Tài liệu Tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải Dương: ... Ebook Tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải Dương
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1. Lý luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp 3
Chi phí của doanh nghiệp 3
1.1.1.Khái niệm 3
1.1.2. Phân loại 3
1.2. Lợi nhuận doanh nghiệp 8
1.2.1. Khái niệm 8
1.2.2.Phương pháp xác định lợi nhuận 10
1.2.3. Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp 14
1.2.4. Phân phối lợi nhuận và vai trò của loại nhuận đối với doanh nghiệp 16
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp 20
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 20
1.3.2. Các nhân tố bên trong của doanh nghiệp 23
Chương 2. Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương 26
2.1.Giới thiệu về bưu điện tỉnh Hải Dương 26
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 26
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Bưu điện tỉnh Hải Dương 29
2.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của bưu điện tỉnh Hải Dương 29
2.2. Thực trạng chi phí và lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 30
2.2.1. Thực trạng lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 30
2.2.2. Thực trạng doanh thu của bưu điện tỉnh Hải Dương 34
2.2.3. Thực trạng quản lý chi phí bưu điện tỉnh Hải Dương 41
2.3. Đánh giá tình hình lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 45
2.3.1. Những kết quả đạt được 45
2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân 47
Chương 3. Giải pháp giảm chi phí tăng lợi nhuận tại bưu điện tỉnh Hải Dương 49
3.1. Quan điểm, mục tiêu, chiến lược phát triển ngành Bưu chính-viễn thông 49
3.1.1. Quan điểm 49
3.1.2. Mục tiêu của chiến lược 49
3.1.3. Định hướng phát triển các lĩnh vực 50
3.2.Phương hướng kinh doanh của bưu điện tỉnh Hải Dương trong thời gian tới 52
3.3.Một số giải pháp giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 54
3.3.1. Các giải pháp nhằm giảm chi phí 54
3.3.2. Các giải pháp nhằm tăng doanh thu 58
3.4. Một số kiến nghị 60
3.4.1. Với nhà nước 63
3.4.2. Với Tổng công ty Bưu chính viễn thông 63
Kết luận 65
LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc chuyển đổi nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thực sự là bước đi quan trọng để tạo điều kiện cho nền kinh tế sử dụng tốt hơn các nguồn lực của đất nước. Cơ chế thị trường đòi hỏi vừa phải nâng cao năng suất , vừa tạo điều kiện cho việc nâng cao năng suất vì sự sống còn của doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đầu tư, đổi mới các thiết bị công nghệ, đầu tư vào các ngành nghề mới... Doanh nghiệp dựa trên chiến lược chung của cả nước để xây dựng chiến lược riêng cho mình, nói đúng hơn là dựa trên tín hiệu của thị trường mà xây dựng chiến lược theo nguyên tắc : phải bán những thị trường cần chứ không phải bán những thứ mình có. Trong quá trình cạnh tranh kinh doanh và khát vọng lợi nhuận đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường mục đích cuối cùng là đạt được chỉ tiêu lợi nhuận ngày càng lớn. Thực tế đã cho thấy sau 20 năm đổi mới, tổng sản phẩm quốc nội liên tục qua các năm, mọi mặt của đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng. Đó là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của cộng đồng các doanh nghiệp trong nước trong việc không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ việc nhận thức được vai trò của lợi nhuận và chi phí của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và từ quá trình tìm hiểu những khó khăn thuận lợi trong việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo-PGS,TS Vũ Duy Hào và các bác các chú, anh chị trong bưu điện tỉnh Hải Dương, em đã chọn đề tài: “Tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải Dương”.
Chuyên đề của em được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Lí luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Chương 3:Giải pháp nhằm giảm chi phí và tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề của em còn rất nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và những người quan tâm để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngân hàng- Tài chính, đặc biệt là thầy giáo-PGS,TS Vũ Duy Hào đã nhiệt tình hướng dẫn em trong quá trình làm chuyên đề. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn thể nhân viên của Bưu điện tỉnh đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian em thực tập tại Bưu điện.
Chương 1:
Lí luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Chi phí của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm.
Khi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn luôn phải đầu tư, mua sắm thiết bị, công nghệ, vật tư, thuê nhân công v.v..Tất cả những việc này đều đòi hỏi những khoản chi phí nhất định.Những doanh nghiệp khác nhau hoạt động ở các ngành khác nhau thì có số lượng, cơ cấu chi phí không giống nhau. Ngay cả các doanh nghiệp cùng ngành với nhau thì cũng tuỳ vào chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà cơ cấu chi phí cũng khác nhau.Vậy chi phí là gì ?
“Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ các khoản chi phí của doanh nghiệp cho hoạt động kinh doanh, cho hoạt động khác và các khoản thuế như: Thuế môn bài, thuế tài nguyên, thuế nhập khẩu... để thực hiện hoạt động của doanh nghiệp trong thời kì nhất định.
1.1.2 .Phân loại chi phí của doanh nghiệp
Tuỳ theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ phận chi phí có thể không giống nhau và cũng tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta thể xem xét chi phí dưới các góc độ khác nhau. Về cơ bản, chi phí của doanh nghiệp được phân loại theo nguồn hình thành bao gồm: Chi phí sản xuất, chi phí lưu thông sản phẩm, chi phí quản lí doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính, chi phí hoạt động bất thường.
Chi phí sản xuất.
Để sản xuất ra các loại sản phẩm nhằm cung cấp hàng hoá trên thị trường, các doanh nghiệp phải chịu các chi phí như: hao mòn máy móc, lao động, vật tư .v.v...Vậy chúng ta có thể hiểu chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra sản phẩm trong một thời kì. Cùng với sự hoạt động liên tục của doanh nghiệp, các chi phí của doanh nghiệp cũng mang tính thường xuyên và gắn liền với quá trình tạo ra sản phẩm của doanh nghiệp. Do đặc điểm này của chi phí sản xuất, hoạt động hạch toán chi phí sản xuất phải được tiến hành thường xuyên trong các khoảng thời gian nhất định, không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Để quản lí và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình hình thành chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và quá trình hình thành giá sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất.
- Thứ nhất: Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, những yếu tố sản xuất có cùng tính chất thì được đưa vào cùng một loại chi phí, mỗi loại chi phí là một yếu tố chi phí, nếu theo cách này chi phí sản xuất bao gồm 3 nhóm yếu tố:
*Chi phí vật tư: Là giá trị của toàn bộ nguyên vật liệu , vật liệu đầu vào mà đơn vị sử dụng để sản xuất ra sản phẩm mà doanh nghiệp minh kinh doanh. Doanh nghiệp kiểm soát chi phí vật tư bằng mức tiêu hao vật tư và giá vật tư. Vật tư có thể là vật tư do doanh nghiệp mua sắm hoặc do doanh nghiệp tự sản xuất được.
*Chi phí lương công nhân trực tiếp: Là các khoản chi phí liên quan đến người công nhân trực tiếp tham gia sản xuất ra sản phẩm. Nó bao gồm các khoản chi phí như :chi phí tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương, tiền ăn giữa ca, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phí tổ chức Đảng, đoàn thể. Các khoản chi phí tiền lương được quản lí chặt chẽ theo định mức lao động và đơn giá tiền lương theo qui định hiện hành của nhà nước. Còn các loại chi phí như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính trên quĩ lương của đơn vị sản xuất kinh doanh.
*Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kì của tất cả các tài sản cố định được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
*Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào việc sản xuất kinh doanh.
*Chi phí bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh trong kì theo yếu tố có tác dụng giúp ta biết được những chi phí đã dùng vào sản xuất và tỷ trọng của từng loại chi phí đó là bao nhiêu, là cơ sở để phân tích đánh giá tình hình thực hiện chi phí sản xuất, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy động sử dụng lao động, xây dựng kế hoạch khấu hao tài sản cố định
- Thứ hai: Phân loại chi phí theo khoản mục tính giá thành. Cách phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó phân tích tác động của các khoản mục chi phí đến giá thành.
Theo qui định hiện hành, khoản mục chi phí thể hiện trong giá thành sản phẩm bao gồm:
*Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên, vật liệu chính, phụ, nhiên liệu...tham gia trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
*Chi phí nhân công trực tiếp:Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quĩ BHXH,BHYT,KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
*Chi phí sản xuất chung:Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất(trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).Ví dụ như, chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí NVL, CCDC, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài...dùng cho phân xưởng.
Cách phân loại này giúp ta tính và thể hiện được giá thành sản phẩm theo khoản mục chi phí và phân tích tình hình thực hiện mục tiêu giảm từng mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
- Thứ ba: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Thư tư: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cơ bản và chi phí chung.
Để quản lí tốt chi phí ngoài phân loại chi phí các doanh nghiệp cần phải xem xét kết cấu chi phí sản xuất để xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi trong mỗi loại chi phí sản xuất.Kết cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một doanh nghiệp và giữa các ngành có kết cấu chi phí khác nhau. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu chi phí sản phẩm của doanh nghiệp, trong đó có những nhân tố chủ yếu là : đặc điểm sản xuất của từng loại doanh nghiệp, các giai đoạn sản xuất khác nhau, trình độ kĩ thuật, trang thiết bị, loại hình và qui mô sản xuất, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, quản lí...
Chi phí lưu thông sản phẩm:
Trong nền kinh tế thị trường việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng đối với một doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt nhưng hệ thống bán hàng và phân phối sản phẩm của doanh nghiệp yếu kém thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng không thể đến tay người tiêu dùng được. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới qui mô sản xuất kinh doanh của đơn vị. Để thực hiện hoạt động tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định.Vậy:
“Chi phí lưu thông sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ trong kì như chi phí nhân công bán hàng, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bộ phận bán hàng, chi phí về vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, các chi phí bảo hành, quảng cáo tiếp thị...”
