Tài liệu Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: ... Ebook Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH : BẢO HIỂM XÃ HỘI
UBND : UỶ BAN NHÂN DÂN
HĐND : HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
XHCN : XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
NSNN : NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
BHXHVN : BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
BHYT : BẢO HIỂM Y TẾ
ASXH : AN SINH XÃ HỘI
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH ở Việt Nam từ 2003 – 2007 42
B¶ng 2: Tỷ lệ đóng góp (%) trên tổng quỹ lương qua các thời kỳ 45
Bảng 3: Tỷ lệ chi các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH và từ Ngân sách Nhà nước 46
Bảng 4: Tình hình thu Quỹ BHXH ở Việt Nam từ năm 2004 – 2007 47
B¶ng 5: Bảng tổng hợp lãi từ đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2000 – 2005 48
Bảng 6: Tình hình nợ đọng BHXH 49
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Trang
Sơ đồ 1: Trình tự xây dựng thể chế chính sách về BHXH 20
Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức BHXH Việt Nam 31
ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN TỔNG SỐ LAO ĐỘNG THAM GIA BHXH QUA CÁC NĂM 43
ĐỒ THỊ BIỂU THỊ NỢ BHXH 49
MỞ ĐẦU
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi đướng lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân. Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm phục vụ cho mục đích trên của Nhà nước ta. Vì vậy, chính sách bảo hiểm xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta hết sức chú trọng và liên tục hoàn thiện kể từ khi Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập cho đến nay. Luật BHXH đã được quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua và Chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 13/2006/L-CTN ngày 12/7/2006 công bố Luật BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Như vậy sau hơn 60 năm từ khi thành lập nước, đến nay nước ta đã có khung pháp lý cao nhất để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động BHXH, tạo cơ sở mới cho việc mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, ngày một đáp ứng nhu cầu của người lao động nói riêng và của toàn dân nói chung. Tuy vậy để luật BHXH thực sự đi vào cuộc sống người lao động thì cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước.
Luật BHXH đã có hiệu lực hơn một năm, nhưng dường như vai trò quản lý của của nhà nước đối với hoạt động BHXH mới chỉ dừng lại ở việc ban hành các văn bản luật, văn bản hướng dẫn thi hành, các biện pháp quản lý cụ thể vẫn chưa thiết thực. Thậm chí các văn bản ban hành xuống vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì thế nhiều vấn đề cụ thể về BHXH chưa rõ ràng, nhiều khúc mắc, kiến nghị của người lao động chưa được giải quyết thoả đáng.
Để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước trong việc quản lý hoạt động BHXH, tôi lựa chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp: “Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”.
Mục tiêu đề tài: Nghiên những vấn đề lý luận có liên quan, thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH. Từ đó đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu: Là vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước đối với hoạt động BHXH ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Là các quan hệ xã hội xuất hiện trong lĩnh vực BHXH được luật bảo hiểm xã hội điều chỉnh; thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua.
Phương pháp nghiên cứu: Thu thập tài liệu, tư liệu, số liệu; phân tích tổng hợp; so sánh; đồ thị; tham khảo ý kiến chuyên gia.
...
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục viết tắt đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội;
Phần 2: Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam;
Phần 3: Giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
PHẦN 1SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước
a. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý
Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C.MÁC ( Các Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, trang 23): “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.
Tức theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.
Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau ,các lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Quản lý nhà nước:
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước tập 1 (trang 407): “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.uản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
b. Đặc điểm quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nươc ta rút ra các đặc điểm của quản lý nhà nước như sau:
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối lên đối tượng quản lý phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.
c. Cơ cấu hệ thống và các yếu tố tạo nên hoạt động quản lý nhà nước
Cơ cấu, hệ thống quản lý nhà nước bao gồm các yếu tố sau đây tạo thành: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong quá trình quản lý.
Chủ thể quản lý nhà nước được xác định theo vùng lãnh thổ trên cơ sở hình thành các đơn vị hành chính và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo quy định của pháp luật. Hệ thống quản lý nhà nước được xây dựng theo hệ thống chức năng chiều dọc, tạo ra cơ cấu quản lý phù hợp với chức năng quản lý của từng lĩnh vực theo các cơ quan nhà nước và theo nghành. Hệ thống quản lý nhà nước là một tập hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội được nhà nước uỷ quyền. Trong các cơ quan tổ chức đó, cán bộ, công chức nhà nước được xác định cụ thể về quyền và nghĩa vụ.
Xác định đối tượng quản lý nhà nước giúp cho ta trả lời câu hỏi “quản lý ai” và suy cho cùng đối tượng quản lý nhà nước chính là con người, hay cụ thể hơn là hành vi cong người trong xã hội. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân chia đối tượng quản lý nhà nước ra nhiều loại, như các cấp độ đối tượng quản lý (con người, tập thể, toàn bộ hệ thống tổ chức).
Trong quản lý nhà nước cần làm rõ khách thể của quản lý nhà nước. Khách thể của quản lý nhà nước chính là hệ thống các hành vi, hoạt động của con người, các tổ chức con người trong cuộc sống xã hội, là hệ thống trong đó bao trùm các lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất các giá trị vật chất và tinh thần cũng như các điều kiện sống của con người trong xã hội. Có thể chia khách thể của quản lý nhà nước theo các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng...
Để xem xét được mối quan hệ giữa chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và khách thể quản lý cần xem xét mối quan hệ này trong từng lĩnh vực cụ thể.
Các yếu tố tạo nên hoạt động của quản lý nhà nước: Mục đích nhiệm vụ của quản lý nhà nước; phương pháp quản lý nhà nước và chương trình quản lý nhà nước.
Mục đích, nhiệm vụ của quản lý nhà nước là mục tiêu hướng tới của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý.
Phương pháp quản lý nhà nước là phương thức, cách thức mà chủ thể quản lý tác động lên khách thể quản lý (hành vi, đối tượng quản lý) nhằm đạt được những mục đích quản lý. Phương pháp quản lý nhà nước thể hiện ý chí của nhà nước, nó phản ánh thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và được biểu hiện dưới những hình thức nhất định. Các phương pháp quản lý trong hoạt động quản lý nhà nước là: thuyết phục, cưỡng chế, hành chính, kinh tế, theo dõi, kiểm tra; ngoài ra còn những phương pháp riêng áp dụng trong quá trình thực hiện những chức năng riêng biệt hoặc những khâu những giai đoạn riêng biệt của quá trình quản lý.
