MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NH: Ngân hàng
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
BIDV: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
FED: Federal Reserve
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Biểu đồ 1.1 : Biểu đồ giao dịch cho các hợp đồng tương lai
Biểu dồ 1.2 : Biểu đồ về giao dịch NH mua quyền
Biểu đồ 1.3 : Biểu đồ giao dịch NH bán quyền
Sơ đồ 1.4 : Mô hình hợp đồng hoán đổi lãi suất
Bảng 2.1: Tình hình hoạt động kinh doanh của BIDV năm 2008
Bảng 2.2 : Diễn biến l
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãi suất cơ bản trong năm 2008
Biểu đồ 2.3 : Biểu đồ lãi suất của FED giai đoạn 2001 – 2008
Bảng 2.4 : Tình hình khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất lũy kế trên tổng tài sản đối với USD năm 2008
Bảng 2.5 : Tình hình khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất lũy kế trên tổng tài sản đối với VND năm 2008
Bảng 2.6 : Tình hình tuân thủ giới hạn khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất luỹ kế trên tổng tài sản đối với USD năm 2008
Bảng 2.7 : Tình hình tuân thủ giới hạn khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất luỹ kế trên tổng tài sản đối với VND năm 2008
Biểu đồ 2.8 : Biểu đồ thu nhập ròng từ lãi và tổn thất do rủi ro lãi suất gây ra đối với BIDV
Biểu đồ 2.9 : Biểu đồ giá trị VaR lãi suất trong 3 tháng cuối năm 2008
Bảng 2.10 : Diễn biến giá trị VaR lãi suất trong năm 2008
Sơ đồ 2.10 : Cơ chế giao dịch Hoán đổi tiền tệ chéo đề xuất cho Cty A
Bảng 2.11 : Kết quả giao dịch hoán đổi lãi suất năm 2008
Biểu đồ 2.12 : Biểu đồ cơ cấu kỳ hạn thực tế VND và USD
Sơ đồ 3.1 : Quy trình quản lý rủi ro lãi suất tại NHTM
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng với phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một nước. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, khoa học và công nghệ về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đã đạt đến trình độ tiên tiến, hiện đại.
Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế điều hành lãi suất đang trong tiến trình tự do hóa. Đây là điều kiện tiền đề để các ngân hàng nâng cao tính tự chủ trong định giá các sản phẩm - dịch vụ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế này cũng làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lãi suất cho các ngân hàng do sự biến động thường xuyên của lãi suất thị trường.
Xuất phát từ thực tế trên, cùng với những kiến thức đã được học tập, nghiên cứu ở trường và sau một thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã chọn đề tài “Tăng cường quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Nội dung của chuyên đề tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng công tác quản lý rủi ro lãi suất, đánh giá những thành công và tồn tại của công tác này, để từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất ý kiến nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Kết cấu chuyên đề bao gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương III: Ý kiến đề xuất nhằm tăng cường quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Với những gì thể hiện trong chuyên đề, em hy vọng có thể đóng góp một vài ý kiến có giá trị thực tiễn để tăng cường công tác quản lý rủi ro lãi suất nói chung và công tác quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian, kiến thức và sự nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, trao đổi và ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các cán bộ trong phòng Quan hệ khách hàng 1 và bất cứ ai quan tâm đến đề tài này để bài viết của em được hoàn thiện và sâu sắc hơn.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Giám đốc và các cán bộ của phòng Tổ chức nhân sự, phòng Quan hệ khách hàng 1 - Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo mọi điều kiện hướng dẫn, chỉ bảo và tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế quốc dân, đặc biệt là các thầy cô giáo của khoa Ngân hàng – Tài chính đã dìu dắt, dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập tại trường.
ThS. Hoàng Lan Hương, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình viết đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2009
Sinh viên: Nguyễn Ngọc Bình
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại
Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM là một trong những loại hình tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra một cách chính xác khái niệm của nó. Cách tiếp cận sau đây có thể coi là ưu việt nhất:
NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là tổ chức trung gian tài chính lớn nhất, đóng vai trò làm cầu nối giữa những người cần vốn và những người cung cấp vốn trên thị trường. Nó có hai hoạt động cơ bản đó là: huy động vốn và sử dụng vốn.
Huy động vốn: NHTM huy động vốn bằng cách: Nhận tiền gửi của khách hàng, vay các tổ chức tín dụng khác, phát hành giấy nợ, vay NHNN.
Sử dụng vốn: NH sử dụng vốn vào các hoạt động sau: Chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê, đầu tư vào tài sản tài chính và các hoạt động khác.
Hoạt động kinh doanh của NHTM có quy mô rất lớn và vô cùng phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế nên nó chịu sự quản lý đặc biệt của pháp luật.
1.2. Rủi ro lãi suất của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro lãi suất
Lãi suất là giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng tài sản khác nhau. Cũng như nhiều giá cả hàng hoá khác, lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho NH hoặc ngược lại gây tổn thất cho NH.
Do đó, rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi của lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn của các hợp đồng kỳ hạn,…
1.2.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất
1.2.2.1. Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản
1.2.2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của NH
NH sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
Có thể hiểu rõ tác động của từng nguyên nhân qua ví dụ sau:
Ví dụ: Giả sử NH A đang có nhu cầu cho vay 100 triệu có thời hạn 1 năm với lãi suất cố định là 10%/ năm, 100 triệu có thời hạn 2 năm, với lãi suất cố định là 11%/năm. NH A tìm kiếm nguồn bằng cách vay trên thị trường liên NH 200 triệu với lãi suất cố định là 6%/năm, nếu vay 1 năm và 7%/năm, nếu vay 2 năm.
Tình trạng tái tài trợ (Kỳ hạn của tài sản dài hơn kỳ hạn của nguồn tiền)
Giả sử NH vay trên thị trường liên NH kỳ hạn 1 năm.
Sau 1 năm, 100 triệu cho vay được trả và 200 triệu tiền đi vay phải trả. Khoản gốc thu được chỉ đủ trang trải 50% nhu cầu chi trả (ảnh hưởng của lãi coi như bằng 0). Đối với khoản cho vay 1 năm, NH thu được chênh lệch lãi suất là: 10% - 6% = 4%.
Để có tiền trả 100 triệu còn lại, NH cần vay thêm 100 triệu trên thị trường liên NH. Như vậy, NH phải tài trợ khoản cho vay 2 năm bằng một khoản vay vào năm thứ hai. Cách tài trợ như trên được gọi là tái tài trợ.
Chênh lệch lãi suất mà NH thu được phụ thuộc vào lãi suất mà NH phải trả khi tái tài trợ. Nếu lãi suất trên thị trường liên NH không đổi, chênh lệch lãi suất mà NH thu được của khoản cho vay 2 năm là:
Chênh lệch lãi suất = 11% - 6% = 5%.
NH sẽ thu được 5%/năm, trong cả 2 năm. Khi lãi suất thị trường liên NH giảm, chênh lệch lãi suất thu được năm thứ hai sẽ lớn hơn 5% và khi lãi suất lăng, chênh lệch lãi suất thu được sẽ giảm, thậm chí có thể NH còn bị lỗ.
Năm 1: Chênh lệch lãi suất thu được từ 200 triệu cho vay là:
Năm 2: Giả sử lãi suất trên thị trường giảm 1%. Do khoản cho vay với lãi suất cố định nên NH vẫn chỉ thu được lãi suất như năm 1. Kỳ hạn đi vay trên thị trường liên NH chỉ là 1 năm, do vây, vào năm thứ hai, lãi suất được đặt lại, chỉ còn 5%. Chênh lệch lãi suất thu được năm thứ hai:
Chênh lệch lãi suất = 11% - 5% = 6%
Bình quân mỗi năm NH thu được chênh lệch:
Giả sử lãi suất trên thị trường liên NH tăng thêm 4%, chênh lệch lãi suất năm thứ hai là: 11% - 10% = 1%
Bình quân mỗi năm NH thu được chênh lệch là:
Tại sao NH lại dùng nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn hơn? Một lý do là NH kỳ vọng sẽ thu được chênh lệch lãi suất cao hơn. Nếu NH cho vay với kỳ hạn như huy động, chênh lệch lãi suất thu được là: 10% - 6% = 4%.
Khi thay đổi kỳ hạn NH thấy rằng chênh lệch lãi suất năm 1 chắc chắn sẽ cao hơn, đạt 4,5%. Tuy nhiên chênh lệch lãi suất năm 2 lại chưa chắc chắn, tuỳ thuộc vào mức độ và xu hướng thay đổi của lãi suất thị trường.
NH sẽ thay đổi kỳ hạn nếu nhà quản lý dự đoán rằng lãi suất trên thị trường liên NH sẽ giảm, hoặc tăng song mức tăng sẽ không vượt quá tỷ lệ làm cho chênh lệch lãi suất bình quân 2 năm nhỏ hơn 4%.