Giá thành sản phẩm
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thường xuyên phải lựa chọn các phương án kinh doanh khác nhau để quyết định sản xuất sản phẩm này mà không sản xuất sản phẩm kia. Để có những quyết định đúng, doanh nghiệp cần phải biết những chi phí để hoàn thành và tiêu thụ sản phẩm. Việc nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết lượng chi phí cần thiết để hoàn thành một lượng sản phẩm nhất định. Chính vì lí do trên, cần phải nghiên cứu giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Chúng ta cần phân biệt giá thành của sản phẩm với chi phí sản xuất. Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm vừa có sự giống nhau, vừa có sự khác nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện chi phí cho sản phẩm trong một thời kì nhất định, thời kì này thường là một năm.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm (đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn được gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn hàng bán=Giá thành sản xuất + Chênh lệch thành phẩm tồn kho
Chênh lệch thành phẩm tồn kho = Thành phẩm tồn đầu kì –thành phẩm tồn kho cuối kì
Giá thành sản xuất =Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm sản phẩm dở dang
Chi phí sản phẩm =Chi phí vật tư + Chi phí nhân công trực tiếp +Chi phí sản xuất chung
Chênh lệch sản phẩm dở dang = Sản phẩm dở dang đầu kì - Sản phẩm dở dang cuối kì
Đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn đầu kì – Hàng hoá tồn cuối kì
Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Vậy doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuân của doanh nghiệp thì việc tìm cách giảm chi phí là rất quan trọng. Giảm chi phí, hạ giá thành của sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh.
Hạ giá thành sản phẩm trong kì được xác định cho những sản phẩm so sánh được thông qua 2 chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm. Trong các sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong cùng một kì.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm doanh nghiệp:
Sự tiến bộ của khoa học- công nghệ.
Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động.
Tổ chức quản lí sản xuất- kinh doanh và quản lí tài chính.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá thành sản phẩm:
-Giá thành của sản phẩm là thước đo mức chi phí phải tiêu hao phải bù đắp, là một căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để quyết định sản xuất một loại sản phẩm nào đó , doanh nghiệp phải nắm rõ được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải biết được chi phí phải bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm đó.Trên cơ sở đó mới xác đinh hiệu quả sản xuất kinh doanh của loại sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản phẩm để đạt được lợi nhuận tối đa. Khi thực hiện xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh thực tế của một loại sản phẩm nhất định cũng phải xác định chính xác giá thành thực tế của nó.
-Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kĩ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và bỏ chi phí vào sản xuất , tác động và hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kĩ thuật sản xuất, phát hiện và tìm ra nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lí để có biện pháp khắc phục.
-Giá thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp định giá cả đối với từng loại sản phẩm.
Chi phí quản lí doanh nghiệp
Là toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến bộ máy quản lí hành chính và điều hành hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp như tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lí ở các phòng ban, chi phí vật liệu dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế , lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho toàn doanh nghiệp như :lãi vay, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí...
Chi phí hoạt động tài chính
Chi phí hoạt động tài chính: Là các khoản chi phí và các khoản lỗ có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính, bao gồm:
+,Chi phí hoạt động liên doanh, liên kết.
+,Chi phí thiệt hại do kinh doanh thua lỗ.
+,Chi phí mua bán chứng khoán.
+,Chi phí của quá trình đầu tư kinh doanh bất động sản, thuê tài sản,.
+,Lãi phải trả về vay vốn đầu tư tài chính.
+,Trích thêm số chênh lệch về dự phòng giảm giá đầu tư tài chính.
Chi phí hoạt động bất thường.
Chi phí hoạt động bất thường bao gồm: Là những khoản chi phí phát sinh khách quan khi xây dựng kế hoạch tài chính doanh nghiêp chưa tính đến, chẳng hạn như:
+,Giá trị còn lại của tài sản cố định khi thanh lí, nhượng bán.
+,Chi phí về thanh lí, nhượng bán tài sản cố định.
+,Bị phạt do vi phạm hợp đồng.
+,Bị phạt truy nộp thuế.
+,Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
+,Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi không đủ hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn khi chưa lập dự phòng.
1.2.Lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1.Khái niệm.
Như đã nói ở trên, các doanh nghiệp luôn luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, nghiên cứu tổ chức sản xuất...Do vậy có thể coi tối đa lợi nhuận là mục tiêu truyền thống và quan trọng của các doanh nghiệp.Xét dưới góc độ lịch sử, những nhà kinh tế học trong các phân tích của họ đều lấy lợi nhuận là mục tiêu cuối. Từ xưa đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trước Marx thì cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận.
Marx cho rằng :giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị hàng hoá trong đó lao động thặng dư chính là lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì được gọi là lợi nhuận.
Còn nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus thì định nghĩa rằng: “Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng số đã chi” hoặc có thể hiểu cụ thể hơn là : “ lợi nhuận được định nghĩa như một khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một công ty”
Có nhiều quan điểm về lợi nhuận của nhiều nhà kinh tế nhưng nổi bật là quan điểm về lợi nhuận của Marx, từ Marx trở đi, các vấn đề kinh tế được nghiên cứu bài bản hơn. Nhờ nhũng lí luận vô giá về giá trị sức lao động, Marx là người đầu tiên đã phân tích nguồn gốc của lợi nhuận một cách khoa học, sâu sắc. Theo ông lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư, lợi nhuận và giá trị thặng dư có sự giống nhau về lượng nhưng khác nhau về chất:
-Về lượng: nếu giá cả của hàng hoá bằng với giá trị của hàng hoá thì giá trị thặng dư bằng với lợi nhuận thu được từ hàng hoá đó, còn nếu giữa giá cả và giá trị không có sự cân bằng thì có thể lợi nhuận sẽ lớn hơn giá trị thặng dư hoặc là lợi nhuận sẽ nhỏ hơn giá trị thặng dư, tuy nhiên nếu xét trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế thì tổng lợi nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư.
-Về chất: giá trị thặng dư là nội dung bên trong được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất , là khoản dôi ra ngoài giá trị tư bản khả biến và được tạo ra từ sức lao động của người công nhân được mua từ tư bản khả biến .Lợi nhuận là biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư thông qua trao đổi, phạm trù lợi nhuận đã xuyên tạc, che đậy được bản chất bóc lột của nhà tư bản đối với người lao động.
Kế thừa những tinh thành tựu đã đạt được của các nhà kinh tế học cổ điển, kết hợp với quá trình nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Karl Marx đã chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và quan điểm về lợi nhuận của ông đã hoàn toàn đúng đắn, điều đó được chứng minh bằng sức tồn tại của nó, từ lúc ra đời đến nay. Chính vì thế hiện nay, khi nghiên cứu về lợi nhuận , chúng ta đều nghiên cứu dựa trên quan điểm của Marx về lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp. Từ góc độ của nhà quản trị tài chính có thể thấy rằng : Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận.
Hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng và phong phú, chính vì vậy mà lợi nhuận của doanh nghiệp cũng có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tương ứng với các loại chi phí (như ở trên đã phân loại) chúng ta có lợi nhuận từ các nguồn sau :
Lợi nhuận có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí đã bỏ ra của khối lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, lao vụ của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận có được từ các hoạt động tài chính :
Là khoản chênh lệch giữa khoản thu và chi có tính chất nghiệp vụ tài chính trong quá trình doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh .
Lợi nhuận thu từ các hoạt động bất thường của doanh nghiệp:
Là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của các hoạt động khác ngoài các hoạt động đã nêu ở trên.
Lợi nhuận được tính toán bởi việc sắp xếp của bất kì doanh thu nào được doanh nghiệp tạo ra( không kể tới có phải khách hàng hay không đã trả tiền cho doanh thu này) và trừ đi tổng số tiền đã chi tiêu của doanh nghiệp. Một trong số chi tiêu này là sự khấu hao, nó là phần tổn thất trong giá trị của tài sản cố định như : xe hơi, máy tính...gây ra do các tài sản này được sử dụng vào việc sản xuất kinh doanh.Hiện nay có 3 cách xác định lợi nhuận như sau :
+Phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất , cung ứng các dịch vụ trong kì. Được xác định theo công thức :
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh=Doanh thu thuần-Giá vốn hàng bán-Chi phí bán hàng-Chi phí quản lí doanh nghiệp.
Trong đó:
Lợi nhuận sản xuất kinh doanh là lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh thu thuần=Doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trong kì -Khoản giảm trừ doanh thu.
Các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm:
Chiết khấu hàng bán: là số tiền người bán giảm trừ cho người mua đối với số tiền phải trả cho người mua thanh toán tiền mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trước thời hạn thanh toán và đã được ghi trên hoá đơn bán hàng hoặc hợp đồng kinh tế.
Giảm giá hàng bán : là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trên giá bán đã thoả thuận do hàng kém chất lượng, không đúng qui cách, thời hạn thanh toán đã được ghi trên hợp đồng kinh tế hoặc giảm giá cho khách hàng khi họ mua một khối lượng hàng hoá lớn.
Giá trị hàng bán bị trả lại: là giá trị tính theo giá thanh toán của số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do vi phạm hợp đồng kinh tế đã kí kết.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế gián thu tính trên một số loại hàng hoá, dịch vụ đặc biệt mà nhà nước không khuyến khích tiêu dùng.
Thuế nhập khẩu: là thuế gián thu tính trên sản phẩm hàng hoá của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước xuất khẩu qua biên giới Việt Nam.
Giá vốn hàng bán phản ánh trị giá gốc của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ(bao gồm cả một số loại thuế theo qui định như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt) đã được xác định là tiêu thụ. Khi xác định được doanh thu thì đồng thời giá trị hàng hoá sản phẩm xuất khẩu cũng được phản ánh vào giá vốn để xác định kết quả. Do vậy việc xác định đúng giá vốn hàng bán có ý nghĩa rất quan trọng.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là những hoạt động có liên quan tới việc huy động, quản lí và sử dụng vốn trong kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định như sau:
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính=Thu nhập từ hoạt động tài chính-Thuế gián thu(nếu có)-Chi phí từ hoạt động tài chính
Trong đó:
Thu nhập tài chính gồm:lãi tiền gửi ngân hàng, bán trả góp, lãi kinh doanh chứng khoán, lãi góp vốn kinh doanh, lãi đầu tư ngắn hạn và dài hạn khác, chiết khấu thanh toán khi mua hàng được hưởng, thu tiền do cho thuê tài sản hoặc bán bất động sản , chênh lệch tỷ giá, hoàn nhập khoản dự phòng.
Chi phí hoạt động tài chính gồm : Lỗ do kinh doanh chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác, chi phí do đem góp vốn liên doanh, chi phí liên quan đến việc cho thuê tài sản, chênh lệch tỷ giá, lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán...
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường khác(hoạt động khác)
Hoạt động bất thường là những hoạt động diễn ra không thường xuyên mà doanh nghiệp không dự tính trước được hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện như hoạt động thanh lí, nhượng bán tài sản cố định, xử lý nợ khó đòi...
