, nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng kết hợp các chỉ tiêu khác gắn với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng... để đánh giá rủi ro tín dụng.
- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng của khách hàng... ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng và tiến hành xếp loại, cho điểm. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro "tiềm ẩn" của khoản cho vay.
- Tính kém đa dạng của tín dụng: Các món vay dài hạn có tính rủi ro cao hơn các món vay ngắn hạn. Các món vay bằng ngoại tệ sẽ phải gánh chịu thêm rủi ro tỷ giá bên cạnh rủi ro tín dụng. Các món vay lớn có chi phí quản lý rẻ hơn nhưng rủi ro cao hơn hơn các khoản vay nhỏ. Một ngân hàng đa dạng hoá được danh mục cho vay của mình sẽ được đánh giá là có rủi ro thấp hơn so với việc ngân hàng chỉ tập trung vào cho vay một ngành hay lĩnh vực nào đó. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng của một ngành, một vùng thì khi rủi ro hệ thống xảy ra, tổn thất của ngân hàng sẽ rất nặng nề.
1.3.2. Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Khoảng 20 năm trở về trước thì các ngân hàng chỉ dựa vào duy nhất phương pháp truyền thống (định tính) để đánh giá rủi ro tín dụng của người vay. Phương pháp truyền thống này tỏ ra mất nhiều thời gian, tốn kém lại mang tính chủ quan. Chính vì vậy mà các ngân hàng đã không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng đi vay và các quy định cho vay.
Ngày nay một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp truyền thống ở chỗ: nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn đơn xin vay với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực vào việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng.
Việc lượng hoá rủi ro tín dụng là cách hữu hiệu nhất để đánh giá rủi ro tín dụng từ đó có các chính sách và biện pháp thích hợp để hạn chế rủi ro. Đó chính là việc sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay để lượng hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Đã có nhiều mô hình lượng hoá được đưa ra, tuy nhiên được cho là hiệu quả hơn cả là các mô hình cơ bản sau:
1.3.2.1. Mô hình điểm số Z
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm số như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường vốn chủ sở hữu / giá trị hạch toán tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
1.3.2.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Mô hình này được sử dụng để xếp hạng khách hàng là người tiêu dùng bằng cách cho điểm khách hàng dựa trên các chỉ tiêu: nghề nghiệp, thâm niên công tác, tình trạng thu nhập, sở hữu nhà ở, tuổi đời, giới tính, tài khoản tại các NH, số người phụ thuộc...
Dưới đây là những hạng mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng Mỹ:
STT
Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng
Điểm số
1
Nghề nghiệp của người vay: Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh- Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)- Nhân viên văn phòng- Sinh viên- Công nhân không có kinh nghiệm- Công nhân bán thất nghiệp
10-8-7-5-4-2
2
Trạng thái nhà ở: Nhà riêng- Nhà thuê hay căn hộ- Sống cùng bạn hay người thân
6-4-2
3
Xếp hạng tín dụng: Tốt- Trung bình- Không có hồ sơ- Tồi
10-5-2-0
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp: Nhiều hơn một năm- Từ một năm trở xuống
5-2
5
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành- nhiều hơn một năm- từ một năm trở xuống
2-1
6
Điện thoại cố định: Có - Không có
2-0
7
Số người sống cùng (phụ thuộc): Không- Một- Hai- Ba- Nhiều hơn ba
3-3-4-4-2
8
Các tài khoản tại ngân hàng: Có cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc- Chỉ tài khoản tiết kiệm- Chỉ tài khoản phát hành séc- Không có
4-3-2-0
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Sau khi cho điểm, NH sẽ xác định ranh giới phân chia các khoản tín dụng tốt, xấu... từ đó xác định ra quyết đ._.ịnh chấp nhận hoặc từ chối cho vay, xác định hạn mức cho vay đối với khách hàng đó.