Chênh lệch lãi suất năm 2 an toàn cho NH:
Lãi suất thị trường liên NH an toàn:
Nếu lãi suất trên thị trường liên NH năm thứ 2 tăng tới 7,5% thì chênh lệch lãi suất năm 2 chỉ còn 3,5%, giảm 1% so với năm 1. Kết cục chung, chênh lệch lãi suất bình quân 2 năm đạt 4%. Nếu lãi suất tăng quá dự tính (quá 7,5%) sẽ gây ra tổn thất cho NH.
Tình trạng tái đầu tư (Kỳ hạn của tài sản nhỏ hơn kỳ hạn của nguồn tài trợ)
Các giả thiết tương tự như trên song nguồn vay 2 năm với lãi suất cố định 7%/năm. Sau 1 năm, 100 triệu được hoàn trả, thu được chênh lệch lãi suất là 3%. NH có thể cho vay một khoản mới: tái đầu tư khoản cho vay vừa hoàn trả. Nếu lãi suất cho vay không đổi, chênh lệch lãi suất thu được là 3%. Khi lãi suất cho vay tăng hoặc giảm, chênh lệch lãi suất sẽ tăng hoặc giảm theo.
Kết luận
Ở cả hai trường hợp trên đều có sự không phù hợp về kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn trong điều kiện các hợp đồng huy động và tài trợ với lãi suất cố định. Tình trạng này được kết hợp với thay đổi lãi suất ngoài dự kiến trên thị trường làm nảy sinh tổn thất cho NH.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro lãi suất
Khe hở lãi suất
Khe hở lãi suất đo sự không phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn và tài sản. Việc xác định trạng thái khe hở nhạy cảm lãi suất một cách thường xuyên sẽ giúp các NH nhận biết rủi ro lãi suất tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất - Nguồn nhạy cảm lãi suất.
Các tài sản và nguồn nhạy cảm lãi suất thường là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi, như các khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản cho vay và đi vay trên thị trường liên NH, chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định thuộc loại ít nhạy cảm với lãi suất. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của nguồn và tài sản nhạy cảm:
Nhu cầu về kỳ hạn của người sử dụng;
Khả năng về kỳ hạn của người gửi và người cho vay;
Chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Sự khác biệt của nguồn và tài sản là tất yếu. Vì vậy NH khó và không cần thiết duy trì sự phù hợp tuyệt đối về kỳ hạn giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kỳ. Trước hết, kỳ hạn trên thường là do khách hàng đi vay và gửi tiền quyết định. Thứ hai, sự thay đổi của các loại lãi suất rất khác nhau và mức độ nhạy cảm của nguồn và tài sản đối với lãi suất cũng khác nhau. Thứ ba, sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo thu nhập cao hơn cho NH. Khi duy trì khe hở nhạy cảm khác 0, nếu lãi suất thay đổi theo hướng phù hợp thì thu nhập của NH sẽ tăng. Giả sử lãi suất thay đổi với mức độ nào đó không có lợi cho NH, mức độ giảm thu nhập từ lãi của NH sẽ tỷ lệ thuận với quy mô khe hở lãi suất.
Trong trường hợp NH đang duy trì khe hở lãi suất dương (Tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm):
Nếu lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng;
Nếu lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm.
Trong trường hợp NH đang duy trì khe hở lãi suất âm (Tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm):
Nếu lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm;
Nếu lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng.
Ví dụ: NH A đang có trạng thái nhạy cảm với lãi suất như sau:
Tài sản
Số dư
Lãi suất
Nguồn vốn
Số dư
Lãi suất
Tài sản nhạy cảm
80
5%
Nguồn nhạy cảm
120
4%
Tài sản kém nhạy cảm
120
7%
Nguồn kém nhạy cảm
80
6%
Chênh lệch lãi suất của NH trong kỳ:
Nếu lãi suất thị trường tăng thêm 1%, chênh lệch lãi suất của NH trong kỳ:
(giảm 0,2%)
(Số tuyệt đối là 2,4)
Khe hở nhạy cảm = 80 – 120 = - 40
Vậy từ khe hở nhạy cảm ta có thể dự đoán tổn thất khi lãi suất thay đổi:
Thu nhập từ lãi giảm = Khe hở nhạy cảm × Mức gia tăng = - 40 × 1% = - 0,4
Tổng tài sản sinh lời
Khe hở nhạy cảm × Mức gia tăng lãi suất
Chênh lệch lãi suất giảm =
=
Thu nhập ròng từ lãi và tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Thu nhập ròng từ lãi = Tổng thu từ lãi - Tổng chi phí trả lãi
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên = Thu nhập ròng từ lãi / Tổng tài sản sinh lời
Việc so sánh hai chỉ tiêu này qua từng thời kỳ sẽ giúp các nhà quản lý NH biết được rủi ro lãi suất đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hay chưa và tác động của nó đến thu nhập của NH như thế nào.
Thu nhập ròng từ lãi và tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của NH chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố như:
Những thay đổi trong lãi suất.
Những thay đổi trong mức chênh lệch giữa lãi thu về từ tài sản và chi phí trả lãi cho vốn huy động (thường được phản ánh trong sự thay đổi hình dạng của đường cong thu nhập giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn, vì phần lớn nguồn vốn của NH có kỳ hạn ngắn trong khi tài sản của NH thường có kỳ hạn dài hơn).
Những thay đổi về giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất mà NH nắm giữ khi mở rộng hoặc thu hẹp quy mô hoạt động của mình.
Những thay đổi về giá trị nguồn vốn phải trả lãi mà NH sử dụng để tài trợ cho danh mục tài sản sinh lời khi mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động.
Những thay đổi về cấu trúc của tài sản và nợ mà NH thực hiện khi tiến hành chuyển đổi tài sản, nợ giữa lãi suất cố định và lãi suất thả nổi, giữa kỳ hạn ngắn và kỳ hạn dài, giữa tài sản mang mức thu nhập thấp hơn với tài sản mang lại mức thu nhập cao (ví dụ như NH tiến hành chuyển tiền mặt thành các khoản cho vay, hay chuyển các khoản cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản có mức lãi suất cao thành các khoản cho vay thương mại với lãi suất thấp,…).
Các mô hình lượng hóa rủi ro lãi suất
Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình lượng hóa rủi ro lãi suất đang được các NH hiện đại áp dụng, đó là:
Mô hình định giá lại (The repricing model)
Mô hình thời lượng (The duration model)
Mô hình định giá lại
Nội dung của mô hình định giá lại là việc phân tích các luồng tiền dựa trên nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ tài sản có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định. Theo đó, để lượng hóa rủi ro lãi suất, các NH tính số chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng kỳ hạn và đặt chúng trong mối quan hệ với độ nhạy cảm lãi suất của thị trường. Độ nhạy cảm lãi suất trong trường hợp này chính là khoảng thời gian mà tài sản có và tài sản nợ được định giá lại (theo mức lãi suất mới của thị trường).
Mô hình lượng hóa rủi ro lãi suất bằng cách tính mức độ giảm thu ròng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến:
∆NIIi = GAPi × ∆Ri = (RSAi – RSLi) × ∆Ri
Trong đó:
∆NIIi : Sự thay đổi thu nhập ròng từ lãi suất của nhóm i.
GAPi : Chênh lệch giá trị ghi sổ giữa tài sản có và tài sản nợ của nhóm i.
∆Ri : Mức thay đổi lãi suất của nhóm i.
RSAi : Số dư ghi sổ của tài sản có thuộc nhóm i.
RSLi : Số dư ghi sổ của tài sản nợ thuộc nhóm i.
Ưu điểm của mô hình định giá lại là tương đối đơn giản và trực quan, giúp cung cấp thông tin về cơ cấu tài sản có và tài sản nợ sẽ được định giá lại và dễ dàng xác định được sự thay đổi của thu nhập ròng về lãi suất mỗi khi lãi suất thay đổi. Tuy nhiên do chỉ đề cập đến giá trị ghi sổ mà không đề cập đến giá trị thị trường của tài sản nên mô hình này chỉ phản ánh được một phần rủi ro lãi suất đối với NH mà thôi.
Mô hình thời lượng
Mô hình thời lượng lượng hóa rủi ro lãi suất dựa trên yếu tố thời lượng của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ và tài sản có.
Thời lượng của một tài sản là thước đo thời gian tồn tại luồng tiền của tài sản này, được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó
Trong đó:
D : Thời lượng của tài sản.
CFt : Luồng tiền nhận được tại thời điểm t.
y : Mức lãi suất thị trường hiện hành.
t : Thời điểm xảy ra luồng tiền (t = 1, 2, 3,…,n).
Mô hình thời lượng lượng hóa rủi ro lãi suất bằng cách xác định mức thay đổi vốn tự có của NH khi lãi suất thị trường thay đổi:
Trong đó:
∆E : Mức thay đổi vốn tự có của NH.
∆A : Mức thay đổi tài sản có của NH.
∆L : Mức thay đổi tài sản nợ của NH.
