Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận hoàn Kiếm

Lời nói đầu Trong thế giới tự nhiên, xã hội loài người là một hình thức tổ chức cao nhất, trong đó con người luôn đóng vai trò là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động diễn ra trong xã hội và mọi hoạt động đó cũng không nằm ngoài mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Để có được những thành tựu to lớn trên mọi phương diện của đời sống con người như ngày hôm nay, con người đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi học hỏi và nhận thức ngày càng sâu sắc hơn thực tại khách quan nhằm c

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải thiện môi trường sống và hoàn thiện chính bản thân mình. Mỗi con người tồn tại được một cách bình thường trong xã hội đều cần phải duy trì hai yếu tố cơ bản nhất, đó là trí lực và thể lực; trong đó yếu tố này là tiền đề cho yếu tố kia phát triển và không tách rời nhau trong toàn bộ đời sống con người. Muốn có được thể lực tốt nhất, con người phải luôn biết cách chăm sóc sức khoẻ cho chính mình: khi khoẻ mạnh phải giữ gìn sức khoẻ và khi ốm đau phải chạy chữa. Điều này dẫn đến các hoạt động y tế dần nẩy sinh và không thể thiếu được trong đời sống con người khi hiểm họa bệnh tật ngày một nhiều. Do đó, với mục tiêu phát triển toàn diện con người, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp y tế là một trong những sự nghiệp quan trọng nhất, thiết yếu nhất trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển đi lên. Theo đó mục tiêu phát triển sự nghiệp y tế chỉ có thể do nhà nước quản lý và bảo đảm bằng quỹ tài chính lớn nhất, tập trung nhất của nền kinh tế quốc dân, đó là Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, để đạt được kết quả cao nhất trong sự nghiệp y tế ( chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân) thì nâng cao chất lượng các hoạt động y tế thông qua quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp này là yêu cầu cấp bách đặt ra trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong tương lai. Hơn nữa, để người dân được trực tiếp hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh do Nhà nước cung cấp, định hướng phát triển thì chất lượng các hoạt động y tế tuyến cơ sở có tính chất quyết định và hiện thực nhất với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động sự nghiệp y tế tuyến cơ sở và từ quá trình nghiên cứu, thực tập tại phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm đã định hướng cho em đi sâu nghiên cứu đề tài: "Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm". Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính: Chương I: Sự cần thiết phải quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Phạm Quang Trung và sự chỉ bảo của các cán bộ Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm. Nhưng do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em kính mong sự góp ý của các Thầy, cô giáo Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 sự cần thiết phải quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế Quản lý chi Ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Tầm quan trọng của sự nghiệp y tế trong đời sống xã hội Tác động của các hoạt động y tế đến đời sống xã hội Đời sống kinh tế – xã hội là hình thức biểu hiện cao nhất, tiến bộ nhất của con người, khác xa với các hoạt động khác có trong thế giới tự nhiên ở chỗ con người nhận thức được thực tại khách quan và các quy luật tự nhiên. Để phát triển kinh tế – xã hội thì yếu tố quyết định phải chính là con người và mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội phải hướng tới duy trì sự tồn tại, phát triển của con người. Muốn vậy, con người phải có được một thể lực và trí lực thích hợp nhất, trong đó thể lực lại là tiền đề cho tạo ra và nâng cao trí lực. Thể lực thể hiện sự ngày càng thích nghi với môi trường sống của con người và chính con người lại tự nhận thức, biết nâng cao thể lực thông qua các hoạt động y tế của mình. Các hoạt động y tế với mục tiêu chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ con người trước những tác động tiêu cực của môi trường sống. Khi có được sức khoẻ tốt nhất, con người có điều kiện để tiếp thu và phát triển trí thức cho mình nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn. Các hoạt động y tế là phần không thể thiếu được trong xã hội loài người, con người luôn luôn có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ không những của bản thân mà của cả gia đình mình. Không một ai lại sống mà luôn luôn khoẻ mạnh cả bởi sự thay đổi thường xuyên của môi trường sống cùng với sự vận động của thế giới tự nhiên. Các hoạt động y tế mà con người sáng tạo ra cũng chính nhằm mục đích điều hoà những tác động không tốt của môi trường sống tới con người. Do đó, các hoạt động y tế là không thể thiếu được trong đời sống con người. Tuy mỗi con người có cuộc sống khác nhau nhưng các hoạt động y tế lại đóng vai trò tác động chung tới từng người nhằm duy trì và phát triển giống nòi. Qua những tác động to lớn của y tế tới đời sống con người như vậy cho nên mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội cần phải chú trọng và lấy mục tiêu chăm sóc sức khoẻ cho con người làm gốc, định hướng cho các chương trình kinh tế – xã hội khác vì một mục tiêu chung là phát triển bền vững. Điều này cũng được thể hiện xuyên suốt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định một cách rõ ràng trong Nghị quyết TW4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII: Con người là nguồn tài nguyên qúi báu nhất của xã hội, con người quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn qúi nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Do vậy, với bản chất nhân đạo và định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, ngành y tế phải đảm bảo sự công bằng và hiệu qủa trong chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Nhu cầu về các dịch vụ y tế Trong sự phát triển ngày nay, khoa học – kỹ thuật ngày một hiện đại cũng là điều kiện để phát triển lĩnh vực y tế theo kịp và đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Không chỉ khi mắc bệnh thì con người mới có nhu cầu được chạy chữa mà chăm sóc sức khoẻ ban đầu lại là hết sức quan trọng. Từ khi chưa sinh ra, thai nhi đã được hưởng các chương trình phòng chống bệnh tật hay các dịch vụ chăm sóc khác qua chăm sóc người mẹ (tiêm chủng cho phụ nữ mang thai, khám và theo dõi định kỳ thai nhi..). Suốt toàn bộ đời sống của mình con người luôn luôn đòi hỏi được phòng ngừa bệnh tật tối đa và đến khi mắc bệnh lại cần điều kiện chữa trị tốt nhất. Một chu trình phòng chống bệnh tật cho con người cứ diễn ra liên tục suốt toàn bộ quá trình tồn tại của con người. Chính vì vậy, nhu cầu về các dịch vụ y tế cho con người là vô cùng to lớn, mỗi người đều muốn mình nhận được những dịch vụ y tế tốt nhất có thể có. Do nhu cầu về các dịch vụ y tế rất lớn như vậy và lại mang tính chất đơn lẻ của các cá nhân nên nhu cầu cần được xác định một cách thống nhất, có thể phân định ra hai loại nhu cầu sau: nhu cầu do cá nhân xác định và nhu cầu do Chính phủ xác định. Sự can thiệp của Chính phủ vào việc xác định các nhu cầu về dịch vụ y tế cũng là một tất yếu trong quá trình quản lý bộ máy Nhà nước và quản lý nền kinh tế, đời sống xã hội. Bởi vì việc xác định các nhu cầu về dịch vụ y tế của các cá nhân chỉ xuất hiện khi họ thực sự cần phải được khám chữa bệnh chứ ít cá nhân lại thấy được mình phải được phòng bệnh hay cần làm gì để ngăn chặn các đại dịch xảy ra. Các nhu cầu được xác định bởi Chính phủ nhằm góp phần đẩy lùi các đợt dịch bệnh lây lan hay phòng ngừa những bệnh dễ mắc phải trong dân cư. Từ việc định hướng xác định nhu cầu về các