1.3.2.3. Mô hình xếp hạng của Moody's và Standard & Poor's
Ngoài các hình thức cho vay trực tiếp, ngân hàng còn thực hiện cho vay gián tiếp thông qua việc nắm giữ chứng khoán của các công ty, các tổ chức tài chính khác... Để đánh giá rủi ro trong việc nắm giữ trái phiếu công ty, người ta sử dụng mô hình xếp hạng trái phiếu của Moody's và Standard & Poor's:
Xếp hạng
Tình trạng
Moody’s
Aaa
Chất lượng cao nhất
Aa
Chất lượng cao
A
Chất lượng vừa cao hơn
Baa
Chất lượng vừa
Ba
Nhiều yếu tố đầu cơ
B
Đầu cơ
Caa
Chất lượng kém
Ca
Đầu cơ có rủi ro cao
C
Chất lượng kém nhất
Standard & Poor’s
AAA
Chất lượng cao nhất
AA
Chất lượng cao
A
Chất lượng vừa cao hơn
BBB
Chất lượng vừa
BB
Chất lượng vừa thấp hơn
B
Đầu cơ
CCC-CC
Đầu cơ có rủi ro cao
C
Trái phiếu có lợi nhuận
DDD-D
Không hoàn được vốn
Theo mô hình này, chất lượng của các trái phiếu được xếp theo thứ tự giảm dần. Những trái phiếu đầu bảng là những trái phiếu có độ an toàn cao và những trái phiếu cuối bảng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao hơn những bù lại lợi tức thu được từ những trái phiếu này sẽ cao hơn. Do đặc điểm của hoạt động của ngân hàng là sử dụng tiền gửi của khách hàng để đầu tư nên các ngân hàng thường đầu tư vào các chứng khoán có độ an toàn cao hơn.
1.3.3. Các công cụ và phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
1.3.3.1. Chính sách tín dụng
Tín dụng là hoạt động có qui mô lớn nhất trong các hoạt động của ngân hàng và ảnh hưởng không chỉ đến bản thân ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do vậy, hoạt động này phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách tín dụng của một ngân hàng được xây dựng dựa trên nghiên cứu các yếu tố:
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng: Chính sách tín dụng là chính sách phục vụ nhu cầu tín dụng của khách hàng. Do đó, nhu cầu của khách với các đặc tính khác nhau (ngành nghề kinh doanh, qui mô kinh doanh...) sẽ quyết định nội dung và sự thành công của chính sách tín dụng.
- Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm tàng của khách hàng sẽ quyết định tính an toàn và sinh lời của hoạt động tín dụng. Do đó, chính sách tín dụng của ngân hàng được xây dựng dựa trên những phán đoán tương lai cũng như những diễn biến trong quá khứ về rủi ro tín dụng.
- Các chính sách của Chính Phủ và NHNN như chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá, chính sách phát triển hệ thống tài chính... ảnh hưởng đến chính sách tín dụng.
- Qui mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của khách hàng, qui mô vốn chủ sở hữu... quyết định việc ngân hàng sẽ theo đuổi chính sách tín dụng mạo hiểm hay thận trọng. Nguồn tiền gửi lớn và ổn định sẽ cho phép khách hàng gia tăng các khoản tín dụng trung và dài hạn. Qui mô vốn chủ sở hữu lớn, khả năng vay mượn tốt thì ngân hàng sẽ có thể tham gia tài trợ các dự án mạo hiểm hơn với kì vọng thu được lợi tức đền bù lớn hơn.
1.3.3.2. Giới hạn cấp tín dụng
Để hạn chế rủi ro tín dụng và tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro tín dụng xảy ra, các ngân hàng thường qui định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho từng cấp quản trị như chi nhánh, phòng giao dịch tuỳ theo qui mô hoạt động và năng lực làm việc của từng bộ phận. Đối với khách hàng, giới hạn tín dụng tối đa được xác định phù hợp với các qui định của luật và đánh giá của ngân hàng về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, về giá trị tài sản đảm bảo tiền vay, uy tín, quan hệ của khách hàng với ngân hàng... Qui mô và giới hạn tín dụng tối đa phải đảm bảo kết hợp tính sinh lời với mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của mỗi khoản cho vay.
1.3.3.3. Định giá khoản vay
Tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM và lãi suất là thu nhập chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Có thể nói lãi suất là giá cả của khoản vay và nó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu tín dụng trên thị trường vào thời điểm vay, vào mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng. Lãi suất tín dụng phải được xác định ở mức đảm bảo chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, lợi nhuận bù đắp rủi ro. Tuy nhiên, nếu định lãi suất quá cao sẽ khiến khách hàng buộc phải thực hiện một chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn và ít cơ hội thành công hơn để thanh toán khoản lãi vay, đồng thời làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với các khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Việc xác định được mức lãi suất phù hợp và linh động sẽ giúp ngân hàng tránh được những "lựa chọn bất lợi", hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.3.3.4. Các khoản đảm bảo tiền vay
Có rất nhiều nguyên nhân làm cho khách hàng không trả nợ cho ngân hàng nên để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Khi khách hàng không trả nợ được cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ dùng tài sản đó như một nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay. Đối với những khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng có thể cho vay không cần kí hợp đồng bảo đảm. Trong trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn, ngân hàng đòi phải đảm bảo, có thể là giấy tờ có giá, hàng háo trong kho, nhà cửa, thiết bị hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Chính sách về tài sản đảm bảo của ngân hàng qui định các trường hợp tài trợ cần tài sản đảm bảo, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các loại tài sản đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên tài sản đảm bảo, đánh giá và quản lý tài sản đảm bảo... ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có khả năng bán được làm tài sản bảo đảm và thông thường cũng chỉ cho vay với một giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo, tỷ lệ là bao nhiêu phụ thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi giá trị thị trường của vật bảo đảm.