DA : Thời lượng của toàn bộ tài sản có, DA = wAi * DAi.
DL : Thời lượng của toàn bộ tài sản nợ, DL = wLi * DLi.
∆r : Mức thay đổi lãi suất.
Như vậy, sự thay đổi lãi suất ngoài dự kiến tác động đến mức vốn tự có của NH phụ thuộc vào ba yếu tố sau:
Chênh lệch thời lượng giữa tài sản có và tài sản nợ đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ đòn bẩy k = L/A: Chênh lệch này càng lớn thì rủi ro lãi suất đối với NH càng cao.
Quy mô của NH, tức là tổng tài sản có A: Quy mô tài sản của NH càng lớn thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất đối với NH này càng cao.
Mức thay đổi lãi suất ∆r: Mức thay đổi lãi suất càng cao thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất đối với NH càng cao.
Trong ba yếu tố trên thì ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thường mang tính chất ngoại sinh đối với NH bởi vì sự thay đổi lãi suất thường là từ sự thay đổi chính sách tiền tệ của NHNN. Còn đối với mức độ chênh lệch thời lượng và quy mô tài sản thì được đặt dưới sự kiểm soát của NH.
Có thể nói, so với mô hình định giá lại thì mô hình thời lượng tỏ ra hoàn hảo hơn nhiều trong việc đo mức độ nhạy cảm của tài sản có và tài sản nợ đối với lãi suất. Mô hình này không chỉ được ứng dụng để phòng ngừa rủi ro lãi suất cho một công cụ tài chính đơn lẻ mà còn được dùng để đánh giá rủi ro lãi suất một cách tổng thể. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô hình này vào thực tế còn rất hạn chế.
1.3. Hoạt động quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng thương mại
1.3.1. Mục tiêu của quản lý rủi ro lãi suất
Các NH tiến hành hoạt động quản lý rủi ro lãi suất thường nhằm đạt được ba mục tiêu cơ bản sau:
1. Bảo vệ giá trị chứng khoán và các khoản tín dụng mang lãi suất cố định nhằm tránh tổn thất do lãi suất thị trường tăng;
2. Hạn chế chi phí vay vốn của NH;
3. Ổn định thu nhập dự kiến.
Hay nói một cách tổng quát hơn, mục tiêu của hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là hạn chế tới mức tối đa mọi ảnh hưởng xấu của sự biến động lãi suất đến thu nhập của NH. Dù lãi suất thay đổi như thế nào, các NH luôn mong muốn đạt được thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định.
1.3.2. Các biện pháp quản lý rủi ro lãi suất
Lãi suất là một yếu tố quan trọng bậc nhất đối với hoạt động NH nhưng các NH không thể kiểm soát mức độ và xu hướng biến động của lãi suất. Nó được xác định trên cơ sở thị trường thông qua tác động qua lại giữa lực lượng cung và cầu tín dụng.
NH đóng vai trò là những nhà cung cấp tín dụng, tuy nhiên mỗi NH chỉ là một nhà cung cấp trên thị trường vốn quốc tế cùng với hàng nghìn nhà cung cấp khác nhau. Tương tự như vậy, khi huy động tiền gửi hoặc phát hành giấy nợ để tài trợ vốn cho đầu tư, NH tạo ra cầu về tín dụng trên thị trường. Tuy nhiên, một NH dù quy mô lớn đến đâu cũng chỉ là một tổ chức có nhu cầu về tín dụng trên thị trường có hàng nghìn người đi vay. Vì vậy dù đứng bên phía cung hay phía cầu của thị trường, NH cũng không thể tự xác định mức lãi suất hoặc dự đoán chắc chắn về xu hướng vận động của lãi suất. Thay vào đó, NH chỉ có thể phản ứng và điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động lãi suất, tìm ra những biện pháp quản lý rủi ro lãi suất nhằm đạt được mục tiêu mong muốn một cách hiệu quả nhất.
1.3.2.1. Duy trì sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản
Để tránh rủi ro lãi suất có thể loại trừ yếu tố chủ yếu gây ra rủi ro lãi suất đó là duy trì khe hở lãi suất càng thấp càng tốt (khe hở lãi suất gần bằng 0). Nội dung chủ yếu của biện pháp này là tìm kiếm các nguồn có kỳ hạn phù hợp với kỳ hạn của tài sản. Đối với nhiều NH nhỏ, các khoản cho vay thường là ngắn hạn. Tìm kiếm các nguồn ngắn hạn bao giờ cũng thuận tiện hơn nguồn trung và dài hạn. Do đó, đối với loại NH này, sắp xếp các nguồn phù hợp với tài sản để hạn chế rủi ro là tương đối đơn giản. Tuy nhiên, phương pháp này nhiều khi rất khó thực hiện tại các NH lớn, do nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn thường lớn hơn nhiều các nguồn tương ứng. Hơn nữa, phương pháp này còn loại trừ luôn cả việc gia tăng các khoản thu khi lãi suất thay đổi phù hợp với dự đoán của nhà quản lý.
1.3.2.2. Sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi lãi suất
1.3.2.2.1. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai thực chất là một thoả thuận mua hay bán một số lượng chứng khoán (hay những công cụ tài chính) cụ thể tại một thời điểm ấn định trong tương lai theo mức giá được xác định trước. Mục đích của việc mua bán hợp đồng tương lai là để dịch chuyển rủi ro lãi suất từ nhà đầu tư không ưa thích rủi ro, chẳng hạn các NHTM sang nhà đầu cơ - những người sẵn sàng chấp nhận và hy vọng kiếm được lợi nhuận từ chính những rủi ro này. Các NH ngày nay sử dụng nhiều hợp đồng tương lai trong nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Ngoài ra hợp đồng tương lai cũng có thể được sử dụng để bảo toàn lợi nhuận và chi phí của các khoản tín dụng, tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ.
Trong phần lớn các trường hợp, chiến lược phòng chống rủi ro hợp lý bằng cách sử dụng hợp đồng tài chính tương lai được thể hiện như sau:
Không để cho chi phí vay vốn tăng Sử dụng nghiệp vụ phòng chống thế đoản:
và giá trị tài sản giảm do lãi suất tăng bán hợp đồng tương lai và sau đó mua lại
theo giá thị trường 1 hợp đồng tương tự
Hạn chế sự sụt giảm thu nhập dự tính Sử dụng nghiệp vụ phòng chống thế trường:
từ các khoản tín dụng và từ hoạt động Mua hợp đồng tương lai và sau đó bán theo
kinh doanh chứng khoán do LS giảm giá thị trường một hợp đồng tương tự
Biểu đồ 1.1 : Biểu đồ giao dịch cho các hợp đồng tương lai
Nghiệp vụ phòng chống thế trường
Lợi nhuận
0
0
Vùng lợi
nhuận nếu giá
trị thi trường
của các hợp đồng
tương lai tăng
Fo Ft
Nghiệp vụ phòng chống thế đoản
Lợi nhuận
Vùng lợi
nhuận nếu giá
trị thị trường
của các hợp đồng
tương lai giảm
Fn
(Mua)
Fo
(Bán)
l
Tổn thất
Tổn thất
Khi một NH có khe hở nhạy cảm lãi suất dương, nó có thể tiến hành ngăn chặn tổn thất nếu lãi suất giảm bằng cách “lấp đầy khe hở” thông qua nghiệp vụ phòng chống thế trường với giá trị hợp đồng bằng chính khe hở. Ngược lại, một NH có khe hở nhạy cảm lãi suất âm có thể tránh được tổn thất bằng cách lấp đầy khe hở thông qua nghiệp vụ phòng chống thế đoản.
1.3.2.2.2. Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người nắm giữ chứng khoán: (1) bán chứng khoán cho một nhà đầu tư khác tại một mức giá định trước vào ngày đáo hạn của hợp đồng (hợp đồng quyền bán), (2) hoặc mua chứng khoán từ một nhà đầu tư khác tại mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn hợp đồng (hợp đồng quyền mua). Phí mà người mua phải trả cho đặc quyền có thể bán hay mua chứng khoán được gọi là quyền phí.
Khác với hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao chứng khoán. Hợp đồng chỉ quy định về quyền giao hay nhận mà không bắt buộc việc thực hiện quyền. Người mua quyền có thể (1) thực hiện quyền, (2) bán quyền cho một người mua khác hay (3) đơn giản là không thực hiện quyền.
Hợp đồng quyền chọn trong lĩnh vực hoạt động NH có hai chức năng cơ bản sau:
Chống lại sự sụt giảm giá trị của danh mục đầu tư trái phiếu khi lãi suất tăng thông qua hợp đồng quyền bán. Tuy nhiên, người mua quyền bán không nhất thiết phải thực hiện quyền của mình. Do vậy, NH vẫn sẽ có lợi nếu lãi suất giảm vì lúc đó giá trị thị trường của trái phiếu tăng lên.