dịch vụ y tế mà trong quá trình quản lý, Nhà nước sẽ có kế hoạch và thực thi các chương trình mục tiêu để đảm bảo sức khoẻ cộng đồng và hơn hết là gây dựng được sự tin tưởng vào bộ máy Nhà nước, hệ thống chính trị. Tìm hiểu về thị trường dịch vụ y tế Xuất phát từ nhu cầu các dịch vụ y tế của con người và các nhu cầu này lại có khả năng chi trả từ phía các cá nhân cho nên các mức giá và sản lượng tương ứng sẽ được xác định, theo đó hình thành nên cầu về các dịch vụ y tế. Có cầu thì có cung đó là điều mà các nhà kinh tế học đã chứng minh: Cung các dịch vụ y tế là cung hạn chế bởi tính đặc thù và chuyên môn cao vốn có của ngành y tế. Khi cung và cầu về y tế gặp nhau hình thành nên thị trường các dịch vụ y tế. Điều quan trọng ở đây không phải là chúng ta đi tìm hiểu xem thị trường các dịch vụ y tế hoạt động ra sao, mà điểm cốt lõi là đặc trưng của thị trường này có gì khác biệt với các thị trường khác, nhằm định hướng cho công tác triển khai các hoạt động trong sự nghiệp y tế với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường thì mọi hàng hoá, dịch vụ được định giá bởi thị trường nhưng dịch vụ y tế lại không nên để thị trường kiểm soát mà phải có sự quản lý của Chính phủ và được trợ cấp bởi Chính phủ theo một số điểm quan trọng sau: + Thị trường dịch vụ y tế hoạt động phải đem lại mục tiêu công bằng, nhất là đối với xã hội XHCN tồn tại ở nước ta. Nếu giá cả và khối lượng dịch vụ y tế được xác định hoàn toàn bởi thị trường thì gây ra tình trạng mất công bằng, chỉ có những người có đủ tiền mới được hưởng những dịch vụ y tế có thể với chi phí cao mà những người có thu nhập thấp hơn không thể có được. + Để đạt được công bằng trong thị trường các dịch vụ y tế thì phải mất đi tính hiệu quả tương ứng với công bằng đạt thêm được, cho nên đóng vai trò kiểm soát thị trường Chính phủ đứng ra trợ cấp để phát triển các dịch vụ y tế ngày một tốt hơn thông qua những chính sách của mình bằng nguồn Ngân sách Nhà nước. + Dịch vụ y tế không thể là hàng hoá công cộng thuần tuý mà chỉ gần gũi với hàng hoá công cộng thuần tuý ( vẫn tồn tại sự cạnh tranh nhưng rất hạn chế ) bởi đây là một yếu tố kích thích và tích luỹ cho thị trường dịch vụ y tế phát triển. Hơn nữa, đời sống con người ngày một nâng cao nên có thể trang trải một phần chi phí cho việc sử dụng các dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. + Thị trường y tế phát triển kém hơn các thị trường khác do thiếu động cơ lợi nhuận là điều dễ hiểu nhưng cần phải duy trì thị trường này bởi tính đặc biệt của nó là chăm sóc sức khoẻ và liên quan trực tiếp đến tính mạng con người. Khi thị trường các dịch vụ y tế bị thu hẹp thì sẽ tạo điều kiện cho kiểm soát và định hướng theo các mục tiêu của Nhà nước về quản lý nền kinh tế, xã hội dễ dàng hơn. Do có những điểm khác biệt so với các thị trường khác nên việc quản lý và định hướng phát triển thị trường các dịch vụ y tế phải được coi là một trong những chương trình, chiến lược quốc gia quan trọng nhất. Ngoài ra, cần phải hạn chế những tiêu cực do thông tin không tương xứng đối với người sử dụng các dịch vụ y tế được cung cấp trên thị trường, người sử dụng dịch vụ y tế không biết được chính xác thông tin về bác sĩ, về thuốc men, về bệnh viện... do không dễ gì có được trình độ chuyên môn phù hợp. Sự nghiệp y tế đặt ra cho nền kinh tế nước ta Mục tiêu và bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta, một Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, phải coi y tế là một sự nghiệp chung cũng giống như sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vậy. Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là một trong những công việc hết sức to lớn, quan trọng mang lợi ích chung và lâu dài cho toàn bộ xã hội. Với phương châm xây dựng một xã hội XHCN bền vững và phát triển toàn diện, coi trọng yếu tố quyết định là con người thì không thể đặt các hoạt động y tế ngoài sự nghiệp chung của toàn xã hội được. Do vậy, sự nghiệp y tế là yêu cầu tất yếu khách quan của chế độ xã hội ở nước ta và phải nhằm thực hiện những mục tiêu đem lại những kết quả về chăm sóc sức khoẻ nhân dân cao nhất. Phấn đấu để mọi người dân đều được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Trong điều kiện hiện nay, khi chuyển cơ chế mới thì sự nghiệp y tế được xác định là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên hay là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, cụ thể được xác định như sau:(1) Việc phân chia loại hình sự nghiệp có thu được cụ thể hoá trong Nghị định số 10/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ và Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính. 1) Mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị sự nghiệp [A](%) Tổng số nguồn thu sự nghiệp Tổng số chi hoạt động thường xuyên X100% Trong đó: Tổng số thu sự nghiệp của đơn vị bao gồm: + Tiền thu phí, lệ phí thuộc Ngân sách Nhà nước ( phần được để lại đơn vị thu theo quy định): Mức thu phí, lệ phí, tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn vị sử dụng và nội dung chi thực hiện theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với từng loại phí, lệ phí. + Thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ: Mức thu từ các hoạt động này do Thủ trưởng đơn vị quyết định, theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ. + Các khoản thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật (nếu có). Tổng số chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao và chi cho các hoạt động có thu sự nghiệp, bao gồm: + Chi cho người lao động: chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định... + Chi quản lý hành chính: vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghị phí... + Chi các hoạt động nghiệp vụ. + Chi hoạt động tổ chức thu phí, lệ phí. + Chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ ( kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định). + Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc thiết bị... + Chi khác. + Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A lớn hơn hoặc bằng 100%). + Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, Ngân sách Nhà nước cấp một phần chi phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A nhỏ hơn 100%). Theo đó, các đơn vị sự nghiệp y tế hiện nay được chủ động hơn trong hoạt động của mình khi áp dụng Nghị định 10/2002/NĐ-CP, phần nào giảm bớt đi gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và thể hiện sự đổi mới trong quản lý các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung cũng như sự nghiệp y tế nói riêng. Nội dung quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sự nghiệp y tế đóng vai trò hết sức quan trọng trong khám chữa bệnh và thực hiện các chiến lược chăm sóc sức khoẻ ban đầu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, cho nên phần lớn nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước. Nguồn Ngân sách Nhà nước cấp cho các đơn vị hoạt động sự nghiệp y tế bao gồm:(1) Được quy định theo Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính 3Đối với cả hai loại đơn vị sự nghiệp có thu, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí, thì nguồn Ngân sách Nhà nước cấp ( cả Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương) là các khoản sau: + Chi phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm quyền giao. + Kinh phí Nhà nước thanh toán cho đơn vị sự nghiệp theo chế độ đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao, theo giá hoặc khung giá do Nhà nước quy định ( điều tra, quy hoạch, khảo sát ...). + Kinh phí cấp để thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định đối với số lao động trong biên chế dôi ra. + Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng