LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới và hội nhập, đặc biệt là từ khi chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam được đón nhận nhiều cơ hội mới nhưng cũng phải đối mặt với không ít những thách thức. Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực được cam kết mở cửa mạnh mẽ, các
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng nước ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam và được đối xử ngang bằng theo nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Khi đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp phải những đối thủ tầm cỡ ngay tại thị trường trong nước.
Để không bị “lép vế trên sân nhà”, thời gian qua các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách, đổi mới toàn diện. Thế nhưng khi mà công cuộc cải cách của các ngân hàng Việt Nam mới đi được chặng đầu thì “cơn bão” khó khăn kinh tế đã ập đến. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải trải qua những biến động dồn dập và đối mặt với những thách thức lớn. Nửa đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng mười bảy năm qua. Khi lạm phát đã bắt đầu hạ nhiệt nhờ hiệu quả của các chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt thì các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước lại một phen lao đao vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nước Mỹ. Ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn và bế tắc. Nguy cơ gia tăng nợ xấu ngân hàng là khó có thể tránh khỏi. Hơn bao giờ hết, công tác quản lý nợ xấu đang được các NHTM đặt lên hàng đầu.
Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về vấn đề nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các NHTM, cùng với việc phân tích thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu, khóa luận đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế và xử lý nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của chi nhánh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các hoạt động quản lý nợ xấu của chi nhánh Hàng Đậu trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, mô tả, phân tích - tổng hợp để giải quyết vấn đề đặt ra.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của khóa luận được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt đợt thực tập tại Ngân hàng. Tôi cũng xin cảm ơn Th.S Đoàn Phương Thảo đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Hiểu thế nào về tín dụng ngân hàng thương mại
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế quen thuộc và từ lâu đã được định nghĩa một cách khá hoàn chỉnh. Theo K.Max: “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”. Như vậy, về bản chất tín dụng là quan hệ vay mượn trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi với các đặc trưng là: có thời hạn, có tính hoàn trả và quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
Tín dụng NHTM là hình thức phát triển cao của tín dụng. Tín dụng NHTM là một giao dịch về tài sản (tiền tệ hoặc hiện vật) giữa bên cho vay (NHTM) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Để có thể thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng, bên đi vay còn phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích đã được thoả thuận và trong nhiều trường hợp phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay. Đây là những nguyên tắc quan trọng và cần thiết đối với hoạt động tín dụng nói riêng và đối với sự tồn tại, phát triển của ngân hàng nói chung.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của khóa luận, tín dụng NHTM được hiểu là quan hệ cung ứng vốn của NHTM dành cho các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức khác trong nền kinh tế thông qua các khoản cho vay và phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của tín dụng. Hoạt động tín dụng được thực hiện trên nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nghĩa là nguồn vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên nguồn vốn huy động của cá nhân, tổ chức khác là chủ yếu. Với khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và trở thành một kênh dẫn vốn vô cùng quan trọng trong hầu khắp các ngành, lĩnh vực kinh tế.
Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.2.1Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, tín dụng NHTM góp phần điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Tín dụng nói chung và tín dụng NHTM nói riêng thực hiện vai trò kết nối giữa tiết kiệm và đầu tư, khai thác các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội đưa nhanh vào sản xuất kinh doanh. Thông qua việc tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng NHTM là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn to lớn của xã hội. Các ngân hàng, tổ chức đặc biệt thực hiện việc kinh doanh tiền tệ, với lợi thế về quy mô, uy tín và sự hoạt động chuyên nghiệp của mình, có thể dễ dàng huy động các khoản tiền nhàn rỗi từ nhiều nguồn khác nhau trong nền kinh tế, do đó cũng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu vốn, dù lớn hay nhỏ, của các cá nhân và tổ chức. Tín dụng NHTM giúp các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn, nhanh chóng mở rộng đầu tư. Như vậy, tín dụng NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tái sản xuất mở rộng và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, tín dụng NHTM góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân. Bằng những ưu tiên về lãi suất, thời hạn cho vay, mức cho vay đối với từng ngành, từng vùng kinh tế, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện cho các ngành, các vùng này phát triển thuận lợi hơn. Tín dụng NHTM là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành và vùng kém phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, từ đó tạo điều kiện cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Thứ ba, tín dụng NHTM cũng giúp cho Nhà nước quản lý và điều hành hữu hiệu chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát thông qua việc kiểm soát lượng tiền cung ứng. Ngoài ra, tín dụng NHTM còn góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống dân cư và ổn định trật tự xã hội. Thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng, tín dụng NHTM đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống vật chất của dân cư. Tín dụng NHTM cũng góp phần thực hiện các chương trình xã hội của Nhà nước như cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm, v.v… giúp cải thiện đời sống người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từ đó ổn định trật tự xã hội.
1.1.2.2Đối với các ngân hàng thương mại
Tín dụng cho đến nay vẫn là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM. Do đó nghiệp vụ tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Hoạt động tín dụng giúp ngân hàng đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, mở rộng thị phần, v.v … và nâng cao vị thế, uy tín của ngân hàng trong cạnh tranh.
Với những vai trò vô cùng quan trọng đó, quản lý hoạt động tín dụng NHTM, mà cụ thể là quản lý chất lượng tín dụng phải luôn được các ngân hàng đặt lên hàng đầu.
Các hình thức tín dụng ngân hàng thương mại
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng diễn ra vô cùng gay gắt. Điều này đòi hỏi các sản phẩm mà ngân hàng cung ứng ra thị trường phải ngày càng đa dạng và phong phú, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tín dụng NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó và đang ngày càng phát triển với nhiều hình thức. Theo các căn cứ khác nhau, tín dụng NHTM được phân chia thành các hình thức khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay, có ba hình thức sau:
Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn đến 12 tháng, mục đích bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: Là loại cho vay với thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm. Các khoản cho vay này chủ yếu được dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ, xây dựng các dự án quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh, v.v …
Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên. Mục đích sử dụng vốn vay tương tự như tín dụng trung hạn nhưng với quy mô lớn hơn và thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng có các hình thức:
Cho vay không bảo đảm: Là hình thức cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố cũng như không có sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà chỉ dựa trên uy tín và năng lực của bản thân người vay.
Cho vay có bảo đảm: Là hình thức cho vay mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của người vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, nhằm tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để ngân hàng có nguồn thu thứ hai trong trường hợp khách hàng không thanh toán được nợ vay.
Căn cứ vào phương thức cho vay có các hình thức như:
Cho vay từng lần: Đây là phương thức cho vay phổ biến dành cho những khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Việc giải ngân có thể được tiến hành một lần hay nhiều lần căn cứ vào nhu cầu thực tế của khách hàng song tổng số tiền giải ngân không vượt quá số tiền cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn ngắn hạn, thường xuyên và có mức độ tín nhiệm cao. Trong thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được rút vốn nhiều lần phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn thực tế, nhưng dư nợ tín dụng tại mọi thời điểm không vượt quá hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay theo dự án: Ngân hàng sẽ giải ngân vốn vay một lần hoặc nhiều lần theo hợp đồng tín dụng đã ký kết trong thời hạn giải ngân thoả thuận, với mục đích thực hiện các dự án đầu tư cụ thể.
Cho vay trả góp: Theo phương thức cho vay này, số tiền vay được trả thành nhiều kỳ hạn đều nhau với tổng số tiền trả nợ gốc và lãi của mỗi kỳ hạn là bằng nhau, trong đó số tiền trả lãi được tính trên dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kỳ hạn trả nợ đó.
Bên cạnh các phương thức cho vay này, trên cơ sở nhu cầu thực tế và thoả thuận với khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra các phương thức cho vay khác phù hợp với quy định của pháp luật. Dựa theo các căn cứ khác, tín dụng ngân hàng thương mại còn có thể được phân chia thành nhiều hình thức khác.
Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Quan niệm về nợ xấu
Để có thể phát huy vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng thương mại, điều quan trọng là phải quản lý tốt các khoản cho vay nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi. Hoạt động tín dụng ngân hàng có liên quan tới rất nhiều chủ thể trong nền kinh tế, vì vậy nó cũng chịu tác động từ nhiều phía như: khách hàng, cơ chế chính sách, môi trường kinh doanh, v.v… Do vậy, khi có những biến động trong nền kinh tế, những thay đổi về cơ chế chính sách hay môi trường kinh doanh thì đều tác động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro gây thiệt hại cho ngân hàng. Nợ xấu chính là một rủi ro xuất hiện trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vậy, nợ xấu là gì? Hiện nay, đã có khá nhiều quan điểm về nợ xấu được đưa ra. Theo khái niệm nợ xấu được đưa ra ở Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở), nợ xấu (bad debt) được hiểu là các khoản nợ hầu như không có khả năng thu hồi, nó được xem như chi phí của ngân hàng và làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng.
Theo định nghĩa của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, một khoản vay được gọi là nợ xấu khi việc thanh toán lãi vay và nợ gốc quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận, hoặc các khoản thanh toán quá hạn dưới 90 ngày nhưng có những lý do chắc chắn khác để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Định nghĩa này hiện được áp dụng phổ biến trên thế giới.
Còn theo quan điểm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, nợ xấu bao gồm những khoản nợ không thể thu hồi và nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng. Trong quan điểm này, các tiêu thức phản ánh nợ xấu được đưa ra tương đối rõ ràng, cụ thể.
Ở Việt Nam, theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu được định nghĩa như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5(nợ có khă năng mất vốn)”. Như vậy, theo định nghĩa này nợ xấu cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố là đã quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại. Các khoản nợ xấu là biểu hiện không lành mạnh của hoạt động tín dụng, có thể gây cho NHTM rủi ro đọng vốn hoặc mất vốn.
Tóm lại, nợ xấu là các khoản nợ quá hạn có thời gian cơ cấu lại hơn 90 ngày hoặc là các khoản nợ vẫn còn trong thời hạn cam kết nhưng khách hàng vay bị mất khả năng thanh toán, hoặc ngân hàng có những bằng chứng xác thực chứng minh được mức độ rủi ro tăng cao cho khoản tín dụng, hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Sự cần thiết phải quản lý nợ xấu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hệ thống ngân hàng là một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính quốc gia và là “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế. Hơn hai năm sau khi nước ta chính thức gia nhập WTO, các NHTM Việt Nam với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng và nâng cao khả năng tài chính là những yêu cầu cấp bách. Trong đó, quản lý nợ xấu đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình tái cơ cấu tài chính các NHTM. Sự cần thiết của công tác quản lý nợ xấu đối với các ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung sẽ được phản ánh rõ hơn thông qua việc xem xét những ảnh hưởng của nợ xấu tới hoạt động của NHTM. Nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo bởi nó vi phạm các đặc trưng cơ bản của tín dụng. Mức độ ảnh hưởng của nợ xấu còn phụ thuộc vào tỷ lệ nợ xấu cao hay thấp.
Nợ xấu gây nên việc đóng băng vốn và có thể làm ngân hàng thương mại mất vốn. Các khoản nợ xấu làm vốn của ngân hàng bị ứ đọng vì vậy làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các NHTM, giảm vòng quay vốn, qua đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, thậm chí là mất vốn.
Nợ xấu ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. Hoạt động cơ bản nhất của một ngân hàng là huy động vốn và sử dụng số tiền đó để cho vay. Nợ xấu phát sinh, khả năng thu hồi nợ suy giảm. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ và đúng hạn cho người gửi tiền hay các nguồn huy động khác. Với một tỷ lệ nợ xấu cao và kéo dài, không có biện pháp xử lý triệt để có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, dễ dẫn đến phá sản.
Nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng thương mại. Khách hàng thường không muốn gửi tiền vào một ngân hàng có chất lượng tín dụng thấp, có tỷ lệ nợ xấu cao vì lo sợ cho sự an toàn của những khoản tiền gửi của mình. Điều này làm cho việc huy động vốn của ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Tỷ lệ nợ xấu cao cũng phần nào cho thấy sự yếu kém trong công tác điều hành, quản lý của ngân hàng, do đó làm suy giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Khi khách hàng đã không còn niềm tin vào ngân hàng thì có thể họ sẽ đổ xô đến ngân hàng để rút tiền, nếu ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền này sẽ đi đến phá sản.
Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Việc không thu được tiền lãi cho vay của các khoản nợ xấu sẽ trực tiếp làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí là thua lỗ. Nợ xấu cũng hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, hạn chế khả năng kinh doanh của ngân hàng do nó làm xói mòn nguồn vốn ngân hàng, qua đó ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh đó, khi một khoản nợ xấu phát sinh ngân hàng phải thực hiện trích lập dự phòng theo quy định của pháp luật, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Các chi phí phát sinh do nợ xấu là rất lớn, bao gồm chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động tương ứng, chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan. Những chi phí này làm giảm đáng kể kết quả kinh doanh của ngân hàng. Ở mức độ nghiêm trọng, ngân hàng có thể phải cắt giảm các khoản lương thưởng của nhân viên, dẫn tới tâm lý chán nản, thậm chí là nghỉ việc của nhiều cán bộ có năng lực. Năng lực tài chính suy yếu, khả năng cạnh tranh kém đi, chất lượng nguồn nhân lực giảm sút, uy tín bị ảnh hưởng sẽ lại kéo theo kết quả kinh doanh đi xuống.
Nợ xấu làm giảm khả năng hội nhập của ngân hàng thương mại. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối với các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng. Tuy nhiên, yêu cầu đầu tiên để các ngân hàng có thể hội nhập thành công là sự minh bạch trong các thông tin công bố. Nhưng với một tỷ lệ nợ xấu cao thì ngân hàng khó có thể công khai thực trạng tài chính của mình, đánh mất cơ hội tham gia thị trường tài chính quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp nói chung, nguồn vốn vay từ ngân hàng là nguồn vốn vô cùng quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu cao thường khiến các ngân hàng dè dặt hơn trong các quyết định cho vay của mình. Kết quả là, trong khi các ngân hàng thừa vốn thì các doanh nghiệp lại không có đủ vốn để đầu tư.
Ngoài những ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các NHTM như trên, nợ xấu cũng gián tiếp tác động tới nền kinh tế. Sự ứ đọng vốn, hiệu quả kinh doanh thấp làm giảm phần đóng góp cho ngân sách, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, nếu do nợ xấu quá trầm trọng dẫn đến sự đổ vỡ của một ngân hàng nào đó thì rất dễ có phản ứng dây chuyền, gây ra sự đổ vỡ hàng loạt của hệ thống ngân hàng, tác động tiêu cực tới sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, vì hệ thống ngân hàng được ví như “mạch máu” của nền kinh tế.
Sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng phản ánh tổng thể sự lành mạnh của nền kinh tế. Khu vực NHTM yếu kém, nhiều nợ xấu, dễ đổ vỡ có thể làm giảm tính hiệu quả của cơ chế thị trường. Vì vậy, quản lý nợ xấu phải là ưu tiên hàng đầu của bất kỳ một NHTM nào.
Dấu hiệu nhận biết một khoản cho vay có nguy cơ phát sinh nợ xấu
Như đã trình bày ở trên, một trong những căn cứ để xác định nợ xấu là khả năng trả nợ đáng lo ngại. Vậy đâu là dấu hiệu để ngân hàng nhận biết sự đáng lo ngại trong khả năng trả nợ của khách hàng? Các khoản cho vay có vấn đề tuy xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng thường có những biểu hiện chung để cảnh báo cho ngân hàng về nguy cơ phát sinh nợ xấu. Về cơ bản, các dấu hiệu này có thể được chia thành ba nhóm như sau:
1.2.3.1Các dấu hiệu xuất phát từ chính ngân hàng thương mại
Thứ nhất, chính sách tín dụng không hợp lý, thể hiện ở chỗ tập trung tín dụng quá mức vào một nhóm khách hàng hay dồn vốn đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm như chứng khoán, bất động sản, thiếu các biện pháp điều chỉnh danh mục tín dụng trước các diễn biến kinh tế vĩ mô bất lợi, v.v… Chính sách tín dụng đưa ra thiếu tính đúng đắn, không đồng bộ sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình thực hiện, trách nhiệm quyền hạn không được phân định rõ ràng, tạo khe hở cho người sử dụng vốn, dẫn đến nguy cơ nợ xấu cho ngân hàng. Cho vay dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng mang lại từ khoản tín dụng được cấp. Đây cũng là dấu hiệu cảnh báo để ngân hàng xem xét lại tính đúng đắn của quyết định cho vay.
Thứ hai, không tuân thủ đầy đủ các quy trình, chính sách tín dụng. Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, soạn thảo các điều kiện ràng buộc không rõ ràng, thiếu chặt chẽ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng. Tình trạng này có thể là do cán bộ tín dụng không nắm bắt kịp thời những quy định mới ban hành về các vấn đề liên quan hoặc thiếu kinh nghiệm, áp lực công việc cao dẫn đến thiếu sót. Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng như người phê duyệt tín dụng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hồ sơ tín dụng. Cán bộ tín dụng vì mục đích riêng có thể cố ý bỏ qua một vài loại giấy tờ cần thiết trong hồ sơ tín dụng. Ngoài ra, sự lỏng lẻo trong hoạt động kiểm soát nội bộ của ngân hàng cũng góp phần tiếp tay cho những vi phạm này. Sự không hợp lệ của hồ sơ tín dụng cho thấy ngân hàng cần thiết phải xem xét lại chất lượng của khoản cho vay đó.
Thứ ba, sự yếu kém, lỏng lẻo trong công tác giáo dục, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của cán bộ tín dụng và khách hàng, dẫn đến chậm phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm. Công tác giám sát khách hàng nếu được thực hiện tốt sẽ giúp phát hiện sớm những biến động theo chiều hướng xấu trong tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Thứ tư, sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng. Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được những khách hàng tốt để cho vay. Để có được sự đánh giá chính xác về khách hàng, cán bộ tín dụng trước hết phải nắm rõ những kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật, có sự am hiểu về lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của khách hàng cũng như có sự nhạy bén trong phân tích, đánh giá thông tin và dự báo thị trường. Nếu yếu kém trong những kỹ năng này, cán bộ tín dụng có thể sẽ đánh giá sai về khách hàng và do đó đưa ra những quyết định không chính xác. Nếu cán bộ tín dụng bị đồng tiền cám dỗ, lợi dụng công việc được giao để thông đồng, móc ngoặc với người vay, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi riêng thì sẽ làm tăng nguy cơ nợ xấu, gây ra những tổn thất cho ngân hàng.
Thứ năm, có khuynh hướng cạnh tranh thái quá hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết rõ những khoản tín dụng này tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Một ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận lên quá cao mà gia tăng dư nợ tín dụng quá mức hay hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng và chấp nhận cả những khách hàng rủi ro cao để thu hút khách hàng cũng sẽ dễ sa vào rủi ro nợ xấu. Việc mở rộng tín dụng quá mức có thể dẫn đến quy trình tín dụng không được tuân thủ, lựa chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng quản lý khoản vay của cán bộ tín dụng giảm sút, v.v… Tất cả những yếu tố này có thể dẫn đến sự gia tăng nợ xấu cho ngân hàng.
1.2.3.2Các dấu hiệu từ phía khách hàng
Sự trì hoãn bất thường hay không có lời giải thích của người vay trong việc nộp các báo cáo tài chính hay các khoản thanh toán theo kế hoạch. Khi ngân hàng thực hiện kiểm tra theo định kỳ hay đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, người vay cố tình lẩn tránh và có biểu hiện không thiện chí. Tài chính khách hàng không minh bạch sẽ gây ra những khó khăn cho công tác thẩm định, đánh giá khách hàng của ngân hàng.
Những thay đổi bất thường xuất hiện trong các phương pháp mà người vay sử dụng để tính khấu hao tài sản cố định, tính giá trị hàng tồn kho, trả tiền trợ cấp, v.v…Việc cấu trúc lại số dư nợ, không chia lợi tức cổ phần hay sự thay đổi trong mức phân hạng tín dụng của khách hàng cũng là những dấu hiệu cần chú ý.
Khách hàng hoạt động thua lỗ trong một hay nhiều năm, hoặc khách hàng vay vốn có khả năng rơi vào tình trạng phá sản. Doanh thu hay dòng tiền thực tế thấp hơn nhiều so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay vốn.
Năng lực kinh doanh bị hạn chế biểu hiện bởi: cơ sở sản xuất, máy móc, thiết bị lạc hậu, cũ kỹ, công suất thấp, quan hệ bạn hàng nghèo nàn, cơ cấu tài sản bất hợp lý, đầu ra không được giải quyết đích đáng làm hàng tồn kho tăng, vốn bị chiếm dụng, thị trường nguyên vật liệu đầu vào bất ổn định, vị thế kinh doanh khó khăn, chịu tác động từ bên ngoài.
Những vi phạm của khách hàng trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng đã ký kết như thông báo cho ngân hàng thông tin không chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh, sử dụng vốn sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở nên bấp bênh, v.v… Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ. Yêu cầu gia hạn nợ kém hiệu quả (vốn gốc trước mỗi lần gia hạn không giảm đáng kể).
Sự giảm sút bất thường và không được giải thích trong số dư tiền gửi của khách hàng. Những thay đổi bất lợi trong giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn cũng nên được ngân hàng quan tâm xem xét.
Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn của khách hàng (tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu), khả năng thanh khoản (tỷ lệ thanh toán hiện hành) hay mức độ hoạt động (chẳng hạn tỷ lệ doanh thu trên hàng tồn kho). Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý của khách hàng.
Khách hàng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hoả hoạn, mất mùa, dịch bệnh, v.v…Những tác động này vượt ra ngoài tầm kiểm soát của cả NHTM và người vay, có thể làm cho phương án kinh doanh bị đổ bể, gây những tổn thất lớn cho người vay khiến cho ngân hàng cũng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng.
Những dấu hiệu trên đây có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Đối với khách hàng cá nhân, những đột biến trong cuộc sống và trong công việc như tai nạn, bệnh tật, mất việc, v.v… đều ảnh hưởng tới thu nhập và khả năng trả nợ của người vay, làm tăng nguy cơ nợ xấu của ngân hàng.
Đối với khách hàng doanh nghiệp, đó là sự yếu kém trong năng lực quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đầu tư quá dàn trải dẫn đến thiếu vốn, cơ cấu nguồn vốn không hợp lý, dẫn đến kết quả kinh doanh kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ không có nguồn trả nợ cho ngân hàng. Sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường hoặc môi trường kinh doanh làm cho những doanh nghiệp không có khả năng thích ứng sẽ gặp khó khăn, thua lỗ. Doanh nghiệp đi vay bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn quá mức cũng có thể dẫn tới việc mất khả năng thanh toán hoặc thậm chí phá sản.