Chống lại tổn thất lợi nhuận gây ra bởi khe hở nhạy cảm lãi suất. Ví dụ, NH có thể sử dụng hợp đồng quyền bán để bù đắp tổn thất bởi khe hở âm khi lãi suất tăng và sử dụng hợp đồng quyền mua để bù đắp tổn thất từ khe hở dương khi lãi suất giảm.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp NH có thể tạo được lợi nhuận hay ít nhất là có thể bảo vệ vị thế hiện thời nhờ vào việc sử dụng hợp đồng quyền chọn. Chẳng hạn, nếu NH dự tính lãi suất tăng làm tổn thất lợi nhuận, NH có thể sẽ mua hợp đồng quyền mua chứng khoán ở mức giá S. Lãi suất giảm, giá của chứng khoán sẽ tăng hướng về Ft, tạo cơ hội cho NH thu lợi nhuận bằng Ft-S (trừ đi quyền phí và các khoản thuế). Ngược lại, nếu NH dự tính lãi suất tăng, các nhà quản lý có thể sẽ mua quyền bán chứng khoán. Lãi suất tăng làm giảm giá trị thị trường của các chứng khoán xuống dưới mức Fn, ở dưới mức giá thoả thuận S. NH sẽ mua các chứng khoán với giá Fn và bán cho người phát hành quyền với giá S, thu được lợi nhuận S-Fn (trừ đi quyền phí và các khoản thuế).
Biểu đồ 1.2 : Biểu đồ về giao dịch NH mua quyền
NH mua quyền mua (quyền mua NH mua quyền bán (quyền bán chứng
chứng khoán ở mức giá S vì dự khoán ở mức giá S vì dự tính lãi suất
tính lãi suất giảm) giảm)
Lợi nhuận Lợi nhuận
Vùng lợi nhuận nếu
giá chứng khoán giảm
Vùng lợi nhuận nếu giá chứng khoán tăng
0
0
S S
- Quyền phí
- Quyền phí
Ft Giá
Lỗ Lỗ
NH cũng có thể đóng vai trò là người bán quyền để thu lợi nhuận. Chẳng hạn, giả sử một NH bán quyền mua cho một NH khác ở mức giá thoả thuận S. Nếu lãi suất tăng, giá thị trường của các công cụ tài chính trong hợp đồng quyền sẽ giảm xuống mức Fn và hợp đồng không còn giá trị đối với người mua. Các đối tác sẽ không thực hiện hợp đồng, đồng thời NH nhận được quyền phí để bù đắp những tổn thất khác do lãi suất thị trường tăng. Ngược lại, một NH lo ngại về những tổn thất khi lãi suất giảm có thể tìm một đối tác muốn mua quyền bán ở mức giá S. Nếu lãi suất trên thị trường giảm, giá trị thị trường của chứng khoán trong hợp đồng tăng lên, do vậy quyền bán không còn giá trị đối với người mua. Kết quả là NH thu được quyền phí giúp bù đắp những tổn thất khác do lãi suất giảm.
Biểu đồ 1.3 : Biểu đồ giao dịch NH bán quyền
NH bán quyền mua (cho phép người NH bán quyền bán (cho phép người
mua quyền mua chứng khoán của mua quyền bán chứng khoán cho
NH ở mức giá S vì NH dự tính lãi NH ở mức giá S vì dự tính lãi suất
suất tăng) giảm)
Lợi nhuận Lợi nhuận
Vùng lợi nhuận nếu giá chứng khoán tăng
Quyền phí
Vùng lợi nhuận nếu giá chứng khoán giảm
0 Fn S Giá 0 S Giá
Lỗ Lỗ
Mặc dù có thể mua và bán quyền nhưng thông thường NH đóng vai trò người mua vì việc bán quyền luôn gắn với rủi ro rất lớn. Người bán quyền chỉ nhận được quyền phí nhưng sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất biến động ngoài dự kiến.
1.3.2.2.3. Hợp đồng hoán đổi lãi suất
Hoán đổi lãi suất là một cách thức nhằm thay đổi trạng thái rủi ro lãi suất của một NH. Hoạt động này giúp làm giảm chi phí vay vốn. Các bên tham gia hợp đồng có thể chuyển lãi suất cố định thành lãi suất thả nổi hay lãi suất thả nổi thành lãi suất cố định và làm cho kỳ hạn của các tài sản và nợ phù hợp hơn.
Sơ đồ 1.4 : Mô hình hợp đồng hoán đổi lãi suất
NH có phân hạng NH có phân hạng
tín dụng thấp tín dụng cao
Trả lãi suất cố định dài hạn
Muốn có chi phí vay vốn thấp, muốn có các khoản tín dụng lãi suất cố định kỳ hạn dài hơn do đang nắm giữ nhiều tài sản dài hạn hay không muốn có những biến động ngắn hạn nhưng gặp khó khăn vì khó tiếp cận được nguồn vốn dài hạn có chi phí thấp
Thường có khe hở kỳ hạn dương
Muốn có chi phí vay vốn thấp, có thể vay dài hạn với lãi suất thấp nhưng lại muốn các khoản tín dụng ngắn hạn có lãi suất linh hoạt thay vì tín dụng dài hạn lãi suất cố định do đang nắm giữ nhiều tài sản ngắn hạn hay không muốn có những biến động trong dài hạn.
Thường có khe hở kỳ hạn âm
Chênh lệch được thanh toán qua một trung gian
Trả lãi cho các khoản tín dụng ngắn hạn gắn với lãi suất NH cơ bản hay lãi suất LIBOR
NHTM, NH đầu tư hay các định chế tài chính khác với tư cách là tổ chức môi giới tiến hành dàn xếp, bảo đảm cho hợp đồng và hưởng phí
Ở đây không bên nào cho bên kia vay tiền. Giá trị gốc của khoản tín dụng không được trao đổi. Mỗi bên trong hợp đồng vẫn phải hoàn trả toàn bộ các khoản nợ của mình. Trên thực tế, các bên chỉ tiến hành chuyển phần chênh lệch thanh toán lãi, phụ thuộc vào chênh lệch giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Hợp đồng trao đổi sẽ không được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của các bên mặc dù nó có thể làm giảm rủi ro lãi suất liên quan đến các khoản mục tài sản và nợ trên bảng cân đôi kế toán.
Ví dụ:
Các bên tham gia
hợp đồng trao đổi
Vay dài hạn với
lãi suất cố định
Vay ngắn hạn với
lãi suất thả nổi
Khoản tiết kiệm
lãi tiềm năng
NH A có phân hạng tín dụng thấp
11,5%
Lãi suất cơ sở + 1,75%
0,5%
NH B có phân hạng tín dụng cao
9%
Lãi suất cơ sở
0,25%
Chênh lệch lãi suất
2,5%
1,75%
0,75%
Hai bên có thể ký hợp đồng trao đổi lãi suất như sau:
NH A đồng ý thanh toán chi phí lãi theo mức lãi suất 9% cho NH B, do đó tiết kiệm được chi phí lãi vay dài hạn là 2,5%. Chi phí lãi thuần mà NH A tiết kiệm được:
2,5% - (1,75% + 0,25%) = 0,5%
NH B đồng ý thanh toán chi phí lãi theo mức lãi suất bằng lãi suất cơ sở trừ đi 0,25% cho NH A, do đó tiết kiệm được chi phí lãi vay ngắn hạn là 0,25%.
Như vậy, cả hai bên đều có lợi vì các dòng tiền vào và ra đã phù hợp hơn với danh mục tài sản và nợ.
Hoán đổi lãi suất là kỹ thuật tương đối phức tạp, đòi hỏi NH phải nghiên cứu kỹ lưỡng xu hướng và mức độ thay đổi có thể của lãi suất. Trong nhiều trường hợp, hai NH trao đổi phải nhờ NH trung gian sắp xếp. Chi phí hoán đổi cao hay thấp phụ thuộc vào dự tính của mỗi bên và làm tăng chi phí của NH. Nếu dự đoán của NH sai, trao đổi lãi suất có thể gây ra tổn thất cho NH.
1.3.2.3. Sử dụng lãi suất trần, sàn và khoảng trần - sàn lãi suất
Đây là biện pháp phòng chống rủi ro lãi suất quen thuộc nhất, được các NH và khách hàng sử dụng rộng rãi.
1.3.2.3.1. Trần lãi suất
Lãi suất trần được sử dụng để chống lại những tổn thất do lãi suất thị trường tăng. Người._. vay được đảm bảo rằng tổ chức đi vay không tăng lãi suất của khoản tín dụng vượt quá lãi suất trần hoặc người vay có thể mua hợp đồng trần lãi suất từ bên thứ ba - bên cam kết thanh toán cho bất kì khoản lãi nào vượt qua mức trần.