1.3.3.5. Đa dạng hoá danh mục đầu tư
Một trong những nguyên tắc cơ bản để kiềm chế rủi ro là đa dạng hoá. Đối với hoạt động tín dụng, đó là việc cần phải đa dạng hoá danh mục đầu tư. Việc đa dạng hoá danh mục cho vay của ngân hàng sẽ làm giảm tối đa rủi ro do các khoản vay có mức độ rủi ro khác nhau tùy theo năng lực, qui mô, uy tín của khách hàng, sự nhạy cảm với những thay đổi vĩ mô... Nhìn chung, các DN có qui mô nhỏ thường năng động, uyển chuyển, ít bị tổn thương và dễ khắc phục hậu quả hơn các DN qui mô lớn khi gặp rủi ro. Có những ngành hàng lại đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi về chính sách, tỷ giá... hơn những ngành hàng khác. Các khoản cho vay dài hạn có nguy cơ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn. Như vậy, việc đa dạng hoá cần được thực hiện đối với khu vực địa lý, thành phần kinh tế, thời hạn vay... và phải phù hợp với cơ cấu nguồn của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Eximbank Hà Nội
2.1. Tổng quan về ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), Eximbank chính thức đi vào hoạt động vào ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial Joint-Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank.
Trải qua 17 năm hoạt động với nhiều bước thăng trầm, đến nay Eximbank đã khẳng định được vị trí của mình, trở thành NHTM CP lớn thứ 3 trong cả nước với qui mô vốn điều lệ lên tới 1.212 tỷ VNĐ, có địa bàn hoạt động rộng khắp với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 26 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, và TP.HCM với trên 1000 nhân viên.
Eximbank Hà Nội là chi nhánh đầu tiên của Eximbank tại Hà Nội, được thành lập theo giấy chấp thuận số 0002 ngày 22/09/1992 và theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số 00503/GP-UB của UBND thành phố Hà Nội. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 27/11/1992 và địa điểm hiện tại là 19 Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
Eximbank Hà Nội có nhiệm vụ chính là mở rộng phạm vi hoạt động của Eximbank và thông qua hoạt động của mình sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ những ngày đầu mới thành lập chỉ có 16 nhân viên, đến nay chi nhánh đã có 140 nhân viên với 9 phòng ban nghiệp vụ và 2 phòng giao dịch trực thuộc. Nhân viên chi nhánh hầu hết là những nhân viên trẻ, tuổi không quá 35 (chiếm 75% nhân viên toàn chi nhánh) và có trình độ chuyên môn tương đối cao. Chi nhánh có trên 75% nhân viên trình độ ĐH và trên ĐH. Nhìn chung, đội ngũ nhân viên trẻ, năng động nhiệt tình và có trình độ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công trong sự nghiệp kinh doanh của chi nhánh.
Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Eximbank
- Nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các cá nhân và đơn vị bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo quy định của Nhà Nước.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi; cho vay sinh hoạt, tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng.
- Mua bán các loại ngoại tệ theo các phương thức giao ngay, hoán đổi, kì hạn và quyền chọn tiền tệ.
- Thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu hàng hóa, chiết khấu chứng từ hàng xuất; thực hiện chuyển tiền qua hệ thống SWIFT nhanh chóng, chi phí hợp lý, an toàn với các hình thức thanh toán bằng L/C, D/A, D/P, T/T, OP, Checks.
- Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa và quốc tế, thẻ Eximbank MasterCard, thẻ Eximbank Visa, phát hành và thanh toán thẻ ATM, thanh toán qua mạng bằng Thẻ.
- Thực hiện dịch vụ ngân quỹ, thu chi hộ, thu chi tại chỗ, thu đổi ngoại tệ, nhận và chi trả kiều hối, chuyển tiền trong và ngoài nước.
- Các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước (bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, dự thầu, chào giá, ứng trước…)
- Dịch vụ tài chính trọn gói hỗ trợ du học; tư vấn đầu tư - tài chính - tiền tệ.
- Dịch vụ đa dạng về địa ốc; Home-Banking; Telephone-Banking.