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác đinh qua công thức sau:
Lợi nhuận từ hoạt động khác=Thu nhập từ hoạt động khác-Thuế gián thu(nếu có)-Chi phí hoạt động khác
Trong đó:
Thu nhập từ hoạt động khác là các khoản tiền thu về tiền phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng, tiền thu từ hoạt động thanh lí, nhượng bán từ hoạt động thanh lý tài sản cố định, thu các khoản nợ khó đòi, thu các khoản miễn thuế, giảm thuế, tiền thu về giá trị tài sản thu được do vắng chủ , hoàn nhập dự phòng, giảm giá dự trữ và phải thu nợ khó đòi, trích trước sửa chữa lớn tài sản cố định, bảo hành sản phẩm nhưng không dùng hết vào cuối năm.
Chi phí của hoạt động khác: là các khoản chi như: chi phạt thuế, tiền phạt do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, chi phí cho thanh lí, nhượng bán tài sản, giá trị tài sản bị tổn thất do quĩ dự phòng tài chính không đủ bù đắp chi phí kinh doanh...
Sau khi đã xác đinh được lợi nhuận của tất cả các nguồn hình thành lợi nhuận, ta tính tổng số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong một kì kinh doanh:
Lợi nhuận =Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh+Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính+Lợi nhuận từ hoạt động khác
Sau đó chúng ta xác đinh được thuế thu nhập để từ đó có thể xác định được lợi nhuận ròng của doanh nghiệp trong kì theo công thức:
Lợi nhuận ròng =Lợi nhuận trước thuế TNDN - Thuế TNDN
Lợi nhuận ròng= Lợi nhuận trước thuế TNDN *( 1-Thuế suất thuế TNDN)
*Nhận xét:
Cách xác định lợi nhuận theo phương pháp trực tiếp rất đơn giản, dễ tính toán, do đó phương pháp này được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất ít loại sản phẩm. Còn đối với những doanh nghiệp lớn, có nhiều loại sản phẩm thì phương pháp này không phù hợp bởi khối lượng công việc tính toán sẽ rất lớn, tốn nhiều công sức và thời gian.
+Phương pháp gián tiếp.
Ngoài phương pháp xác định lợi nhuận như đã nêu ở trên, chúng ta còn có thể xác định lợi nhuận bằng cách tính dần lợi nhuận của doanh nghiệp qua các khâu trung gian. Cách xác định lợi nhuận như vậy người ta gọi là phương pháp xác định lợi nhuận qua các bước trung gian.
Để xác định được kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh đó là lợi nhuận ròng của doanh nghiệp, chúng ta lần lượt tính các chỉ tiêu sau:
Doanh thu bán hàng.
Các khoản giảm trừ doanh thu( chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu)
Doanh thu thuần [ (1)-(2) ]
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh [(3)-(4) ]
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lí doanh nghiệp
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. [(5)-(6)-(7)]
Thu nhập hoạt động tài chính.
Chi phí hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính[(9)-(10)]
Thu nhập khác
Chi phí khác
Lợi nhuận từ hoạt động khác[(12)-(13)]
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp[(8)+(11)+(14)]
Thuế thu nhập doanh nghiệp[15*thuế suất thuế TNDN]
Lợi nhuận ròng[(15)-(16)]
Nhận xét:
Cách tính này cho phép người quản lí nắm được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp, đó là lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Phương pháp này giúp chúng ta có thể lập báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên, nhờ đó chúng ta có thể dễ dàng phân tích và so sánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kì trước với kì này. Mặt khác chúng ta có thể thấy được sự tác động của từng khâu hoạt động với sự tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp từ đó giúp chúng ta tìm ra những giải pháp điều chỉnh thích hợp góp phần nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3.Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp
* Mức lợi nhuận tuyệt đối gồm:
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp và lãi vay
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp( hay còn gọi là lợi nhuận ròng)
Việc sử dụng các chỉ tiêu tuyệt đối về lợi nhuận doanh nghiệp chưa cho ta biết bức tranh toàn cảnh về lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn có cái nhìn tổng quát về lợi nhuận của doanh nghiệp thì các nhà phân tích tài chính cần biết thêm các chỉ tiêu tương đối nữa.
*Mức lợi nhuân tương đối
Mức lợi nhuận tương đối, tỷ suất lợi nhuận( còn gọi là mức doanh lợi) phản ánh kết quả của một loạt chính sách và quyết định của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu trả lời cho câu hỏi cuối cùng của doanh nghiệp là hoạt động như thế nào ?là cơ sở đánh giá kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong một kì kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận là đáp số sau cùng của hiệu quả sản xuất kinh doanh và là một bằng chứng quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định đầu tư trong tương lai. Có nhiều chỉ tiêu tương đối đánh giá lợi nhuận như: tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên giá thành.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu thể hiện trong 100 đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.Lợi nhuận có thể là lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế, vì thế tương ứng với nó là hai chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Lợi nhuận trước thuế
TSLN trước thuế trên._. doanh thu= *100
Doanh thu thuần
.
Lợi nhuận sau thuế
TSLN sau thuế trên doanh thu = *100
doanh thu thuần
Để đánh giá chỉ tiêu này là tốt hay xấu phải đặt nó trong một ngành cụ thể và so sánh chỉ tiêu này với các năm trước và các doanh nghiệp trong cùng ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác trong ngành.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho giá trị tài sản bình quân theo công thức:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
TSLN trên tài sản = *100
Giá trị tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản mà doanh nghiệp huy động vào việc sản xuất kinh doanh thì tạo ra mấy đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh.
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia lợi nhuận cho bình quân tổng số vốn kinh doanh mà doanh nghiệp huy động được trong kì nghiên cứu. Cũng giống như chỉ tiêu lợi nhuận trên doanh thu, chỉ tiêu này người ta cũng xét hai trường hợp là:tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh.
Lợi nhuận trước thuế
TSLN trước thuế trên vốn kinh doanh = *100
Vốn kinh doanh bình quân
Lợi nhuận sau thuế
TSLN sau thuế trên vốn kinh doanh = *100
Vốn kinh doanh bình quân
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh phản ánh một đồng vốn kinh doanh mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh trong kì tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Trong hai chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế vốn kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh thì tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh được các nhà quản trị tài chính sử dụng nhiều hơn, bởi lẽ nó phản ánh số lợi nhuận còn lại (sau khi doanh nghiệp trả lãi vay ngân hàng và thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước ) được sinh ra do sử dụng bình quân một đồng vốn kinh doanh.
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho những người sở hữu doanh nghiệp đó.Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu này. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu được tính bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu bình quân. Công thức xác định như sau:
Lợi nhuận sau thuế
TSLN vốn chủ sở hữu = * 100
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có ý nghĩa là một đồng vốn mà chủ sở hữu bỏ vào để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mang lại mấy đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu doanh nghiệp có tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu lớn hơn tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng vốn kinh doanh, điều đó chứng tỏ việc doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các vốn vay.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành của sản phẩm
Là tỉ số giữa lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp và giá thành của sản phẩm
Lợi nhuận tiêu thụ trong kì
TSLN trên giá thành = * 100
Giá thành toàn bộ sản phẩm trong kì
Thông qua chỉ tiêu này, nhà quản trị tài chính sẽ biết rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.2.4.Phân phối lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
Phân phối lợi nhuận là công việc khó khăn và phức tạp, nó không đơn thuần là việc phân chia tiền lãi thu được sau một kì kinh doanh của doanh nghiệp mà nó là việc dùng tiền để giải quyết hàng loạt mối quan hệ kinh tế phát sinh đối với doanh nghiệp. Lợi nhuận chia hết cho những chủ sở hữu doanh nghiêph hay để lại một phần để thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là công việc phức tạp đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải giải quyết. Nếu giải quyết đúng đắn thì nó sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, còn nếu không phù hợp nó sẽ là một nguyên nhân kìm hãm doanh nghiệp phát triển.
Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối như sau:
Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định.
Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước (áp dụng đối với các doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách nhà nước).
Trả các khoản tiền bị phạt , các khoản chi phí hợp lí, hợp lệ chưa được trừ khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp.
Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích lập các quĩ đặc biệt theo tỷ lệ do Nhà nước qui định(đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật qui định).
Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trích lập các quĩ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm:
Quĩ đầu tư phát triển: Dùng để đầu tư phát triển kinh doanh.
Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình kinh doanh.
Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để chi cho việc đào tạo công nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc làm.
Quỹ phúc lợi: Dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi của doanh nghiệp, làm công tác từ thiện.
Quỹ khen thưởng: Dùng để thưởng cuối năm hoặc thưởng cho cán bộ công nhân viên trog doanh nghiệp, thưởng đột xuất cho các cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sàng kiến mang lại hiệu quả trong kinh doanh...
Từ việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hoà các lợi ích, lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp và của Nhà nước mà trong đó thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ tr ọng lớn.
Như vậy, lợi nhuận góp phần để Ngân sách Nhà nước thực hiện các vai trò của mình mà về mặt kinh tế đó là để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh. Tức là lợi nhuận đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân. Để thấy được điều này ra hãy xem xét vai trò của lợi nhuận với từng đối tượng.
+Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động.
Lợi nhuận cơ bản là nguồn để thể hiện sự quan tâm của mình với người lao động. Lợi nhuận là nguồn vốn để trích lập các quỹ phúc lợi, khen thưởng, giải quyết các nhu cầu xã hội của người lao động trong doanh nghiệp. Các quĩ này phụ thuộc vào hai yếu tố: Số lợi nhuận mà doanh nghiệp có được nhờ hoạt động kinh doanh của minh, thứ 2 là phụ thuộc vào chính sách của doanh nghiệp( cách phân phối lợi nhuận). Nếu như chính sách về phân phối lợi nhuận không thay đổi qua các năm thì nguồn vốn để tạo lập các quĩ( lợi nhuận) càng lớn thì các quĩ (trong đó có quĩ danh cho người lao động) càng lớn. Từ đó mà người công nhân được nâng cao trình độ , đời sống tinh thần cũng như vật chất , tạo điều kiện khuyến khích họ hăng say lao động. Đó là một trong nhiều nguyên nhân có thể làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. Việc phân phối lợi nhuận như vậy là cơ sở để cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh rằng các doanh nghiệp có chế độ đãi ngộ tốt với công nhân viên đã khuyến khích công nhân viên hăng say lao động, giảm số giờ nghỉ việc, có trách nhiệm với công việc, thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kĩ thuật, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu để giảm giá thành.