Ví dụ: NH A mua hợp đồng trần lãi suất là 10%/năm cho khoản tín dụng là 100 triệu USD mà nó vay được trên thị trường đô la Châu Âu. Hợp đồng trần lãi suất này đảm bảo cho NH chi phí vay không vượt quá 10%/năm. Nếu NH bán hợp đồng trần lãi suất cho khách hàng vay vốn, nó sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất thay cho khách hàng nhưng đổi lại NH sẽ thu được một khoản phí (trần phí), trong việc chấp nhận rủi ro. Giả sử lãi suất thị trường tăng lên 11%/năm. Lúc đó tổ chức tài chính bán hợp đồng sẽ phải thanh toán cho NH A 1%/ năm chi phí lãi tăng lên. NH A nhận được số tiền là:
[Lãi suất thị trường - Trần lãi suất]× Số tiền vay = [ 11% - 10% ] × 100
= 1 triệu
Như vậy chi phí vay vốn thực tế của NH có thể dao động nhưng không vượt quá 10%/ năm. NH mua hợp đồng trần lãi suất để phòng ngừa những tổn thất có thể xảy ra, ví dụ như khi tài trợ tài sản lãi suất cố định bằng các khoản nợ lãi suất thả nổi, khi có trạng thái khe hở kỳ hạn dương hay nắm giữ một danh mục chứng khoán lớn mà giá trị sẽ giảm nếu lãi suất tăng.
1.3.2.3.2. Sàn lãi suất
NH có thể phải chịu tổn thất về thu nhập trong thời kỳ lãi suất giảm, đặc biệt khi lãi suất của các khoản tín dụng sụt giảm. NH có thể thiết lập một sàn lãi suất cho các khoản tín dụng và vì thế sẽ không có vấn đề gì lớn xảy ra cho dù lãi suất xuống dưới mức tối thiểu.
Ví dụ: NH A cấp một khoản tín dụng trị giá 100 triệu USD, lãi suất thả nổi, thời hạn 1 năm cho một công ty với điều khoản về sàn lãi suất là 8%. Nếu lãi suất thị trường của khoản cho vay giảm xuống 7%, công ty không chỉ phải trả 7% lãi suất (hay 100 triệu USD × 0,07 = 7 tr.USD chi phí trả lãi) mà còn phải trả thêm một khoản chênh lệch lãi được xác định như sau:
[Lãi suất sàn – Lãi suất hiện thời của khoản tín dụng]×Số tiền vay =
= [8% - 7%]×100 triệu = 1 tr.USD
Như vậy, NH được bảo đảm một tỷ lệ lãi suất tối thiểu trên khoản tín dụng là 8%. NH sử dụng sàn lãi suất chủ yếu khi các khoản nợ có kỳ hạn dài hơn tài sản hay khi các khoản nợ lãi suất cố định được đầu tư vào tài sản lãi suất thả nổi.
Hoặc NH có thể bán hợp đồng sàn lãi suất cho các khách hàng - những người nắm giữ các chứng khoán nhưng lo sợ thu nhập từ các chứng khoán giảm xuống quá thấp.
Ví dụ: Một khách hàng của NH nắm giữ 1CD kỳ hạn 60 ngày với lãi suất 7,75% nhưng có dự định bán CD trong một vài ngày tới. Giả sử khách hàng không muốn lãi suất giảm xuống dưới mức 7,25%, trong trường hợp này NH có thể bán cho khách hàng một hợp đồng sàn lãi suất 7,25%. Theo hợp đồng này, NH cam kết sẽ thanh toán cho khách hàng phần chênh lệch giữa sàn lãi suất và lãi suất CD thực tế nếu lãi suất giảm xuống dưới mức sàn vào ngày mãn hạn của CD.
1.3.2.3.3. Khoảng trần – sàn lãi suất
NH và các khách hàng vay vốn thường sử dụng hợp đồng sử dụng hợp đồng có sự phối hợp khoảng lãi suất. Nhiều NH bán hợp đồng khoảng lãi suất cho những khách hàng vay vốn như một dịch vụ cơ bản để thu phí.
Ví dụ: Một khách hàng vừa nhận được khoản tín dụng 10 triệu USD có thể ký một hợp đồng khoảng lãi suất quy định mức lãi suất nằm trong khoảng [8%, 12%]. Trong trường hợp này nếu lãi suất thị trường vượt quá 12%, NH sẽ thanh toán cho khoản chi phí lãi tăng thêm. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm xuống dưới 8% thì khách hàng sẽ phải trả cho NH lãi suất tối thiểu 8%. Thực chất, người mua hợp đồng khoảng lãi suất phải trả trần phí đồng thời nhận được sàn phí. Khoản phí ròng (chênh lệch giữa trần phí và sàn phí) có thể là dương hay âm, phụ thuộc vào sự biến động của lãi suất thị trường.
Thông thường, các hợp đồng trần, sàn và khoảng lãi suất có kỳ hạn trong phạm vi từ một vài tuần cho đến 10 năm. Phần lớn các hợp đồng này được dựa trên lãi suất của các chứng khoán chính phủ, giấy nợ ngắn hạn, các khoản tín dụng lãi suất cơ bản hay lãi suất tiền gửi đô la Châu Âu (LIBOR). Bản thân NH cũng thường sử dụng hợp đồng khoảng lãi suất để bảo vệ thu nhập của mình khi lãi suất dao động thất thường hay khi NH không thể dự tính được chính xác biến động của lãi suất thị trường.
Hợp đồng trần, sàn và khoảng lãi suất là những dạng đặc biệt của hợp đồng quyền chọn phòng chống rủi ro lãi suất cho các khoản nợ và tài sản do NH và khách hàng nắm giữ. Việc bán cho khách hàng hợp đồng trần, sàn và khoảng lãi suất đã tạo ra khoản thu nhập đáng kể từ phí cho NH trong nhữmg năm gần đây, nhưng loại hợp đồng này cũng chứa đựng cả rủi ro tín dụng (khi bên nhận trách nhiệm hoàn trả mất khả năng thanh toán) và rủi ro lãi suất. Chính vì vậy, nhà quản lý NH phải hết sức cẩn trọng khi quyết định cung cấp hay sử dụng công cụ phòng chống rủi ro lãi suất này.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày 26/4/1957 theo quyết định số 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài chính) và là một trong hai ngân hàng ra đời sớm nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quyết định số 259/CP của Hội đồng Chính phủ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch Nhà nước.
Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam chính thức đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quyết định số 401/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với một nhiệm vụ mới: tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước; huy động các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Từ 1/1/1995 đến nay, BIDV đã có sự thay đổi cơ bản: Được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển của đất nước. Đây được ghi nhận là thời kỳ “chuyển mình, đổi mới, lớn lên cùng đất nước”; chuẩn bị nền móng vững chắc và tạo đà cho sự “cất cánh” của BIDV.
Với hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt đựoc những thành tựu quan trọng, góp phần đắc lực cùng toàn ngành Ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn
2.1.2.1. Thuận lợi
Trong thời gian vừa qua, BIDV đã gặt hái được những thành công nhất định, tạo nên vị thế riêng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Là một trong hai ngân hàng ra đời sớm nhất trong hệ thống, BIDV có mối quan hệ hợp tác lâu dài với rất nhiều doanh nghiệp, tổng công ty lớn như: VNPT, VINACONEX, VINASHIN,…
BIDV có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc với 108 chi nhánh cấp I tính đến cuối năm 2008, xếp thứ hai trong toàn ngành. Đồng thời, hệ thống công nghệ thông tin của BIDV đã được hiện đại hoá tại tất cả các chi nhánh, tạo điều kiện triển khai đồng bộ, hiệu quả các sản phẩm dịch vụ mới trên phạm vi toàn quốc. Mạng lưới chi nhánh rộng không chỉ làm tăng vị thế của BIDV đối với các NHTM trong nước mà còn là lợi thế khi cạnh tranh đối với các ngân hàng nước ngoài.
BIDV là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tham gia tổ chức định hạng toàn cầu, qua đó khẳng định cam kết minh bạch hoá tài chính và áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, năng lực tài chính độc lập của BIDV đã được xếp hạng E+ với triển vọng ổn định, là mức xếp hạng kịch trần quốc gia.
BIDV là ngân hàng có uy tín nổi bật trong lĩnh vực đầu tư dự án, cho vay xây dựng cơ bản và cho vay trung dài hạn.
Dịch vụ ngày càng trở thành lĩnh vực kinh doanh thế mạnh của BIDV. Thu dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực, thu dịch vụ ròng năm 2008 đạt 1953 tỷ, tăng 2,19 lần so với năm 2007. BIDV không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và chuyên nghiệp hoá trong công tác nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai đại trà các sản phẩm, gắn công tác phát triển dịch vụ với việc phát triển thương hiệu và hình ảnh của BIDV, tạo ra những sản phẩm dịch vụ mang tính riêng có và chuyên biệt, được khách hàng ghi nhận, đánh giá cao. Ví dụ như BIDV và Techcombank là hai ngân hàng đầu tiên được NHNN cho triển khai dịch vụ cà phê tương lai, tạo tiền đề phát triển các dịch vụ: giao dịch phái sinh, bảo hiểm rủi ro giá đối với các hàng hoá khác như xăng, dầu thô,…
BIDV có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, tiên tiến. Vừa qua BIDV đã ký thoả thuận sở hữu vĩnh viễn toàn bộ 6000 giấy phép Office Standard 2007 và bất cứ phiên bản mới nào mà Microsoft đưa ra thị trường trong 3 năm tới. Với thoả thuận này, BIDV trở thành NHTM đầu tư mạnh nhất vào phần mềm Microsoft có bản quyền. Đặc biệt, trong năm 2008, BIDV đã đưa vào sử dụng trung tâm dự phòng thảm hoạ, là NHTM đầu tiên trong hệ thống xây dựng và hoàn thiện hệ thống quan trọng này, ký thoả thuận hợp tác với IBM hỗ trợ xây dựng chiến lược phát triển thông tin của BIDV giai đoạn 2006 – 2010.