Chương trình quản lý được diễn ra kế tiếp nhau theo trình tự thời gian tương ứng với việc giải quyết một số nội dung trong quản lý như: đánh giá tình hình các vấn đề cần giải quyết; chuẩn bị dự thảo quyết định; thông qua quyết định; ban hành quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra đánh giá thực hiện các quyết định.
Tóm lại, quản lý nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố nội tại trong nó. Muốn đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước thì cần phải phân tích cơ cấu quản lý tạo nên hoạt động quản lý và sự tác động của từng yếu tố đó đến hoạt động quản lý.
2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm xã hội
a. Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Cuộc sống con người là sự đấu tranh với chính bản thân mình, với xã hội xung quan nhằm đạt được một vị trí, một thế lực trong xã hội đó. Con đường chân chính để đạt mục đích đó là lao động. Trong quá trình lao động, con người không ngừng nỗ lực, phấn đấu để đạt kết quả cao nhất. Một trong những mục đích cuối cùng của con người là kinh tế. Đó cũng là một trong những mục tiêu của sự phát triển. Trong lao động, con người làm ra của cải cho chính bản thân mình và cho xã hội. Tuy vậy không phải bất cứ lúc nào sự nỗ lực của con người cũng được đền đáp xứng đáng. Có những sự nỗ lực đã gặp phải những khó khăn, chắc trở hoặc những rủi ro ngoài ý muốn do điều kiện tự nhiên, môi trường sống hoặc môi trường xã hội làm cho con người gặp khó khăn trong cuộc sống của mình, mà ta gọi chung là rủi ro trong lao động. Những rủi ro này có thể là: ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu, tử vong...; những rủi ro này làm cho người lao động giảm khả năng lao động dẫn đến việc làm giảm hoặc mất thu nhập, nói một cách chung nhất là gặp khó khăn về kinh tế trong cuộc sống hiện tại. Để khắc phục những rủi ro này thì chính sách bảo hiểm xã hội được coi là một chính sách mang tính chất xã hội có hiệu quả tốt, đáp ứng nhu cầu của phần lớn người lao động và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Vậy bảo hiểm xã hội là gì?
Theo tổ chức Lao động thế giới (ILO): “Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng việc hoặc bị giảm bớt nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, gây mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và tự cấp cho các gia đình đông con”[ Công ước quốc tế 102 ].
Theo điều 3.1 Luật Bảo hiểm xã hội do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Từ các quan điểm về BHXH trên chúng ta có thể khái quát về BHXH như sau:
BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập trong các trường hợp được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia và có sự ủng hộ của Nhà nước.
Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH cho người lao động nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội.
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập ( có thể coi là số tiền ) bị biến động giảm hoặc mất do các trường hợp được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội của những người lao động tham gia BHXH.
Bảo hiểm xã hội đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những người lao động có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm bảo sự “thăng bằng” về thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Điều này đã góp một phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
b. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội
Từ việc nghiên cứu khái niệm về bảo hiểm xã hội ở trên ta có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản của BHXH như sau:
Quỹ tài chính tập trung được hình thành (nguồn thu quỹ BHXH ) thông qua sự đóng góp của các bên tham gia BHXH: Người lao động, người sửa dụng lao động, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và có sự hỗ trợ của nhà nước, có thể được hình thành từ các nguồn thu hợp pháp khác ( nguồn này ở Việt Nam không đáng kể và hầu như không có).
Việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt buộc đối với mọi người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Trừ một số trường hợp, người lao động có thu nhập không ổn định do công việc làm thường xuyên không ổn định, hoặc theo mùa vụ.
Nguồn đóng của các bên tham gia được đưa vào quỹ riêng độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để chi trợ cấp cho các chế độ và hoạt động BHXH.
Số tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ được đầu tư sinh lời nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Quyền hưởng các chế độ trợ cấp BHXH dựa trên nguyên tắc phải gắn liền với nghĩa vụ đóng góp BHXH của người lao động.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm xã hội
Hoạt động BHXH là hoạt động chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Song khái quát lại thì hoạt động BXHH chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản sau:
a. Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển của mỗi nền kinh tế là minh chứng cho trình độ văn minh của xã hội. Xã hội càng văn minh thì cuộc sống của con người càng được đảm bảo vững chắc. Trong bất cứ hoạt động nào, thì trình độ phát triển của xã hội cũng là một nhân tố quyết định tới việc chi phối các hoạt động của xã hội đó. Hoạt động BHXH cũng là một chính sách không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng phát triển thì các hoạt động thu, quản lý quỹ, chi trả các chế độ trợ cấp trở nên chuyên nghiệp hơn. Vấn đề hình thành quỹ, công tác ban hành luật BHXH, công tác tuyên truyền nhận thức về BHXH và cuối cùng là công tác quản lý hoạt động BHXH cũng trở nên chuyên môn hoá hơn. Trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho bánh xe hoạt động BHXH trở nên “trơn chu” hơn, hiệu quả hơn.
b. Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước
Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước phản ánh mức độ “trơn chu”, chuyên nghiệp hoá của toàn bộ hoạt động BHXH. Các chính sách càng rõ ràng, càng phù hợp với điều kiện thực tế khách quan bao nhiêu thì hoạt động BHXH càng chuẩn xác bấy nhiêu. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nào có hệ thống chính sách pháp luật càng rõ ràng, càng minh bạch thì các hoạt động trong nội tạng của quốc gia đó càng chính xác. Các chính sách pháp luật của nhà nước nó phản ánh sự ưu tiên đối với một hoạt động cụ thể. Chính sách BHXH của nhà nước ảnh hưởng đến việc thực hiện quản lý, tổ chức hoạt động BHXH. Nó thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với đời sống người lao động nói riêng và tới các phúc lợi của xã hội nói chung. Hệ thống chính sách pháp luật nhà nước về BHXH càng rõ ràng, chi tiết thì việc thực hiện các hoạt động BHXH càng thiết thực, và BHXH mới thực sự trở về với đúng bản chất của nó - đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
c. Người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động là một mắt xích quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động BHXH. Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định của pháp luật, bảo quản sổ, lập hồ sơ cho người lao động, trả trợ cấp BHXH cho người lao động, cung cấp tài liệu, thông tin về người lao động cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền... Như vậy, người sử dụng lao động là một cầu nối giữa người lao động và các cơ quan thực hiện chức năng BHXH. Việc người sử dụng lao động thực hiện đúng trách nhiệm của mình sẽ làm cho hoạt động BHXH nhịp nhàng, và liên tục.