+ Tác động của lợi nhuận tới các doanh nghiệp.
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong một kì kinh doanh.Lợi nhuận đối với doanh nghiệp vừa là kết quả của hoạt động đầu tư, vừa là nguồn để các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động đầu tư. Chính vì thế mà lợi nhuận có vai trò vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận lập được các quĩ trong doanh nghiệp như:Quĩ khuyến khích phát triển sản xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi...Từ các quĩ này, các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện điều kiện sản xuất kinh doanh đòi hỏi. Và cũng chính từ các quĩ này, doanh nghiệp có điều kiện không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán . Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện thực hiện tốt các nghĩa vụ với nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp khác. Lợi nhuận cũng là khoản tài chính để các doanh nghiệp trang trải thua lỗ trước kia hay những khoản bị phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Một doanh nghiẹp làm ăn thua lỗ không đủ sức tái sản xuất giản đơn(bù đắp các chi phí trong quá trình sản xuất) thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn không ngừng nâng cao uy tín của doanh nghiệp mình trên thị trường, không ngừng đổi mới trang thiết bị.
+ Tác động của lợi nhuận tới nền sản xuất xã hội.
Trong thời kì bao cấp, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh dựa vào sự bao cấp về mọi mặt của nhà nước. Vốn đầu tư là do nhà nước cấp phát toàn bộ, doanh nghiệp không phải lo lắng tìm nguồn vốn, sử dụng vốn.bởi vì vốn là do nhà nước cấp, doanh nghiệp thua lỗ thì nhà nước bù lỗ. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp nhà nước trong thời kì này có hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, không năng động. Động lực sản xuất kinh doanh, cải tiến công nghệ bị thui chột. Lợi nhuận không còn là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp nữa. Doanh nghiệp không xuất phát từ nhu cầu của thị trường để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước bộc lộ rõ những điểm yếu của mình. Tuy nhiên , để đưa các doanh nghiệp thích nghi với cơ chế mới, Nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực để đưa các doanh nghiệp nhà nước vào ổn định và hoạt động có lãi. Các doanh nghiệp khác lại có thể thể hiện điểm mạnh của mình trong cơ chế mới. Đó là tính năng động, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, không cồng kềnh như các doanh nghiệp nhà nước.
Lợi nhuận là tiền đề của tái sản xuất mở rộng của xã hội vì lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong tích luỹ xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, đem lại lợi nhuận ngày càng cao phục vụ tái sản xuất mở rộng với qui mô lớn và tốc độ nhanh.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước nhằm thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, là nguồn củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng , duy trì bộ máy hành chính, cải thiện phúc lợi xã hội. Cơ bản , các loại thuế do các doanh nghiệp nộp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng thanh toán của các doanh nghiệp mới cao, mới có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước. Chính vì vậy, lợi nhuận cũng có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển nền sản xuất xã hội.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Doanh nghiệp.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố chủ quan cũng như các nhân tố khách quan. Đó là các nhân tố thuộc về thị trường, về chính sách vĩ mô của Nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp có thể chia làm hai nhân tố: nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài. Nhân tố bên trong là các nhân tố xuất phát từ bản thân các quyết định của doanh nghiệp, trong tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Nhân tố bên ngoài là nhân tố khách quan, không chịu kiểm soát ý thức chủ quan của doanh nghiệp.
1.3.1.Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Quan hệ cung cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các mặt, tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu cầu của thị trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ qui trình sản xuất, để ra quyết định sản lượng hàng hoá sản xuất. Nhưng trước hết, lợi nhuận chịu sự tác động trực tiếp của cung cầu về chính hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhu cầu của thị trường về hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp là nhân tố quyết định đối với doanh nghiệp trong vấn đề ra quyết định lượng sản xuất. Chỉ nắm bắt được nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp sẽ có khả năng để xác định qui mô sản xuất tối ưu nhằm tối đa lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí hay tối đa hoá doanh thu...Nhu cầu có khả năng thanh toán đối với hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiến hành trong việc tiến hành tận dụng tối đa công suất của máy móc, thiết bị. Đồng thời, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ nhanh, mạnh trên thị trường. Do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, khi nhu cầu hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường chỉ ở mức thấp, doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành hoạt động sản xuất cầm chừng. Công nhân chỉ có thể làm việc thay phiên nhau trong khi máy móc hoạt động với công suất thấp... Điều này sẽ dẫn tới một sự lãng phí, doanh thu thấp và lợi nhuận không đạt đựơc mức kế hoạch đã đề ra, thậm chí có thể xảy ra tình trạng thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản.
Tỷ giá hối đoái
Trong xu thế hội nhập như hiện nay, cả thế giới là thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp có khả năng . Việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau chịu ảnh hưởng rất lớn bới tỷ gía hối đoái, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trực tiếp hay gián tiếp, nó có ảnh hưởng rất lớn đến tổng doanh thu, tổng chi phí từ đó ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận trước thuế. Việc các ngoại tệ khác lên giá sẽ làm lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu sẽ trở lên tương đối rẻ so với hàng hoá cùng chủng loại ở nước ngoài. Vì lý do như vậy, người nước ngoài mua nhiều hàng hoá của nước xuất khẩu hơn. Điều ngược lại xuất hiện nếu các đồng ngoại tệ giảm gía so với đồng nội tệ. Khi đó, dân cư nước ngoài sẽ mua ít hàng hoá của nước xuất khẩu hơn. Điều này dẫn đến tổng doanh thu của các nước xuất khẩu giảm.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng của biến động tỷ giá trên thị trường ngoại hối, nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng hầu hết các nguyên liệu nhập khẩu. Khi ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ, giá nguyên liệu đầu vào sẽ tăng lên tương ứng dẫn đến giá thành của sản phẩm cũng tăng lên. Kết quả là chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng mạnh trong khi doanh nghiệp khó có thể tăng giá bán sản phẩm của mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm nghiêm trọng. Khi ngoại tệ có xu hướng tăng giá mạnh, các khoản vay bằng ngoại tệ của doanh nghiệp để mua nguyên vật liệu và tài sản cố định càng làm cho tình hình tài chính của doanh nghiểp trở nên tồi tệ.
Môi trường kinh doanh
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được
Sự ổn định của nền kinh tế
Không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của doanh nghiệp, sự ổn định của nền kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: yếu tố bên trong nước, yếu tố bên ngoài nước. Mặc dù như vậy nhưng sự ổn định của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ, ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những biến động của nền kinh tế có thể gây ra những rủi ro kinh doanh ảnh hưởng tới những khoản chi phí vật tư, chi phí trả lãi, tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị...từ đó tác động xấu đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cơ chế chính sách của Nhà nước
Đây là nhân tố bên ngoài có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp. Các cơ chế chính sách của Chính phủ ở tầm vĩ mô đều có tác dụng điều tiết sản xuất, định hướng tiêu dùng, tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động. Ở tầm vĩ mô, các chính sách này có thể khuyến khích hay hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nắm vững những cơ chế chính sách của nhà nước để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Những cơ chế chính sách có thể là những lợi thế nhưng cũng rất có thể là những khó khăn cho các doanh nghiệp. Một số cơ chế chính sách vĩ mô là:
* Chính sách thuế:
Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định. Tuỳ theo tính chất ngành , nghề sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau:thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt...Ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn phải nộp một số các khoản phí hay lệ phí.
Mức thuế suất được nhà nước qui định tuỳ tính chất của từng mặt hàng . Bởi vậy đòi hỏi các doanh nghiệp theo dõi và giám sát sao cho đúng vì khi có những thay đổi liên quan đến thuế, phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận.
* Chính sách lãi suất
Thông thường khi các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì ngoài việc sử dụng vốn tự có , các doanh nghiệp còn sử dụng vốn có được nhờ vào việc vay các tổ chức tín dụng. Trong kì kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp này đều phải trả các khoản tiền lãi cho món vay của mình. Số tiền lãi mà doanh nghiệp phải trả phụ thuộc vào số tiền mà doanh nghiệp vay, thời gian vay và lãi suất.Lãi suất sẽ phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định. Khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi mức lãi suất cơ bản sẽ tác động trực tiếp đến chi phí trả lãi vay, tác động đến chi phí .Do vậy mà lãi suất của ngân hàng và các tổ chức tín dụng có ảnh hưởng lớn đến các quyết định tài chính của doanh nghiệp và từ đó có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
*Kiểm soát giá
Giá của một sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra chịu ảnh hưởng của qui luật cung cầu trên thị trường, doanh nghiệp căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm. Nhà nước không quyết định giá cho sản phẩm mà chỉ tham gia can thiệp khi cần thiết. Tuy nhiên, đối với những lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược với nền kinh tế quốc dân như : Viễn thông, điện lực, xăng dầu...thì nhà nước sẽ kiểm soát giá. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giá bán sản phẩm phải nằm trong khung giá do Nhà nước qui định. Trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi, thay đổi giá bán cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành kinh doanh.
Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu và chi phí , như vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh mang những đặc thù riêng của ngành mình, đi liền với nó là cơ cấu chi phí và qui mô chi phí cũng khác nhau giữa các ngành. Ví dụ như các ngành Viễn thông, Điện lực sản phẩm cung cấp là dịch vụ thì chi phí khấu hao thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất do vốn đầu tư công nghệ và mua sắm tài sản cố định lớn.
1.3.2 Các nhân tố bên trong của doanh nghiệp.
Vốn.