Ngoài ra, đạo đức khách hàng (cả cá nhân lẫn doanh nghiệp) cũng là yếu tố quan trọng quyết định tình trạng nợ xấu ngân hàng. Nhiều khách hàng cố ý lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích, vay không có ý đinh trả nợ tạo ra những khoản nợ xấu cho ngân hàng. Những kẽ hở của pháp luật tạo điều kiện cho khách hàng lừa đảo, chiếm dụng vốn ngân hàng, chây ỳ không chịu trả nợ. Hệ thống pháp luật hay thay đổi, kém minh bạch, hiệu lực thực thi yếu cũng làm gia tăng nạn tham nhũng, hối lộ trong hoạt động ngân hàng, tạo ra những khoản nợ xấu có sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng.
1.2.3.3Các dấu hiệu khác
Đó là những thay đổi bất lợi của môi trường kinh tế xã hội như: khủng hoảng kinh tế, suy thoái kinh tế, lạm phát tăng cao, biến động chính trị, những thay đổi của các chính sách vĩ mô đặc biệt là các chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, thay đổi của các biến số kinh tế vĩ mô, thay đổi của công nghệ, kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, gia tăng đối thủ cạnh tranh, v.v…
Tất cả những thay đổi này đều có thể tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Những biến động này tạo ra một môi trường kinh doanh nhiều rủi ro, bất ổn không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả bản thân NHTM cũng bị ảnh hưởng, có thể làm tiêu tan những dự tính ban đầu mà ngân hàng và khách hàng đã dựa vào đó để ra các quyết định, làm suy yếu năng lực kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Nợ xấu của ngân hàng theo đó mà tăng lên.
Nội dung quản lý nợ xấu
Những phân tích về ảnh hưởng của nợ xấu ở trên đã cho ta thấy sự cần thiết của công tác quản lý nợ xấu. Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Hoạt động quản lý nợ xấu cần được thực hiện từ khi xây dựng các biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế phát sinh nợ xấu cho đến khi áp dụng các phương thức xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh.
Hạn chế nợ xấu phát sinh
Thứ nhất, xây dựng chính sách tín dụng hợp lý cho từng thời kỳ: Đánh giá tác động của các chính sách kinh tế, tính ổn định của hệ thống chính trị và nghiên cứu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở đó, ngân hàng xác định được khả năng phát triển của từng ngành kinh tế để quyết định mở rộng hay thu hẹp tín dụng, tránh được rủi ro tín dụng do sự biến động của môi trường kinh doanh. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải chú trọng đa dạng hoá danh mục tín dụng để giảm thiểu rủi ro.
Thứ hai, xây dựng quy trình tín dụng chặt chẽ và nghiêm túc thực hiện quy trình đó. Các công việc không thể thiếu trong mỗi quy trình tín dụng của ngân hàng nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh là:
Phân tích, đánh giá khách hàng: Để đảm bảo chất lượng của khoản tín dụng, trước khi tiến hành cho vay ngân hàng cần đánh giá tình hình hiện tại và khả năng trong tương lai của khách hàng. Nội dung đánh giá bao gồm việc xem xét tư cách pháp lý và phân tích tình hình tài chính của khách hàng.
Tư cách pháp lý của khách hàng là cơ sở đầu tiên để ngân hàng xem xét cho vay. Nếu khách hàng là cá nhân thì phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi, nếu khách hàng là doanh nghiệp thì phải có đầy đủ tư cách pháp nhân.
Phân tích tình hình tài chính khách hàng thông._. qua việc đánh giá nguồn thu nhập,gia cảnh, các khoản vay khác, v.v…của khách hàng; thực hiện rà soát, phân tích báo cáo tài chính và thu thập thông tin bằng nhiều phương pháp như phỏng vấn người vay, điều tra thực tế tại cơ sở hoạt động kinh doanh của người vay, điều tra thông qua các khách hàng của người vay, v.v… Ngoài ra, ngân hàng còn phải tiến hành đánh giá năng lực cũng như tư cách đạo đức của Ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Thông qua những công việc phân tích này, ngân hàng có thể phân loại khách hàng để có chính sách cho vay phù hợp.
Phân tích dự án vay vốn của khách hàng: Bao gồm việc phân tích tính khả thi và tính hiệu quả của dự án.
Tính khả thi của dự án được đánh giá thông qua: Cơ sở pháp lý của dự án (hoạt động đầu tư của dự án phải được cấp phép và phê duyệt bởi các cấp có thẩm quyền, dự án phải phù hợp với quy hoạch phát triển vùng, miền, v.v…), nguồn lực để thực hiện dự án (phải đảm bảo thông dụng, dễ kiếm, có khả năng thay thế, có nguồn cung cấp ổn định, v.v…) và khả năng tiêu thụ sản phẩm (nhu cầu của thị trường, thói quen và thị hiếu của người tiêu dùng, sức cạnh tranh của sản phẩm, v.v…).
Xem xét tính hiệu quả của dự án thông qua: Hiệu quả kinh tế của dự án, tính hợp lý và chính xác của doanh thu (thể hiện qua sản lượng và giá thành sản phẩm), khả năng đáp ứng vốn cho dự án (nhằm làm rõ các nguồn vốn được sử dụng cho dự án từ đó xác định nhu cầu vốn thực sự của khách hàng để quyết định mức cho vay hợp lý).
Việc phân tích dự án giúp cho ngân hàng lựa chọn được những dự án tốt để cho vay và có thể tư vấn cho khách hàng trong trường hợp cần thiết.
Thẩm định về đảm bảo tiền vay: Trường hợp cho vay có tài sản đảm bảo (TSĐB) thì nội dung thẩm định cơ bản như sau: Chất lượng và khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản đảm bảo nợ vay. Tính hợp pháp của TSĐB tiền vay: tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên thế chấp, cầm cố hoặc bên bảo lãnh, được phép giao dịch và không có tranh chấp. Những rủi ro liên quan đến TSĐB tiền vay: biến động về giá cả, thị trường, tư cách pháp lý và khả năng tài chính của người bảo lãnh. Khả năng và biện pháp kiểm soát, của ngân hàng về TSĐB tiền vay. Mức độ giảm giá trị của tài sản cầm cố (thời hạn khấu hao, hao mòn tự nhiên, v.v…); kiểm tra thực tế tại hiện trường để xác định địa điểm, chất lượng thực tế, hình thức hiện vật, giá trị thực tế. Những trường hợp tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vượt quá năng lực của cán bộ ngân hàng thì có thể thuê các cơ quan chức năng, chuyên gia có hiểu biết để thẩm định.
Giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, thường xuyên đi thực tế khách hàng để xác định tình hình nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản đảm bảo và nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng như kiểm chứng lại chất lượng và tính chính xác của các báo cáo tài chính, từ đó có thể đánh giá chính xác chất lượng của khoản cho vay.
Định kỳ tiến hành phân loại nợ: Phân loại nợ là việc phân loại các khoản cho vay của ngân hàng đối với khách hàng dựa trên việc đánh giá khả năng trả nợ của người vay nhằm thực hiện tất cả các nghĩa vụ của họ theo hợp đồng tín dụng. Phân loại các khoản vay một cách hợp lý giúp ngân hàng phát hiện sớm những dấu hiệu của một khoản nợ xấu, từ đó lập ra những phương án hỗ trợ cho khách hàng hoặc những biện pháp thu hồi nợ cần thiết trước khi nợ xấu phát sinh (nếu có thể).
Trên thế giới có nhiều hệ thống phân loại nợ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Mỗi hệ thống có sự khác biệt riêng nhưng xét về bản chất có thể xác định thành 4 nhóm: (1) các khoản cho vay thông thường, (2) các khoản cho vay có mức độ rủi ro cao hơn nhưng không có dấu hiệu rõ ràng về việc giảm giá trị thu hồi, (3) các khoản cho vay có dấu hiệu hoặc theo kinh nghiệm của ngân hàng sẽ giảm giá trị thu hồi, (4) các khoản cho vay được đánh giá là mất khả năng thu hồi. IMF cũng đưa ra phương pháp phân loại nợ thành 5 nhóm bao gồm: Nợ đủ tiêu chuẩn (standard), nợ cần chú ý (watch), nợ dưới tiêu chuẩn (substandard), nợ nghi ngờ (doubtful) và nợ mất vốn (loss).
Ngay sau khi phát hiện các dấu hiệu phát sinh nợ xấu, ngân hàng phải lập tức đưa vào danh sách các khoản nợ cần chú ý để thực hiện giám sát, thu hồi nợ kịp thời.
Đôn đốc thu hồi nợ và lãi: Đối với các khoản vay có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng thu hồi đúng hạn, chỉ cần chú ý đôn đốc việc trả nợ khi gần đến thời điểm đáo hạn. Đối với những khoản vay có dấu hiệu không tốt do nguyên nhân khách quan (đối với cả hai bên), ngân hàng cần có biện pháp điều chỉnh kịp thời để đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Đối với các khách hàng vi phạm hợp đồng một cách nghiêm trọng, có nguy cơ thua lỗ, ngân hàng phải tìm mọi cách thu hồi nợ ngay cả khi khoản cho vay chưa đến thời điểm đáo hạn.
Thứ ba, kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng như: Kiểm tra việc chấp hành quy trình tín dụng, chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn, trung và dài hạn (để phù hợp với cơ cấu nguồn vốn), kiểm tra tính đầy đủ và tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ vay vốn, v.v... Quản lý tốt việc thực hiện quy trình tín dụng sẽ giúp ngân hàng phát hiện sớm và điều chỉnh kịp thời những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tín dụng của mình.
Thứ tư, chọn lọc và củng cố đội ngũ cán bộ tín dụng phù hợp với yêu cầu công việc: Cán bộ tín dụng phải được đào tạo có hệ thống, am hiểu, có kiến thức sâu sắc về thị trường, nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan, đặc biệt phải có đạo đức, liêm khiết và có tinh thần trách nhiệm cao.
Xử lý nợ xấu
Khi khoản cho vay được xác định là nợ xấu, ngân hàng cần phân tích chi tiết thực trạng tình hình tài chính của khách hàng cũng như thực trạng TSĐB, tìm ra nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu. Trên cơ sở tình hình thực tế của các khoản nợ xấu, ngân hàng có thể lựa chọn biện pháp xử lý nợ xấu theo một số cách sau:
Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ tín dụng
Nếu có thể xác định được nguyên nhân trực tiếp gây ra nợ xấu là do sai lầm hay sự vi phạm quy chế của cán bộ tín dụng thì ngân hàng có thể buộc cán bộ tín dụng làm sai phải chịu kỷ luật và gánh trách nhiệm đòi nợ, bồi thường cho ngân hàng. Nếu gây hậu quả nghiêm trọng hay cố ý lừa đảo, móc ngoặc với khách hàng để rút vốn ngân hàng thì các biện pháp mang tính cứng rắn có thể áp dụng như sa thải, truy tố trước pháp luật, v.v… Biện pháp này có tính răn đe, giáo dục cao đối với cán bộ tín dụng.
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khách hàng
Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa NHTM và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian này, khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng.
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc NHTM và khách hàng thoả thuận với nhau về việc thay đổi các kỳ hạn trả nợ đã thoả thuận trước đó. Ngân hàng có thể sử dụng biện pháp này để xử lý nợ xấu một lần hay nhiều lần nhưng chỉ khi khoản nợ đó được đánh giá là có khả năng thu hồi, và thường được áp dụng trong các trường hợp như chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thay đổi, chịu tác động của các chính sách vĩ mô mà khách hàng chưa kịp điều chỉnh, thị trường có sự biến động ảnh hưởng tạm thời đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, v.v…
Gia hạn nợ
Là việc NHTM chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian ngoài thời hạn cho vay đã thoả thuận, trong khoảng thời gian này khách hàng không phải chịu lãi suất phạt do việc trả nợ quá thời hạn đã cam kết trước đó.