d. Nhận thức của người lao động
Người lao động là chủ thể quan trọng của hoạt động BHXH. Việc có mặt của người lao động mới làm cho hoạt động BHXH trở thành một hoạt động trong xã hội. Nhận thức của người lao động có ảnh hưởng tới việc thực hiện các văn bản luật về BHXH, việc thực thi các chính sách BHXH. Hoạt động BHXH là hoạt động điều chỉnh các hành vi của các đối tượng BHXH. Người lao động là đối tượng hàng đầu trong hoạt động đó. Việc nâng cao nhận thức của người lao động đối với hoạt động BHXH, một mặt giúp cho hoạt động BHXH được thực hiện một cách chôi chảy, mặt khác giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
4. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội.
a. Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH.
Chưa có khái niệm cụ thể hoặc định nghĩa chính xác về quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH song từ việc làm rõ các khái niệm ở phần trên cùng với một số văn bản có đề cập đến quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ta có thể đưa ra những đặc trưng cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH như sau:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là quá trình nhà nước sử dụng trong phạm vi quyền lực của mình tác động có tổ chức và điều chỉnh vào các quan hệ nảy sinh trong hoạt động BHXH nhằm đảm bảo cho hoạt động BHXH diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, và thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của BHXH.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là một quá trình từ việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH; Tuyên truyền, phổ biến, chế độ, chính sách pháp luật về BHXH; Tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách về BHXH đến việc tổ chức bộ máy thực hiện cũng như thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH
b. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội
Từ khái niệm quản lý nhà nước nêu trên ta có thể nêu ra một số đặc điểm riêng của quản lý nhà nước trong hoạt động BHXH như sau:
Nhà nước là chủ thể tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường
Xuất phát từ tính phức tạp, năng động và nhạy cảm của nền kinh tế thị trường đòi hỏi mang tính quyền lực nhà nước để tổ chức và điều hành các hoạt động BHXH. Chủ thể ấy chính là nhà nước mà cụ thể hơn là các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền. Để hoàn thành sứ mệnh của mình nhà nước phải xây dựng, tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH.
Pháp luật là cơ sở và là công cụ quản lý hàng đầu, công cụ không thể thay thế do xuất phát từ nhu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường để nhà nước tổ chức và quản lý các hoạt động BHXH nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế nói chung, các quan hệ BHXH nói riêng diễn ra phức tạp và đa dạng đòi hỏi sự quản lý của nhà nước. Để quản lý được nhà nước phải sửa dụng đến hệ thống các công cụ như: Luật, các văn bản luật, các công cụ cưỡng chế... Luật và các văn bản luật nhà nước ban hành mang tính chuẩn mực. Những quy tắc sử sự có tính bắt buộc chung được nhà nước sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhất và không thể thiếu trong việc quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như các hoạt động BHXH.
Sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động BHXH đòi hỏi có một bộ máy thực hiện các hoạt động BHXH mạnh, có hiệu lực và hiệu quả và một hệ thống pháp luật về BHXH đồng bộ hoàn chỉnh.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đường lối phát triển kinh tế của đất nước đã được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI tiếp tục được khẳng định qua các Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X: Đó là đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường ở nước ta đang được hình thành một cách rõ nét, sự phát triển của các thành phần kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế thì nhà nước đã đóng một vai trò không thể thiếu nhằm giúp cho mục tiêu phát triển kinh tế không đi chệch mục tiêu XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng và phức tạp của nền kinh tế thị trường đã đặt ra nhiều thách thức và thử thách như: sự lựa chọn, đào thải lao động của thị trường dẫn đến mất việc làm và thất nghiệp của người lao động, sự biến động phức tạp của thị trường và sản xuất kinh doanh đưa đến cho người lao động những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ngày một gia tăng. Để bảo vệ lợi ích của người lao động đòi hỏi nhà nước ta cần tăng cường vai trò quản lý của mình hơn nữa trong đối với chính sách hỗ trợ cho các rủi ro trên người lao động khi họ gặp các rủi ro đó – chính sách BHXH. Trong đó, việc tăng cường quản lý nhà phải làm sao vừa quản lý, vừa kiểm soát được các hoạt động BHXH nhưng không làm hạn chế sự phát triển của xã hội nói chung và phải tạo điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong đó, vấn đề quản lý hoạt động BHXH phải được tiến hành gắn liền với sự phát triển kinh tế, hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội. Đó cũng là vấn đề bức xúc hiện nay trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung. Tức là, vấn đề tăng cường quản lý nhà nước không chỉ nhằm vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn nhằm vào việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là một yêu cầu cấp bách, tất yếu, khách quan đặt ra từ chính đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
2. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
Để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là một mục tiêu nhằm thực hiện yêu cầu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH với mục đích tạo ra một cơ chế, chính sách công bằng, dân chủ đáp ứng nguyện vọng của đại đa số người lao động, đòi hỏi của xã hội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khi tham gia quan hệ BHXH.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH nhằm xác định rõ trách nhiệm của người sửa dụng lao động và người lao động trong việc đóng quỹ BHXH và trách nhiệm của nhà nước đối với hoạt động BHXH; Thông qua hệ thống Luật BHXH làm phương tiện để nhà nước quản lý, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát để mọi quan hệ BHXH hình thành, vận động và phát triển nhằm đạt mục tiêu vì lợi ích của nhân dân lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động như đúng bản chất vốn có của Nhà nước Việt Nam.
3. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế toàn cầu sẽ tác động mạnh mẽ tới toàn bộ chính sách, pháp luật của Việt Nam, mà trước hết trước hết là chính sách pháp luật về nhập khẩu, về đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhiều lĩnh vực, nhiều tổ chức và cá nhân trong nước đều bị lôi cuốn tham gia vào quá trình này. Những lĩnh vực liên quan như dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ... điều kiện cơ sở hạ tầng, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với thị trường, sửa dụng lao động, việc làm, tiền công, BHXH, an toàn lao động...cần phải được quan tâm cải thiện, nâng cao chất lượng tạo thuận lợi cho phát triển.