2.1.2.2. Khó khăn
Các chỉ số tài chính, khả năng sinh lời của BIDV theo chuẩn kế toán Việt Nam là tương đối phù hợp nhưng theo chuẩn kế toán quốc tế thì còn thấp, chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng. ROA là 0,75% trong khi chuẩn mực tối thiểu là 1%, ROE là 13,6% trong khi chuẩn mực tối thiểu là 15%. Hệ số CAR mới đạt ở mức tối thiểu theo quy định và chưa ổn định. Chỉ số này nếu so với các NHTM trong nước thì khá cao nhưng nếu so với các ngân hàng nước ngoài thì vẫn còn rất khiêm tốn, đặc biệt trong điều kiện hội nhập hiện nay. Đây chính là điểm yếu không chỉ của BIDV mà của tất cả các NHTM Việt Nam khi muốn vươn lên trở thành một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực.
Công tác Marketing sản phẩm cũng như quảng bá hình ảnh chưa thực sự được chú trọng. Cán bộ chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng bán hàng, thuyết phục khách hàng, chưa chủ động trong việc giới thiệu và bán chéo sản phẩm ngân hàng.
Hệ thống thông tin, nguồn dữ liệu chưa đồng bộ và chưa được khai thác triệt để dẫn tới mặc dù nguồn thông tin nhiều nhưng tiện ích lại kém.
Việc thể hiện sự nhanh nhạy ứng biến với thị trường, đặc biệt tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức và đi đến các biện pháp điều hành vẫn còn phải chờ đợi thời gian. Ví dụ như BIDV phản ứng khá nhanh trước vụ đổ vỡ của ngân hàng Mỹ Lehman Brothers; nhưng khi thị trường Mỹ trở nên ổn định hơn qua các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ Mỹ thì việc đầu tư, tham gia trở lại thị trường quốc tế lại chậm, dẫn đến giảm hiệu quả trong đầu tư nguồn vốn ngoại tệ.
Trong quá trình hội nhập, việc vận hành kiến thức, tri thức về kinh tế thị trường còn nhiều bất cập ở đội ngũ quản lý điều hành các cấp. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quyết định của Ban lãnh đạo tới các đơn vị thành viên chưa được quán triệt thấu đáo. Trước những đảo chiều khó lường thì quyết định của Ban lãnh đạo đưa ra nhanh nhưng lại chưa được giải thích cặn kẽ dẫn đến việc các chi nhánh còn nhiều băn khoăn trong quá trình tổ chức thực hiện (điều hành tăng giảm lãi suất; xác định danh mục định chế tài chính quốc tế cần chú ý đặc biệt).
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Năm 2008 dù là năm hoạt động kinh doanh của BIDV trải qua nhiều biến đông, nhưng với nỗ lực của toàn hệ thống, phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh chủ yếu đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức tiến độ, kế hoạch đề ra, đặc biệt là các chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh, thể hiện trên các mặt sau:
Bảng 2.1: Tình hình hoạt động kinh doanh của BIDV năm 2008
TT
Chỉ tiêu
TH
2007
KH 2008
TH 2008
Tuyệt đối
TT so với 2007
% HTKH 2008
Các chỉ tiêu quy mô
1
Tổng tài sản
204992
240000
243867
19%
111%
2
Huy động vốn CK
159964
194500
201141
25.70%
119%
Huy động vốn bình quân
142500
164000
158466
11.20%
74%
3
Dư nợ tín dụng cuối kỳ (cả TTUT)
125660
158470
26.10%
Dư nợ tín dụng (không tính TTUT, Leasing)
118106
150208
149419
26.50%
98%
Dư nợ tín dụng bình quân
103290
133000
135488
31.20%
108%
Các chỉ tiêu hiệu quả
4
Chênh lệch thu chi
5557
6200
6338
14.10%
102%
5
Trích dự phòng rủi ro trong năm
3445
3300
3910
13.50%
118%
6
Lợi nhuận trước thuế
2112
2900
2428
15%
84%
7
Thu nợ hạch toán ngoại bảng
1979
900
871
97%
8
Thu dịch vụ ròng
8892
2100
1953
118.90%
93%
9
ROA
0.87%
0.92%
0.75%
10
ROE
13.40%
17.20%
13.60%
11
CAR (ALCO)
11%
9.04%
8.64%
Các chỉ tiêu cơ cấu, chất lượng
12
Tỷ lệ dư nợ TDH/Tổng dư nợ
38%
40%
38%
13
Tỷ lệ dư nợ NQD/Tổng dư nợ
65%
70%
70%
14
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB/Tổng DN
71%
70%
70%
15
Tỷ lệ nợ xấu
3.22%
3%
2.05%
16
Dư nợ xấu
3677
3125
16
Tỷ lệ dư nợ (không TTUT, Leasing, NK)/Tổng tài sản
57.70%
62%
61%
17
Tỷ lệ dư nợ nhóm 2/Tổng dư nợ
21%
17.60%
17.80%
18
Vốn điều lệ
7699
8692
12.90%
Vốn và các quỹ
11163
15098
35.30%
19
Dư nợ/Huy động vốn
79%
80%
83%
20
Đầu tư/Tổng tài sản
12%
12%
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008:
Các chỉ tiêu quy mô, tăng trưởng: Đạt quy mô tăng trưởng cao, hợp lý, đảm bảo giữ được vị thế, thị phần trên thị trường tài chính tiền tệ, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ:
Tổng tài sản đạt 243.867 tỷ, tăng 19% so với năm 2007, hoàn thành 111% kế hoạch năm.
Huy động vốn đạt 201.141 tỷ, tăng trưởng 25,7% so với năm 2007; hoàn thành 121% kế hoạch năm. Huy động vốn bình quân đạt 158.466 tỷ, tăng 11,2% so với năm 2007. Thị phần huy động vốn của BIDV năm 2008 đạt 13,3% tăng nhẹ so với mức 13,2% cuối năm 2007.
Tổng dư nợ tín dụng (bao gồm TTUT và cho thuê tài chính) đạt 158.470 tỷ tăng 26,1% so với năm 2007. Thị phần tín dụng của BIDV trong hệ thống NHTM năm 2008 đạt 12,4%; tăng 0.7% so với mức 11,7% cuối năm 2007.
Dư nợ tín dụng cho vay nền kinh tế (không bao gồm TTUT và cho thuê tài chính) đạt 149.419 tỷ tăng 26,5% so với năm 2007, đạt 98% kế hoạch tăng trưởng tín dụng. Trong 9 tháng đầu năm: mức tăng tín dụng là 19.098 tỷ đồng, đặc biệt tính riêng Quý 4/2008, mức tăng đạt 12.215 tỷ đồng (chiếm 39% mức tăng tín dụng trong năm). Mức tăng trưởng mạnh này (khi nền kinh tế xuất hiện dấu hiệu suy giảm) đã bổ sung nguồn vốn tập trung cho xuất khẩu, các dự án trọng điểm cần đẩy nhanh tiến độ, cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa,… đã góp phần quan trọng là kênh dẫn vốn kịp thời cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu trong Quý 4/2008.
BIDV luôn nghiêm túc thực hiện theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của NHNN:
+ Kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ đạo, kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 27%.
+ Đồng thời, BIDV là ngân hàng tiên phong trong cắt giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tài trợ xuất khẩu (trong vòng 5 tháng cuối năm 2008 đã thực hiện 10 lần cắt giảm lãi suất cho vay từ 21% xuống 10%). Với động thái trên, dư nợ tín dụng của BIDV trong 5 tháng cuối năm 2008 đã tăng ròng 18943 tỷ đồng so với mức tăng dư nợ tín dụng 7 tháng đầu năm chỉ là 12.730 tỷ đồng.
Thu dịch vụ ròng đạt 1.953 tỷ, tuy chỉ hoàn thành 93% kế hoạch năm nhưng đã có mức tăng trưởng rất cao; gấp 2,19 lần so với năm trước, thể hiện sự nỗ lực và cố gắng của toàn ngành trong công tác dịch vụ. Kết quả này đã đưa BIDV lần đầu tiên đứng đầu hệ thống NHTM về kết quả hoạt động dịch vụ.