Cũng như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, biện pháp này chỉ áp dụng đối với những khoản nợ xấu có khả năng thu hồi, giúp khách hàng tránh được áp lực trả nợ, có điều kiện khôi phục sản xuất kinh doanh và có nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng.
Cho vay thêm
Ngân hàng tiến hành cấp thêm tín dụng cho khách hàng, chỉ được áp dụng khi ngân hàng có cơ sở để tin rằng nếu được hỗ trợ thêm vốn khách hàng sẽ vượt qua được khó khăn hiện tại và tạo khả năng thu hồi được khoản nợ trước. Đây là biện pháp mang tính rủi ro cao và chỉ được sử dụng hạn chế.
Các biện pháp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ hay cho vay thêm được thực hiện trên cơ sở ngân hàng có đủ tài liệu: căn cứ chứng minh nguyên nhân dẫn đến khó có khả năng trả nợ, phương án khắc phục hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và khả thi, phương án nguồn trả nợ rõ ràng, cụ thể, chắc chắn, đảm bảo khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo thời hạn mới.
Xử lý TSĐB, truy đòi người bảo lãnh
Đối với các khoản nợ xấu được ngân hàng đánh giá là không có khả năng thu hồi thì ngân hàng áp dụng các biện pháp xiết nợ như:
Phát mại, thanh lý, khai thác TSĐB: Các ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phát mại TSĐB cho khoản vay hoặc chủ động xử lý TSĐB theo các hình thức như chào bán công khai trên thị trường, bán cho công ty mua bán nợ và xử lý tài sản, bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc đưa các tài sản đó vào khai thác, sử dụng.
Truy đòi người bảo lãnh: Nếu khoản nợ xấu không có TSĐB mà có sự bảo lãnh của bên thứ ba thì ngân hàng thực hiện quyền truy đòi buộc người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay.
Tuy thủ tục phát mại TSĐB cũng như đòi nợ bên bảo lãnh rất phức tạp, tốn thời gian và khả năng thu hồi đầy đủ nợ thường không cao nhưng đây lại là một biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả cho ngân hàng, do đó được các NHTM sử dụng khá phổ biến.
Bán các khoản nợ
Bằng việc tham gia thị trường mua bán nợ, ngân hàng có thể xem xét việc bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, các tổ chức tài chính hoặc các chủ thể kinh tế khác để sớm thu hồi nợ, có điều kiện tập trung vào hoạt động kinh doanh. Hơn nữa những chủ thể mua lại các khoản nợ này thường hoạt động một cách chuyên nghiệp và tận dụng được những lợi thế về thông tin, quy mô, quyền hạn và đặc biệt là không chịu áp lực bởi mối quạn hệ với khách hàng như ngân hàng nên việc thu hồi nợ sẽ hiệu quả hơn.
Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro
Ngân hàng sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp các thiệt hại do nợ xấu gây ra, khoản nợ xấu này sẽ được chuyển ra ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và truy thu. Để có thể sử dụng biện pháp này, định kỳ ngân hàng phải tiến hành phân loại nợ và trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Biện pháp này có tính chủ động cao, làm giảm nhanh chóng các khoản nợ xấu trên bảng tổng kết tài sản của ngân hàng, tuy nhiên ngân hàng cũng phải tích cực tận thu nợ sau khi đã chuyển ra theo dõi ngoại bảng.
Kiện ra Toà án
Khi ngân hàng đã sử dụng các biện pháp có thể để tạo điều kiện cũng như hối thúc khách hàng trả nợ nhưng vẫn không thể thu hồi khoản nợ thì ngân hàng có thể nhờ Toà án can thiệp. Biện pháp này thường đem lại hiệu quả không cao do khách hàng thường không còn khả năng trả nợ, hơn nữa thủ tục lại phiền hà, kéo dài.
Ngoài ra cũng còn một số biện pháp khác mà ngân hàng có thể sử dụng để xử lý nợ xấu như chuyển nợ thành vốn cổ phần (ngân hàng sẽ trở thành cổ đông của doanh nghiệp, tư vấn và tham gia điều hành, quản lý để giúp doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn), thu nợ có chiết khấu (đây là hình thức giảm giá trị khoản nợ phải trả cho doanh nghiệp, giá trị chiết khấu do ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận nhưng theo hướng có lợi cho doanh nghiệp nhằm thúc đẩy khác hàng thanh toán dứt điểm khoản nợ, ngân hàng tuy chịu thiệt nhưng cũng sớm thu hồi được một phần vốn), sử dụng sự trợ giúp của Chính phủ (đối với những khoản nợ xấu xuất phát từ các khoản cho vay theo chính sách của Chính phủ), xoá nợ (ngân hàng coi như chưa từng có khoản nợ này), v.v…
Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của một số quốc gia châu Á
Để hệ thống ngân hàng ổn định, an toàn và phát triển bền vững điều quan trọng là cần nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM, điều này đang đặt ra cho hệ thống ngân hàng Việt Nam không ít những khó khăn và thách thức về năng lực tài chính, trình độ công nghệ, chất lượng nhân sự… Tuy nhiên, tình trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam đã gây những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, làm cho tình hình tài chính của các NHTM trở nên yếu kém, khả năng cạnh tranh giảm sút. Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nợ xấu của một số nước trên thế giới sẽ cho chúng ta những gợi ý có giá trị trong quá trình quản lý nợ xấu của các NHTM Việt Nam. Dưới đây là kinh nghiệm quản lý nợ xấu của một số quốc gia châu Á có những điểm tương đồng với Việt Nam về con người, trình độ công nghệ hay đặc điểm chính trị (Trung Quốc).
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Ở đây chỉ đưa ra một biện pháp xử lý nợ xấu đã được thực hiện ở Hàn Quốc mà chưa giải quyết được vấn đề hạn chế nợ xấu phát sinh. Giải pháp thường được áp dụng cho vấn đề xử lý nợ xấu của các quốc gia là thành lập các công ty quản lý nợ trực thuộc Chính phủ. Hàn Quốc cũng tiến hành xử lý nợ xấu bằng việc thành lập công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (Kamco). Kamco được thành lập năm 1962 với địa vị pháp lý ban đầu là tổ chức trung gian của các ngân hàng Hàn Quốc, có nhiệm vụ xử lý các khoản nợ quá hạn thông qua bán đấu giá. Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, Kamco được cơ cấu lại vào 24/11/1997 và bắt đầu thực hiện xử lý các tài sản nợ đọng của các tổ chức tài chính.
Theo luật Hàn Quốc, Kamco được quyền quyết định thời điểm, khối lượng, phương thức mua và giá mua. Công tác đánh giá thực trạng sau khi mua, Kamco sẽ tự thực hiện hoặc nhờ các đơn vị trung gian khác và việc đưa ra chính sách xử lý tài sản sẽ phụ thuộc vào việc đánh giá thực trạng.
Nguyên tắc xử lý nợ xấu của Kamco là: Xử lý nhanh với giá trị thu hồi cao nhất. Quá trình phát mại tài sản rõ ràng và mua bán công bằng. Đối với tài sản có giá trị nhỏ hoặc dễ bán, Kamco thực hiện biện pháp bán càng nhanh càng tốt. Đối với tài sản có giá trị lớn, Kamco áp dụng biện pháp quảng bá giá trị tài sản. Kamco vừa xử lý nợ bằng cách bán buôn cho nhà đầu tư, vừa đòi quyền lợi trực tiếp từ các con nợ. Kết quả là Kamco đã thu hồi được khoảng 30% mệnh giá của các tài sản này.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Cũng như Việt Nam, một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tại Trung Quốc là do:
Các NHTM quốc doanh Trung Quốc phải gánh các khoản nợ trong quá trình chuyển đổi kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường và quá trình cải cách các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Theo lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các NHTM quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài chính “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đến việc đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay, gây ra và tích đọng nợ xấu.
Hệ thống kế toán của các NHTM quốc doanh trong một thời gian dài không tuân theo các nguyên tắc đảm bảo an toàn vốn, dẫn đến các số liệu lợi nhuận có giả tạo và nợ xấu không được xử lý thích đáng.
Trước đây vẫn tồn tại quan niệm rằng các doanh nghiệp Nhà nước và các NHTM quốc doanh đều thuộc sở hữu Nhà nước do đó các DNNN nên vay các NHTM quốc doanh càng nhiều càng tốt.
Trung Quốc có bốn NHTM quốc doanh là: Bank of China (BoC), Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC), Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB) và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (ABC). Từ cuối thập kỷ trước, nợ xấu trong các NHTM quốc doanh Trung Quốc đã trở thành một quả bom hẹn giờ đặt trong lòng ngành tài chính nước này. Một phần các khoản nợ xấu này là các khoản cho vay đầu tư vào bất động sản, chứng khoán và các dự án sản xuất quá tham vọng trong thời kỳ kinh tế bong bóng. Một phần lớn hơn là các khoản tín dụng gần như cấp phát cho các DNNN, trong đó có nhiều doanh nghiệp thua lỗ triền miên, phải phụ thuộc vào trợ giúp về vốn của Nhà nước thông qua các NHTM quốc doanh để tồn tại.
Theo Hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay do Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa ban hành, các khoản nợ của ngân hàng được phân làm 5 nhóm, trong đó nợ xấu bao gồm các khoản nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Khi phân loại nợ, các NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên khả năng trả nợ và dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, TSĐB, tình hình quản lý tín dụng của ngân hàng. Những quy định về phân loại nợ này đã góp phần hạn chế tình trạng nợ xấu gia tăng trong các NHTM Trung Quốc.
Có thể kể ra các biện pháp mà hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã thực hiện đề xử lý nợ xấu như sau:
Chính phủ Trung Quốc bỏ vốn thành lập bốn công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc các NHTM quốc doanh với vốn điều lệ khoảng 5 tỷ USD. Các công ty này chịu sự quản lý và chỉ đạo đồng thời của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. Các tổ chức này có thể khởi xướng thanh lý tài sản, hoán đổi nợ sang cổ phần, tổ chức đấu giá các khoản nợ và kể cả trực tiếp tham gia quản lý các doanh nghiệp vay nợ.
Tuy nhiên trong việc xử lý nợ xấu, các AMC gặp rất nhiều trở ngại và không có chút quyền lực nào trong quyết định bán nợ. Việc bán đấu giá các khoản nợ của AMC phải đợi Bộ Tài chính phê chuẩn vì đó mới là người ra quyết định cuối cùng. Kết quả xử lý đến cuối năm 2003, các AMC thu hồi được 17 tỷ USD (10% khối lượng nợ được chuyển giao) và chuyển nợ thành vốn cổ phần được 45 tỷ USD.
Tóm lại có thể thấy rằng các AMC ở Trung Quốc có tác dụng làm sạch tạm thời bảng cân đối tài sản của các NHTM quốc doanh, để giúp chúng hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi nguồn gốc sâu xa của vấn đề nợ xấu vẫn chưa được giải quyết.
Chính phủ Trung Quốc cấp vốn cho các NHTM quốc doanh, nhằm tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng này tự xử lý nợ xấu của mình. Các khoản nợ xấu chủ yếu được xử lý thông qua bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro, phần thu được từ khách hàng không đáng kể.