Vốn là các quĩ tiền mà doanh nghiệp sẽ sử dụng vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nó có thể được coi là số tiền ứng trước cho một chu kì sản xuất kinh doanh. Vốn là chỉ tiêu thể hiện khả năng tài chính và qui mô của doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp. Nó sẽ là điều kiện để doanh nghiệp mở rộng qui mô, tăng khối lượng sản phẩm làm ra, từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp có thể được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Tỷ trọng giữa vốn đi vay và tổng số trong doanh nghiệp gọi là cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn phản ánh trong mỗi đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có bao nhiêu đồng vốn đi vay và qua đó thấy được mức độ đóng góp của vốn chủ sở hữu . Doanh nghiệpcó một cơ cấu vốn như thế nào, điều này cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn đi vay trong tổng vốn lớn sẽ giúp doanh nghiệp giảm rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên doanh nghiệp lại phải bỏ một khoản chi phí để trả lãi. Nếu như doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả trong khi chi phí trả lãi lớn sẽ làm tổng chi phí tăng, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Công nghệ
Việc lựa chọn công nghệ, có hai phương án được đặt ra: thứ nhất là doanh nghiệp có thể đầu tư công nghệ mới hiện đại với chi phí bỏ ra lớn và đòi hỏi một số ít lao động có trình độ tay nghề cao, hai là doanh nghiệp lựa chọn công nghệ sản xuất đã có từ lâu với chi phí bỏ ra để mua máy móc ít hơn nhưng đòi hỏi số lượng lao động lớn và phải chịu hao mòn vô hình lớn do tiến bộ khoa học kĩ thuật. Trong trường hợp cầu về sản phẩm của doanh nghiệp thấp thì đối với phương án thứ nhất, chi phí về công nghệ cho sản xuất sản phẩm cao trong khi máy móc không tận dụng được hết công suất sẽ tạo ra một áp lực lớn về chi phí cho doanh nghiệp, rủi ro kinh doanh lớn, do vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi sử dụng phương án 2, rủi ro kinh doanh sẽ nhỏ hơn nếu nhu cầu sản phẩm của doanh nghiệp không cao.Nhưng nếu nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp cao thì việc sử dụng công nghệ hiện đại có thể nhanh chóng cung ứng sản phẩm, đảm bảo về số lượng và chất lượng của sản phẩm từ đó tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Lao động
Lao động cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ kĩ thuật cao, lành nghề, sáng tạo trong công việc của người lao động sẽ góp phần làm tăng chất lượng của sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại. Chi phí nhân công chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí nhất là đối với các ngành đặc thù như : điện lực, viễn thông...Do vậy, chất lượng lao động trong những ngành này càng đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Năng lực quản lí của doanh nghiệp
* Tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Tổ chức quản lí và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố vật tư, kĩ thuật để chế tạo ra sản phẩm hàng hoá. Quá trình này được thực hiện như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm được làm ra và chi phí của doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Tổ chức và quản lí sản xuất ở trình độ cao có thể giúp cho doanh nghiêp xác định mức sản xuất tối ưu và phương pháp sản xuất tốt nhất làm giá thành sản phẩm hạ xuống. Nhờ vào việc bố trí hợp lí các khâu sản xuất có thể hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, giảm thấp tỉ lệ sản phâm hỏng. Đây chính là cơ sở để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng ảnh hưởng đến doanh thu và từ đó có tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Thời điểm tiêu thụ sản phẩm được xác định là khi khách hàng chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào thời điểm trả tiền của khách hàng. Do vậy, tiêu thụ sản phẩm nhanh sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm tốt lại phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như công tác Marketing, quảng cáo của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường...
Tổ chức lao động và sử dụng con người
Đây là nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động một cách khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được trình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có tác dụng lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu đội ngũ lao động của doanh nghiệpcó chất lượng cao cộng với trình độ tổ chức và sử dụng lao động hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp có quy trình tổ chức sản xuất tiêu thụ hợp lý, tổ chức quản lý tài chính tốt, tìm ra các biện pháp giảm chi phí đầu vào...từ đó góp phần tăng doanh thu, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính
Quản lý tài chính là nhân tố có tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Vai trò quản trị tài chính ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp và tác động của nó đến việc giảm chi phí, hạ giá thành, tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất cho việc sản xuất do việc ngừng sản xuất, do thiếu vật tư, nguyên liệu. Thông qua việc tổ chức sử dụng vốn kiểm tra được tình hình dự trữ , tồn kho sản phẩm từ đó phát hiện ngăn chặn kịp thời tình trạng ứ đọng mất mát, hao hụt vật tư sản phẩm. Việc đẩy mạnh sự chu chuyển vốn có thể làm giảm nhu cầu vay vốn và sẽ làm bớt chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận là công việc quan trọng. Việc chia thành các nhân tố bên trong và bên ngoài có thể làm chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về các yếu tố làm cho lợi nhuận tăng hay giảm. Tuy nhiên, có thể thấy rằng việc chia như vậy chỉ mang tính chất tương đối. Giữa các nhân tố đều có mối quan hệ với nhau, nhân tố này ảnh hưởng tới nhân tố kia và ngược lại. Vì vậy, việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận cần thiết phải có cái nhìn tổng quát xem xét sự ảnh hưởng tổng hợp của các nhân tố tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương
2.1.Giới thiệu về bưu điện tỉnh Hải Dương.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển.
*Tên doanh nghiệp: Bưu điện tỉnh Hải Dương
*Tên giao dịch quốc tế: Haiduong posts and telecommunications.
(Viết tắt là Haiduong P&T)
*Địa chỉ : Số 1 đại lộ Hồ Chí Minh-Thành phố Hải Dương.
* Bưu điện tỉnh Hải Dương được hình thành với sự ra đời của các ban ngành khác trong tỉnh nhằm phục vụ yêu cầu nhiệm vụ mới của Cách mạng và đáp ứng nhu cầu tình cảm của nhân dân trong tỉnh trong những ngày đầu cách mạng.
Quá trình xây dựng và trưởng thành đến tháng 1/1968 được hợp nhất từ 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Tháng 11/1996, Quốc Hội khoá IX kì họp thứ X đã quyết định chia Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Tỉnh Hải Dương được tái lập sau 28 năm sáp nhập với Hưng Yên. Từ ngày 1/7/1997, Bưu điện tỉnh Hải Dương được chính thức hoạt động.
Bưu điện tỉnh Hải Dương được thành lập ngày 14/6/1997 theo quyết định số 336/QĐ-TCBĐ của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, là doanh nghiệp nhà nước, đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam(VNPT), hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích cùng các đơn vị thành viên khác trong một dây truyền công nghệ Bưu chính- Viễn thông liên hoàn, thống nhất cả nước, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về tổ chức mạng lưới kinh tế, tài chính, phát triển dịch vụ Bưu chính-Viễn thông để thực hiện những mục tiêu kế hoạch Nhà nước do Tổng công ty giao.
Bưu điện tỉnh Hải Dương có tư cách pháp nhân và là tổ chức kinh tế-đơn vị thành viện hạch toán phụ thuộc Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông Việt Nam có điều lệ tổ chức và hoạt động, bộ máy quản lý và điều hành, có con dấu theo mẫu doanh nghiệp nhà nước, được mở tài khoản ngân hàng và kho bạc Nhà nước. Được Tổng công ty giá quyền quản lý vốn và tài sản tương ứng với nhiệm vụ kinh doanh và phục vụ của đơn vị. Chịu trách nhiệm về hoàn thành kế hoạch kinh doanh và phục vụ đã được Tổng công ty giao để góp phần bảo toàn và phát triển tổng số vốn do Tổng công ty quản lý. Có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng công ty, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Tổng công ty. Có bảng cân đối tài kế toán, các quĩ xí nghiệp theo qui định của nhà nước và qui chế tài chính của Tổng công ty.
Bưu điện tỉnh Hải Dương chịu sự lãnh đạo cuả Tỉnh uỷ, UBND tình Hải Dương về chấp hành pháp luật, các mặt hoạt động liên quan đến nhiệm vụ phục vụ nhân dân tỉnh Hải Dương và gắn nhiệm vụ phát triển Bưu chính- Viễn thông với qui hoạch, kế hoạch của tỉnh.
* Cơ cấu tổ chức của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Là một đơn vị hoạt động kinh doanh có qui mô lớn, để thực hiện chức năng nhiệm vụ và đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Bộ máy quản lý của Bưu điện tỉnh Hải Dương được tổ chức theo mô hình trực tuyến với 12 Bưu điện huyện , thành phố, 12 đài viễn thông nằm trong 1 công ty đó là Công ty Điện báo điện thoại, công ty BC-PHBC có cơ cấu và nhiệm vụ cụ thể.
Bộ máy tổ chức quản lý của Bưu điện tỉnh Hải Dương bao gồm:
-Ban giám đốc: gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
Giám đốc là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Tổng công ty về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh giám đốc là 2 phó giám đốc, được giám đốc uỷ quyền phụ trách các lĩnh vực kinh doanh, kĩ thuật và hành chính.
-Các phòng ban chức năng của Bưu điện gồm 8 phòng ban: phòng tổng hợp, phòng kế hoạch-kinh doanh tiếp thị, phòng đầu tư xây dựng cơ bản, phòng Viễn thông tin học, phòng tổ chức cán bộ lao động, phòng nghiêp vụ bưu chính và viễn thông, phòng kế toán thống kê tài chính và phòng hành chính quản trị.
Sơ đồ bộ máy tổ chức Bưu điện tỉnh Hải Dương:
Gi¸m ®èc
Phó giám đốc kĩ thuật
Phó giám đốc nghiệp vụ hành chính
Phòng đầu tư xdcb
Phòng viễn thông tin học
Phòng tccb lao động
Phòng nghiệp vụ bưu chính viễn thông
Phòng kế toán thống kê tài chính
Phòng hành chính quản trị
Các bưu điện huyện,tp
Công ty điện báo diện thoại
Công ty bc-phbc
Các đài viễn thông
Các trạm viễn thông
Điểm bđvh xã
Các tổ sản xuất
Các bưu cục
Điểm bđvhxã
Các tổ sản xuất
Các bưu cục
Đại lý
Phòng kế hoach kinh doanh tiếp thị
Đại lý
Đây là bộ máy quản lý phù hợp với qui mô và đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp. Với mô hình này, Ban ._.về nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp phần mềm. Năm 2010, doanh số phần mềm phấn đấu đạt trên 30% trong doanh số công nghiệp bưu chính, viễn thông, tin học. Tăng nhanh tỷ trọng phần mềm trong các sản phẩm; từng bước thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế thông qua phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất.
Phát triển nguồn nhân lực
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn lành nghề, có phẩm chất; làm chủ công nghệ, kỹ thuật hiện đại; vững vàng về quản lý kinh tế.
- Năm 2010, đạt chỉ tiêu về năng suất, chất lượng lao động phục vụ bưu chính, viễn thông Việt Nam ngang bằng trình độ các nước tiên tiến trong khu vực.