- Các dịch vụ khác: bồi hoàn chi phiếu mất cắp đối với trường hợp Thomas Cook Traveller’ Checques, thu tiền làm thủ tục xuất cảnh (I.O.M) và những dịch vụ và tiện ích ngân hàng khác… đáp ứng yêu cầu của quý khách hàng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức (sơ đồ trang sau)
2.1.3. Tình hình hoạt động của chi nhánh Eximbank Hà Nội trong thời gian qua
2.1.3.1. Khái quát về tình hình hoạt động của chi nhánh
* Hoạt động huy động vốn
Với nguồn vốn khá khiêm tốn được cấp ban đầu để triển khai hoạt động là 532.000 USD và 7.485 triệu VNĐ, Eximbank Hà Nội đã tiến hành huy động vốn từ nhiều đối tượng khác nhau để đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình.
Trong những năm qua, tổng nguồn vốn huy động của Eximbank Hà Nội không ngừng tăng lên. Năm 2004, tổng nguồn vốn chi nhánh huy động được là 1.048.810 triệu đồng, năm 2005 đạt 1.501.263 triệu đồng, tăng 43,14% so với năm 2004. Tính đến 31/12/2006 tổng nguồn vốn chi nhánh đạt 1.730.287 triệu đồng, tăng 15,26% so với năm 2005, trong đó vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 1.065.916 triệu đồng, tăng 44,99% (tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 19,18%, tiền gửi tiết kiệm tăng 25,81%).
Phòng tín dụng
Phòng kế toán
Phòng giao dịch
Tổ PC và thẩm định giá
Tổ kiểm tra nội bộ
Tổ xử lý thông tin
Phònghành chính nhân sự
Phòng tín dụng
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng kinh doanh tổng hợp
Phòngdịch vụ khách hàng
Phòng ngân quỹ
CHI NHÁNH CẤP 2
PHÒNG BAN NGHIỆP VỤ
BAN GIÁM ĐỐC
Chỉ tiêu
31/12/2006
(triệu đồng)
Tăng/giảm so với 31/12/2005
Giá trị (tr.đ)
%
Tổng nguồn vốn
1.730.286,59
229.024,24
15,26%
Tiền gửi thanh toán
346.329,82
55.731,39
19,18%
Tiền gửi tiết kiệm
719.586,90
147.638,65
25,81%
Tiền gửi của các TCTD
597.090,14
-54.632,13
-8,38%
Vay TCTD khác
Vốn điều chuyển
18.473,23
18.473,23
100,00%
Vốn khác
48.806,50
61.813,11
587,53%
Bảng 1: Tình hình tăng trưởng nguồn vốn của Eximbank Hà Nội năm 2006 (Nguồn: phòng kinh doanh tổng hợp – Chi nhánh Eximbank Hà Nội)
Có được sự tăng trưởng nguồn vồn như vậy là do trong những năm qua, Eximbank Hà Nội đã tiến hành các hoạt động mở rộng mạng lưới huy động vốn thông qua việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, áp dụng lãi suất huy động linh hoạt, hấp dẫn để thu hút khách hàng mới, duy trì quan hệ tốt với khách hàng truyển thống...
* Hoạt động tín dụng
Là một chi nhánh NHTM, hoạt động mang lại lợi nhuận chính cho Eximbank Hà Nội là hoạt động tín dụng. Trong những năm qua, mặc dù phải trải qua một thời gian thực hiện cơ cấu lại hoạt động tín dụng và đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của nhiều chi nhánh ngân hàng khác trên cùng địa bàn song hoạt động tín dụng của Eximbank Hà Nội vẫn đạt được sự tăng trưởng nhất định.
Năm 2006 chi nhánh tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, các khách hàng có uy tín, có quan hệ tốt với Ngân hàng, có tài sản đảm bảo, vay trả đúng hạn. Trong tổng số dư nợ 763.539,40 triệu đồng, dư nợ của các doanh nghiệp, công ty cổ phần là 667.812,90 triệu đồng, chiếm 87,46% tổng dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay cá nhân là 95.726,50 triệu đồng, chiếm 12,54% tổng dư nợ cho vay.
Đặc biệt, trong thời gian qua, chi nhánh đã tập trung vào củng cố, năng cao chất lượng tín dụng, theo dõi sát các khoản nợ để đôn đốc khách hàng trả nợ gốc, lãi đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn phát sinh đồng thời tiến hành xử lý các khoản nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của chi nhánh đã giảm từ 5,2% năm 2003 xuống còn 1,5% năm 2006. Đây quả thực là một thành công lớn của chi nhánh trong quản lý rủi ro tín dụng. Thành công này của chi nhánh bắt nguồn từ việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy chế cho vay nhằm hạn chế rủi ro, quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng giúp họ kiểm soát tốt hơn đồng vốn vay...