cho các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 3Riêng đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí, nguồn Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Mức kinh phí Ngân sách Nhà nước cấp được ổn định theo định kỳ 3 năm và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Hết thời hạn 3 năm, mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm sẽ được xác định lại cho phù hợp. Ngoài nguồn từ Ngân sách Nhà nước, chi cho các hoạt động sự nghiệp y tế còn bao gồm các khoản khác như: nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị ( đã nêu ở phần 1.2.1.) và các nguồn khác theo quy định ( các dự án viện trợ, quà biếu tặng...). Nội dung các hoạt động trong sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sự nghiệp y tế tuyến cơ sở ( gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện, thị xã ) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hoá, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, các hoạt động y tế cơ sở phải là toàn diện và nằm trong các hoạt động chủ yếu sau: + Các hoạt động khám chữa bệnh thông thường, sơ cứu bệnh nhân nặng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu trên địa bàn quận, huyện, xã, phường là chủ yếu ( những trường hợp bệnh nhân nặng phải chuyển lớn tuyến trên). + Hoạt động trong khuôn khổ các chương trình quốc gia về y tế: các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở là các đơn vị trực tiếp triển khai các chương trình dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của các sở y tế, bao gồm các mục tiêu sau: + Mục tiêu phòng chống bệnh sốt rét. + Mục tiêu phòng chống bệnh bướu cổ. + Mục tiêu tiêm chủng mở rộng. + Mục tiêu phòng chống lao. + Mục tiêu phòng chống bệnh phong. + Mục tiêu phòng chống bệnh sốt xuất huyết. + Mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. + Mục tiêu phòng chống HIV/AIDS. + Mục tiêu nâng cấp thiết bị y tế. Ngoài ra, tuyến y tế cơ sở còn đóng góp hoạt động của mình trong các nghiệp vụ sau: + Thường xuyên tổ chức kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý và khắc phục nhanh chóng hậu quả của thảm họa, thiên tai, phòng chống tai nạn và thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hay xử lý các tác động gây ô nhiễm môi trường và tác động xấu đến sức khoẻ như chất thải bệnh viện, hoá chất bảo vệ thực vật... + Trực tiếp tiếp tham gia các đợt phòng dịch và ngăn chặn các bệnh dịch lây lan kịp thời như: dịch bệnh tiêu chảy, uốn ván, nhiễm khuẩn hô hấp cấp, thấp tim, giun sán... Tham gia triển khai chương trình sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình như truyền thông, tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc sản khoa... + Tổ chức cai nghiện ma tuý và tuyên truyền tác hại của ma tuý sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. + Các hoạt động y tế khác. Các hoạt động sự nghiệp y tế ở tuyến cơ sở trực tiếp tác động đến đời sống nhân dân trên các địa bàn dân cư nên việc thực hiện quản lý các hoạt động này có ý nghĩa quan trọng bậc nhất và tạo cơ sở vững chắc của cả thực hiện các chủ trương chính sách về y tế của Nhà nước cũng như giảm bớt gánh nặng cho các tuyến y tế cấp trên. Công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sự nghiệp y tế có tính chất quan trọng trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta đề ra, đặt dưới sự lãnh đạo của các cơ quan Hành chính sự ngiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nên các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế được xác định lấy nguồn từ Ngân sách Nhà nước đảm bảo cho hầu hết các hoạt động của mình. Do vậy, việc quản lý Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế là yêu cầu không thể thiếu trong điều kiện cần phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả của y tế trong đời sống kinh tế – xã hội. Để quản lý các khoản chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cũng nảy sinh nhiều cách thức phân chia khác nhau nhưng một cách tổng quát có thể chia làm các nhóm chi chủ yếu sau: - Nhóm một: Các khoản chi thường xuyên. Chi thường xuyên là những khoản chi có tính định kỳ và thường xuyên trong toàn bộ hoạt động sự nghiệp. Trong nhóm chi thường xuyên lại bao gồm một số khoản cụ thể sau: + Chi cho con người: đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên hoạt động trong lĩnh vực y tế cũng như quản lý về y tế như: chi tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp, các khoản đóng góp, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cán bộ công nhân viên. + Chi cho các nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đặc thù cho lĩnh vực y tế như: mua sắm thuốc chữa bệnh, bơm kim tiêm, bông, băng, gạc, cồn, phim chụp X quang...; vật tư, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dùng không phải là tài sản cố định và các khoản chi khác. + Chi cho quản lý hành chính: bao gồm các khoản chi phục vụ cho việc quản lý mọi hoạt động sự nghiệp y tế như: chi mua vật tư văn phòng, điện, nước, thuê bao điện thoại, chi hội nghị, tiếp khách, chi thuê mướn và các khoản chi khác có liên quan. - Nhóm hai: Chi mua sắm, sửa chữa. Nhóm chi này bao gồm các khoản chi chủ yếu cho tài sản cố định: các chi phí sửa chữa tài sản cố định; mua sắm tài sản cố định; vận chuyển, lắp đặt tài sản cố định; chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định... Do tài sản cố định sử dụng trong lĩnh vực y tế có đặc thù riêng và thuộc về sự nghiệp của Nhà nước nên không được khấu hao để bù đắp tài sản cố định, không tránh khỏi việc sử dụng kém hiệu quả, lãng phí. - Nhóm ba: Chi khác. Đây là các khoản chi phát sinh không thường xuyên, đột xuất và không thuộc các khoản chi trên. Các khoản chi Ngân sách Nhà nước hiện nay được cấp phát theo một số hình thức sau: + Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí: định kỳ cơ quan tài chính cấp phát hạn mức cho các đơn vị sự nghiệp, căn cứ vào hạn mức mà các đơn vị rút tiền từ Kho bạc để chi tiêu, hết hạn thời hạn của hạn mức mà hạn mức chi không hết sẽ bị xoá bỏ. Phương thức này chủ yếu được sử dụng trong cấp phát kinh phí chi thường xuyên. + Phương thức cấp phát theo lệnh chi: kinh phí sau khi cấp phát theo lệnh chi qua Kho bạc nhà nước quận, huyện tài khoản tiền gửi của các đơn vị sẽ được tăng thêm đúng bằng số ghi trong lệnh chi, sau khi hết niên độ kế toán mà đơn vị không chi hết số kinh phí đó thì số còn lại nằm trong số dư của tài khoản tiền gửi sẽ được chuyển sang năm sau. Phương thức này dùng cho các cơ quan, đơn vị không có quan hệ thường xuyên với Ngân sách Nhà nước hay các khoản chi đầu tư, mua sắm tài sản cố định của đơn vị sự nghiệp. + Phương thức cấp phát ủy quyền: phương thức này chủ yếu áp dụng cho quan hệ giữa Ngân sách Nhà nước Trung ương và Ngân sách Nhà nước địa phương, áp dụng phương thức này khi các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu trên địa bàn do Ngân sách Nhà nước Trung ương đảm nhận; khi quyết toán thuộc về Ngân sách Nhà nước trung ương. + Phương thức ghi thu- ghi chi: cho phép các đơn vị sự nghiệp sử dụng các khoản thu sự nghiệp để chi tiêu trực tiếp. + Phương thức cấp phát theo số lượng công trình hoàn thành: Phương thức này được áp dụng trong cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản, thường thì cơ quan tài chính tạm ứng theo công trình, sau khi công trình hoàn thành thì quyết toán số còn lại. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế thì các đơn vị sự nghiệp y tế phải quản lý danh mục các khoản chi theo chi tiết hệ thống Mục lục Ngân sách Nhà nước hiện hành. Trong rất nhiều các phương thức quản lý thì phương thức quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở chủ yếu hiện nay dựa vào phương thức quản lý theo dự toán cùng lúc của các đơn vị quản lý như: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện; Kho bạc nhà nước quận, huyện, Sở Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ủy ban nhân dân quận, huyện và các bộ phận quản lý tại các cơ sở y tế; trong đó, Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện đóng vai trò chủ đạo thực hiện sự lãnh đạo đối với các đơn vị dự toán cấp dưới và hướng dẫn của cấp trên. Phương thức quản lý theo dự toán được tiến hành như sau(1) Đơn vị sự nghiệp có thu lập dự toán thu, chi Ngân sách Nhà nước hàng năm thực hiện theo quy định tại Thông tư số 103/1998/TT-BTC ngày 18/07/1998 của Bộ tài chính và Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 của Bộ tài chính. : ả Lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế năm đầu thời kỳ ổn định 3Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm vụ của năm kế hoạch; Căn cứ vào định mức, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của Nhà nước quy định; Kết quả thu sự nghiệp và chi hoạt động thường xuyên năm trước liền kề ( có loại trừ các yếu tố đột xuất, không thường xuyên) được cấp có thẩm quyền phê duyệt; đơn vị sự nghiệp lập dự toán thu, chi năm kế hoạch. Căn cứ lập dự toán chi như sau: Các khoản chi tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp theo lương: tính theo lương cấp bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương theo quy định hiện hành đối với từng ngành nghề, công việc. Quỹ tiền lương, tiền công của đơn vị sự nghiệp được xác định như sau: Quỹ tiền lương của đơn vị Lương tối thiểu chung người/tháng do Nhà nước quy định Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu Hệ số lương cấp bậc bình quân và hệ số phụ cấp lương bình quân = X ( 1+ ) X Biên chế và lao động hợp đồng từ 1 năm trở lên X X 12 tháng Sau khi xác định quỹ tiền lương của đơn vị, việc trả lương cho từng người lao động được xác định như sau: Tiền lương cá nhân Lương tối thiểu chung người/tháng do Nhà nước quy định Hệ số điều chỉnh tăng thêm cho cá nhân Hệ số lương cấp bậc và hệ số phụ cấp lương của cá nhân = X (1 + ) X Từ cách xác định trên, tính được tổng số kinh phí Ngân sách Nhà nước chi cho các đơn vị sự nghiệp y tế của quận, huyện bằng cách lấy tổng quỹ lương của từng đơn vị cộng lại. Đối với đơn vị sự nghiệp có thu áp dụng đơn giá, định mức lao động được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì tiền lương, tiền công tính theo đơn giá. Trường hợp nguồn thu, chi giảm sút, không bảo đảm mức tiền lương tối thiểu cho người lao động. Thủ trưởng đơn vị thống nhất với tổ chức Công đoàn sử dụng quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm mức tiền lương tối thiểu cho người lao động trong đơn vị. Chi hoạt động nghiệp vụ: căn cứ vào chế độ và khối lượng hoạt động nghiệp vụ, kinh phí cho nghiệp vụ chuyên môn của sự nghiệp y tế xác định theo công thức sau: CNVi Số dự kiến chi về vật liệu, dụng cụ cho nghiệp vụ chuyên môn Số dự kiến chi về nghiên cứu khoa học hay thuê nghiên cứu Số dự kiến chi về đồng phục, trang phục cho y tế, bác sĩ… Số dự kiến chi về các khoản khác = + + + Trong đó: CNVi: chi nghiệp vụ chuyên môn của Ngân sách Nhà nước dự kiến kỳ kế hoạch cho đơn vị thứ i. CNV: số chi Ngân sách Nhà nước cho nghiệp vụ chuyên môn của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở. Chi quản lý hành chính(CQL): vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, công tác phí... theo chế độ chi tiêu tài chính hiện hành do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định, được xác định theo công thức sau: Trong đó: : mức chi quản lý hành chính bình quân/ 1cán bộ công nhân viên sự nghiệp y tế tuyến cơ sở dự kiến kỳ kế hoạch thuộc đơn vị thứ i. : số cán bộ công nhân viên bình quân dự kiến có mặt trong năm kế hoạch thuộc đơn vị thứ i. Chi hoạt động sản xuất, dịch vụ: vật tư, hàng hoá... theo định mức kinh tế, kỹ thuật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định và thực hiện của năm trước, tính hao mòn tài sản cố định theo chế độ áp dụng hiện hành. Chi mua sắm, sửa chữa: được xác định dựa vào yêu cầu thực tế của các đơn vị sự nghiệp theo công thức sau: Trong đó: : chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở theo kế hoạch. : nguyên giá tài sản cố định hiện có của đơn vị thứ i. : tỷ lệ % được áp dụng để xác định kinh phí dự kiến chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ của đơn vị thứ i. - Chi khác: tuỳ từng thời kỳ, các khoản chi khác được xác định một tỷ lệ % thích hợp trong tổng số chi Ngân sách Nhà nước tuyến cơ sở. 3Quy trình lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở. Trên cơ sở những quy định chung về lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở, quy trình lập dự toán Ngân sách Nhà nước được trình tự theo các bước sau: Bước 1: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện thông báo cho các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở thời hạn bắt đầu triển khai lập dự toán Ngân sách Nhà nước ( thường vào đầu qúi III của năm trước). Bước 2: Các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở ( trạm y tế xã, phường, trạm cai nghiện...) lập dự toán của đơn vị mình trực tiếp gửi lên Trung tâm y tế quận, huyện. Bước 3: Trung tâm y tế quận, huyện sau khi nhận được dự toán của các đơn vị thì tổng hợp với dự toán của Trung tâm y tế rồi gửi lên Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện. Bước 4: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện tổng hợp, lập dự toán của sự nghiệp y tế với dự toán Ngân sách quận, huyện gửi UBND cùng cấp và bảo vệ trước Sở Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( trước 15/8 hàng năm). Bước 5: Sau khi cân đối với dự toán Ngân sách Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Sở Tài chính – Vật giá ấn định số giao dự toán cho sự nghiệp y tế của quận, huyện. Bước 6: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện sau khi nhận được số giao dự toán từ Sở Tài chính – Vật giá tiến hành phân bổ Ngân sách Nhà nước chính thức cho các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở để các đơn vị này có thể chủ động trong chi tiêu ( chậm nhất vào ngày 05 tháng 01 của năm tài chính). Việc giao dự toán của Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện cũng phải được Chủ tịch UBND cùng cấp ra văn bản xác định đơn vị sự nghiệp thuộc loại tự bảo đảm chi phí hoặc đơn vị sự nghiệp bảo đảm một phần chi phí; giao dự toán thu, chi Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị trực thuộc, trong đó có mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên ( đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí). 3Lập dự toán 2 năm tiếp theo của thời kỳ ổn định. Riêng đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí: nguồn Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thương xuyên. Mức kinh phí Ngân sách Nhà nước được cấp ổn định theo định kỳ 3 năm và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Hết thời hạn 3 năm, mức Ngân._. sách Nhà nước bảo đảm sẽ được xác định lại cho phù hợp. 3Yêu cầu lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở: + Dự toán của các đơn vị dự toán trong sự nghiệp y tế phải phản ánh đầy đủ các khoản chi tiêu theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức của cơ quan có thẩm quyền ban hành. + Dự toán Ngân sách Nhà nước phải được lập theo đúng biểu mẫu, đúng thời gian quy định... + Dự toán của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở sau khi được Sở Tài chính – Vật giá phê duyệt phải được sự thông qua của HĐND và UBND cấp quận, huyện cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. ã Chấp hành chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong qúi, các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở sử dụng Ngân sách Nhà nước lập dự toán chi qúi ( có chia ra tháng, chi tiết theo các mục chi của Mục lục Ngân sách Nhà nước) gửi Trung tâm y tế quận, huyện để Trung tâm y tế tổng hợp gửi Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện ( trước ngày 10 của tháng cuối qúi trước). Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện trình UBND cùng cấp phê duyệt và tiến hành cấp phát cho các đơn vị sự nghiệp y tế và Trung tâm y tế quận, huyện theo hình thức hạn mức kinh phí. Đơn vị trực tiếp quản lý về chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở là Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện và kinh phí cấp phát cho các đơn vị sự nghiệp được thực hiện qua Kho bạc nhà nước trên cơ sở dự toán đã được phê duyệt của qúi. Trước kia, kinh phí được cấp phát chi tiết theo các mục chi của Mục lục Ngân sách Nhà nước đối với kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên. Sau năm 2002( từ khi Nghị định số10/NĐ-CP có hiệu lực), đối với kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên ( đối với các đơn vị bảo đảm một phần chi phí: đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở), Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện xuất lệnh chi cho các đơn vị sự nghiệp qua Kho bạc nhà nước quận, huyện vào mục 134 “ chi khác” của Mục lục Ngân sách Nhà nước để các đơn vị chi chủ động và phù hợp với tình hình thực tế đơn vị hơn; nhưng kế toán và quyết toán các khoản chi phải theo các mục chi của Mục lục Ngân sách Nhà nước tương ứng. Đối với các khoản kinh phí khác của đơn vi sự nghiệp y tế tuyến cơ sở ( kinh phí thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia; vốn đối ứng các dự án và vốn đầu tư, mua sắm trang thiết bị y tế...) được cấp phát theo dự toán đã được phê duyệt của cấp có thẩm quyền. Trong qúa trình thực hiện, các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở được điều chỉnh dự toán chi hoạt động sự nghiệp, kinh phí hoạt động thường xuyên đã được giao cho phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị gửi Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện và Kho bạc nhà nước nơi đơn vị giao dịch để theo dõi quản lý. Đối với các khoản kinh phí thuộc Ngân sách Nhà nước buộc các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở phải mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước quận, huyện để thực hiện chi qua Kho bạc. Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp có thu được mở tài khoản tại Ngân hàng hoặc tại Kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản thu – chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ. Yêu cầu đặt ra của chấp hành chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở là phải thường xuyên được sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của các cơ quan chủ quản ( Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện; Kho bạc nhà nước quận, huyện; Sở y tế ) và các cơ quan Nhà nước có liên quan( UBND, HĐND quận, huyện). á Quyết toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sau ngày 31 tháng 12 năm Ngân sách, các đơn vị sự nghiệp y tế thực hiện khoá sổ kế toán và lập quyết toán của đơn vị mình gửi lên Trung tâm y tế quận, huyện báo cáo Sở y tế và Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện. Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện tổng hợp, quyết toán thu – chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn trình UBND, HĐND cùng cấp phê duyệt và thực hiện đối chiếu với quyết toán Sở Tài chính – Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước ngày 28 tháng 02 năm sau. Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực ( quyết toán cho năm Ngân sách được tính từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 ). Nội dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục Ngân sách Nhà nước ( chương – loại – khoản – nhóm – tiểu nhóm – mục – tiểu mục). Báo cáo quyết toán hàng năm của các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở phải đúng theo mẫu thống nhất Bộ tài chính ban hành và phải gửi đầy đủ lên các cấp quản lý có liên quan. Trong quá trình lập báo cáo quyết toán của các đơn vị sự nghiệp y tế cơ sở, Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện cần chú ý một số điểm mới sau: + Kinh phí ủy quyền ( trước năm 2001 ) được quyết toán vào chi Ngân sách thành phố, tỉnh thì nay kinh phí chi mục tiêu của thành phố được quyết toán vào Ngân sách quận, huyện. Ngoài ra, quyết toán chi Ngân sách Nhà nước phải bao gồm cả chi từ nguồn thu để lại đơn vị và chi từ Ngân sách quận, huyện. + Các khoản kinh phí chưa sử dụng hết đơn vi được chuyển sang năm sau để hoạt động, bao gồm: kinh phí Ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp. Còn các khoản kinh phí khác: kinh phí nghiên cứu khoa học; chương trình mục tiêu quốc gia; kinh phí thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước đặt hàng; các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; vốn đầu tư xây dựng cơ bản... của năm trước chưa được thực hiện không được chuyển sang năm sau trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành của Bộ tài chính. Sau khi quyết toán chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở được hoàn tất đòi hỏi Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện triển khai ngay công tác kiểm toán đối với các đơn vị để có những điều chỉnh khi cần thiết theo các văn bản pháp luật về quản lý Ngân sách Nhà nước hiện hành. Trong quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cơ sở đòi hỏi các đơn vị phải thực hiện công khai Ngân sách Nhà nước như sau:Nội dung công khai cụ thể thực hiện theo quy định tại Thông tư số 83/1999/TT-BTC ngày 01/07/1999 của Bộ tài chính. +Công khai dự toán thu – chi đã được Nhà nước giao ( năm đầu) và dự toán thu – chi do đơn vị lập ( 2 năm tiếp theo ), kể cả điều chỉnh hoặc bổ sung trong năm ( nếu có). + Công khai quyết toán thu – chi Ngân sách Nhà nước hàng năm của đơn vị và thông báo duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp trên. + Công khai phương án chi trả tiền lương cho người lao động, trong đó có hệ số điều chỉnh tăng thêm cho từng người lao động. + Công khai việc trích lập và sử dụng các quỹ. + Công khai quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi tiêu nội bộ. Xu hướng xã hội hoá các hoạt động y tế trong điều kiện hiện nay Khái niệm, nội dung của xã hội hoá Sự nghiệp y tế đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân cho nên đòi hỏi phải có sự đóng góp tích cực cả từ phía Nhà nước cũng như nhân dân vào các hoạt động y tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao: “ Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân ”(1) Điều 1, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Theo đó, xã hội hoá các hoạt động y tế là sự nỗ lực của quản lý Nhà nước cũng như sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân nhằm phát triển một cách toàn diện sự nghiệp y tế của nước nhà. Xã hội hoá các hoạt động y tế trong khuôn khổ các chính sách khuyến khích và huy động nguồn lực trong nhân dân của Nhà nước cho sự nghiệp y tế. Bên cạnh đó, xã hội hoá cần phải có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân tham gia vào sự nghiệp y tế. Để cụ thể quá trình thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, nội dung các chính sách khuyến khích cần phải tập trung vào khuyến khích các cơ sở ngoài công lập phát triển một cách thích hợp. Các nội dung đó bao gồm: chính sách khuyến khích về cơ sở vật chất, đất đai; về thuế, phí, lệ phí; về tín dụng; về bảo hiểm; về chế độ khen thưởng, phong tặng danh hiệu... do Nhà nước đề ra; những nội