3.2.Phương hướng kinh doanh của Bưu điện tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
Trước xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, Bưu điện tỉnh Hải Dương cũng như các doanh nghiệp khác luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp trong và ngoài nước . Nhiệm vụ của Bưu điện tỉnh Hải Dương trong năm 2006 sẽ càng ngày càng nặng nề so với các năm trước do việc phải chia sẻ thị trường cho các đối thủ cạnh tranh khác ở các lĩnh vực phát hành báo chí, chuyển phát nhanh cũng như các dich vụ về viễn thông. Qua phân tích các số liệu ở chương 2 ta nhận thấy doanh thu của Bưu điện tỉnh Hải Dương chủ yếu từ việc thu từ các dịch vụ về viễn thông như điện thoại đường dài liên tỉnh, điện thoại quốc tế và thông tin di động. Thị trường điện thoại bị phân chia do sự tham gia của các doanh nghiệp khác như Công ty viễn thông quân đội, công ty điện lực chắc chắn sẽ làm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng ngày càng gay gắt. Tuy nhiên xác định mục tiêu là doanh nghiệp chủ đạo cung cấp các dich vụ về bưu chính viễn thông trong tỉnh, Bưu điện tỉnh Hải Dương đã đề ra các phương hướng cụ thể như sau :
Về lĩnh vực kinh doanh.
Đảm bảo giữ vững thị phần các dịch vụ viễn thông truyền thông, tăng thêm các dịch vụ mới, đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nắm vững các chính sách về cước thương lượng, xu hướng giảm cước để có chính sách phù hợp trong việc đàm phán cước thương lượng trong việc gia tăng các dịch vụ mới để bù đắp cho lượng doanh thu bị giảm do giá cước giảm.
Tiếp tục nghiên cứu mở rộng thị trường, thu hút thêm lực lượng, tăng khả năng cạnh tranh.
Tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, giới thiệu dịch vụ “171”, giảm giá cước dịch vụ điện thoại truyền thống và các dịch vụ mới như CDMA,ADSL...thực hiện tốt công tác tiếp thị, khuyến mãi đến tận khách hàng. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nhu cầu của khách hàng, nghiên cứu tỷ lệ chuyển hoá giữa các dịch vụ truyến thống và các dịch vụ mới để có chính sách phù hợp đối với từng loại dịch vụ.
Về quản lý khai thác và phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông.
Tiếp tục hiện đại hoá và nâng cao năng lực, chất lượng mạng lưới và các dịch vụ bưu chính viễn thông.
Hoàn thành việc lắp đặt và mở thêm nhiều kênh liên lạc. Đưa vào triển khai mạng VoIP mới và đảm bảo chất lượng dịch vụ “gọi 171”.
Nghiên cứu tham gia đầu tư vào các hệ thống cáp quang dung lượng cao nhằm tăng dung lượng truyền dẫn phục vụ các dịch vụ viễn thông.
Về công tác đầu tư xây dựng cơ bản.
Tập trung giải ngân triệt để nguồn vốn với đối tác liên doanh, hoàn thành đúng tiến độ các công trình đang thi công, triển khai và hoàn thành các dự án trọng điểm
Về cơ cấu tổ chức.
Kiện toàn bộ máy quản lý của Bưu điện tỉnh.
Tiếp tục phát triển nguồn nhân lực, tuyển chọn các cán bộ có chất lượng và bồi dưỡng tài năng trẻ.
3.3.Một số giải pháp tăng lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Trên cơ sở nghiên cứu những nhân tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động sản xuât kinh doanh của Bưu điện tỉnh Hải Dương, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm giảm chi phí nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa doanh thu và giảm chi phí, chính vì vậy việc nghiên cứu các giải pháp nhằm tăng trưởng lợi nhuận cũng chính là việc nghiên cứu nhằm tăng doanh thu và giảm chi phí của doanh nghiệp. Đầu tiên, em xin được trình bày các giải pháp nhằm giảm chi phí của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
3.2.1.Các giải pháp nhằm giảm chi phí của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Quản lý chi phí được chia làm 4 nhóm chính: Quản lý chi phí nhân công, quản lý khấu hao tài sản cố định, quản lý chi phí dịch vụ mua ngoài và quản lý chi phí bằng tiền khác.
+ Quản lý chi phí nhân công.
Tại bưu điện tỉnh Hải Dương, chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương chiếm khoảng trên 20% tổng chi phí sản xuất. Vì vậy, việc quản lý, tiết kiệm chi phí nhân công sẽ góp phần giảm chi phí, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tiết kiệm chi phí ở đây không có nghĩa với giảm giá trị tổng khoản mục chi phí nhân công, giảm thu nhập bình quân của công nhân viên mà có nghĩa là tăng năng suất lao động ở cả bộ phận quản lý và sản xuất, giảm chi phí nhân công trong giá thành đơn vị sản phẩm. Điều này phụ thuộc vào trình độ của người lao động. Để làm đựơc điều đó bưu điện tỉnh cần áp dụng các biện pháp sau:
Tổ chức lao động hợp lý:Muốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì bất kì doanh nghiệp nào cũng cần phải phân bổ nguồn lực một cách hợp lý nhằm loại trừ tình trạng lãng phí lao động.
Đối với khối quản lý, bưu điện tỉnh cần bố trí lao động hợp lý, đúng người, đúng việc, chú ý ngay từ công tác tuyển chọn đánh giá tình trạng tuyển dụng, tránh tình trạng tuyển dụng lao động không cần thiết cho công việc. Sắp xếp lại nhân viên, mạnh dạn chuyển người vào những công việc phù hợp, phân công lao động theo khả năng, có xét đến nguyện vọng của mỗi cá nhân, phân công hợp lý để người lao động có điều kiện, phát huy khả năng của mình, tiến tới xây dựng một bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc hiệu quả hơn.
Đối với khối sản xuất, bưu điện tỉnh cần xem xét lại số công nhân cần thiết cho trạm, tổng đài...tránh tình trạng lãng phí lao động.
Tuy nhiên, ở bưu điện tỉnh Hải Dương hiện nay lao động ở khối bưu chính chiếm tới 50% tổng số lao động nhưng doanh thu về bưu chính thì chiếm khoảng 7% do vậy về chiến lược bưu điện tỉnh Hải Dương phải nhanh chóng chuyển các bưu cục cấp 3 có doanh thu dưới 5 triệu/tháng thành các đại lý đa dịch vụ nhằm giảm chi phí tiền lương lao động. Phát triển mạnh mẽ các đại lý đa dịch vụ ở những nơi chưa có bưu cục đồng thời phát triển các dịch vụ mới về Bưu chính-Viễn thông ở các điểm bưu điện văn hoá xã.
Hoàn thiện cơ chế phân phối thu nhập, có chính sách khuyến khích công nhân viên hợp lý. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của Bưu điện tỉnh là 2 triệu đồng/ tháng, khá cao so với thu nhập bình quân của người dân trong tỉnh. Điều này sẽ làm cho người lao động nhiệt tình hơn với công việc, đóng góp sức lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới, bưu điện tỉnh cần phải hoàn thiện hơn nữa đơn giá tiền lương sao cho phù hợp với từng bộ phận trong bưu điện dựa trên cơ sở tổ chức lao động, mức độ đóng góp của từng bộ phận, tránh lãng phí không cần thiết và đảm bảo tính công bằng , tạo ra đòn bẩy kinh tế hiệu quả với người lao động.
Chú trọng đến việc nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên. Con người là yếu tố quan trọng bậc nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để giải quyết tốt nhất các khâu trong qua trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi đội ngũ công nhân viên phải có đủ năng lực, giỏi nghiệp vụ chuyên môn, năng nổ trong công việc. Trình độ cán bộ công nhân viên cao sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm, góp phần làm giảm giá thành đơn vị sản phẩm. Để làm tốt công tác này cần phải làm tốt công tác tuyển dụng cũng như đào tạo. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh luôn cần năng động và sáng tạo, cập nhật kiến thức, nhất là trong điều kiện những đổi mới về tài chính và kế toán của nước ta gần đây, bưu điện tỉnh cần phải chú ý quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ công nhân viên.
Bưu điện tỉnh cần chú ý ngay từ đầu khâu tuyển dụng đồng thời cũng cần phải chú ý kịp thời đến công tác đào tạo cán bộ công nhân viên để thích nghi theo kịp tình hình mới. Bưu điện có thể tổ chức các khoá đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức tại bưu điện hoặc cử cán bộ quản lý chủ chốt theo học các khoá học đào tạo ngoài công ty. Việc đào tạo sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho công ty và về lâu dài thì đây là một giải pháp để giảm chi phí.
Xây dựng chính sách đào tạo phù hợp để có đội ngũ chuyên gia giỏi về kinh tế, kỹ thuật; đội ngũ quản lý kinh doanh giỏi trong môi trường cạnh tranh quốc tế; đặc biệt chú trọng đội ngũ phần mềm viễn thông, tin học.
+ Quản lý chi phí khấu hao tài sản cố định.
Chi phí khấu hao tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí kinh doanh của bưu điện tỉnh Hải Dương. Vì vậy, quản lý chi phí khấu hao tài sản cố định là một khâu quan trọng trong công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp:
Thay đổi phương pháp trích khấu hao tài sản cố định: Hiện nay, bưu điện tỉnh Hải Dương áp dụng phương pháp khấu hao đường( hay khấu hao bình quân) do Bộ Tài chính qui định đối với doanh nghiệp Nhà nước(QĐ 166/1999/QĐ-BTC). Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định. Mức khấu hao hàng năm được xác định theo công thức:
Nguyên giá TSCĐ
Trích KH hàng năm =
Thời gian sử dụng
Tuy nhiên, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như hiện nay, với đặc thù của ngành viễn thông là sử dụng khoa học kĩ thuật công nghệ, máy móc thiết bị công nghệ cao thì tác động của hao mòn, đặc biệt là hao mòn vô hình ngày càng lớn. Ở những nước phát triển, thời gian hữu dụng của máy móc thiết bị thường chỉ từ 4-5 năm, sau đó sẽ bị đào thải và bị thay thế bởi những thiết bị tiên tiến và hiện đại hơn. Ở nước ta thì thời gian sử dụng qui định cho các thiết bị thông tin liên lạc dài hơn, thời gian tối thiểu là 6 năm và thời gian tối đa là 12 năm.
Nếu sử dụng phương pháp tính khấu hao đường thẳng do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, tài sản cố định của doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Vì vậy, nếu như được phép sử dụng phương pháp khấu hao linh hoạt hơn thì có thể phương pháp giảm dần sẽ phù hợp hơn với công ty.