* Các hoạt động khác
* Kinh doanh ngoại tệ
Tiếp tục phát huy thế mạnh kinh doanh ngoại tệ, trong những năm qua,chi nhánh đã chủ động khai thác được những nguồn ngoại tệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng. Doanh số mua bán ngoại tệ của chi nhánh không ngừng tăng lên từ 201,73 triệu USD năm 2000 lên 276,26 triệu USD năm 2003 và năm 2006 đạt 406,86 triệu USD. Thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ đã đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng lợi nhuận của chi nhánh. Năm 2000, lãi từ kinh doanh ngoại tệ đạt 1.565 triệu đồng, năm 2003 đạt 1.516 triệu và năm 2006 đạt 2.361 triệu đồng, chiếm khoảng 10% lợi nhuận của chi nhánh.
* Thanh toán quốc tế
Thanh toán Xuất Nhập Khẩu cũng là một thế mạnh của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội. Trong những năm qua, hoạt động thanh toán XNK của chi nhánh có sự phát triển khá vững chắc. Doanh số thanh toán ngày càng tăng. Năm 2003 doanh số XNK là 125.555 ngàn USD, đến năm 2005 tăng lên là 185.219 ngàn USD (tăng 47,5%). Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tiếp tục đưa ra nhiều gói sản phẩm mới để khách hàng lựa chọn nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng, xứng đáng với sự tin tưởng của khách hàng trong nước và quốc tế.
* Hoạt động thẻ
Đối với Eximbank, công nghệ luôn là một trong những ưu tiên của ngân hàng trong chiến lược phát triển của ngân hàng để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, đem đến sự hài lòng về chất lượng dịch vụ từ đó khẳng định vị thế của Eximbank là một ngân hàng đồng hành với các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Do nhu cầu thanh toán thẻ ngày càng tăng, Eximbank cũng đã phát hành nhiều loại thẻ, bao gồm cả thẻ quốc tế (Visacard, Mastercard, Visadebit) và thẻ nội địa. Trong năm 2005, doanh số phát hành thẻ Eximbank Mastercard và Visacard của chi nhánh Eximbank Hà Nội đạt 19,52 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2004. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2005 đạt 1,21 triệu USD, đến năm 2006 tăng 15%, đạt 1,39 triệu USD. Hệ thống thanh toán thẻ ATM từ khi đưa vào hoạt động năm 2004 đến nay đã tương đối phát triển. Doanh số giao dịch qua máy ATM năm 2006 đạt được khoảng 104 tỷ đồng và chi nhánh vẫn đang xây dựng kế hoạch để khai thác dịch vụ đầy tiềm năng này trong tương lai.
2.1.3.2. Đánh giá chung về hoạt động của chi nhánh Eximbank Hà Nội
Được thành lập sớm nhất trong số các NHTMCP Việt Nam, Eximbank đã trỏ thành một trong những NHCP lớn nhất và đã tạo được hình ảnh và vị thế nhất định trong tâm trí khách hàng. Trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu là thế mạnh của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội. Eximbank cùng với ngân hàng Ngoại Thương đã trở thành những địa chỉ quen thuộc và tin cậy đối với các DN xuất nhập khẩu khi có nhu cầu về vốn cũng như nhu cầu thanh toán quốc tế.
Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của ngân hàng đều là những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong các nghiệp vụ chủ chốt của Eximbank. Sự thành công của Eximbank sau thời gian chấn chỉnh và củng cố vừa qua đã khẳng định năng lực điều hành của cán bộ lãnh đạo chi nhánh và đó sẽ là những kinh nghiệm quý báu giúp chi nhánh phát triển vững chắc trong thời gian tới.
Năm 2005 là một mốc quan trọng của Eximbank khi chính thức hoàn thành giai đoạn chấn chỉnh củng cố, bắt đầu chia cổ tức cho cổ đông, lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư. Thành công của ngân hàng trong giai đoạn này chủ yếu là từ hoạt động tín dụng khi ngân hàng tập trung đẩy mạnh công tác tín dụng đối với các DN vừa và nhỏ, tăng cường công tác tiếp thị khách hàng, chủ động giảm dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước và các đối tượng cho vay tín chấp cũng như một số DN hoạt động trong các lĩnh vực có rủi ro cao. Nhờ đó, tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng đã giảm đi đáng kể, ngân hàng đã thu hồi được nhiều món nợ đọng từ các năm trước để lại.