Kể từ năm 1998, Chính phủ Trung Quốc đã bơm hơn 260 tỷ USD vào các ngân hàng trong nước để giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng này từ 17,9% năm 2003 xuống còn 8,9% cuối tháng 04/2006. Nguyên nhân của sự cải thiện này được cho là do tổng dư nợ cho vay tăng lên, chứ không phải là do môi trường hoạt động hay thông lệ cho vay được cải thiện đáng kể. Trung Quốc nhận thức rõ mức độ trầm trọng của vấn đề nợ xấu nhưng nước này vẫn tiếp tục thực hiện việc cứu trợ này để giữ cho các NHTM và các doanh nghiệp quốc doanh tồn tại, mang lại việc làm cho hàng chục triệu lao động và do đó duy trì được ổn định chính trị - ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Tuy nhiên chính sách này cũng kích thích rủi ro đạo đức, làm cho vốn tiếp tục rót vào các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Bán các khoản nợ xấu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc bán nợ cho các nhà đầu tư nước ngoài được Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Trung Quốc (SAFE) cho phép vào khoảng tháng 12/2002, dã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường mua bán nợ Trung Quốc. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết, không chỉ trên phương diện thu hút vốn mà các nhà đầu tư nước ngoài còn đem tới kiến thức cho thị trường.
Cải cách ngay trong nội bộ ngân hàng. Giải pháp này cũng đã mang lại những hiệu quả lớn. Chẳng hạn như tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài cho các vị trí cấp cao, áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro kiểu phương Tây và cho phép người đứng đầu mỗi ngân hàng quyền sa thải những giám đốc điều hành không tốt.
Kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Năm 2005, Trung Quốc đã quyết định thay đổi chiến lược nhằm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài vào ngành ngân hàng. Thay đổi quan trọng nhất là Chính phủ Trung Quốc đã xoá bỏ quy định về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng Trung Quốc không quá 25% tổng vốn mỗi ngân hàng. Sự hiện diện lớn hơn của các ngân hàng nước ngoài không chỉ mang đến một nguồn vốn bổ sung lớn mà quan trọng hơn nó sẽ biến các ngân hàng trong nước thành những tổ chức mang tầm vóc quốc tế thông qua cạnh tranh và học hỏi từ các ngân hàng nước ngoài.
Như vậy những biện pháp trên đã phần nào ngăn ngừa sự gia tăng nợ xấu của các NHTM nhưng chủ yếu vẫn chỉ là thực hiện nhiệm vụ xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh.
Kinh nghiệm của Thái Lan
Thành lập các công ty quản lý tài sản ( AMC)
Việc xử lý nợ xấu cho các công ty tài chính và các NHTM tại Thái Lan thông qua AMC được thực thi bằng hai mô hình: từng ngân hàng tự xử lý và Nhà nước đứng ra xử lý hoặc hỗ trợ xử lý.
Mỗi NHTM lập ra một bộ phận quản lý nợ hoặc bộ phận quản lý nợ đặc biệt để chuyên trách việc xử lý các khoản nợ xấu có giá trị từ 5 triệu Baht trở xuống, những khoản nợ xấu trên 5 triệu Baht phải chuyển đến AMC xử lý.
Chính phủ thành lập Công ty quản lý tài sản trực thuộc để chuyên trách xử lý nợ khó đòi của công ty tài chính hoặc NHTM thuộc sở hữu của Chính phủ.
Hoạt động xử lý nợ khó đòi của các AMC thuộc sở hữu của các NHTM và của Chính phủ vẫn không xử lý được triệt để vấn đề nợ xấu do quyền năng bị hạn chế, phương thức xử lý phải qua nhiều tầng nấc.
Năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thành lập một AMC Trung ương có tên là Công ty quản lý tài sản Thái Lan (TAMC). Công ty này tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng từ các ngân hàng tư nhân và các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước mà chính các ngân hàng đó hoặc AMC của những ngân hàng đó không thể xử lý được. Chỉ những khoản nợ xấu có nhiều chủ nợ hoặc những khoản nợ xấu trên 50 triệu Baht mới chuyển sang TAMC xử lý.
Cẩm nang thực hành tái cơ cấu nợ
Đây là một dự án do WB tài trợ cho Ngân hàng Trung ương Thái Lan để hướng dẫn cho các NHTM thực hành tái cơ cấu nợ. Đặc điểm của phương thức này là đưa con nợ và chủ nợ ngồi lại với nhau và bảo đảm bốn tính chất: tính cân bằng, tính thống nhất, tính bắt buộc, tính linh hoạt.
Ngân hàng Trung ương Thái Lan tiếp nhận dự án này và đưa ra một quy trình cụ thể bao gồm năm bước như sau:
Bước 1: Thu thập thông tin
Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin về khách hàng và các nhân tố ảnh hưởng đến khách hàng. Những khoản nợ không trả đúng hạn được chuyển sang phân tích bước 2 và những khoản nợ chưa đến hạn nhưng có thể sẽ không trả được vì dấu hiệu ảnh hưởng xấu trong tương lai sẽ được chuyển thẳng sang bước 3.
Bước 2: Đánh giá khả năng trả nợ sơ bộ
Bước này cần lưu ý đến các vấn đề sau: Vị thế của công ty trước đây và hiện nay như thế nào? Sản phẩm của công ty sản xuất ra có được thị trường chấp nhận? Đánh giá sơ bộ tính chất sống còn ( khả năng tồn tại và phát triển) của khách hàng đó.
Nếu tình hình kinh doanh của khách hàng được đánh giá là có phát triển hoặc khách hàng đã có kế hoạch hợp lý để khôi phục hoạt động kinh doanh thì sẽ được chuyển tiếp sang bước 3. Nếu không đạt yêu cầu thì ngân hàng cần xem xét các biện pháp thu hồi vốn như xiết nợ, đòi tiền từ người bảo lãnh, đưa ra toà án… để lựa chọn phương án ít tốn kém nhất.
Bước 3: Đánh giá cụ thể
Trong bước này, ngân hàng tiến hành nghiên cứu kỹ từng khoản vay. Đối với các khoản nợ đã quá hạn, cần đánh giá mức độ luồng tiền có thể có của khách hàng dùng để trả nợ khoản vay và quyết định xem nên thanh lý hay tiến hành cơ cấu lại khoản nợ. Đối với các khoản nợ chưa đến hạn thì phải xác định xem các biện pháp phòng ngừa (như yêu cầu khách hàng bổ sung thêm TSĐB) liệu có cần thiết không, nếu không thì tiếp tục tiến hành quản lý khoản cho vay. Bước này rất phức tạp và tỉ mỉ, đòi hỏi người cán bộ ngân hàng phải rất thận trọng và có tinh thần trách nhiệm cao.
Bước 4: Xác định phương án cơ cấu lại
Bước này đòi hỏi ngân hàng phải xem xét các khả năng và điều kiện cụ thể của khách hàng để đưa ra các phương án cơ cấu lại. Ngay khi quyết định cơ cấu lại khoản nợ, ngân hàng cần tính tới việc thu hồi nợ sẽ như thế nào (thu từ nguồn nào, bao nhiêu, khi nào thì thu hết nợ) và phải vạch ra được rõ ràng các kỹ thuật, nghiệp vụ để xử lý đối với phần nợ không thể thu hồi.
Bước 5: Chọn phương án xử lý ít tốn kém nhất
Trong bước này, ngân hàng phân tích để tìm ra được những yếu tố nào đem lại phương án tối ưu. Đó là phương án đem lại giá trị lớn nhất hoặc lỗ ít nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, nó phải được xem xét, cân đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác ảnh hưởng tới phương án, điều quan trọng là khả năng thuyết phục, thương lượng của cả hai phía, ngân hàng và khách hàng.
Các biện pháp mà Thái Lan thực hiện trên đây đã có thể giải quyết vấn đề nợ xấu của các NHTM một cách khá toàn diện và triệt để: vừa tập trung xử lý nợ xấu, vừa tăng cường các biện pháp kiểm soát và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh.
Tóm lại, với những đặc trưng riêng, các NHTM Việt Nam cần có sự chọn lọc khi tiếp thu những kinh nghiệm quản lý nợ xấu của các ngân hàng nước ngoài nhằm đảm bảo những giải pháp đưa ra là cần thiết và có hiệu quả.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẮC Á – CHI NHÁNH HÀNG ĐẬU
Tổng quan về Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á –Chi nhánh Hàng Đậu
Lịch sử hình thành và phát triển
Giới thiệu chung về NHTM cổ phần Bắc Á
Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Bắc Á được thành lập vào ngày 10/09/1994 theo Quyết định số 183 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với số vốn ban đầu là 20 tỷ đồng và do các cổ đông có uy tín đóng góp. Vốn điều lệ của NHTMCP Bắc Á đã không ngừng tăng lên, năm 2007 là 940 tỷ đồng và tính đến cuối năm 2008 vốn điều lệ của ngân hàng đã đạt 1.016 tỷ đồng. Trụ sở chính của ngân hàng được đặt tại số 117 đường Quang Trung, Thành phố Vinh, Nghệ An. Đây là NHTMCP có doanh số hoạt động kinh doanh lớn nhất khu vực miền Trung, là một ngân hàng hiện đại và chuyên nghiệp.
Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á đang ngày càng phát triển và hội nhập với khu vực và thế giới. Nhận thấy cơ hội phát triển mới mở ra khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, ngân hàng Bắc Á đã không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động và hiện là một trong số các NHTMCP lớn với mạng lưới hoạt động rộng khắp ở các tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm của cả nước.
Để có thể đứng vững và phát triển, NHTMCP Bắc Á ngoài huy động vốn, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán đã không ngừng đa dạng hóa vệc cung cấp các dịch vụ: Mở tài khoản nội tệ và ngoại tệ, nhận tiền gửi, đầu tư cho vay và bảo lãnh, thanh toán trong và ngoài nước, tài trợ thương mại, chuyển tiền nhanh, kinh doanh ngoại hối, phát hành và thanh toán thẻ, séc du lịch, ngân hàng trực tuyến, v.v... Ngoài hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ, NHTMCP Bắc Á còn tham gia vào lĩnh vực kinh doanh du lịch và khách sạn. Hiện tại ngân hàng Bắc Á đang trực tiếp đầu tư, quản lí và khai thác Khách sạn Xanh (Green Hotel) đạt tiêu chuẩn ba sao tại thị xã Cửa Lò, Nghệ An.
Không dừng ở đó, NHTMCP Bắc Á còn là thành viên chính thức của Hiệp hội Thanh toán Viễn thông Liên ngân hàng Toàn cầu, Hiệp hội Các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Các ngân hàng Việt Nam và Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam. Trong 15 năm hoạt động, NHTM cổ phần Bắc Á đã vinh dự được nhận cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thành tích hoạt động kinh doanh và cờ thi đua của Ủy ban Nhân dân Tỉnh Nghệ An, là một trong mười ngân hàng được chọn tham gia vào Hệ thống Thanh toán Tự động Liên ngân hàng.
Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Hàng Đậu
Ngày 10/08/1995, NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu đã được thành lập theo giấy phép số 1908 ngày 22/05/1995, là đơn vị trực thuộc hệ thống NHTMCP Bắc Á, có trụ sở riêng, có con dấu riêng và thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc.
Ngay từ khi mới bắt đầu hình thành và đi vào hoạt động, chi nhánh Hàng Đậu vốn chỉ là một phòng giao dịch trong hệ thống của NHTMCP Bắc Á nhưng do tận dụng được một cách tối đa lợi thế về địa bàn của chi nhánh cũng như sự chỉ đạo sáng suốt của hệ thống quản lý mà phòng giao dịch Hàng Đậu đã từng bước khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với NHTMCP Bắc Á và đã được chuyển thành chi nhánh cấp II rồi đến tháng 11/2006 đã chính thức là chi nhánh cấp I theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đến nay, chi nhánh đã hoàn thành các thủ tục theo quy định và chính thức hoạt động theo mô hình trực thuộc NHTMCP Bắc Á với sự hạch toán kinh doanh độc lập vào 01/01/2008.