Theo phương pháp này, số tiền trích khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của tài sản cố định với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng. Công thức tính toán như sau:
2 ´ (T- t +1)
Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng =
T´ ( T + 1 )
Trong đó: T: thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ.
t: thứ tự năm cần tính khấu hao.
Phương pháp này sẽ phản ánh chính xác hơn mức khấu hao tài sản cố định vào giá thành sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm tài sản có định trong những năm đầu sử dụng, hạn chế được ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là số tiền trích khấu hao luỹ kế đến thời gian cuối sử dụng tài sản cố định chưa đủ bù đáp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào tài sản cố định của doanh nghiệp. Để khắc phục nhược điểm này, ta có thể tính khấu hao năm cuối cùng bằng cách lấy nguyên giá của tài sản cố định trừ đi số tiền khấu hao luỹ kế đến năm trước.
Nâng cao công tác quản lý tài sản cố định. Về công tác bảo quản, bảo dưỡng để tránh phát sinh những chi phí sửa chữa lớn. Bưu điện nên giao trách nhiệm bảo quản máy cho từng tổ sản xuất trực tiếp sử dụng có máy. Có cơ chế khen thưởng kỉ luật rõ ràng. Nếu máy móc thiết bị hỏng do chủ quan của người lao động, người làm hỏng phải có trách nhiệm sửa chữa bồi thường. Hàng tháng, hàng quí nên kiểm tra, đánh giá tình trạng kĩ thuật cuả tài sản cố định để có biện pháp tu bổ kịp thời, tránh tình trạng tài sản cố định bị hư hỏng lớn mới sửa chữa thì chi phí sửa chữa sẽ cao hơn. Đối với các phương tiện vận tải, bưu điện nên áp dụng hình thức khoán theo km đường và định mức cung cấp thiết bị sửa chữa thay thế, tránh tình trạng người lái xe tạo ra số liệu giả, những chi phí thực tế không có. Đối với thiết bị văn phòng, bưu điện nên giao trực tiếp cho các trưởng phòng chịu trách nhiệm trước công ty về việc bảo quản. Bên cạnh đó, công ty cần nâng cao hiệu quả sửa chữa bảo dưỡng để duy trì giá trị sử dụng thường xuyên của tài sản cố định, nâng cao thời gian làm việc thực tế của tài sản cố định.
Đầu tư nâng cấp, đổi mới thiết bị công nghệ. Đầu tư nâng cấp đổi mới thiết bị công nghệ là giải pháp lâu dài có tính chất chiến lược nhằm tăng lợi nhuận của bưu điện bởi nhiều lí do. Thứ nhất, việc nâng cấp đổi mới thiết bị công nghệ sẽ làm chi phí sửa chữa tài sản cố định giảm xuống, đồng thời với công nghệ tiên tiến chi phí về nhiên liệu động lực cũng như chi phí nhân công của bưu điện sẽ thấp hơ. Những yếu tố này góp phần làm giảm tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Thứ hai, trong xu thế phát triển nhanh chóng của công nghệ viễn thông quốc tế, để có thể bắt kịp với nhịp độ phát triển của thế giới, các thiết bị viễn thông quốc tế Việt Nam cũng không thể không được đổi mới, bám sát vào sự phát triển chung của thiết bị công nghê trên toàn thế giới và trong khu vực. Việc đổi mới các thiết bị công nghệ giúp bưu điện có thể nâng cao chất lượng, đa dạng hoá dịch vụ cung cấp, góp phần tăng sản lượng, tăng doanh thu.
+ Quản lý chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm các chi phí như: chi phí về điện lực, chi phí về nước... Đây là những khoản chi phí rất khó có thể cắt giảm nếu như người lao động không có ý thức tiết kiệm. Vì vậy, nâng cao ý thức tiết kiệm, coi đây là nhiệm vụ của người lao động là việc nên làm. Nên có những qui định biện pháp về việc tiết kiệm chi phí điện, nước cụ thể.
+ Quản lý chi phí khác bằng tiền.
Bưu điện nên tăng thêm chi phí quảng cáo, tất nhiên là theo hạn mức qui định của Bộ Tài chính và nên chú trọng đến nội dung và hình thức, nâng cao hiệu quả quảng cáo.
Đối với các khoản chi hành chính như: tiếp khách, hội nghị, công tác phí,...bưu điện cần phải đưa ra những định mức và xây dựng những qui định cụ thể đối với những khoản chi này, thuận tiện cho theo dõi và tránh được những khoản chi không cần thiết.
3.3.2. Các giải pháp tăng lợi nhuận nhờ tăng doanh thu của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
+ Làm tốt công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng.
Công tác tiếp thị ở bưu điện tỉnh Hải Dương nay đã có bộ phận riêng tuy chưa được tổ chức thành phòng tiếp thị nhưng đã hoạt động khá tích cực và có hiệu quả nhằm giới thiệu đến khách hàng các dịch vụ của bưu điện tỉnh cả về bưu chính và viễn thông nhưng cần chú trọng những nội dung sau đây:
Tuyên truyền quảng bá những dịch vụ mới và các dịch vụ có tính cạnh tranh cao như 171,1717, Mega VNN_Fone VNN trên các phương tiện thông tin đại chúng trong tỉnh như : đài phát thanh và truyền hình tỉnh Hải Dương, báo Hải Dương....
Mở lớp huấn luyện về công tác tiếp thị cho mọi cán bộ công nhân viên nhằm tận dụng mọi nơi, mọi lúc để tuyên truyền. Thực hiện chủ trương: “ Mỗi cán bộ công nhân viên đều là cán bộ tiếp thị”
Nắm vững nhu cầu của thị trương trên cơ sở khảo sát kĩ nhu cầu có khả năng thanh toán nhằm đầu tư trước một bước để sẵn sàng phục vụ khách hàng.
Bên cạnh chính sách tiếp thị bưu điện tỉnh Hải Dương cũng cần phải có chính sách chăm sóc khách hàng hợp lý như:
Thường kì mở hội nghị khách hàng, thống kê theo dõi chặt chẽ các khách hàng lớn, có chinh sách chiết khấu hợp lý cho đối tượng này. Đồng thời chăm sóc tốt chất lượng đường thông , sửa chữa nhanh chóng khi có sự cố. Kí hợp đồng cam kết sử dụng dịch vụ của bưu điện tỉnh lâu dài với các chính sách riêng có tính cạnh tranh cao.
Tổ chức bộ phận riêng để giải đáp thắc mắc, sửa chữa ứng cứu, giúp đỡ khách hàng khi có khó khăn để tạo uy tín cho bưu điện tỉnh Hải Dương.
Về giá cước do Bộ Bưu chính- Viễn thông quản lý và Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông ban hành chi tiết trong khung nên bưu điện tỉnh chỉ vận dụng trong khoảng cho phép của Tổng công ty, đặc biệt là chính sách khuyến mại hợp lý nhằm thu hút khách hàng, giúp làm tăng doanh thu cho bưu điện tỉnh Hải Dương.
+ Phát triển các dịch vụ mới.
Quan tâm tới các dịch vụ đã thu được kết quả tốt như: hệ thống di động nội tỉnh CDMA_W.L.L, MEGA VNN_FONE VNN. Bên cạnh đó cần phải chú ý tới các dịch vụ gia tăng của tổng đài cố định như: hiển thị số cuộc gọi, bắt giữ, chuyển cuộc gọi,cuộc gọi hội nghị,1080,voice video, tex...Những dịch vụ này tuy đơn giá thấp nhưng có rất nhiều khách hàng có nhu cầu sử dụng nên đem lại lượng doanh thu không nhỏ.
Đặc biệt là các dich vụ trên mạng Internet bởi vì Internet đang được giới trẻ rất quan tâm.
Ngoài việc phát triển và mở rộng các dịch vụ mới, bưu điện tỉnh phải lưu ý nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ vững và phát triển khách hàng. Không để khách hàng đã dùng rồi lại bỏ, nhằm không ngừng nâng cao vị thế của Bưu điện tỉnh trên địa bàn của tỉnh , sẵn sàng cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi với các doanh nghiệp mới.
+ Mở rộng mạng lưới.
Trên cơ sở khảo sát kĩ nhu cầu khách hàng mà cần có kế hoạch phát triển mạng lưới với chiều sâu và chiều rộng. Bảo đảm cung cấp đến 100% số thôn trong tỉnh Hải Dương. Rút ngắn thời gian chờ đợi của khách hàng.
3.4.Một số kiến nghị.
3.4.1.Với nhà nước.
* Nhà nước bằng những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của mình có thể tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời hạn chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Hiện nay, các hoạt động viễn thông đang được điều chỉnh bằng nhiều luật và các văn bản dưới luật như Luật Doanh nghiệp, luật doanh nghiệp Nhà nước, điều lệ tổ chức của Bộ bưu chính viễn thông, các quyết định của Bộ Bưu chính viễn thông về giá cước , về hoạt động các dịch vụ bưu chính viễn thông...Tuy nhiên, một số lĩnh vực vẫn chưa được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật hoặc chưa hoàn thiện cơ chế cạnh tranh, mở cửa thị trường...Vì vậy cần đẩy nhanh việc xây dựng Pháp lệnh , Luật Bưu chính-Viễn thông cùng hệ thống các văn bản pháp quy khác tạo điều kiện chuyển mạnh bưu chính, viễn thông sang thị trường cạnh tranh; chủ động thực hiện lộ trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
* Nhanh chóng xây dựng và ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển bưu chính, viễn thông và Internet. Cho phép các doanh nghiệp trong nước có đủ điều kiện tham gia thị trường cung cấp dịch vụ cơ bản, dịch vụ giá trị gia tăng, dịch vụ ứng dụng công nghệ tin học trong nước và quốc tế. Mở rộng thị trường cạnh tranh trên cơ sở phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng các chính sách đảm bảo cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả; chính sách điều tiết phục vụ kinh doanh, công ích, phổ cập dịch vụ. Sớm xây dựng và công bố lộ trình mở cửa thị trường bưu chính, viễn thông, Internet theo các mốc thời gian cho từng dịch vụ cụ thể.
* Đổi mới chính sách giá cước đảm bảo thiết lập được môi trường cạnh tranh thực sự, tạo động lực để các doanh nghiệp phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm và dịch vụ. Năm 2005-2006, hầu hết giá cước bưu chính, viễn thông, Internet của Việt Nam thấp hơn hoặc tương đương với mức bình quân của các nước trong khu vực.