Đội ngũ cán bộ nhân viên chi nhánh trẻ trung, trình độ chuyên môn cao và có nhiệt huyết là nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp vào thành công chung của chi nhánh. Đây là nguồn tài sản vô cùng quý báu của ngân hàng, là nhân tố trực tiếp quyết định thành công của chi nhánh trong tương lai.
- Eximbank là NHTMCP đầu tiên được chọn tham gia vào dự án "Hệ thống thanh toán và hiện đại hóa ngân hàng Việt Nam", Eximbank có nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ hiện đại như quản lý rủi ro, quản lý khách hàng, quản lý nhân sự và công nghệ tin học... Điều này tạo điều kiện để ngân hàng đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Tuy nhiên, cũng giống như các NHTM CP khác, mặc dù đã có những bước tăng trưởng vững chắc nhưng Eximbank Hà Nội cũng gặp khó khăn về vốn. Qui mô vốn điều lệ còn khá nhỏ so với các NHTM quốc doanh đã hạn chế ngân hàng cũng như chi nhánh Hà Nội trong các hoạt động cho vay, bảo lãnh, đầu tư... Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần có các biện pháp nhằm gia tăng qui mô vốn nhằm tạo điều kiện để giữ vững và mở rộng thị phần của ngân hàng cũng như chi nhánh.
Mạng lưới các chi nhánh trực thuộc, phòng giao dịch của chi nhánh còn tương đối mỏng so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tại khu vực miền Bắc,Eximbank mới chỉ có 1 chi nhánh cấp 1 là Eximbank Hà Nội và 3 chi nhánh cấp 2 cùng tập trung trên địa bàn Hà Nội. Trong khi đó, nhu cầu giao dịch của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với ngân hàng là rất lớn, đặc biệt là các tỉnh thành như Hải Phòng, Quảng Ninh... Đây chính là một trong những trở ngại lớn của chi nhánh cũng như cả ngân hàng trong việc tiếp cận khách hàng. Do vậy, trong thời gian tới, ngân hàng cần có những biện pháp để mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ tốt hơn nữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời gia tăng nguồn thu cho ngân hàng, phát huy đúng vai trò, chức năng của một ngân hàng Xuất nhập khẩu.
2.2. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội
2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hà Nội
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của Eximbank cũng như chi nhánh Hà Nội đã có những bước tăng trưởng vững chắc cả về số lượng và chất lượng các khoản vay. Ngoài những sản phẩm cho vay truyền thống là thế mạnh của ngân hàng như tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay vốn lưu động chủ yếu phục vụ doanh nghiệp... chi nhánh đã nỗ lực thực hiện đa dạng hóa với các sản phẩm mới như cho vay tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ du học... Doanh số cho vay năm 2004 đạt 2.031.000 triệu đồng, tăng 55,57% so với năm 2003. Sang năm 2005, doanh số cho vay đạt 2.450.000 triệu đồng, tăng 20,63% so với năm 2004. Năm 2006, doanh số cho vay của chi nhánh giảm 310.000 triệu đồng so với năm 2005, đạt 2.140.000 triệu đồng. Sự sụt giảm này là do trong năm 2006, chi nhánh thực hiện thắt chặt hơn hoạt động tín dụng, giảm dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước và các đối tượng cho vay tín chấp cũng như một số doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề có rủi ro cao.
Bảng 2: Doanh số cho vay của chi nhánh Eximbank Hà Nội qua các năm
Năm
Doanh số cho vay
Dư nợ
Trị giá (tr.đ)
% tăng giảm
Trị giá (tr.đ)
% tăng giảm
2003
1.297.200
474.673
2004
2.031.000
+55,57%
663.503
+39,78%
2005
2.450.000
+20,63%
710.884
+7,14%
2006
2.140.000
-12,65%
763.538
+7,41%
(Nguồn: Phòng tín dụng - Chi nhánh Eximbank Hà Nội)
Mặc dù doanh số cho vay năm 2006 có sự giảm sút so với năm 2005 nhưng dư nợ cho vay của chi nhánh vẫn tăng đều đặn qua các năm. Tính đến thời điểm 31/12/2006 tổng dư nợ của chi nhánh đạt 763.538 triệu đồng, tăng 52.654 triệu đồng (7,41%) so với năm 2005. Trong năm qua, chi nhánh cũng có sự chuyển hướng cho vay khi giảm tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước trong tổng dư nợ giảm từ 14,5% năm 2005 xuống còn 5,9% năm 2006, đạt 44.670 triệu đồng. Thay vào đó, chi nhánh tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, các khách hàng có uy tín, có quan hệ tốt với Ngân hàng, có tài sản đảm bảo, vay trả đúng hạn.