Doanh số mua bán ngoại tệ: ước đạt 41 tỷ USD, tăng 80% so với năm 2007.
Nhìn chung các chỉ tiêu quy mô thực hiện đến 31/12/2008 đều có tăng trưởng so với năm 2007 và hoàn thành 100% kế hoạch kinh doanh đề ra. Tuy nhiên tính bền vững vẫn chưa được đảm bảo: tốc độ tăng trưởng huy động vốn thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng thể hiện qua số bình quân (11,2% huy động vốn bình quân và 31,2% so với dư nợ tín dụng bình quân)…ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, khả năng cân đối nguồn vốn – sử dụng vốn theo loại tiền và kỳ hạn.
Các chỉ tiêu chất lượng: Tiếp tục chuyển dịch theo đúng hướng chỉ đạo của Hội đồng quản trị:
Thu nợ hạch toán ngoại bảng đạt 871 tỷ, hoàn thành 97% kế hoạch năm. Nếu tính cả các khoản nợ đã ký hợp đồng bán nợ nhưng chưa thu được tiền trong năm thì chỉ tiêu này đạt 1.043 tỷ đồng, hoàn thành 116% kế hoạch năm.
Tỷ lệ nợ xấu: theo điều 7 quyết định 493 (tương đương với chuẩn mực quốc tế) được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ nợ xấu đến 31/12/2008 đã được kiểm soát <3% (đạt 2,05%, giảm tuyệt đối 552 tỷ so với đầu năm). Chất lượng tín dụng được cải thiện mạnh mẽ so với năm 2007 là do trong năm 2008 BIDV đã tập trung thực hiện thu nợ vay chứng khoán, thắt chặt cho vay bất động sản, cơ cấu lại các khoản nợ gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới theo chủ trương của Chính phủ, tập trung thu nợ xấu trong bảng, đồng thời gắn với đánh giá định hạng doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng gắn với chất lượng tín dụng.
Tỷ trọng nợ nhóm 2/Tổng dư nợ: đạt 17,8%, giảm so với tỷ trọng 21% thời điểm đầu năm, gần đạt so với kế hoạch được giao (kế hoạch: 17,6%, theo khuyến nghị của Moody’s: ≤12%).
Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn chiếm 38% tổng dư nợ (kế hoạch: 40%)
Dư nợ có tài sản đảm bảo chiếm 70% tổng dư nợ (kế hoạch: 70%).
Dư nợ ngoài quốc doanh chiếm 70% tổng dư nợ (kế hoạch: 70%).
Như vậy, nhìn chung các chỉ tiêu chất lượng đều diễn biến tương đối theo hướng mục tiêu, dù một số tỷ trọng biến động chưa đạt yêu cầu (tỷ lệ nợ nhóm 2/ Tổng dư nợ còn cao, tỷ lệ bán lẻ/Tổng dư nợ đạt thấp,…).
Các chỉ tiêu, chỉ số về hiệu quả và an toàn hoạt động: Hoàn thành xuất sắc và tiếp tục duy trì hiệu quả kinh doanh ở mức cao:
Chênh lệch thu – chi (gồm thu nợ hạch toán ngoại bảng) đạt 6.338 tỷ, đạt 102% kế hoạch năm, tăng 14,1% so với năm 2007.
Trích đủ dự phòng rủi ro theo quyđịnh: Năm 2008 trích được 3.910 tỷ dự phòng rủi ro, hoàn thành 118% kế hoạch, đưa dư quỹ dự phòng rủi ro đạt 5.874 tỷ đồng.
Lợi nhuận trước thuế đạt 2.428 tỷ, hoàn thành 84% kế hoạch năm.
Các chỉ số về hiệu quả kinh doanh còn thấp hơn mục tiêu đề ra: Chỉ sos ROE đạt 13,6%. Chỉ số ROA đạt 0,75%. Hệ số an toàn vốn CAR đạt 8,64%.
Có thể nói, các chỉ số hiệu quả về cơ bản vẫn duy trì ở mức năm 2007 là do trong năm BIDV đã quán triệt quan điẻm chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về việc chủ động chia sẻ khó khăn với khách hàng thong qua công cụ lãi suất dẫn đến thu nhập ròng từ lãi giảm sút so với tiềm năng thực tế.
Tóm lại: Trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước diễn biến nhanh, phức tạp và khó dự đoán, kết quả đạt được trong giai đoạn 2006-2008 và đặc biệt năm 2008, của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam có thể nói là một sự nỗ lực, sự cố gắng phi thường của tập thể cán bộ công nhân viên trong toàn hệ thống BIDV, đặc biệt là sự quyết liệt, tỉnh táo, sự năng động, sáng tạo trong điều hành của Ban lãnh đạo đã đưa ra các quyết sách điều chỉnh kịp thời, thích ứng với tình hình thị trường đưa hoạt động của BIDV vượt qua những khó khăn, thách thức để hoàn thành một cách toàn diện, xuất sắc, vượt trội các chỉ tiêu KHKD đề ra. BIDV đã luôn đi đầu, gương mẫu, chủ động thực hiện nhanh và có hiệu quả các chỉ đạo của Chính phủ về việc cung ứng vốn cho các dự án quan trọng, chấp hành nghiêm túc chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước, góp phần không nhỏ vào thành quả, kết quả chung của kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng.
2.2. Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.2.1. Diễn biến lãi suất trong thời gian qua (từ năm 2006 đến nay)
2.2.1.1. Lãi suất VND
Năm 2006, Chính phủ đã có bước tiến dài về môi trường pháp lý cho hoạt động NH. Cơ chế tín dụng, cơ chế bảo đảm tiền vay được hoàn thiện theo hướng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp vay vốn. Mặt khác, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn cho toàn hệ thống. Chính sách tiền tệ được điều hành một cách thận trọng, linh hoạt và phù hợp với diễn biến thực tế. Chính vì vậy việc cho áp dụng lãi suất thỏa thuận, bước đột phá thực hiện tự do hóa lãi suất, lãi suất trên thị trường vẫn tương đối ổn định. Lãi suất VND có xu hướng tăng nhẹ phản ánh đúng quan hệ cung cầu: lãi suất huy động tăng khoảng 0,1 – 0,4%/năm, lãi suất cho vay tương đối ổn định. Cụ thể, trong 7 tháng đầu năm 2006, lãi suất huy động có xu hướng tăng chủ yếu ở nhóm NHTM cổ phần; các NHTM Nhà nước không tăng lãi suất huy động tiết kiệm nhưng mở rộng phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn khoảng 0,1-0,3%/năm. Điều này phần nào tác động đến tâm lý thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm, lãi suất huy động VND về cơ bản ít biến động. Lãi suất huy động phổ biến kỳ hạn 3 tháng là 7,56 - 8,52%/năm, 6 tháng là 7,8 - 8,76%/năm, 12 tháng là 8,4 - 9,24%/năm. Lãi suất cho vay ít biến động so với mặt bằng lãi suất cho vay cuối năm 2005 nhưng vẫn ở mức khá cao, nhất là các NHTM cổ phần. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 10,2 - 13,8%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 10,8 - 15,3%/năm đối với cho vay trung, dài hạn.
Năm 2007 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo. Lãi suất cơ bản được giữ vững ở mức 8,25%/năm. Tuy nhiên diễn biến lãi suất VND trên thị trường vẫn có nhiều biến động.
Những tháng đầu năm 2007, lãi suất của các NHTM Nhà nước khá ổn định do khả năng cung vốn dồi dào, phổ biến ở mức 2,4% - 3%/năm (không kỳ hạn), 3 tháng là 7,2 - 7,74%/năm, 6 tháng là 7,44 - 7,8%/năm, 12 tháng là 8,04 - 8,4%/năm. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất huy động của khối các NHTMCP tăng khoảng 0,05 - 0,45%/năm do nhu cầu vốn của thị trường chứng khoán tăng mạnh. Khi đó, nhiều người dân rút tiền gửi tiết kiệm để đổ vào chứng khoán, buộc các NH phải tăng lãi suất để giữ chân khách hàng và cạnh tranh với kênh đầu tư chứng khoán. Lãi suất huy động vốn ngắn hạn có thời điểm tăng tới trên 10%/năm.
Không chỉ dừng lại ở đó, đến cuối tháng 11, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động mạnh, có thời điểm vọt lên 12%/năm, cao hơn cả lãi suất cho vay của các NHTM. Cộng thêm nhu cầu vốn giải ngân của các doanh nghiệp cuối năm tăng cao, tác động tới lượng vốn khả dụng đã đẩy lãi suất huy động của các NHTM vào đợt tăng mới, buộc NHNN phải bơm 10.000 tỷ đồng vào thị trường để bình ổn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ở mức 8%/năm.
Lãi suất cho vay VND tương đối ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9,84 - 13.8%/năm, trung dài hạn ở mức 11,4 – 16,2%/năm.