Chi nhánh Hàng Đậu được đặt tại khu phố cổ, là khu vực đông dân cư, đây là một trong những điều kiện giúp chi nhánh mở rộng quy mô huy động vốn dễ dàng. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, chi nhánh Hàng Đậu luôn phấn đấu đa dạng hoá các dịch vụ của mình như: thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ…giúp doanh thu của hệ thống NHTMCP Bắc Á không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng trong những năm qua.
Ngoài những thuận lợi nêu trên chi nhánh Hàng Đậu còn phải đối mặt với khó khăn từ sức ép cạnh tranh với các chi nhánh cũng như các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Do nhận thức được điều đó, chi nhánh đã không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên cũng như trình độ quản lý để chi nhánh ngày càng phát triển hơn.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu
2.1.2.1Hoạt động kinh doanh của chi nhánh
Với sự nỗ lực của NHTMCP Bắc Á và được sự giúp đỡ của các cấp, các ngành thành phố Hà Nội, đồng thời được sự chỉ đạo trực tiếp chặt chẽ của Hội sở chính, chi nhánh Hàng Đậu được thành lập vào năm 1995 với nguồn gốc ban đầu là một phòng giao dịch nhưng đến nay đã là chi nhánh cấp I của NHTMCP Bắc Á. Sau 13 năm hoạt động, chi nhánh đã không ngừng đổi mới, năng động sáng tạo vươn lên hòa nhập với cơ chế của ngành cũng như sự phát triển của đất nước để làm tốt nhiệm vụ của mình. Các hoạt động chính của chi nhánh bao gồm:
Huy động nguồn vốn từ tiết kiệm dân cư, từ các tổ chức kinh tế, nhận vốn điều chuyển từ chi nhánh Hà Nội bằng cả nội tệ và ngoại tệ.
Cho vay tiêu dùng, cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đối với hoạt động cho vay, chiết khấu chứng từ và giấy tờ có giá, chi nhánh phải thực hiện theo quy định của pháp luật và theo quy trình nghiệp vụ do NHTMCP Bắc Á ban hành:
Một là, mọi khoản cho vay thuộc phạm vi quyết định của chi nhánh thì giám đốc chi nhánh trực tiếp ký duyệt cho vay, còn đối với các dự án cho vay vượt mức phán quyết của chi nhánh thì thực hiện thẩm định và trình Tổng giám đốc xem xét quyết định.
Hai là, mọi khoản cho vay phải có tài sản đảm bảo trừ trường hợp được phê duyệt của Tổng giám đốc.
Ba là, mọi khoản cho vay đều được giải ngân và theo dõi nội bảng tại chi nhánh. Hồ sơ tín dụng và hồ sơ tài sản đảm bảo nợ vay được bảo quản và lưu trữ theo quy định hiện hành.
Đối với hoạt động bảo lãnh: Khi có khách hàng đề nghị phát hành bảo lãnh thì chi nhánh tiến hành tiếp nhận hồ sơ, thẩm định theo quy định hiện hành và trình Giám đốc quyết định.
Mở tài khoản thanh toán và tổ chức ._.ách hàng mua bảo hiểm cho đối tượng cho vay (máy móc, thiết bị, cây trồng, vật nuôi, hàng hóa, v.v…) của ngân hàng và có chính sách ưu tiên đối với các khách hàng có mua bảo hiểm trong thời gian vay vốn tại ngân hàng. Việc làm này sẽ giúp tạo nguồn vốn trả nợ cho người vay, từ đó hạn chế tổn thất cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không may gặp các rủi ro bất khả kháng.
3.2.1.2 Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng
Công tác kiểm tra, giám sát là một công cụ vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Thông qua hoạt động này có thể phát hiện, ngăn ngừa, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những vi phạm của khách hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng cũng như những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và những rủi ro đạo đức do chính cán bộ tín dụng gây ra.
Trước hết, phải thành lập phòng kiểm soát nội bộ của chi nhánh có chức năng nghiên cứu soạn thảo, bổ sung các quy trình, quy chế nghiệp vụ của ngân hàng và tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh trên cơ sở các văn bản chế độ hiện hành. Bộ phận này có thể có từ hai đến ba thành viên, hoạt động chuyên trách và chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Hội sở chính. Cần lựa chọn những cán bộ có trình độ, đạo đức tốt, đã qua nghiệp vụ tín dụng cho hoạt động này. Hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ là công cụ quan trọng để kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi sai phạm ngay trong nội bộ chi nhánh. Kiểm tra nội bộ hoạt động tín dụng bao gồm các nội dung cơ bản như: Kiểm tra việc chấp hành các chỉ tiêu tín dụng, chấp hành các thể lệ, quy trình tín dụng, chấp hành các quy định về bảo đảm tiền vay, chế độ thông tin báo cáo tín dụng, kiểm tra việc chấp hành các chỉ đạo, định hướng của ngân hàng cấp trên, v.v…
Có sự giám sát thường xuyên đối với khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay nhằm phát hiện sớm và khắc phục kịp thời những rủi ro có thể xảy ra. Khoản vay càng lớn, khách hàng càng có nhiều biểu hiện nghi vấn hoặc khách hàng vay vốn lần đầu tại ngân hàng thì việc giám sát càng phải chặt chẽ và thường xuyên hơn.
Cần xây dựng các chương trình kiểm tra định kỳ và đột xuất, đổi mới và thực hiện linh hoạt các phương pháp kiểm tra để có thể phát hiện mọi sai sót, vi phạm, tránh được sự đề phòng, đối phó của người bị kiểm tra.
3.2.1.3 Cải thiện chất lượng công tác thẩm định
Quá trình thẩm định tín dụng về bản chất là việc xác minh tính trung thực và đầy đủ của thông tin, trên cơ sở những thông tin này, đánh giá khả năng trả nợ của dự án đó để đưa ra quyết định có chấp nhận việc cho vay hay không. Nếu việc đánh giá được thực hiện tốt, ngân hàng có thể ngăn ngừa được những rủi ro ngay từ đầu bằng cách từ chối cho vay hoặc yêu cầu các biện pháp bảo đảm an toàn hiệu quả. Nếu việc đánh giá này được thực hiện không nghiêm túc, có sự móc nối, câu kết nhằm tư lợi hoặc đơn giản là sự cẩu thả, thiếu thận trọng sẽ dẫn đến nguy cơ không thu hồi được khoản nợ đã cho vay.
Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải phân tích đánh giá khách hàng một cách toàn diện và khách quan. Trong quá trình thẩm định phải quan tâm tới các chỉ số như tỷ giá, tỷ lệ lạm phát, giá vàng, giá dầu và các biến cố có thể dự đoán về kinh tế, chính trị và xã hội có liên quan.
Hiện đại hóa quy trình thẩm định dự án, ứng dụng các phần mềm, sản phẩm công nghệ phục vụ cho công tác phân tích tài chính, truy cập thông tin. Việc đầu tư trang thiết bị phải chú trọng chiều sâu, thực hiện từng bước, tránh đầu tư dàn trải, đồng thời phải tập huấn cho nhân viên sử dụng các công nghệ đó sao cho hiệu quả.
Trong quá trình thẩm định, nên phân tích, đánh giá dự án trên quan điểm động, đặt ra các tình huống để so sánh và đánh giá một cách toàn diện. Thẩm định dự án đồng thời cũng là tư vấn cho khách hàng trong việc sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Việc đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am tường sâu sắc về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng là một điều rất khó. Do vậy, ngân hàng có thể phối hợp, xin ý kiến của các chuyên gia, nhà tư vấn để có thể đánh giá và đưa ra quyết định chính xác.
3.2.1.4 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Ngân hàng cần chú trọng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng theo hướng giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là yếu tố có tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng, là cơ sở hạn chế nợ xấu phát sinh.
Để làm được điều đó, ngay trong khâu tuyển chọn nhân sự cho công tác tín dụng, ngân hàng cần phải đặt ra và thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn cơ bản như: cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành ở các trường đại học có uy tín, có khả năng ngoại ngữ và trình độ tin học tốt để có thể nghiên cứu tài liệu và sử dụng các sản phẩm công nghệ, có hiểu biết xã hội và khả năng giao tiếp tốt nhằm giúp khách hàng và ngân hàng hiểu nhau hơn, làm cho khách hàng có thiện cảm và gắn bó lâu dài với ngân hàng.
Do hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên cán bộ tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên tìm hiểu các ngành nghề, lĩnh vực khác để phục vụ cho hoạt động tín dụng. Ngân hàng cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tiếp tục đi học để nâng cao kiến thức nghiệp vụ.
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục ý thức để những người làm tín dụng hiểu và tự giác chấp hành quy trình nghiệp vụ cũng như các quy định, quy chế khác của pháp luật và ngân hàng.
Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và cập nhật những kiến thức mới cho cán bộ tín dụng để đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa ngân hàng. Cử cán bộ tín dụng tham gia các lớp tập huấn về phòng chống rủi ro, về công nghệ thông tin, mời các chuyên gia pháp lý, kiểm toán đến trao đổi kinh nghiệm về các tình huống, các vấn đề pháp luật, các thủ thuật gian lận của khách hàng nhằm nâng cao khả năng nhận biết gian lận cũng như kiến thức pháp luật cho cán bộ tín dụng.
Ngoài ra, để tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực, thế mạnh của từng cán bộ tín dụng, ngân hàng phải có sự bố trí nhân sự đúng người đúng việc, chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo từng ngành nghề, lĩnh vực nhất định để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực mình phụ trách.
Để thu hút người tài và nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên, ngân hàng nên đề ra chế độ lương thưởng và đãi ngộ hợp lý, đúng người, đúng lúc, gắn quyền lợi với trách nhiệm. Đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc cần có sự biểu dương, khen thưởng kịp thời cả về vật chất và tinh thần như nâng lương, tăng thưởng, đề bạt…Ngược lại đối với những cán bộ có sai phạm, tùy theo mức độ có thể phê bình, khiển trách hay quy trách nhiệm buộc bồi hoàn, xử lý kỷ luật, sa thải, thậm chí là truy tố trước pháp luật. Chế độ thưởng phạt phải công bằng, minh bạch, có tác dụng khích lệ hay răn đe kịp thời.
Tạo cho nhân viên thói quen, ý thức tự giác, làm việc có trách nhiệm mà trước hết người lãnh đạo phải luôn gương mẫu thực hiện.
Ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua làm việc và học tập giữa các cán bộ ngân hàng để tạo không khí làm việc sôi nổi, nâng cao hiệu quả công việc đồng thời giúp phát hiện những cá nhân xuất sắc.
3.2.1.5 Tăng cường hiệu quả thông tin tín dụng
Để thực hiện tốt công tác thẩm định tín dụng thì cần phải có hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời. Vì vậy, nâng cao chất lượng thông tin tín dụng là vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm.