Lĩnh vực BHXH cũng không nằm ngoài tiến trình đó. Luật BHXH cần được hoàn thiện song song với việc tổ chức thực hiện các hoạt động BHXH một cách nhất quán, đồng bộ nhằm theo kịp trình độ của các nước trong khu vực và quốc tế, đồng thời thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế.
III. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Trình tự của quá trình xây dựng thể chế về BHXH: Cũng tương tự như quá trình xây dựng thể chế về các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác, quá trình xây dựng thể chế chính sách BHXH bao gồm các bước sau đây
1. Chủ trương, đường lối của Đảng
2. Luật pháp của Nhà nước
3. Quy định của Chính phủ
4. Tổ chức, hướng dẫn thực hiện của bộ, nghành, địa phương
Sơ đồ 1: Trình tự xây dựng thể chế chính sách về BHXH
Bước 1: Đảng ban hành chủ trương, đường lối, chính sách về BHXH thông qua Nghị quyết, Chỉ thị của mình qua từng thời kỳ phát triển.
Bước 2: Nhà nước ( Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ) thể chế hoá chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng về BHXH bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Nhà nước quản lý hoạt động BHXH thông qua cacs văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản về luật.
Bước 3: Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy ( Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị) quy định cụ thể việc thi hành luật, pháp lệnh của Nhà nước về BHXH.
Bước 4: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, BHXH Việt Nam, chính quyền các cấp ở địa phương ban hành các Thông tư, Quyết định, Chỉ thị ... là những văn bản dùng để thi hành luật, pháp lệnh của Nhà nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, HĐND, UBND các cấp có thể ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý trên phạm vi lãnh thổ, thuộc thẩm quyền quản lý của cấp đó, nhưng phải đảm bảo tuân thủ các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn của cấp trên.
2. Tổ chức và hoàn thiện bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội
Hoạt động BHXH cũng như bất kỳ một hoạt động nào khác đều cần có đội ngũ cán bộ ( bộ máy tổ chức ) trên cơ sở quyền hạn và nhiệm vụ của mình thực hiện hoạt động trong phạm vi được giao. Bộ máy BHXH được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, mô hình cụ thể sẽ được đề cập trong phần II nhưng vấn đề đặt ra là: cùng với sự phát triển của xã hội thì bất kỳ bộ máy tổ chức ở một lĩnh vực nào cũng phải luôn được kiện toàn đáp ứng với sự phát triển đó. Bộ máy thực hiện BHXH cũng không ngoại lệ, đây là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH.
3. Nhà nước tổ chức quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội
a. Xây dựng chiến lược, chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội.
Nguyên tắc bảo hiểm xã hội
Được quy định ở điều 5 Luật Bảo hiểm xã hội do Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông wa ngày 29 tháng 6 năm 2006:
Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Mức hưởng BHXH bắt buộc, BHXH thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động tự lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp.
Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Nội dung pháp luật về BHXH
Nội dung quan trọng của Luật BHXH là ._.xác định phạm vi, các chế độ trợ cấp BHXH và đối tượng áp dụng BHXH.
Theo Công ước Quốc tế 102 ngày 26/8/1952 của Tổ chức lao động quốc tế quy định chung các dạng trợ cấp BHXH, nhằm giúp các nước tuỳ theo điều kiện của mình áp dụng các dạng trợ cấp cho phù hợp Theo đó có chín dạng trợ cấp dưới đây: 1. Chăm sóc y tế; 2. Trợ cấp ốm đau; 3. Trợ cấp thai sản; 4. Trợ cấp thất nghiệp; 5. Trợ cấp gia đình; 6. Trợ cấp tai nạn lao động; 7. Trợ cấp tàn tật; 8. Trợ cấp tuổi già; 9. Trợ cấp tử tuất. Hiện nay trên thế giới, các nước phát triển và một số nước đang phát triển thực hiện đầy đủ chín dạng trợ cấp BHXH. Theo điều 3 Luật BHXH thì hiện nay nhà nước ta đang áp dụng 5 loại trợ cấp BHXH sau:
Đối với loại hình với loại hình BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau:
Ốm đau;
Thai sản;
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
Hưu trí;
Tử tuất;
Đối với loại hình BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau:
Hưu trí;
Tử tuất;
Đối với loại hình BHXH thất nghiệp bao gồm các chế độ sau:
Trợ cấp thất nghiệp;
Hỗ trợ học nghề;
Hỗ trợ tìm việc làm;
b. Thực hiện áp dụng hệ thống các biện pháp nhằm quản lý hoạt động BHXH
Tuyên truyền, phổ biến chế độ chính sách, pháp luật về BHXH.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức thực hiện luật, các văn bản quy phạm pháp luật và các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước là việc thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức, kỷ cương tới người dân. Về nội dung này, văn kiện Đại hội Đảng khóa VIII khẳng định: “ Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia vào các đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong xã hội”. Tinh thần này tiếp tục được phát huy ở các kỳ Đại hội IX, X của Đảng. Để làm cơ sở cho công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, cần tăng cường công tác giải thích Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Thực tế cho thấy, từ khi Luật BHXH đi vào đời sống người lao động Nhà nước đã ban hành nhằm sửa đổi, bổ xung, hoàn chỉnh các quy định về đóng, hưởng và giải quyết các chế độ BHXH đối với người lao động tham gia quan hệ BHXH. Hiện nay hàng loạt các văn bản pháp luật về lĩnh vực BHXH cũng đang được nghiên cứu soạn thảo, ban hành bổ xung nhằm điều chỉnh kịp thời các hoạt động BHXH phát sinh từ nền kinh tế thị trường. Việc tạo điều kiện thông qua kênh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giải thích để các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân hiểu biết đầy đủ thông tin về hoạt động BHXH để có hành vi sử sự cho đúng pháp luật, là cơ sở để nhà nước quản lý có hiệu quả hoạt động BHXH.
Tổ chức thực hiện công tác thống kê, thông tin và quản lý thực hiện chính chế độ, chính sách về BHXH.
Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với BHXH là các mối quan hệ BHXH. Trong đó có các nội dung cơ bản sau:
Nhà nước tổ chức quản lý đối tượng tham gia BHXH nhăm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật - được đảm bảo cuộc sống khi gặp rủi ro trong lao động hoặc do tuổi già, tử tuất.