dung này được coi có tính quyết định trong chủ trương của Nhà nước góp phần vào khuyến khích xã hội hoá các hoạt động y tế. Cùng với việc phát triển các cơ sở công lập hoạt động phục vụ chăm sóc, khám chữa bệnh nhân dân cần phải tích cực hơn nữa trong phát huy tính tự chủ và năng động của các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở. Sự phát triển bền vững sự nghiệp y tế nước nhà phải luôn được đặt trong mối quan hệ hỗ trợ qua lại giữa phát triển các đơn vị y tế công lập và dân lập mà các chính sách xã hội hoá đã đề ra. Yêu cầu khuyến khích xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế Sự nghiệp y tế nếu chỉ được bảo đảm từ phía Nhà nước sẽ không tạo đà cho sự phát triển nhanh và bền vững, nên yêu cầu khuyến khích xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế là thực sự cần thiết và đang đặt ra cho phát triển kinh tế – xã hội của chúng ta, bởi xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế góp phần: + Tạo điều kiện lồng ghép các yêu cầu bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân trong các chính sách vĩ mô về kinh tế, xã hội, các chương trình, dự án phát triển sản xuất, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. + Đa dạng hoá các loại hình chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm và khai thác các nguồn đầu tư khác nhau cho y tế như: bảo hiểm y tế tự nguyện, viện trợ nước ngoài v.v... xây dựng các điển hình tiên tiến về vệ sinh môi trường, an toàn cộng đồng. + Tiếp tục củng cố và phát triển các trung tâm truyền thông giáo dục sức khoẻ các tỉnh, thành phố. Phát triển mạng lưới tuyên truyền tới từng xã, phường, thôn, bản... Sử dụng các biện pháp và hình thức truyền thông phù hợp để mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức quần chúng tự nguyện tham gia và đóng góp vào việc bảo vệ sức khoẻ cho chính bản thân mình và cộng đồng. Do vậy, yêu cầu đặt ra cho xã hội hoá đối với sự nghiệp y tế là phải được tiến hành một cách thận trọng và toàn diện, tránh tiến hành một cách ồ ạt, sai lệch với tư tưởng ban đầu đề ra. Hơn nữa, từng bước đi trong tiến trình xã hội hoá phải được cụ thể bởi các quy phạm luật pháp, căn cứ vào tình hình nền kinh tế đất nước tránh sự nóng vội chủ quan duy ý chí và cần xác định đây là mục tiêu lâu dài. Trong khuôn khổ các chính sách xã hội hoá cần đẩy mạnh sự hợp tác của các Bộ, ngành, tổ chức xã hội, huy động sự tham gia của nhân dân, của toàn xã hội, kể cả sự tham gia của khu y tế tư nhân vào việc thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, đa dạng hoá các hình thức cung cấp dịch vụ tư vấn về chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng; mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc hợp tác quốc tế song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực y tế nói chung. Sự khác biệt của xã hội hoá các hoạt động y tế với phát triển tự phát Xã hội hoá các hoạt động y tế chính là khuyến khích sự tham gia của mọi đối tượng vào sự nghiệp y tế nhưng lại cần phải nhận thức đầy đủ về sự khác biệt của xã hội hoá với phát triển tự phát: Thứ nhất, xã hội hoá là chủ trương và chính sách có định hướng của quản lý Nhà nước trên yêu cầu thực tế phát triển kinh tế – xã hội. Còn phát triển tự phát là sự tham gia và rút lui khỏi các hoạt động y tế không có định hướng nào cả, mà chỉ đáp ứng yêu cầu lợi ích cá nhân. Thứ hai, cả xã hội hoá và phát triển tự phát đều phải tuân theo những quy định chung của pháp luật nhưng khả năng tiềm ẩn về vi phạm hay lách luật của phát triển tự phát trong lĩnh vực y tế sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn bởi yếu tố lợi nhuận sẽ làm mờ đi tính chất nhân đạo vốn có của các hoạt động y tế. Thứ ba, xã hội hoá các hoạt động y tế vừa góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước vừa đảm bảo sự công bằng vốn có và gia tăng động lực hiệu quả các hoạt động y tế là rất lớn. Còn về phía phát triển tự phát cũng có thể đạt được hiệu quả rất cao của các hoạt động y tế nhưng ít có được sự công bằng mà muốn điều hoà được mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả sẽ gây áp lực lớn, bị động cho Ngân sách Nhà nước do những hậu quả ngoài ý muốn. Ngoài ra, phát triển tự phát có thể dẫn tới độc quyền trong lĩnh vực y tế mà chế độ xã hội XHCN không mong muốn điều đó. Chính vì vậy, xã hội hoá là phù hợp với con đường đi lên CNXH mà chúng ta đã lựa chọn, gây dựng và bảo vệ cho đến ngày hôm nay. Mối liên hệ giữa quản lý chi Ngân sách Nhà nước với xã hội hoá các hoạt động y tế Trong quá trình tiến hành xã hội hoá các hoạt động y tế, yêu cầu đặt ra cho các đơn vị sự nghiệp y tế là cần phải tự chủ về tài chính và luôn phấn đấu tiên phong trong các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân. Các cơ sở ngoài công lập hoạt động trong lĩnh vực y tế cần được sự khuyến khích và đầu tư phần nào về nguồn vốn hoạt động từ phía Nhà nước; có như vậy mới vừa thúc đẩy các cơ sở ngoài công lập đi vào hoạt động trong lĩnh vực y tế vừa tạo đà cho phát triển của hình thức này. Tuy nhiên, việc xã hội hoá các hoạt động y tế, nguồn chi từ Ngân sách Nhà nước vẫn phải đóng vai trò chủ đạo, quan trọng nhất nhưng tỷ trọng so với tổng chi về y tế của toàn xã hội dần giảm một cách phù hợp. Trước kia, khi chưa có chính sách khuyến khích xã hội hoá các hoạt động y tế, việc quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế đã gặp không ít những khó khăn thì nay thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế lại càng phức tạp hơn. Ngày nay, quản lý chi Ngân sách Nhà nước trong khuôn khổ xã hội hoá phải góp phần khuyến khích tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế đồng thời chú trọng đến các chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khoẻ nhằm đưa mọi đối tượng tham gia vào các chương trình này. Mặc dù vậy, quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế phải đáp ứng việc thúc đẩy, định hướng phát triển các hoạt động y tế đồng thời tránh các biểu hiện tiêu cực trong quản lý chi Ngân sách Nhà nước ( như lãng phí, tham ô, chi sai mục đích v.v...). Do sự tham gia rộng rãi của nhiều chủ thể vào các hoạt động y tế nên việc quản lý các hoạt động y tế cần phải thống nhất, đặc biệt là các hoạt động về tài chính cần phải lưu ý trong việc quy định về các khoản thu, các khoản chi, công khai tài chính hàng năm,... một cách thống nhất của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bởi vậy, quản lý chi Ngân sách Nhà nước và xã hội hoá các hoạt động y tế có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau: quản lý chi Ngân sách Nhà nước tạo tiền đề cho khuyến khích xã hội hoá đồng thời xã hội hoá lại là điều kiện để giảm bớt gánh nặng cho chi Ngân sách Nhà nước mà vẫn đảm bảo mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả cần đạt được trong lĩnh vực y tế. Chương 2 Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm 2.1. Khái quát về hoạt động tài chính công của quận Hoàn Kiếm 2.1.1. Đặc điểm về kinh tế – xã hội trên địa bàn quận Với diện tích tự nhiên 4,5km2 ( hầu như không có diện tích đất nông nghiệp ), dân số 186.000 người, quận Hoàn Kiếm là một quận nội thành, có vị trí ở trung tâm thủ đô Hà Nội, lịch sử phát triển gắn liền với lịch sử ngàn năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội và lịch sử 36 phố phường. Quận Hoàn Kiếm không những là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của thành phố Hà Nội mà còn là một trung tâm lớn của cả nước. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, quận Hoàn Kiếm luôn là một địa bàn dẫn đầu về mọi lĩnh vực: công nghiệp, thương mại và dịch vụ so với các đơn vị hành chính cùng cấp, xứng đáng là quận trung tâm của thủ đô Hà Nội. * Về kinh tế: sự phát triển về kinh tế được phản ánh thông qua mối quan hệ mọi lĩnh vực với thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận. Trong những năm qua công tác thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận đã đạt được kết quả ổn định, vững chắc và có nhịp độ tăng trưởng dương phù hợp tình hình phát triển kinh tế, xã hội của quận: + Về thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, quận Hoàn Kiếm là địa bàn trọng điểm của kinh doanh thương mại dịch vụ nên có số thu về thuế công thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong thu NSNN. Số thu Thành phố giao cho quận năm sau cao hơn thực hiện năm trước từ 15%-20%. + Về thu ngân sách quận: Thu ngân sách quận để cân đối chi ngân sách theo tỷ lệ điều tiết chung của Thành phố thì quận có ưu thế là số thu lớn, lại là nơi có nhiều đơn vị Trung ương và Thành phố giao dịch đóng trên địa bàn nên thu đảm bảo chi và có kết dư lớn. Số thu tăng bình quân trên 11%/năm. + Về chi ngân sách: Quận Hoàn Kiếm là đơn vị có số chi trung bình và thấp so với các quận (huyện) bạn, do nhiệm vụ chi sự nghiệp kinh tế, giao thông, đô thị ở quận trung tâm nên Thành phố đảm nhiệm là chính chỉ chiếm 30% đến 33% trên tổng số thu ngân. Nhiệm vụ chi của quận chủ yếu là chi thường xuyên chiếm tỷ trọng từ 70% đến 75% tổng chi ngân sách. Tuy vậy, công tác quản lý Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận cũng gặp không ít những khó khăn: - Công tác thu Ngân sách Nhà nước chịu ảnh hưởng lớn của tính phức tạp trên địa bàn và tình hình kinh doanh trên địa bàn chủ yếu là kinh doanh nhỏ lẻ nên việc khai thác nguồn thu từ hoạt động kinh doanh này chưa đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, phần thu từ các Doanh nghiệp Nhà nước giảm đáng kể do các đơn vị quốc doanh sát nhập, cổ phần hoá và thua lỗ kéo dài tăng lên; cùng với việc Nhà nước lại có chính sách bỏ các khoản thu sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước tại các đơn vị này. - Công tác chi Ngân sách Nhà nước do ảnh hưởng của dân số đông trên một diện tích địa lý hẹp nên quản lý chi Ngân sách Nhà nước gặp nhiều phức tạp, dàn trải và cần nhiều kinh phí cho duy trì trật tự trị an, dẫn đến tình trạng nguồn chi không được tập trung nhiều cho đầu tư phát triển mà hầu hết là chi tiêu cho hoạt động thường xuyên. * Về văn hoá, xã hội Các sự nghiệp y tế, giáo dục, thể dục thể thao... trên địa bàn thường xuyên được sự quan tâm, đầu tư phát triển của các cấp, các ngành tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống trong dân cư; cùng với đó các công tác chính sách xã hội đối với các đối tượng chính sách ( gia đình thương binh, liệt sỹ; bà mẹ Việt Nam anh hùng; người có công với cách mạng...) được đảm bảo đúng theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Do vậy, đời sống cả về vật chất và tinh thần của nhân dân trong quận ngày một nâng lên, góp phần đưa quận Hoàn Kiếm trở thành một trong những đơn vị đi đầu về thực hiện công tác văn hoá, xã hội của thành phố. Với những đặc điểm trên về kinh tế - xã hội mà quận Hoàn Kiếm có được đã góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển; huy động nguồn lực đưa quận phát triển nhanh, bền vững về mọi lĩnh vực và trở thành một điểm sáng của thủ đô Hà Nội. 2.1.2. Công tác quản lý tài chính Ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm Khái quát chung về phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm là đơn vị trực tiếp quản lý tài chính Ngân sách Nhà nước trên toàn địa bàn quận về mọi lĩnh vực, trong đó có quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp y tế của quận. Phòng TC-VG quận Hoàn Kiếm có trụ sở tại số nhà 56 Hàng Cân. Phòng được thành lập từ tháng 08/1990. Thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại quyết định số 1141/QĐ-UB ngày18/03/1988 với chức năng quản lý tài chính thương nghiệp. Đến tháng 09/1997 đổi tên thành Phòng Tài chính – Vật giá, thực hiện nhiệm vụ theo quyết định số 3581/QĐ-UB ngày 16/09/1997của UBND thành phố Hà Nội. Hiện nay, căn cứ vào sự phân cấp của hệ thống Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn hoạt động, phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm được tổ chức theo mô hình sau: Hình1: Sơ đồ tổ chức bộ máy hành chính Bộ phận kế toán tổng hợp phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm. Bộ phận quản lý NSNN khối phường(18 phường) Bộ phận quản lý NSNN các đơn vị sự nhiệp Bộ phận kế toán thu – chi NSNN Phó trưởng phòng Trưởng phòng Bộ phận hành chính, kế toán đơn vị Cơ cấu tổ chức của Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm được hình thành trên cơ sở các căn cứ nêu trên và từ những nhiệm vụ cụ thể của phòng: + Giúp UBND quận hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý về tài chính Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận theo quy định của pháp luật. + Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị dự toán thuộc quận, ban tài chính phường xây dựng dự toán Ngân sách hàng năm, xây dựng dự toán Ngân sách quận theo hướng dẫn của Sở Tài chính - Vật giá, trình UBND quận xem xét để trình HĐND quận quyết định. + Lập phương án phân bổ Ngân sách quận, lập dự toán điều chỉnh trong trường hợp cần thiết theo quy định trình UBND quận xem xét, trình HĐND quyết định, đảm bảo điều hành theo tiến độ và dự toán đã được quyết định, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, điều hành và quyết toán ngân sách cấp phường. + Kiểm tra việc quản lý tài chính Ngân sách của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và đoàn thể thuộc quận. Phối hợp với cơ quan thuế trong quản lý công tác thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật, phối hợp với Kho bạc Nhà nước thực hiện cấp phát đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ, tiêu chuẩn cho các đối tượng sử dụng Ngân sách quận. + Tổng hợp thu - chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn quận, hướng dẫn và kiểm tra quyết toán Ngân sách cấp phường, lập quyết toán Ngân sách trên địa bàn theo quy định. + Báo cáo tài chính Ngân sách theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước và theo yêu cầu công tác quản lý của cấp trên. + Quản lý tài sản Nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp thuộc quận theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ tài chính, quản lý tài sản tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định và phân cấp của Bộ tài chính và UBND thành phố. + Quản lý nguồn kinh phí được cấp trên cấp cho Ngân sách quận. + Làm thường trực hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng theo NĐ22/1998/CP và quyết định 20/1998/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội quy định khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho an ninh- quốc phòng, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. + Quản lý một số quỹ tài chính ngoài Ngân sách Nhà nước theo quy định, quản lý một số loại biên lai ấn chỉ chuyên dùng được giao. + Làm một số công việc thuộc lĩnh vực tài chính khi được Quận ủy-HĐND và UBND quận giao phó bằng văn bản. Từ những nhiệm vụ cụ thể đề ra cho Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm, cơ cấu tổ chức của đơn vị đáp ứng được yêu cầu về tinh gọn bộ máy, thuận tiện cho quá trình quản lý đạt hiệu quả cao trong hoạt động và hơn hết phù hợp với biên chế sẵn có. Thực hiện theo các nhiệm vụ và phân cấp Ngân sách Nhà nước, Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm trực tiếp quản lý về tài chính Ngân sách Nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn quận, bao gồm: +Trung tâm y tế quận + 18 trạm y tế phường +1 trạm đa khoa ( bảo hiểm) + 1 nhà hộ sinh ( 40 giường ) + 1 trạm phòng dịch + 1 trạm cai nghiện + 1 