Các thông tin thu thập từ phía khách hàng thông qua phỏng vấn trực tiếp, qua các báo cáo tài chính tuy không tốn nhiều chi phí và công sức nhưng không đủ độ tin cậy. Do đó, ngân hàng cần tổ chức thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: từ hồ sơ vay vốn, từ phỏng vấn, điều tra thực tế khách hàng, từ các hồ sơ chứng từ lưu trữ tại ngân hàng, từ ngân hàng đã có quan hệ với người vay, từ những người có liên quan đến khách hàng… Trước thực tế hệ thống thông tin tín dụng chưa đáp ứng đầy đủ, trong khi công tác tín dụng đòi hỏi một lượng thông tin ngày một toàn diện hơn thì việc thu thập thông tin về khách hàng và môi trường đầu tư tín dụng thông qua báo chí là một kênh thông tin cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Đây là nguồn thông tin bổ sung, hoàn thiện cho hệ thống thông tin tín dụng. Báo chí thực hiện chức năng cung cấp thông tin khách quan cho công chúng nên đã phản ánh đầy đủ về những sự kiện, vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội. Trên cơ sở những thông tin thu thập được từ nhiều nguồn, đánh giá khách hàng đúng với thực chất vốn có, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định và hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Điều cần lưu ý là thông tin đưa vào quá trình phân tích, dù được lấy từ bất cứ nguồn nào, thì cũng cần phải qua sự sàng lọc kỹ càng.
Khai thác thường xuyên nguồn thông tin từ CIC để phục vụ cho công tác tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải chú trọng thực hiện nghĩa vụ khai báo, cung cấp thông tin cho CIC một cách đầy đủ, trung thực và đúng hạn. Đẩy mạnh hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng.
Không chỉ thu thập thông tin về khách hàng mà ngân hàng còn phải quan tâm tới các thông tin ngành, thông tin vĩ mô phục vụ cho công tác dự báo và lập kế hoạch.
Sau giai đoạn thu thập thông tin, ngân hàng cần tiến hành tổng hợp và phân tích để thiết lập một phần mềm quản lý khách hàng, thống kê và lưu trữ thông tin. Nếu có điều kiện, ngân hàng nên thành lập một bộ phận chuyên thu thập và xử lý thông tin tín dụng.
3.2.1.6 Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh ngân hàng để thu hút khách hàng
Việc đẩy mạnh quảng bá, nâng cao hình ảnh và uy tín của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn cũng như có thể giữ chân được các khách hàng uy tín, từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt để cho vay, góp phần hạn chế nợ xấu.
Để làm được điều đó, trước hết các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp phải đa dạng và phù hợp với nhu cầu khách hàng. Vì vậy, ngân hàng cần chú trọng triển khai các sản phẩm mới, cải thiện chất lượng dịch vụ với mức phí hợp lý và phong cách phục vụ tận tình, chuyên nghiệp. Để nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên, hàng tháng chi nhánh có thể tổ chức bình bầu về thái độ và phong cách làm việc của nhân viên và có những phần thưởng thích đáng.
Chủ động tìm hiểu khách hàng, tiếp cận và gửi các tài liệu giới thiệu về chi nhánh cho các đối tượng khách hàng mà ngân hàng đang nhắm tới, quảng bá hình ảnh ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng hay tham gia tài trợ cho các chương trình xã hội, v.v… cũng là các giải pháp để khách hàng biết đến ngân hàng nhiều hơn. Đồng thời để tận dụng nguồn nhân lực sẵn có, ngân hàng nên chú trọng nâng cao mối quan hệ với các khách hàng hiện tại thông qua việc tư vấn về tài chính, về chiến lược kinh doanh cho khách hàng.
Giảm lãi suất và giảm phí dịch vụ một cách hợp lý, giảm những thủ tục rườm rà không cần thiết nhằm giữ chân khách hàng. Chất lượng dịch vụ được nâng cao trong khi mức phí dịch vụ không tăng, thậm chí còn giảm, chắc chắn sẽ đem lại sự hài lòng cho khách hàng và ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, tạo điều kiện đa dạng hoá khách hàng, giảm thiểu rủi ro.
3.2.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại chi nhánh Hàng Đậu
Trên cơ sở phân tích chi tiết thực trạng tài chính khách hàng, các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu, thực trạng TSĐB và thiện chí trả nợ của khách hàng, ngân hàng tiến hành phân loại nợ xấu và xây dựng kế hoạch xử lý rõ ràng, cụ thể. Các phương án xử lý nợ xấu mà ngân hàng có thể áp dụng là:
3.2.2.1 Tăng cường đôn đốc thu hồi nợ trực tiếp
Thường xuyên gửi các thông báo nợ xấu đến khách hàng và đôn đốc khách hàng trả nợ, nói rõ các biện pháp xử lý cứng rắn có thể áp dụng nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình. Đồng thời thông báo tình trạng nợ xấu của khách hàng đến người bảo lãnh, cơ quan chủ quản của khách hàng (nếu có) để phối hợp xử lý.
Ngân hàng cần chủ động cùng khách hàng rà soát các khoản nợ phải thu, các tài sản không còn sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả của người vay để có biện pháp xử lý, thu hồi nhằm tạo nguồn vốn trả nợ ngân hàng.
Áp dụng cơ chế thưởng theo phần trăm giá trị nợ xấu thu hồi được cho cán bộ thu hồi nợ (nếu khoản nợ xấu đó phát sinh không phải do lỗi của người thu hồi). Không chỉ vậy, ngân hàng cũng nên có cơ chế thưởng thích đáng cho những cá nhân và tổ chức khác tích cực tham gia trong quá trình thu hồi nợ của ngân hàng.
Đối với các khoản nợ xấu có nguyên nhân xuất phát từ cán bộ, nhân viên ngân hàng thì phải quy trách nhiệm đòi nợ, buộc bồi hoàn đồng thời tiến hành xác minh mức độ nghiêm trọng của hành vi sai phạm để có biện pháp xử lý kỷ luật thích hợp.
Đối với những khoản nợ xấu xuất hiện do các nguyên nhân khách quan, bất khả kháng đối với khách hàng thì phải tiến hành xác minh mức độ thiệt hại cụ thể để có biện pháp xử lý đúng đắn. Có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích trả nợ như miễn, giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt, tạm hoãn việc trả lãi, v.v… cho các khách hàng có thiện chí trả nợ gốc.
Ngoài ra, đối với những khách hàng do ảnh hưởng của các nguyên nhân khách quan dẫn đến nợ xấu và có khả năng phục hồi trong tương lai thì ngân hàng có thể xem xét các biện pháp cơ cấu lại nợ trên cơ sở nguồn thu đảm bảo và phương án trả nợ khả thi để tạo điều kiện phục hồi cho khách hàng và cũng chính là tạo cơ hội thu hồi vốn cho ngân hàng.
3.2.2.2 Thành lập Ban xử lý nợ của chi nhánh
Ban xử lý nợ chuyên trách hoạt động theo quy chế riêng và giao trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên. Các thành viên của Ban xử lý nợ sẽ chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu và không trực tiếp tham gia cho vay. Việc tách bạch giữa hoạt động cho vay với công tác xử lý nợ sẽ tránh được tình trạng cán bộ tín dụng do thân quen với khách hàng hoặc do không muốn mọi người biết khoản cho vay của mình có chất lượng xấu mà cho khách hàng vay them hay gia hạn nợ không hợp lý, làm tăng thêm rủi ro cho ngân hàng. Cán bộ làm công tác xử lý nợ phải là những người giàu kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng và xử lý nợ, am tường pháp luật. Đối với cán bộ xử lý nợ cũng cần có chế độ thưởng phạt hợp lý trên cơ sở đánh giá hiệu quả thu hồi nợ.
3.2.2.3 Tiếp tục khai thác, xử lý các khoản nợ xấu có TSĐB
Ngay khi một khoản nợ trở thành nợ xấu, ngân hàng cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hồ sơ vay vốn, hồ sơ thủ tục đảm bảo tiền vay của các khoản nợ xấu, đồng thời thường xuyên cập nhật các quy định mới có liên quan đến vấn đề TSĐB để yêu cầu khách hàng có biện pháp bổ sung, hoàn thiện hồ sơ kịp thời, làm cơ sở cho việc xử lý tài sản về sau, tránh xảy ra tình trạng tranh chấp, lừa đảo hay hồ sơ giấy tờ không hợp pháp, hợp lệ.
Ngân hàng cần đánh giá tính khả mại cũng như tính luân chuyển của TSĐB để lựa chọn phương án xử lý phù hợp: Tự bán trên thị trường, bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá hoặc bán cho công ty mua bán nợ. Có thể cho khách hàng tự xử lý tài sản để trả nợ dưới sự giám sát của ngân hàng. Biện pháp này được áp dụng khi khách hàng có thiện chí trả nợ nhằm đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng.
Trong quá trình xử lý TSĐB, ngân hàng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương để việc xử lý dễ dàng hơn, giảm thiểu chi phí cũng như rút ngắn thời gian xử lý nợ.
3.2.2.4 Bán các khoản nợ xấu
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia trên thế giới cho thấy việc các NHTM bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ tỏ ra là một giải pháp hữu hiệu trong việc xử lý nợ xấu, làm trong sạch bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Khi đó, các ngân hàng có thể tập trung cho hoạt động kinh doanh chính của mình. Do vậy, nếu không muốn kéo dài thời gian thu hồi nợ, ngân hàng có thể tiến hành bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, các ngân hàng hoặc các chủ thể kinh tế khác. Theo Quy chế mua bán nợ của các TCTD, một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có thể được mua, bán nhiều lần; việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ; việc chuyển giao khoản nợ được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ từ bên bán nợ sang bên mua nợ.
Để có thể thu hồi nợ ở mức tối đa, ngân hàng phải hoàn thiện các loại giấy tờ, hồ sơ cần thiết liên quan đến khoản nợ. Cho đến nay, biện pháp này vẫn chưa được sử dụng nhiều ở chi nhánh, hơn nữa thị trường mua bán nợ ở Việt Nam còn tương đối hạn chế, vì vậy ngân hàng cần có sự nghiên cứu kỹ và học tập kinh nghiệm của các ngân hàng khác.
Chuyển nợ thành vốn góp cổ phần
Để thực hiện biện pháp này, ngân hàng cần xem xét kỹ về khả năng phát triển trong tương lai của khách hàng. Việc chuyển nợ thành vốn góp của ngân hàng thực chất là việc ngân hàng tiến hành đầu tư vào doanh nghiệp. Do vậy, để hoạt động đầu tư này mang lại hiệu quả ngân hàng cử các cán bộ giỏi đóng vai trò tham mưu, cố vấn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần tìm nguồn vốn đối ứng cho khoản nợ đã chuyển thành vốn góp.
Trích lập và sử dụng hợp lý dự phòng rủi ro
Việc trích lập dự phòng rủi ro là nhằm tạo ra nguồn tài chính cho việc xử lý nợ xấu của ngân hàng. Về nguyên tắc, việc sử dụng dự phòng rủi ro chỉ được thực hiện cuối cùng, sau khi các biện pháp xử lý nợ xấu khác không mang lại hiệu quả. Do quy mô quỹ dự phòng rủi ro của chi nhánh hiện nay là khá nhỏ bé nên việc sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản nợ xấu cần phải tiến hành hợp lý trên cơ sở đánh giá khả năng thu hồi của món vay. Với các khoản nợ còn có khả năng thu hồi thì nên hạn chế tối đa việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro. Tốt nhất, ngân hàng nên định ra khoảng thời gian tối đa để xử lý nợ bằng các biện pháp xử lý nợ khác trước khi thực hiện biện pháp này, giá trị khoản nợ càng lớn thì thời gian này càng dài.
Đồng thời, ngân hàng cần tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức cho cán bộ tín dụng trong việc tích cực tận thu nợ sau khi đã chuyển hạch toán ngoại bảng.