Quản lý và phát triển quỹ BHXH
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ việc đóng vào quỹ của các chủ thể tham gia BHXH (do người lao động và người sử dụng lao động đóng theo quy định của luật BHXH, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư quỹ, hỗ trợ của nhà nước và các nguồn thu nhập hợp pháp khác) được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH cho người lao động theo quy định của pháp luật. Việc tăng cường quản lý và phát triển quỹ nhằm làm cho quỹ ngày một lớn mạnh sẵn sàng chi trả các chế độ trợ cấp cho người lao động và sớm tiến tới tự bảo đảm cân đối thu – chi quỹ BHXH.
Tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động là các hoạt động chi trả các chế độ cho người lao động tham gia BHXH khi họ gặp các sự cố trong lao động hoặc do tuổi già, tử tuất. Đây là hoạt động đưa lại quyền lợi cho người lao động. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mọi người lao động tham gia BHXH thì công tác thực hiện chi trả các chế độ, chính sách đối với người lao động cần được sâu sát nhằm bảo đảm chi trả đúng đối tượng, không bỏ sót.
Tổ chức bộ máy thực hiện BHXH; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác BHXH. Muốn thực hiện chức năng của mình một cách chuyên nghiệp hoá đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội thì BHXH cần có đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày một giỏi nghề, được trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại để thực hiện chức năng của mình.
4. Nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH
Việc quản lý thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
Việc thu nộp BHXH và việc cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH;
Quản lý các đối tượng hưởng các chế độ trợ cấp BHXH;
Quản lý tài chính BHXH và chi trả các chế độ BHXH;
Tiếp nhận và sử lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện chính sách BHXH trái pháp luật.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tập trung vào các đối tượng:
Đơn vị sử dụng lao động: Tiến hành kiểm tra, thanh tra danh sách lao động tiền lương, việc trích nộp BHXH, hồ sơ, tài liệu đến việc hưởng các chế độ BHXH và thực hiện các chế độ trợ cấp BHXH đối với người lao động.
Đại lý chi trả các chế độ trợ cấp BHXH tại cơ sở xã, phường, thị trấn: Tiến hành thanh tra kiểm tra việc chi trả các chế độ trợ cấp dài hạn và việc cắt giảm các đối tượng hết thời hạn hưởng chế độ tử tuất và qua đời.
Cơ quan thực thi chính sách BHXH – BHXH Việt Nam: Tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thu nộp BHXH, cấp, quản lý sử dụng sổ BHXH; quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ trợ cấp BHXH; quản lý tài chính BHXH và chi trả các chế độ BHXH; quản lý chi hoạt động bộ máy.
5. Công cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành xã hội đã sử dụng hệ thống rất nhiều công cụ khác nhau. Cũng như trong bất kỳ lĩnh vực nào trong hoạt động quản lý đối với BHXH công cụ chủ yếu quan trọng nhất mà nhà nước sử dụng là các văn bản pháp luật. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Thể hiện rõ nhất trong công cụ này là Luật BHXH đã được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ, các hoạt động BHXH. Ngoài ra còn hệ thống các văn bản dưới luật hoặc hướng dẫn thi hành như: Nghị định, Thông tư, Công văn ... liên quan đến lĩnh vực BHXH giữa cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về BHXH với các cơ quan sự nghiệp BHXH hay các bộ, ngành liên quan đến lĩnh vực BHXH.
Công cụ thứ hai nhà nước sử dụng phải nói đến là hồ sơ và biểu mẫu: Với chức năng của mình, nhà nước ban hành hệ thống các loại hồ sơ liên quan đến đối tượng, đến tài chính BHXH,... Một trong những hồ sơ quan trọng là mẫu sổ BHXH để thực hiện chức năng quản lý đối tượng tham gia đóng và hưởng các chế độ BHXH; Ngoài ra nhà nước còn ban hành các mẫu thông kê, báo cáo như mẫu báo cáo đối tượng tham gia, báo cáo tài chính BHXH,...
Một trong những công cụ nhà nước sử dụng để quản lý hoạt động BHXH là chế độ báo cáo: báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo năm, báo cáo thanh tra,... Chế độ báo cáo được quy định đối với các doanh nghiệp, cơ quan quản lý BHXH cấp dưới nhằm giúp cho nhà nước nắm được tình hình về hoạt động BHXH hiện thời.
IV. KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
Chính sách BHXH có lịch sử phát triển hơn 100 năm nay. Bắt đầu hình thành ở Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck (1883-1889). Đạo luật về chế độ bảo hiểm ốm đau đối với người lao động được ban hành năm 1883. Trong quá trình phát triển của mình BHXH đã dần thâm nhập vào đời sống người lao động ở hầu hết các nước trên thế giới như: ở Mỹ la tinh, Hoa kỳ, Canađa (thập kỷ 1920,2930); châu Phi, châu Á và các nước vùng biển caribe (sau chiến tranh thế giới lần thứ 2).
Qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới cho thấy: mỗi chế độ chính trị khác nhau tương ứng với một hệ thống BHXH và mỗi mô hình kinh tế khác nhau cũng hình thành một hệ thống BHXH. Mỗi hệ thống BHXH lại có một mô hình quản lý nhà nước khác nhau.
Cộng hoà liên bang Đức: là một quốc gia có hệ thống BHXH ra đời sớm nhất và tiên tiến nhất trên thế giới. Năm 1883 Chính phủ Đức mới ban hành đạo luật về chế độ bảo hiểm ốm đau. Năm 1884 Chính phủ Đức phát triển thêm dạng trợ cấp rủi ro nghề nghiệp mà bây giờ gọi là tai nạn lao đông, bệnh nghề nghiệp. Năm 1889 phát triển thêm dạng trợ cấp tuổi già và trợ cấp tàn tật. Pháp luật BHXH Đức quy định bắt buộc tham gia đối với người lao động; ba bên đều có trách nhiệm quản lý quỹ BHXH là người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Quản lý nhà nước và công tác quản lý quỹ được tách bạch, công khai. Hệ thống BHXH được thực hiện ở tất cả các bang và hoạt động rất hiệu quả. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý chung, còn quản lý quỹ, tổ chức chi trả chủ yế theo hình thức tự quản và độc lập. Chức năng quản lý nhà nước được giao cho Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội thực hiện với các công việc quản lý chung về mặt ban hành chính sách, chế độ BHXH; kiểm tra, thanh tra kết quả thực hiện của các tổ chức thực hiện của nhà nước cũng như các tổ chức tư nhân. Các tổ chức thực hiện quản lý, chi trả bao gồm: tổ chức y tế, tổ chức quản lý quỹ hưu trí của người lao động và người sử dụng lao động ( gọi tắt là quỹ hưu trí )
PHẦN 2ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM.
Cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của BHXH Việt Nam là bản Hiến pháp năm 1946. Điều 14 Hiến pháp 1946 khẳng định: “ Những người công nhân già cả hoặc tàn tật không làm việc được thì được giúp đỡ”. Chính phủ đã ban hành các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp BHXH như:
Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 2 năm 1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quy định về chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ đối với những quân nhân cấp bấc binh, sĩ, uý, tá và tướng thuộc các nghành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Sắc lệnh số29 /SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 quy định về các quan hệ làm công.
Sắc lệnh số 70/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 về quy chế công chức Việt Nam.
Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 ban hành quy chế công dân.
Những quy định về BHXH đầu tiên này đã đặt nền móng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật BHXH sau này.
Sự phát triển của BHXH Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là sự cụ thể hóa đướng lối, chính sách của Đảng trên phạm vi cả nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. BHXH trong thời kỳ này đã đảm bảo được điều kiện sống thiết yếu về vật chất và tinh thần cho hàng triệu công nhân, viên chức nhà nước, quân nhân và gia đình họ trong trường hợp gặp rủi ro không làm việc được, không có thu nhập hoặc khi già yếu, mất sức lao động hoặc qua đời. Chính sách BHXH đã động viên được đội ngũ công nhân, viên chức nhà nước gắn bó với với cách mạng, hăng say chiến đấu, lao động sản xuất, xây dựng đất nước.
Cuộc cách mạng trong quá trình phát triển của BHXH thực sự bắt đầu từ khi Bộ Luật Lao động do Quốc hội khoá IX thông qua 23/6/1994 có hiệu lực ngày 01/01/1995 trong đó có chương IX quy định về BHXH. Tiếp đó điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về những nội pháp luật BHXH trong nền kinh tế đổi mới.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và các quan hệ lao động phức tạp trong cơ chế kinh tế hội nhập ngày 29/6/2006 Luật BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện và 01/01/2009 đối với BHXH thất nghiệp là cơ sở pháp lý cao nhất làm chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người lao động.
Hiện nay, Cơ quan quản lý cao nhất về BHXH là Chính phủ, cơ quan sự nghiệp cao nhất là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. BHXH Việt Nam có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lí theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương gồm có:
- Ở Trung ương là BHXH Việt Nam.
- Ở Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh). Trực thuộc BHXH Việt Nam.
- Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh
Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức BHXH Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ
Hội đồng quản lý
Tổng Giám đốc
Các Phó Tổng Giám đốc
Ban Giám định y tế
Trung tâm CNTT
Ban Tuyên truyền
Ban Kiểm tra
Ban Kế hoạch Tài chính
Ban Tổ chức cán bộ
Ban BHXH tự nguyện
Văn phòng
Ban Chế độ Chính sách
Ban Chi BHXH
Ban Thu BHXH
Phòng Quan hệ quốc tế
Ban Quản lý ĐT và XD
Báo Bảo hiểm xã hội
Tạp chí Bảo hiểm xã hội
Trung tâm Nghiên cứu KH
Trung tâm Đào tạo
Trung tâm lưu trữ
Bảo hiểm xã hội Thành phố
Bảo hiểm xã hội Quận, Huyện, Thị xã
II. XÁC ĐỊNH CÁC CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ TRONG QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội
Nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với bất kỳ lĩnh vực kinh tế - xã hội nào cần thiết phải chỉ ra chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, để từ đó thấy được đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội đó.
Xét về mặt xã hội
Chủ thể quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội là nhân dân lao động - lực lượng nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Điều này được quy định tại điều 2 hiến pháp năm 1992: : “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ chí thức”. Tuy nhiên việc nắm quyền lực của nhân dân phải thông qua hình thức đại diện, và như vậy sẽ có sự hiện diện của một loại chủ thể thực tế là chủ thể pháp lý. Bản thân cơ quan nhà nước không tự có quyền được mà được nhân dân uỷ nhiệm theo thẩm quyền cụ thể do pháp luật quy định.
Xét dưới góc độ pháp lý
Chủ thể quản lý nhà nước là nhà nước với hệ thống các cơ quan hành chính được tổ chức chặt chẽ và quy định thẩm quyền theo đúng chức năng của từng loại cơ quan đó. Cơ quan quản lý nhà nước có hai loại cơ quan: cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002; Luật Tổ chức UBNH, HĐND năm 2003 (sửa đổi) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác là cơ sở pháp lý để xác định hệ thống chủ thể quản lý trong lĩnh vực BHXH. Cơ quan có thẩm quyền chung về quản lý hoạt động BHXH là Chính phủ và UBND các cấp.
Theo những quy định về thẩm quyền của Chính phủ tại chương VIII Hiến pháp năm 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002 thì thẩm quyền của Chính phủ trong lĩnh vực BHXH là:
Quyền kiến nghị lập pháp, dự thảo các văn bản luật BHXH trình quốc hội, dự thảo trình Quốc hội các chính sách lớn về BHXH;
Quyền lập quy, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật về BHXH, quyết định các chủ trương, biện pháp về tổ chức và quản lý BHXH;
Quyền quản lý và điều hành các hoạt động BHXH;
Quyền tổ chức, xây dựng bộ máy quản lý BHXH trong cả nước;
Quyền hoạch định chính sách, quy hoạch, đào tạo, quản lý nguồn nhân lực cho BHXH;
Quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong quá trình tổ chức và quản lý BHXH.
Như vậy, Chính phủ là chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHXH và tổ chức hoạt động BHXH.
UBND các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các lĩnh vực hoạt động ở địa phương trong đó có tổ chức và chỉ đạo công tác BHXH ở địa phương theo quy định của pháp luật. Ta có thể xem UBND các cấp là loại chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH dưới góc độ chủ thể hình thức.
Trong cơ cấu tổ chức hành chính nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm được Chính phủ giao. Các bộ có chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH theo trách nhiệm quản lý nhà nước đối với nghành hoặc lĩnh vực được Chính phủ giao, cụ thể là:
Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quỹ BHXH và mọi hoạt động tài chính BHXH.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực, chế độ chính sách BHXH.
Bộ y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực chăm sóc y tế.