trụ sở ủy ban dân số gia đình và trẻ em ( chi Ngân sách quận ) Trong đó: - Trung tâm y tế quận có nhiệm vụ hỗ trợ trong quá trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị còn lại và tổng hợp số liệu khi có yêu cầu của Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm; đồng thời thực hiện quản lý về biên chế, nghiệp vụ chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp y tế theo hướng dẫn của Sở y tế. - Các đơn vị sự nghiệp y tế của quận Hoàn Kiếm vừa chịu sự quản lý của Trung tâm y tế quận và Phòng Tài chính - Vật giá quận; riêng 18 trạm y tế phường không có bộ phận quản lý về tài chính Ngân sách Nhà nước mà trực tiếp được sự giúp đỡ của ban tài chính phường ( về công tác hạch toán, kế toán và lập dự toán, phường hỗ trợ kinh phí phòng dịch cho trạm y tế của mình...) Hiện nay, theo quy định trong Nghị định số 10/2002/NĐ-CP các đơn vị sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm mới là loại hình đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên; do tính chất hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế quận là thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, phòng chống dịch bệnh là chủ yếu nên nguồn thu của các đơn vị y tế rất hạn chế. 2.2. Tình hình quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho các hoạt động y tế quận Hoàn Kiếm thời gian qua 2.2.1. Đánh giá chung về thực hiện quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở địa bàn quận Hoàn Kiếm 2.2.1.1. Tình hình chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế so với các sự nghiệp khác Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm là cấp Ngân sách trung gian trong hệ thống Ngân sách Nhà nước, đơn vị thực hiện quản lý về thu – chi Ngân sách Nhà nước trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội...; trong đó có sự nghiệp y tế. Quá trình quản lý và thực hiện các nhiệm vụ chi cho sự nghiệp y tế của quận, Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm đóng vai trò là đơn vị tiếp nhận, huy động và cơ cấu một cách hợp lý các nguồn chi từ Ngân sách thành phố phân bổ; huy động Ngân sách quận, phường và phần thu sự nghiệp để lại đơn vị. Cơ cấu đó được thể hiện trong bảng 1, cụ thể như sau: Do các hoạt động y tế phục vụ trên địa bàn quận là các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu ( mang tính chất phòng ngừa là chính ); chủ yếu thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, phòng chống bệnh dịch lây lan, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, tổ chức cai nghiện,... nên tỷ trọng của nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế thấp hơn so với các sự nghiệp khác cả về số tuyệt đối và số tương đối. Mặc dù, sự nghiệp y tế chiếm từ 6-8% tổng số chi các sự nghiệp, tỷ trọng này thấp hơn so với các sự nghiệp khác ( sự nghiệp giáo dục - đào tạo chiếm hơn 50%; quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể chiếm hơn 15%...); nhưng do tính chất quan trọng của các đơn vị y tế cơ sở nên cơ cấu chi cho sự nghiệp y tế bao quát được hầu hết các nhiệm vụ được giao và đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân thông qua tuyến y tế cơ sở. Bảng 1: Chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế so với một số hoạt động khác trên địa bàn quận Hoàn Kiếm giai đoạn (2000-2002), trong đó bao gồm chi Ngân sách thành phố; Ngân sách quận, phường; chi từ nguồn để lại đơn vị Nguồn: Báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước năm 2000-2002 của Phòng Tài Chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm Năm 2002 Tỷ trọng (%) 6,3 4,9 58,7 24,6 5,5 100 Số thực hiện 5229 4019 48576 20399 4593 82816 Năm 2001 Tỷ trọng (%) 7,4 5,0 54,7 26,3 6,6 100 Số thực hiện 4741 3155 34863 16761 4203 63723 Năm 2000 Tỷ trọng (%) 7,5 10,8 58,9 15,6 7,2 100 Số thực hiện 3344 4836 26336 6987 3196 44699 Chỉ tiêu 1.Chi sự nghiệp y tế 2.Chi sự nghiệp kinh tế 3. Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo 4. Chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể 5. Chi an ninh- quốc phòng Tổng số Ngoài ra, chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế quận Hoàn Kiếm vẫn được gia tăng ( năm sau cao hơn năm trước ) nhằm cải thiện và phát triển cho các hoạt động y tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chung toàn quận. 2.2.1.2 Thực trạng quản lý nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế địa bàn quận Hoàn Kiếm trong những năm qua Những nét chung về chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế Để quản lý nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế, Phòng Tài chính – Vật giá quận Hoàn Kiếm triệt để quản lý theo dự toán: hàng năm trên cơ sơ số dự toán duyệt đầu năm, phòng trực tiếp phân bổ dự toán được Sở Tài chính – Vật giá thành phố Hà Nội và UBND quận giao cho các đơn vị y tế trên địa bàn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm y tế quận: Số tiền Năm Hình 1: Tình hình thực hiện chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế so với dự toán các năm 2000,2001,2002. Qua biểu đồ trên, cho thấy việc thực hiện quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế là rất sát với dự toán hàng năm, tỷ lệ thực hiện thường trên 90% so với dự toán được giao. Tuy nhiên, phần lớn số thực chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế nằm trong nguồn chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước và từ thu sự nghiệp của đơn vị, bởi sự nghiệp y tế nằm trong khuôn khổ các chương trình mục tiêu quốc gia và mục đích tồn tại của y tế tuyến cơ sở là chủ trương, chính sách thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, phòng chống dịch bệnh lây lan. Chi tiết các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở địa bàn quận Hoàn Kiếm được cụ thể ở bảng 2: Bảng 2: Cơ cấu các nguồn thực chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm giai đoạn (2000-2002) Nguồn: Báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước năm 2000-2002 của Phòng Tài Chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm Năm 2002 Tỷ lệ so với năm 2001 (%) 110,3 126,2 74,6 110,3 Tỷ trọng (%) 78,7 16,9 4,4 100 Số tiền 4116 881 232 5229 Năm 2001 Tỷ lệ so với năm 2000 (%) 144,5 119,3 176,7 141,8 Tỷ trọng (%) 78,7 14,7 6,6 100 Số tiền 3732 698 311 4741 Năm 2000 Tỷ trọng (%) 77,2 17,5 5,3 100 Số tiền 2583 585 176 3344 Chỉ tiêu 1.Chi từ Ngân sách thành phố 2.Chi Ngân sách quận, phường 3. Chi từ nguồn thu để lại đơn vị Tổng số Trong các nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm thì nguồn chi từ Ngân sách thành phố luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất: năm 2000 chiếm 77,2%; năm 2001 chiếm 78,7%; năm 2002 chiếm 78,7%; điều này chứng tỏ sự quan trọng của từ Ngân sách thành phố chi cho sự nghiệp y tế quận nhằm thực hiện các nhiệm vụ về chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân do thành phố và Sở y tế Hà Nội giao hàng năm. Thứ đến, nguồn chi bổ sung từ Ngân sách quận và Ngân sách phường cũng góp phần không nhỏ cho chi tiêu của sự nghiệp y tế tuyến cơ sở: năm 2000 chiếm 17,5%; năm 2001 chiếm 14,7%; năm 2002 chiếm 16,9%; trong đó Ngân sách quận hỗ trợ một phần chi thường xuyên và Ngân sách phường chủ yếu hỗ trợ qua các khoản chi cho hoạt động phòng dịch trên địa bàn các phường. Thực hiện chủ trương chung về quản lý Ngân sách quận và phát triển nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế nói riêng cũng như phát triển toàn bộ nguồn chi nói chung. Các nguồn chi từ Ngân sách thành phố ( năm 2000 là nguồn chi kinh phí ủy quyền của thành phố, từ năm 2001 đến nay là chi kinh phí chương trình mục tiêu của thành phố); chi từ Ngân sách._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3819.doc
Tài liệu liên quan