Ngoài ra, để nâng cao khả năng xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro thì cần cải thiện năng lực tài chính của ngân hàng. Chi nhánh có thể xem xét các phương án tăng vốn như vay của các cổ đông hiện hành hay huy động vốn thông qua trái phiếu dài hạn…
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về công nghệ, tín dụng và kỹ năng quản lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những biến động kinh tế mạnh mẽ trong năm qua, phần lớn các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn. Nếu không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía Nhà nước, nhiều doanh nghiệp có thể sẽ không còn khả năng bám trụ trong khó khăn kinh tế, đe dọa đến chất lượng tín dụng của nhiều ngân hàng Việt Nam, trong đó có chi nhánh Hàng Đậu.
Tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động phù hợp cho các tổ chức định mức tín nhiệm ra đời và hoạt động tại Việt Nam. Với vai trò là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập và chuyên nghiệp, nó sẽ là sự hỗ trợ đắc lực cho các ngân hàng trong việc cung cấp các thông tin khách quan, chính xác để đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp.
Cho phép các tổ chức nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam. Ngay từ năm 2001, Chính phủ Trung Quốc đã cho phép hình thành thị trường mua bán nợ xấu ngân hàng với sự tham gia của rất nhiều thành phần quốc doanh, tư nhân, trong nước và quốc tế. Trung Quốc quan niệm rằng, nếu chỉ để cho các thành phần quốc doanh mua bán trên thị trường này, quá trình định giá sẽ không thực sự cạnh tranh. Việc mua bán nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay diễn ra rất khó khăn, phức tạp, kéo dài thậm chí từ hai đến ba năm. Cho phép các lực lượng nước ngoài tham gia thị trường này sẽ là giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ Việt Nam phát triển nhanh nhất .
Hoàn thiện các văn bản pháp lý về vấn đề xử lý TSĐB khoản vay theo hướng tăng quyền tự chủ cho các NHTM cũng như rút ngắn thời gian xử lý tài sản. Cho phép các NHTM được chủ động hoàn thiện các thủ tục pháp lý đối với TSĐB, nhất là bất động sản, nhằm tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát mại, khai thác và sử dụng TSĐB.
Đẩy nhanh tiến độ thành lập trung tâm thông tin tín dụng tư nhân theo kế hoạch hợp tác với Tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và Công ty cổ phần đầu tư PCB (PCBH). Đây được xem là một bước tiến quan trọng đối với ngành ngân hàng Việt Nam. Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân đầu tiên tại Việt Nam sẽ cung cấp thông tin tín dụng về các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các cá nhân cho các ngân hàng. Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân được hình thành do nhu cầu của thị trường thường hoạt động tốt hơn các trung tâm thông tin tín dụng công trong việc hỗ trợ cho các giao dịch tín dụng. Các trung tâm này sẽ thu thập thông tin từ nhiều nguồn rộng rãi như từ nhà cung cấp tín dụng thương mại, người bán lẻ, Tòa án và các công ty cung ứng dịch vụ, v.v...
Hiện nay, các TSĐB cho khoản vay ở các ngân hàng nước ta chủ yếu vẫn là bất động sản. Do vậy, phát triển thị trường bất động sản cũng chính là tạo điều kiện cho các ngân hàng xử lý nợ xấu dễ dàng hơn. Thị trường bất động sản ở nước ta chưa phát triển đúng tầm và còn một số hạn chế: Thị trường phát triển không đồng đều và thiếu ổn định, tính cạnh tranh và minh bạch của thị trường từ khâu tạo lập đến hoạt động giao dịch mua bán còn yếu. Để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, khắc phục được những khuyết tật, trong thời gian tới Chính phủ cần phải: Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy và quản lý thị trường bất động sản phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và lành mạnh; bổ sung hành lang pháp lý để hình thành các định chế tài chính phi ngân hàng như: quỹ đầu tư bất động sản, quỹ phát triển nhà ở, quỹ tiết kiệm nhà ở nhằm thu hút các nguồn vốn cho thị trường; cân đối cung - cầu hàng hoá cho thị trường bất động sản, đặc biệt là bất động sản nhà ở, bảo đảm chủ động bình ổn thị trường theo quy luật cung cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội; quản lý và nâng cao năng lực các chủ thể tham gia thị trường bất động sản trong đó có các tổ chức hỗ trợ thị trường như các tổ chức, cá nhân định giá, các tổ chức, cá nhân môi giới, tư vấn về bất động sản; hoàn thiện hệ thống thông tin, dự báo thị trường bất động sản, v.v…
Chính phủ cùng NHNN cần tăng cường chỉ đạo và đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu các NHTM Việt Nam, giúp các ngân hàng lành mạnh hoá tình hình tài chính, trong đó bao gồm việc ngăn ngừa và xử lý nợ xấu của các NHTM. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách kinh tế toàn diện.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng quản lý tình hình tài chính khách hàng một cách chặt chẽ hơn: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế, bao gồm: phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán không dung tiền mặt. Trên cơ sở đó, tiến hành kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế; tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham gia; hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp khách quan; phổ biến kiến thức và tuyên truyền về thanh toán không dùng tiền mặt; có chính sách ưu đãi về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán, đặc biệt khuyến khích thanh toán không dung tiền mặt bằng chính sách thuế giá trị gia tăng; xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý, v.v...
Nâng cao hiệu quả giám sát của Thanh tra NHNN. Quá trình thanh tra cần ngăn chặn xu hướng cạnh tranh không lành mạnh, buông lỏng các điều kiện tín dụng của các ngân hàng. Hiện nay, thẩm quyền của Thanh tra NHNN gắn với chức năng quản lý Nhà nước, do đó việc giám sát mang nặng tính hành chính, nghiêng về xử lý sai phạm, khắc phục hậu quả mà thiếu những khuyến nghị cần thiết và kịp thời đối với NHTM. Mô hình tổ chức và cơ chế điều hành hoạt động thanh tra ngân hàng còn chồng chéo và kém hiệu lực. Thanh tra NHNN còn chịu sự điều chỉnh đồng thời của Luật NHNN và Luật Thanh tra, nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa bản chất thanh tra chuyên ngành ngân hàng với cơ quan thanh tra của các bộ, ngành khác.
Hoàn thiện khung pháp lý về giám sát tài chính ngân hàng, những nội dung đổi mới Thanh tra NHNN cần được cụ thể hóa trong Luật NHNN sửa đổi. Về lâu dài, cần có Luật Giám sát hoạt động ngân hàng, để có thể xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin hiện đại.
Hoàn thiện phương pháp kiểm toán và kiểm soát nội bộ trong các TCTD, tiến tới các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng, bao gồm các quy định mang tính ngăn ngừa và các quy định mang tính bảo vệ, các quy định về chính sách quản lý các TCTD và hoạt động ngân hàng.
Ban hành quy chế chuyển nợ thành vốn góp cổ phần cho các TCTD nhằm tạo khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động này.
3.3.3 Kiến nghị với các Bộ, Ngành có liên quan
Với Bộ Tài chính: Hiện nay, cơ quan thuế vẫn yêu cầu các ngân hàng phải nộp thuế sử dụng đất đối với TSĐB trong thời gian đất được giao cho ngân hàng xử lý, thu hồi nợ. Quy định này là chưa hợp lý và cần phải bãi bỏ.
Với Tổng cục địa chính, Sở Tư pháp, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an và các cấp chính quyền địa phương: Cần có sự phối hợp và hỗ trợ chặt chẽ hơn nữa với các NHTM trong việc xử lý TSĐB, đẩy nhanh tiến độ thi hành án, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm bán đấu giá tái sản, đơn giản hoá thủ tục cũng như rút ngắn thời gian xử lý TSĐB liên quan tới các vụ án.
KẾT LUẬN
Đúng như câu ví von “ngân hàng là mạch máu của nền kinh tế”, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nước nhà, trở thành kênh huy động và cung ứng vốn chính cho nền kinh tế. Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, để thực hiện chiến lược phát triển chung của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế thành công, các ngân hàng Việt Nam nói chung và NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu nói riêng đang thực hiện đổi mới mạnh mẽ trên tất cả các khía cạnh, dần hướng tới các chuẩn mực tài chính quốc tế của một ngân hàng hiện đại, hoạt động an toàn và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng buộc các NHTM Việt Nam phải tích cực giải quyết một trong hạn chế lớn nhất của mình là vấn đề nợ xấu. Cho dù còn nhiều tranh luận liên quan đến tỷ lệ nợ xấu thực sự của các ngân hàng Việt Nam nhưng những chuyển biến tích cực trong hoạt động kiểm soát và xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây là một kết quả đáng ghi nhận.
Tôi hy vọng thông qua việc đi sâu phân tích thực trạng hoạt động quản lý nợ xấu tại NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu, những đóng góp của khóa luận có thể góp phần tìm ra các giải pháp tối ưu nhằm kiểm soát và xử lý triệt để nợ xấu, lành mạnh hoá tình hình tài chính và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của các NHTM Việt Nam trên con đường hội nhập còn nhiều chông gai, thử thách phía trước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Huỳnh Thế Du (2005), “Thành công và thất bại của các mô hình xử lý nợ xấu”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, 1, tr. 55-57.
PGS. TS. Phạm Quang Trung (2005), “Kiểm soát nợ khó đòi nhìn từ góc độ ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, 4, tr. 29-31.
Thảo Nguyên (2005), “Bàn về xử lý nợ tồn đọng tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, 8, tr. 42-44.
Trần Thanh Long (2006), “Hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 11, tr. 74-75.
TS. Phan Minh Ngọc (2007), “Nợ khó đòi trong ngành ngân hàng Trung Quốc - Một số liên hệ với Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, 2, tr. 23-26.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh chi nhánh Hàng Đậu các năm 2006, 2007, 2008.
Học viện Ngân hàng (2002), Giáo trình Tín dụng Ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội.
Peter S. Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các NHTM Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
Một số website:
http:// www.nasbank.com.vn
http:// www.saigontimes.com.vn
http:// www.sbv.gov.vn
http:// www.vneconomy.com.vn
http:// www.vnexpress.net
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMC Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DS Doanh số
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSĐB Tài sản đảm bảo
TCTD Tổ chức tín dụng
USD Đồng đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
WB Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động bằng nội tệ theo kỳ hạn của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 36
Bảng 2.2: Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của NHTMCP Bắc Á -Chi nhánh Hàng Đậu 37
Bảng 2.3: Kết cấu dư nợ theo loại hình kinh tế đối với VND của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 38
Bảng 2.4: Cơ cấu tín dụng theo nhóm khách hàng chi nhánh Hàng Đậu 39
Bảng 2.5: Kết cấu dư nợ theo thời gian NHTMCP Bắc Á–Chi nhánh Hàng Đậu 39
Bảng 2.6: Khả năng thu nợ trong hoạt động tín dụng của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 41
Bảng 2.7: Kết quả kinh doanh một số hoạt động trung gian cung cấp dịch vụ tài chính của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Hàng Đậu 42
Bảng 2.8: Tình hình nợ xấu của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 46
Bảng 2.9: Kết cấu nợ xấu theo đối tượng khách hàng của chi nhánh Hàng Đậu 48
Bảng 2.10: Tác động của nợ xấu kết quả kinh doanh của chi nhánh Hàng Đ ậu 49
Biểu đồ 2.1: Tình hình trích lập dự phòng rủi ro của NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 47
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức tại NHTMCP Bắc Á - Chi nhánh Hàng Đậu 34
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức quản lý tín dụng của chi nhánh 43
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1910.doc