Căn cứ nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/04/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan trực thuộc chính phủ và Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam thì BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Có thể coi chủ thể BHXH Việt Nam là chủ thể đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức và quản lý hoạt động BHXH.
Theo điều 8 Luật BHXH quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước về BHXH bao gồm:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH.
Bộ lao động – Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về BHXH
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Để cụ thể hoá chức năng quản lý nhà nước có Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện việc giám sát chỉ đạo trực tiếp các hoạt động của cơ quan BHXH: chỉ đạo quản lý và phát triển quỹ BHXH; thông qua dự toán và quyết toán hàng năm về thu, chi trả các chế độ, thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH, kế hoạch dài hạn... Trong cơ cấu Hội đồng quản lý gồm đại diện lãnh đạo của Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Tóm lại, hiện nay ở nước ta chủ thể quản lý nhà nước bao gồm nhiều cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong đó có một cơ quan thuộc Chính phủ chuyên trách chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành mọi hoạt động BHXH – Cơ quan BHXH Việt Nam.
2. Đối tượng quản lý trong bảo hiểm xã hội
Trong BHXH đối tượng quản lý chính là các quan hệ BHXH. Quan hệ BHXH bao gồm hai nhóm quan hệ dưới đây:
Quan hệ trong việc hình thành quỹ BHXH.
Quan hệ trong việc hình thành quỹ BHXH chính là quan hệ đóng góp BHXH và quản lý quỹ BHXH giữa các bên tham gia BHXH và cơ quan BHXH, được điều chỉnh bởi Luật BHXH. Như vậy, chủ thể trong quan hệ này bao gồm các bên tham gia BHXH và cơ quan BHXH. Các bên tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động – chính họ là những chủ thể trong quan hệ lao động. Cơ quan BHXH là chủ thể trong quan hệ quản lý quỹ BHXH, được nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thu các nguồn đóng góp vào quỹ tài chính tập trung (quỹ BHXH) và quản lý quỹ theo quy định của nhà nước.
Quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH
Quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH là quan hệ giữa cơ quan BHXH và người hưởng BHXH, được điều chỉnh bởi Luật BHXH. Cơ quan BHXH là chủ thể tham gia quan hệ này để thực hiện việc chi trả trợ cấp cho người được hưởng theo quy định của pháp luật. Người hưởng BHXH tham gia quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH phải là cá nhân người lao động đang hoặc đã tham gia vào quan hệ lao động. Trong một số trường hợp, người được hưởng còn là thân nhân trong gia đình người lao động.
Đây là quan hệ chủ yếu trong quan hệ BHXH, vì mục đích của BHXH là đảm bảo vật chất cho cuộc sống của người lao động và thân nhân của họ khi họ mất hoặc giảm khả năng lao động trong trường hợp gặp các rủi ro theo quy định của Luật BHXH hoặc hết tuối lao động. Quan hệ trong việc hình thành quỹ là tiền đề, là điều kiện để thực hiện quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH và hai quan hệ này tạo thành quan hệ BHXH.
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Năm 2007 là năm đánh dấu bước phát triển mới trong lĩnh vực BHXH với việc Luật BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 và có hiệu lực ngày 01/01/2007. Cùng với việc ban hành Luật BHXH nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản Luật nhằm đưa Luật BHXH đi vào đời sống người lao động.
Riêng năm 2007 Luật BHXH có hiệu lực Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, thi hành luật. Trong thời kỳ 2001- 2006 Đảng và Chính phủ đã thể chế hoá thành 138 văn bản đối với chính sách BHXH ( gồm: 8 Luật và Bộ luật, 4 Pháp lệnh, 2 Nghị quyết, 26 Nghị định, 12 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, 51 Thông tư và Thông tư liên tịch, 35 Công văn và Công điện ). Riêng năm 2007 Luật BHXH có hiệu lực, Nhà nước lại tiếp tục ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, thi hành luật [ trích từ các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH].
Với tư cách là cơ quan sự nghiệp BHXH cao nhất BHXH Việt Nam đã ban hành hàng loạt quyết định, văn bản hướng dẫn chỉ đạo về BHXH và hàng chục văn bản tham gia với chính phủ nhằm hoàn thiện chính sách BHXH nói chung và hệ thống quản lý BHXH nói riêng. Riêng năm 2007 BHXHVN đã có 42 văn bản tham gia với Chính phủ và các Bộ nghành chức năng về nội dung liên quan đến chế độ, chính sách BHXH [ trích: bảo hiểm xã hội trong tiến trình hội nhập].
Nhờ đó, mà chính sách BHXH luôn được kế thừa và đổi mới cơ bản; tạo điều kiện cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển, đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho người lao động vào làm việc trong các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh; thành lập quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập trên cơ sở lấy thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động để chi trả các chế độ trợ cấp cho người lao động. Công tác quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách BHXH cũng được đổi mới căn bản; hình thành nhanh tróng, đồng bộ hệ thống tổ chức nghành BHXH từ Trung ương đến địa phương; Hệ thống văn bản về BHXH có nhiều chuyển biến đã tạo nên hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện ngày một tốt hơn chế độ, chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Các chế độ BHXH thực sự đã đi vào đời sống người lao động; tạo sự yên tâm cho người lao động làm việc; làm lành mạnh hoá thị trường lao động, khắc phục dần tính bình quân, bao cấp, nhưng vẫn đảm bảo tính điều tiết và chia sẻ cộng đồng.
Cụ thể một số nội dung pháp luật về BHXH ( Luật BHXH ) được bổ xung sửa đổi phù hợp với tiến trình phát triển như:
Phạm vi đối tượng được mở rộng hơn trước không chỉ bó hẹp trong phạm vi cán bộ, công chức mà áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là bất kỳ tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động ( trước là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười người trở lên).
Áp dụng 5 chế độ BHXH là: Chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất; giảm chế độ mất sức lao động so với thời kỳ trước là tinh ngọn hệ thống chi trả trợ cấp BHXH.
Bước đầu đã kiện toàn hai hình thức BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp. Hình thức BHXH tự nguyện áp dụng hai chế độ: chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ( trước đây là 5 chế độ như BHXH bắt buộc ) phù hợp với thực tế của các đố tượng tham gia BHXH tự nguyện đồng thời tránh được nguy cơ thâm hụt quỹ BHXH ( nếu áp dụng 3 chế độ còn lại như BHXH bắt buộc).