Biểu đồ: Tình hình tăng trưởng dư nợ của chi nhánh Eximbank Hà Nội
Xét theo thời hạn vay, ta thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của chi nhánh trong năm qua tuy đã có tăng song vẫn còn ở mức thấp so với toàn ngân hàng. Tỷ lệ này của chi nhánh năm 2006 đạt 9,3% trong khi toàn ngân hàng là 24,5%. Cho vay ngắn hạn vẫn là hoạt động chủ chốt của chi nhánh, chiếm trên 90% tổng dư nợ cho vay.
Bảng 3: Tình hình dư nợ của chi nhánh phân theo thời hạn vay
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2005
Năm 2006
Giá trị
% tổng dư nợ
Giá trị
% tổng dư nợ
Cho vay ngắn hạn
660.577
92,9%
692.795
90,7%
Cho vay trung và dài hạn
50.307
7,1%
70.743
9,3%
Nguồn: phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội
Bên cạnh sự chuyển dịch kỳ hạn vay, dư nợ của chi nhánh cũng có sự chuyển dịch về loại tiền. Năm 2006, cho vay bằng VNĐ đạt 426.060 triệu đồng, chiếm 55,8% tổng dư nợ, tăng 103.603 triệu đồng so với năm 2005.
Bảng 4: Tình hình dư nợ của chi nhánh phân theo loại tiền
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2005
Năm 2006
Giá trị
% tổng dư nợ
Giá trị
% tổng dư nợ
VNĐ
322.457
45,4%
426.060
55,8%
Ngoại tệ
388.427
54,6%
337.478
44,2%
Nguồn: phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội
Sự gia tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn cùng với sự tăng tỷ trọng cho vay bằng VNĐ trong tổng dư nợ cho thấy trong năm qua, bên cạnh tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp (chủ yếu là các DN xuất nhập khẩu), chi nhánh đã mở rộng sang cho vay tài trợ tài sản cố định DN và cho vay tiêu dùng cá nhân.
Hoạt động tín dụng tại chi nhánh Hà Nội tuân thủ chặt chẽ chính sách tín dụng nội bộ của Eximbank (được xây dựng phù hợp với những qui định của NHNN và thực trạng ngân hàng) về tài sản đảm bảo tiền vay, về hạn mức quyết định tín dụng, về mức cho vay tối đa với một khách hàng, nhóm khách hàng, về mức cho vay tối đa không có tài sản đảm bảo...
- Giới hạn tín dụng tối đa đối với một khách hàng có đảm bảo bằng tài sản là 40 tỷ đồng, không có đảm bảo bằng tài sản là 10 tỷ đồng.
- Giới hạn tín dụng tối đa đối với một nhóm khách hàng có liên quan có đảm bảo bằng tài sản là 80 tỷ đồng, không có đảm bảo bằng tài sản là 20 tỷ đồng.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh không có đảm bảo bằng tài sản của cả chi nhánh tối đa là 60 tỷ đồng.
2.2.2. Đánh giá tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh
2.2.2.1. Những kết quả đạt được
Nhìn chung, công tác quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Cùng với sự tăng trưởng về qui mô tín dụng, chất lượng tín dụng cũng được tăng cường. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm, ngân hàng tăng cường xử lý, thu hồi các khoản nợ tồn đọng từ các năm trước để lại. Thành công của chi nhánh trong quản lý rủi ro tín dụng đã góp phần không nhỏ vào thành công chung của chi nhánh cũng như toàn ngân hàng trong suốt 4 năm chấn chỉnh củng cố vừa qua.
Có thể thấy kết quả quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh thông qua theo dõi chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ trong những năm qua.
Bảng 5: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh Eximbank Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tổng dư nợ
474.673
663.503
710.884
763.538
Nợ quá hạn (NQH)
24.683
21.232
12.938
11.061
NQH/tổng dư nợ (%)
5,2
3,2
1,8
1,5
Nguồn: Phòng tín dụng – Chi nhánh Eximbank Hà Nội
Biều đồ: Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ qua các năm
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy cùng với sự tăng liên tục của tổng dư nợ qua các năm thì nợ quá hạn cũng giảm tương ứng. Trong vòng 4 năm, nợ quá hạn của chi nhánh đã giảm được 13.622 triệu đồng (tức 55,2%) từ 24.683 triệu đồng năm 2003 xuống còn 11.061 triệu đồng năm 2006. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của chi nhánh trong 2 năm qua đã có sự sụt giảm đáng kể, đạt tiêu chuẩn cho phép dưới 2%. Năm 2003 tỷ lệ này là 5,2%, đến năm 2006 giảm được 3,7% còn 1,5%. Đặc biệt, trong năm 2006 chi nhánh còn thu được 1.785 triệu đồng nợ quá hạn đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Như vậy, thành công trong việc quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh trong thời gian không chỉ là hạn chế được sự phát sinh mới của các khoản nợ quá hạn mà còn thực hiện tốt công tác thu hồi các khoản nợ đọng từ các năm trước để lại.