* Có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm tận dụng, huy động nguồn lực của các ngành, địa phương tham gia phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; nâng cao năng lực phục vụ cộng đồng; tăng khả năng truy nhập dịch vụ cho người dân trong xã hội.
* Quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia như: phổ tần số vô tuyến điện, kho số, mã số; tên vùng, miền; địa chỉ; thương quyền; tạo bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động.
* Đổi mới tổ chức, tăng cường và nâng cao hiệu lực bộ máy quản lý nhà nước, hiệu lực các công cụ và chính sách quản lý vĩ mô :
- Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước thống nhất về bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin phù hợp với xu hướng hội tụ công nghệ; năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển. Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả trong môi trường mở cửa cạnh tranh.
- Quản lý theo pháp luật, giảm bớt biện pháp hành chính, tăng cường các biện pháp “hậu kiểm”, không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chú trọng định hướng và dự báo; gắn quy hoạch, kế hoạch với hệ thống cơ chế chính sách và thị trường; đảm bảo phát triển lành mạnh, bình đẳng. Bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, người tiêu dùng và của doanh nghiệp.
- Thiết lập các tiền đề cần thiết cho bưu chính, viễn thông, tin học trong quá trình Việt Nam tham gia AFTA, APEC, thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, gia nhập WTO.
* Tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp :
- Đổi mới doanh nghiệp theo mục tiêu: "năng suất, chất lượng, hiệu quả"; nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tin học. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hình thành các tập đoàn bưu chính, viễn thông, tin học mạnh; tạo thế và lực để hội nhập, cạnh tranh quốc tế thắng lợi.
- Đẩy nhanh sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông trên cơ sở phân định loại hình: doanh nghiệp do Nhà nước nắm 100% vốn; doanh nghiệp do Nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế - xã hội. Từng bước bãi bỏ chế độ bao cấp chéo, thực hiện hạch toán độc lập, phân định rõ nhiệm vụ công ích và kinh doanh. Thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông, tin học theo lộ trình cụ thể.
- Đẩy mạnh quá trình điều chỉnh cơ cấu đầu tư, từng bước tiến hành tách bưu chính hoạt động độc lập với viễn thông.
* Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn :
- Giai đoạn 2001-2020, huy động khoảng 160-180 ngàn tỷ đồng (tương đương 11 - 12 tỷ USD) để đầu tư phát triển bưu chính, viễn thông, tin học. Trong đó giai đoạn 2001-2010 huy động khoảng 60-80 ngàn tỷ đồng (4-6 tỷ USD). Dự kiến vốn huy động trong nước sẽ vào khoảng 60%, vốn nước ngoài 40% tổng số vốn đầu tư.
- Nhà nước có chính sách thương quyền về bưu chính, viễn thông đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này; có chính sách điều tiết phát triển mạng lưới tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các doanh nghiệp tự huy động các nguồn vốn để đầu tư phát triển mạng lưới và kinh doanh dịch vụ, đồng thời có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập, dịch vụ công ích theo yêu cầu của Nhà nước.
- Về vốn trong nước: Đẩy mạnh đổi mới doanh nghiệp, điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả để tăng nhanh khả năng tích lũy bằng nguồn vốn nội sinh, tái đầu tư phát triển. Tăng cường thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong nước; có giải pháp thích hợp để khuyến khích các ngành, địa phương tham gia phát triển bưu chính, viễn thông, tin học; xây dựng quỹ phổ cập dịch vụ phục vụ cho việc phổ cập dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet, đặc biệt cho các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Về vốn ngoài nước: Tranh thủ khai thác triệt để các nguồn vốn ngoài nước; khuyến khích các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là đầu tư vào công nghiệp bưu chính, viễn thông, tin học, đầu tư kinh doanh dịch vụ, với các hình thức đầu tư phù hợp với lộ trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của ngành. Dành một phần nguồn vốn ODA để phát triển bưu chính, viễn thông, tin học nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
* Đẩy mạnh hợp tác quốc tế phục vụ phát triển
- Tiếp tục chủ động tham gia mọi mặt hoạt động của các tổ chức quốc tế để thu thập, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm và đóng góp thiết thực; nâng cao vị thế, uy tín và quyền lợi của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Chủ động trong lộ trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Đa dạng hoá các hoạt động hợp tác với nước ngoài để tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài (vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật, đào tạo đội ngũ...) và tạo sự cạnh tranh về bưu chính, viễn thông, Internet. Tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững tại thị trường trong nước và mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới và khu vực.
* Do thiết bị viễn thông có tính chất đặc thù cao, hao mòn vô hình lớn vì thế đề nghị
Nhà nước, cụ thể hơn là Bộ tài chính cần qui định chính sách khấu hao hợp lý hơn như sử dụng phương pháp khấu hao giảm dần.
* Ngoài ra, khi mở rộng thiết bị , hệ thống phải cho phép đàm phán giá với đối tác chứ không nên tổ chức đấu thầu vì khi mua hệ thống đã phải đấu thầu để chọn được nhà cung cấp, do đó khi mở rộng do đặc thù của khối xử lý trung tâm không thay đổ mà chỉ mở rộng tăng giá thuê bao nên không thể tổ chức đấu thầu. Đây là đặc điểm rất riêng của hệ thống chuyển mạch của ngành bưu điện.
* Chính phủ cần phải có biện pháp để đảm bảo cho doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh. Nên có chính sách thu phí cao khi cấp phép cho từng địa bàn, tránh tình trạng cá doanh nghiệp mới chỉ kinh doanh ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn có lợi nhuận cao còn các nơi vùng sâu, vùng xa thì dành cho bưu điện tỉnh. Cũng như cần có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp phục vụ ở những khu vực này.
3.4.2.Với Tổng công ty bưu chính viễn thông.
Cũng như nhiều đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, bưu điện tỉnh Hải Dương là một doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc có rất nhiều bất cập, trước hết làm giảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, nhất là các đơn vị làm ăn thua lỗ, phát sinh tư tưởng ỷ lại, tính độc lập tự chủ, thích nghi với thị trương ngày càng kém. Hiện nay, trong số các doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc chỉ có số ít là các đơn vị kinh doanh có lãi( trong đó có bưu điện tỉnh Hải Dương), còn lại hầu hết kinh doanh không có hiệu quả, có lãi và được bao cấp qua cơ chế phân phối lại. Với cơ chế hạch toán như vậy gây ra rất nhiều hạn chế cho doanh nghiệp thành viên nói chung và bưu điện tỉnh Hải Dương:
Do hạch toán tập trung nên chưa xác định được doanh thu thực tế của từng đơn vị thành viên. Hiện nay, việc xác định doanh thu được hưởng của các đơn vị thành viên mang tính chủ quan. Do vậy, đã dẫn đến việc đánh đồng giữa các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, ảnh hưởng tới sự công bằng trong chế độ khen thưởng khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Hạn chế sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, đầu tư, tìm kiếm khách hàng. Từ đó làm các doanh nghiệp thiếu động lực để phát triển, tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Vì những lý do trên, tôi xin đưa ra một số những kiến nghị như sau:
Tổng công ty cần đưa ra cơ chế hạch toán nhằm xác định doanh thu thực tế của các đơn vị. Việc xác định được chính xác doanh thu được hương sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp được tính một cách chính xác, từ đó đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp thành viên, nhất là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ngoài ra, việc xác định chính xác lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp tính toán được các chỉ tiêu tài chính như các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính, năng lực hoạt động, về lợi nhuận...từ đó nâng cao hiệu quả phân tích tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở nâng cao hiệu quả phân tích tài chính của doanh nghiệp thnàh viên sẽ tạo điều kiện để Tổng công ty kiểm soát đánh giá hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp từ đó có chính sách phù hợp, thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên phát triển.
Tạo tính chủ động hơn nữa cho các doanh nghiệp.Tăng tính chủ động cho các doanh nghiệp thành viên trong việc huy động và sử dụng vốn, quản lý vốn và tài sản, sử dụng các quĩ... Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Phân cấp mạnh mẽ với những qui định về trách nhiệm của các giám đốc các đơn vị thành viên để các đơn vị thành viên chủ động sáng tạo trong qui định của Tổng công ty.
Có cơ chế, phương pháp hạch toán riêng cho từng đơn vị và xác định chính sách doanh thu của mỗi đơn vị thành viên. Trên cơ sở đó có chính sách tiền lương riêng theo lợi nhuận của từng đơn vị, đương nhiên là có phân loại vùng, khu vực, điều kiện địa lý, kinh tế để trợ giúp cho các đơn vị khó khăn.
Không nên hợp tác với đối tác liên doanh về vốn mà nên huy động vốn trong nước để tiền lãi là người Việt Nam được hưởng.
Kết luận
Bưu chính viễn thông là ngành kinh tế, kĩ thuật, dịch vụ quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển và phục vụ dân sinh. Do vậy, cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương cần phải đầu tư, quan tâm đến ngành Bưu chính Viễn thông nhằm góp phần xây dựng đất nước thành một nước công nghiệp hiện đại.
Nhận thức được vai trò quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, của nền kinh tế. Tìm ra nguyên nhân và giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp là yêu cầu chung đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Trong thời gian thực tập tại Bưu điện tỉnh Hải Dương, em đã cố gắng tìm hiểu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng lợi nhuận của bưu điện tỉnh. Từ đó, em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương. Do hạn chế về thời gian thực tập và trình độ của một sinh viên. Chuyên đề của em khó tránh khỏi có những thiếu sót. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những ai quan tâm đến vấn đề này đề chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo-PGS,TS Vũ Duy Hào đã tận tình giúp đỡ em hoàn thiện chuyên đề này.
Hà Nội, tháng 5/2006
Sinh Viên thực hiện:
Đào Duy Toàn
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình: Quản trị tài chính doanh nghiệp-Trường ĐHKTQD.
Giáo trình: Quản trị tài chính doanh nghiệp-Trường ĐHTC.
Giáo trình: Lịch sử các học thuyết kinh tế-Trường ĐHKTQD.
Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông.
Quy định chế độ kế toán áp dụng trong Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông.
Tạp chí Bưu điện năm 2003,2004,2005.
Lịch sử phát triển Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Báo cáo quyết toán của Bưu điện tỉnh Hải Dương năm 2003.
Báo cáo quyết toán của Bưu điện tỉnh Hải Dương năm 2004.
Báo cáo quyết toán của Bưu điện tỉnh Hải Dương năm 2005.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36473.doc