Tuy vậy, việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội còn một số hạn chế như:
Một là: đường lối chính sách về BHXH còn chậm được pháp luật hoá. Việc xây dựng, sửa đổi, bổ xung đến ban hành Luật BHXH còn chậm so với yêu cầu thực tiễn của sự phát triển kinh tế.
Chính sách đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI nhưng đến năm 1995 chính sách BHXH mới thự sự đi vào cuộc sống người lao động và chủ yếu là công nhân viên chức. Đến năm 2007, Luật BHXH mới được ban hành, tức sau 21 năm từ khi đổi mới kinh tế nước ta mới có khung pháp lý rõ ràng điều chỉnh quan hệ gắn bó mật thiết không thể tách rời đối với nền kinh tế thị trường – Quan hệ làm công ăn lương.
Hai là: việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội chậm, thiếu tính cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc đưa Luật vào đời sống người lao động . Các quy định về BHXH mang tính nguyên tắc, thiếu chi tiết cụ thể nên thường phải có Nghị định kèm theo. Nghị định cũng chưa cụ thể nên phải có thông tư liên bộ hoặc của bộ, nghành có liên quan mới thực hiện được. Các văn bản pháp luật thường chậm trễ thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Vì vậy trong 5 năm có 8 luật mà cần đến 51 thông tư và 35 công văn.
Một số văn bản Luật về BHXH còn đan xen với những quy định thuộc phạm vi chính sách của nhà nước.
Ba là: số lượng văn bản thì nhiều mà hiệu quả thì ít. Mặc dù hệ thống văn bản về chế độ, chính sách BHXH tương đối nhiều nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho người lao động. Phạm vi, đối tượng trong các văn bản đề cập đến chưa bao hàm được đầy đủ các lực lượng lao động trong xã hội.
Chế độ BHXH tự nguyện đã có hiệu lực từ năm 2008 nhưng các văn bản hướng dẫn còn lan man, thiếu cụ thể dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện ở các địa phương. Văn bản có nhưng việc quản lý BHXH tự nguyện còn nhiều sơ hở gây khó khăn trong việc quản lý.
Bốn là: một số nội dung quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng thuộc chế độ BHXH bắt buộc còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tế. Ví dụ, chế độ ốm đau, thai sản chưa quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng, do đó không ít người lao động thời gian đóng BHXH chưa nhiều nhưng đã được hưởng nhiều hơn mức đóng, tạo ra sự mất công bằng.
Năm là: Luật BHXH tự nguyện mới chỉ áp dụng 2 chế độ hưu trí và tử tuất. BHXH thất nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Phạm vi chế độ còn hẹp, các chế độ BHXH thất nghiệp chưa cụ thể thiết thực với người lao động thất nghiệp. Điều này, chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động nằm trong đối tượng 2 loại hình BHXH này.
Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng, ban hành và sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật BHXH:
Việc hạn chế trong việc ban hành, thực hiện Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH là do BHXH liên quan trực tiếp đến việc làm, thất nghiệp, tiền lương, tiền công ... Các quy định việc làm, tiền lương, tiền công, ... nằm trong nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lao động, dân số, doanh nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức, giáo dục đào tạo hoặc các quy định về bảo vệ sức khỏe nhân dân, ... Vì vậy, Luật BHXH không thể tách rời các lĩnh vực nói trên. Hay nói cách khác Luật BHXH phải đi sau – là hệ quả của các lĩnh vực kinh tế - xã hội đó.
Mặt khác, chúng ta chưa tích luỹ được kinh nghiệm để xây dựng một hệ thống pháp luật có hiệu lực, hiệu quả để quan lý để quản lý nền kinh tế thị trường với nhiều cơ chế phức tạp, lại không ngừng thay đổi. Trong khi đó xu thế hội nhập, toàn cầu hoá lại diễn ra hết sức nhanh tróng. Với bối cảnh đó, không riêng gì Luật BHXH mà cả hệ thống Luật quản lý kinh tế - xã hội của chúng ta được xây dựng trên cơ sở vừa tìm tòi, vừa học hỏi và vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế bất cập.
2. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội trong những năm qua
Theo tổng hợp báo cáo tổng kết hàng năm của cơ quan BHXH Việt Nam trong BHXH Việt Nam phát triển và hội nhập ( TS. Đỗ Văn Sinh – Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ): năm 1995 mới có 2,85 triệu người thì đến cuối năm 2007 số người tham gia BHXH là 7.99 triệu người, riêng số tiền thu BHXH năm 2007 đạt khoảng 23.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH. Năm 2003 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2007 tăng lên khoảng 37,85 triệu người, chiếm khoảng 45% dân số cả nước, trong đó 9.32 triệu người tham gia BHYT tự nguyện. Tổng số thu toàn nghành được 29.805 tỷ đồng, trong đó thu BHXH, BHYT bắt buộc 28.991 tỷ đồng; thu BHYT tự nguyện 814 tỷ đồng.
Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2,2 nghìn tỷ đồng (năm 2007), đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng tháng tử quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh theo các năm sau và đồng thời nguồn quỹ chi trả từ ngân sách nhà nước sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn những đối tượng hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quy BHXH.
Hàng năm có hàng triệu lượt người được nhận các khoản trợ cấp khi bản thân bị ốm hay con ốm, khi thai sản, khi bị tai nạn lao động hoăc bệnh nghề nghiệp. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khám chữa bệnh nội trú, ngoại trú của người có thẻ BHYT ngày càng được nâng cao. Người bệnh ngày càng được tiếp cận với các dịch vụ y tế với trình độ khoa học tiên tiến và hiện đại. Công tác quản lý và thực hiện chính sách đối với hoạt động BHXH ngày càng hoàn thiện, cụ thể về các mặt như sau:
a. Quản lý và ngày càng mở rộng đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng được quy định ở điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội
Việc ban hành Luật BHXH đã mở rộng đối tượng BHXH hơn so với trước rất nhiều. Sự tồn tại của BHXH tự nguyện song song với BHXH bắt buộc đã đảm bảo mọi người dân đều có thể tham gia BHXH nếu có nhu cầu. Vấn đề quản lý đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý trực tiếp (điều 8 khoản 2 Luật BHXH) có sự phối hợp với cơ quan BHXH Việt Nam binh và có sự chỉ đạo BHXH tỉnh, thà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12984.doc