Tuy nhiên, năm 2008 mới thực sự là một năm mặt bằng lãi suất có nhiều biến động mà nổi bật nhất là những cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM cổ phần. Ngay từ đầu năm, lãi suất đã có xu hướng tăng nhẹ khi nhu cầu vốn từ các doanh nghiệp vẫn cao cho kỳ kinh doanh Tết Nguyên đán. Tháng 2/2008, NHNN quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm nhằm tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất điều hành của NHNN với lãi suất thị trường, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ năm 2008. Trong thời gian này, lãi suất huy động phổ biến ở mức không kỳ hạn 3,48%/năm, kỳ hạn 3 tháng 10,38%/năm, kỳ hạn 6 tháng 10,5%/năm, kỳ hạn 12 tháng 10,78%/năm; lãi suất cho vay phổ biến ở mức ngắn hạn 14,6%/năm, trung và dài hạn 16,2%/năm.
Tháng 5/2008, NHNN chính thức bỏ cơ chế lãi suất thỏa thuận, bỏ trần lãi suất. Thay vào đó, quy định các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bao gồm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay VND theo nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản mà NHNN công bố áp dụng cho từng thời kỳ. Đồng thời công bố điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 12%/năm. Không lâu sau đó, lãi suất cơ bản tiếp tục được đưa lên một mốc mới 14%/năm báo hiệu một cuộc đua lãi suất mới bắt đầu. Đã có thời điểm, lãi suất huy động tăng lên đến 19,8%/năm. Tuy nhiên việc điều chỉnh các mức lãi suất bằng đồng Việt Nam lần này nhằm tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt”, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2.2: Diễn biến lãi suất cơ bản trong năm 2008
Loại Lãi suất
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản
7%/năm
172/QĐ-NHNN
01/02/2009
Lãi suất cơ bản
8.5%/năm
3161/QĐ-NHNN
22/12/2008
Lãi suất cơ bản
10%/năm
2948/QĐ-NHNN
05/12/2008
Lãi suất cơ bản
11%/năm
2809/QĐ-NHNN
21/11/2008
Lãi suất cơ bản
12%/năm
2559/QĐ-NHNN
05/11/2008
Lãi suất cơ bản
13.%/năm
2316/QĐ-NHNN
21/10/2008
Lãi suất cơ bản
14%/năm
2131/QĐ-NHNN
01/10/2008
Lãi suất cơ bản
14%/năm
1906/QĐ-NHNN
01/09/2008
Lãi suất cơ bản
14%/năm
1434/QĐ-NHNN
01/07/2008
Lãi suất cơ bản
14%/năm
1317/QĐ-NHNN
11/06/2008
Lãi suất cơ bản
12%/năm
1257/QĐ-NHNN
01/06/2008
Lãi suất cơ bản
12%/năm
1099/QĐ-NHNN
19/05/2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
978/QĐ-NHNN
01/05/2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
689/QĐ-NHNN
01/04/2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
479/QĐ-NHNN
01/03/2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
305/QĐ-NHNN
01/02/2008
Lãi suất cơ bản
8.25%/năm
3096/QĐ-NHNN
01/01/2008
Càng về những tháng cuối năm 2008, áp lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội càng tăng cao. Để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, tiêu dùng và thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, NHNN liên tục hạ lãi suất cơ bản. Mặt bằng lãi suất trên thị trường nhờ đó có xu hướng giảm dần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển.
Năm 2009 là năm được báo hiệu là một năm cực kỳ khó khăn cho nền kinh tế thế giới nói chung cũng như kinh tế Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động, NHNN đã quyết định đưa lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam từ mức 8,5% xuống còn 7%/năm, đồng thời các tổ chức tín dụng được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với một số nghiệp vụ cho vay. Như vậy, trần lãi suất cho vay trên thị trường sẽ chỉ còn 10,5%/năm, đúng bằng một nửa đỉnh cao đạt được giữa năm ngoái.
Hiện nay, NHNN cũng đang triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh. Do đó, mặt bằng lãi suất cho vay của các NHTM sau khi đã được hỗ trợ hiện đang dao động trong khoảng 4-6,5%/năm.
2.2.1.2. Lãi suất USD
Lãi suất USD của các NHTM trong nước thường diễn biến theo sự điều chỉnh của FED. Tuy nhiên, NHNN hiện chưa có quy định nào về việc điều chỉnh lãi suất đối với USD, nói cách khác lãi suất USD đang được thả nổi một cách bất hợp lý.
Biểu đồ 2.3 : Biểu đồ lãi suất của FED giai đoạn 2001 - 2008
Trong năm 2006, FED đã ba lần điều chỉnh tăng lãi suất định hướng liên NH làm cho lãi suất USD trong nước có xu hướng tăng nhưng với mức tăng thấp hơn so với mức tăng của FED. Lãi suất USD tăng khoảng 0,2 – 0,6%/năm , phổ biến ở kỳ hạn 3 tháng là 3,9 – 4,2%/năm, 6 tháng là 4,05 – 4,4%/năm, 12 tháng là 4,65 – 4,9%/năm.
Nửa đầu năm 2007, lãi suất USD của các NHTM tiếp tục diễn biến tăng, một diễn biến ngược chiều với tác động từ chủ trương tăng mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN mới ban hành. Theo đó, lãi suất USD tăng ở mức 0,8 – 1,4%/năm, phổ biến ở kỳ hạn 3 tháng là 4,25 – 4,6%/năm, 6 tháng là 4,4 – 4,8%/năm, 12 tháng 5,25 – 5,75%/năm.
Tuy nhiên từ tháng 9/2007 đến nay, FED đã 10 lần cắt giảm lãi suất USD, đưa lãi suất này từ mức 5,25% về khoảng lãi suất 0 – 0,25% hiện nay. Theo đó, mức lãi suất USD trong nước có xu hướng giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn, phổ biến ở kỳ hạn 3 tháng là 1,5 – 1,7%/năm, 6 tháng là 2,0 – 2,3%/năm, 12 tháng là 2,6 – 2,9%/năm.
2.2.2. Thực trạng rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất luỹ kế trên tổng tài sản
Thực trạng khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất luỹ kế trên tổng tài sản của toàn hệ thống trong năm 2008 đánh giá theo từng loại tiền cụ thể như sau:
Đối với USD: Qua thống kê số liệu khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất luỹ kế trên tổng tài sản USD của các ngày cuối tháng trong năm cho thấy tỷ lệ này có sự dao động khá lớn giữa các thời điểm và đặc biệt cao trong những tháng cuối năm. Nếu như lãi suất USD ngắn hạn trên thị trường giảm thì BIDV sẽ được hưởng lợi từ việc duy trì khe hở lãi suất âm. Nhưng ngược lại, nếu lãi suất trên thị trường tăng thì BIDV sẽ gặp phải rủi ro lãi suất. Trong điều kiện kinh tế bất ổn như hiện nay, lãi suất USD trên thế giới đang biến động theo xu hướng có lợi cho BIDV. Tuy nhiên, tình hình biến động lãi suất USD trong nước chưa thực sự rõ nét và vẫn duy trì ở mức cao. Đặc biệt là đối với tình trạng dư thừa vốn ngoại tệ ngắn hạn như hiện nay, BIDV cần có biện pháp thu hẹp chênh lệch tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm lãi suất ngắn hạn.
Đối với VND: Tỷ lệ khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất trên tổng tài sản VND giữa các thời điểm cuối tháng thay đổi khá nhiều. Khe hở âm tập trung chủ yếu ở các kỳ hạn O/N, 1 tháng, 2 tháng và 12 tháng.
Bảng 2.3: Tình hình khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất lũy kế
trên tổng tài sản đối với USD năm 2008
Thời điểm
Đến 3 tháng
Đến 6 tháng
Đến 9 tháng
Đến 12 tháng
Cuối tháng 1
-8.10%
-4.01%
-7.30%
-13.50%
Cuối tháng 2
-1.70%
-0.30%
-5.20%
-4.60%
Cuối tháng 3
-7.50%
-2.40%
-7.90%
-14.50%
Cuối tháng 4
-8.20%
-3.20%
-8.40%
-11.70%
Cuối tháng 5
-4.60%
-3.30%
-6.70%
-11.04%
Cuối tháng 6
-2.80%
-0.20%
-3.30%
-7.10%
Cuối tháng 7
-3.30%
-5.40%
-8.70%
-9.60%
Cuối tháng 8
-1.40%
-3.10%
-4.40%
-5.00%
Cuối tháng 9
-6.40%
-7.20%
-7.60%
-8.60%
Cuối tháng 10
-16.30%
-19.30%
-21.90%
-22.80%
Cuối tháng 11
-16.00%
-15.50%
-14.80%
-15.00%
22/12/2008
-20.20%
-18.12%
-19.97%
-21.53%
Bảng 2.4: Tình hình khe hở tài sản nhạy cảm lãi suất lũy kế
trên tổng tài sản đối với VND năm 2008
Thời điểm
Đến 3 tháng
Đến 6 tháng
Đến._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22109.doc