Cho vay phục vụ xuất nhập khẩu có rủi ro khá cao do khả năng hoàn trả món vay của khách hàng chịu tác động rất lớn bởi các nhân tố xuất phát từ môi trường bên ngoài. Bởi vậy, trong thời gian qua chi nhánh đã đa dạng hóa các khoản cho vay bằng cách mở rộng cho vay tiêu dùng, cho vay đồng tài trợ... để hạn chế rủi ro.
Để có được những kết quả trên, nguyên nhân chủ yếu là do chi nhánh đã thực hiện được những biện pháp hữu hiệu để quản lý rủi ro tín dụng:
- Cán bộ ngân hàng đã thực hiện nghiêm túc và đầy đủ qui trình tín dụng, từ khâu xét duyệt cho vay đến theo dõi khách hàng sau khi cho vay. Bên cạnh đó, việc chuyển những khoản vay phức tạp, nhu cầu vốn lớn sang hội đồng thẩm định xem xét, đánh giá cũng giúp nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro.
- Ngân hàng đã chú trọng hơn trong việc xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt, thường xuyên và chặt chẽ với các doanh nghiệp vay vốn theo phương châm khách hàng là bạn,cùng nhau phát triển. ngân hàng còn thường xuyên cung cấp cho khách hàng những thông tin có liên quan, những kinh nghiệm trong việc tháo gỡ khó khăn, giải thích và tư vấn cho khách hàng những qui định và thông lệ quốc tế... Nhờ đó, nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp vay vốn đã được nhanh chóng cùng thảo luận và tháo gỡ, hạn chế rủi ro cho khách hàng và cả ngân hàng.
- Các phòng ban trong chi nhánh đã có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là giữa phòng tín dụng, thẩm định với phòng thanh toán quốc tế trong việc kiểm tra thông tin về khách hàng, tư vấn cho khách hàng, quản lý nợ vay và thu lãi.
2.2.2.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, công tác quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
- Trải qua một thời gian dài ngân hàng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt vì nợ quá hạn cao và kinh doanh không có lãi, mặc dù thời gian qua chi nhánh đã đạt được những thành công nhất định trong kiểm soát nợ quá hạn nhưng đây vẫn luôn là một vấn đề cần được quan tâm. Năm 2006, chi nhánh thực hiện thắt chặt cho vay, doanh số cho vay giảm 12,65% nên tỷ lệ nợ quá hạn đã được kiểm soát ở mức 1,5%. Trong thời gian tới, với việc mở rộng qui mô tín dụng, chi nhánh cần phải tiếp tục tăng cường kiểm soát rủi ro để không làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn.
- Mặc dù tỷ trọng cho vay trung dài hạn của chi nhánh có chiều hướng tăng lên nhưng còn chậm và tỷ trọng này còn khá thấp so với mức trung bình toàn hệ thống. Năm 2006, tỷ trọng cho vay trung dài hạn chiếm 9,3% tổng dư nợ, thấp hơn so với toàn hệ thống Eximbank 15,2%. Như vậy, hoạt động chính đem lại lợi nhuận cho chi nhánh vẫn là tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việc chậm đa dạng hóa các khoản cho vay theo thời hạn, ngành nghề... khiến cho nguy cơ rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là khá cao, đặc biệt là khi rủi ro xuất phát từ môi trường bên ngoài xảy ra như rủi ro chính sách, chu kì kinh tế...
- Một số khoản cho vay chưa được đánh giá đúng mức độ rủi ro. Mặc dù những khoản vay này chưa thực sự làm phát sinh nợ quá hạn và phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng nếu không kịp thời giải quyết sẽ làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của chi nhánh. Do chưa đánh giá được tầm quan trọng của việc xếp hạng và cho điểm khách hàng theo một số tiêu chí được theo dõi thường xuyên nên việc theo dõi khách hàng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào tính chủ động của cán bộ tín dụng.
Hạn chế trong quản lý rủi ro tín dụng ở chi nhánh bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
- Qui trình cấp tín dụng chưa có sự tách bạch giữa các khâu: Hiện nay tại chi nhánh, một cán bộ tín dụng vẫn thực hiện toàn bộ các khâu từ xét duyệt, quyết định cho vay đến kiểm tra, thu hồi vốn vay. Điều này dễ gây quá tải và gia tăng n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0200.doc