Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)

LỜI CẢM ƠN Với nội dung đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)”, trong bối cảnh năm 2008 khi nền kinh tế gặp không ít sóng gió, đặc biệt là hệ thống ngân hàng và tài chính phải đối mặt với sóng gió đầu tiên trên tiến trình khôi phục và phát triển kinh tế. Theo hướng đi của chuyên đề, tôi đã có thời gian dài để nghiên cứu và trang bị thêm nhiều kiến thức về cách viết, về cách nhìn nhận, đánh giá và giải quyết những vấn đề trong thực trạng phát

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh trong hoạt động thu xếp và huy động vốn của PVFC. Để có những kết quả đạt được trong luận văn này, tôi chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn với kiến thức chuyên sâu, định hướng và lập luận sâu sắc của PGS.TS Vương Trọng Nghĩa giúp tôi lĩnh hội và tiếp thu kiến thức và phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu. Tôi cũng xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa đã đóng góp các ý kiến trong thời gian xây dựng và hoàn thành. Bên cạnh đó, để hoàn thành được luận văn này xin cám ơn sự ủng hộ, động viên và tạo điều kiện của những người thân: gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Qua những lời nhắn gửi này, tôi xin phép gửi lời cảm ơn sâu sắc tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện để luận văn thành công tốt đẹp. Hà nội, tháng 10/2008. MỤC LỤC Trang Danh sách bảng biểu và các ký tự viết tắt Tóm tắt Luận văn LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn của Công ty Tài chính 4 Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính 4 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Công ty Tài chính 4 1.1.2. Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính 9 Họat động huy động vốn của Công ty Tài chính 17 1.2.1. Huy động vốn chủ sở hữu…………………………………………… 18 1.2.2. Huy động nợ 20 1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính 22 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của Công ty Tài chính 29 1.3.1. Nhân tố chủ quan 29 1.3.2. Nhân tố khách quan 34 Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại PVFC 37 2.1. Giới thiệu chung về PVFC 37 2.1.1. Khái quát 37 2.1.2. Tình hình họat động kinh doanh tại PVFC 45 2.2. Thực trạng huy động vốn tại PVFC 51 2.2.1. Cơ cấu vốn huy động 51 2.2.2. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động 52 2.2.3. Quy mô và thị phần vốn huy động của PVFC 55 2.3. Đánh giá họat động huy động vốn 56 2.3.1. Kết qủa đạt được 56 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 58 Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại PVFC 65 3.1. Định hướng phát triển của PVFC 65 3.1.1. Định hướng phát triển chung của PVFC 65 3.1.2. Định hướng huy động vốn của PVFC 66 3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại PVFC 68 3.2.1 Đa dạng hoá các hình thức huy động, chuyên môn hoá theo khách hàng, liên kết giữa các sản phẩm dịch vụ 68 3.2.2. Quản lý lãi suất huy động với lãi suất cho vay một cách linh hoạt 76 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing 77 3.2.4. Phát triển mạng lưới theo hướng hiệu quả 78 3.2.5. Phát triển công nghệ 79 3.2.6. Nâng cao trình độ cán bộ 80 3.2.7 Xây dựng cơ chế phối hợp giữa hoạt động đầu tư, nguồn vốn và dòng tiền 82 3.2.8 Sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. 82 3.3. Kiến nghị 83 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 83 3.3.2. Kiến nghị với NHNN 85 KẾT LUẬN…………………………………………………………………………88 Danh mục tài liệu tham khảo CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT Ký hiệu Ý nghĩa PVFC : Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam PV : Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TCT : Tổng Công ty CT : Công ty CTTC : Công ty Tài chính HĐV : Huy động vốn TCTD : Tổ chức tín dụng CTTC : Công ty Tài chính TGĐ : Tổng Giám đốc FDI : Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài PVFC : Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ CÁC BẢNG Bảng 2.1 Các đơn vị thành viên của PVFC Trang 39 Bảng 2.2 Hoạt động huy động vốn của PVFC Trang 46 Bảng 2.3: Hoạt động cho vay của PVFC Trang 47 Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2002-2007 Trang 50 Bảng 2.5: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của PVFC. Trang 53 Bảng 2.6: Hoạt động huy động vốn của PVFC. Trang 55 Bảng 2.7: Thu nhập lãi thuần của PVFC Trang 57 Bảng 2.8: Chi phí vốn huy động của PVFC Trang 58 Bảng 2.9 : Nợ cho vay của PVFC Trang 59 BIỂU ĐỒ Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổ chức của Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam Trang 41 Đồ thị 2.2 Quy mô huy động vốn theo từng đối tượng Trang 54 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình cải cách mạnh mẽ đang diễn ra ở Việt Nam và tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã và đang được đẩy mạnh góp phần làm gia tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, việc Việt Nam gia nhập WTO là thời điểm tốt để các định chế đầu tư tài chính tham gia khám phá thị trường tài chính Việt Nam. Quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và tăng cường năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập đang tạo ra cơ hội phát triển của ngành dịch vụ tài chính và cơ hội cho các định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp. Qua 7 năm hình thành và phát triển, từ một định chế tài chính với vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ đồng, PVFC đã trải qua chặng đường phát triển đầu tiên của mình với tất cả khó khăn và thách thức của một định chế tài chính còn mới mẻ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tháng 10 năm 2007, PVFC chính thức bán đấu giá 59.638.900 cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), tăng vốn điều lệ lên 5.000 tỷ đồng. PVFC với các ngành nghề kinh doanh là hợp tác đầu tư, hoạt động thu xếp vốn, huy động vốn, dịch vụ tài chính, dịch vụ ủy thác vốn đầu tư, tín dụng cá nhân và doanh nghiệp, kinh doanh ngoại hối. Trong đó các sản phẩm dịch vụ mũi nhọn là thu xếp vốn và tài trợ dự án, đầu tư tài chính và các dịch vụ tài chính tiền tệ khác. Trong các sản phẩm-dịch vụ nền tảng của công ty, sản phẩm HĐV đóng góp phần quan trọng trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mũi nhọn. Các tổ chức tài chính có nguồn vốn tự có chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, còn lại chủ yếu do huy động, vốn đi vay và vốn khác. Trong đó huy động vốn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vì vậy vấn đề huy động vốn là yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự phát triển và mở rộng kinh doanh, giúp tạo dựng nguồn vốn vững chắc, ổn định đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Công ty đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Trong hoạt động kinh doanh, PVFC coi trọng sản phẩm mũi nhọn như thu xếp vốn và tài trợ dự án, đầu tư tài chính, hợp tác đầu tư và các dịch vụ tài chính tiền tệ khác nhưng nền tảng để làm tốt điều đó phải phát triển tốt nhất các sản phẩm nền tảng như Huy động vốn. Công tác huy động vốn tại PVFC đã đạt được rất nhiều thành quả, song bên cạnh đó còn bộc lộ một số tồn tại cần tiếp tục được khắc phục để tăng cường huy động vốn tại PVFC nhằm hiện thực hóa, thực hiện tốt nhất các vấn đề kinh doanh. Xuất phát từ lý luận và những đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của hoạt động huy động vốn tới sự phát triển phát triển của công ty, từ đó có sự vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện cụ thể tại Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam (PVFC). Thứ hai, đánh giá thực trạng huy động vốn tại Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam. Thứ ba, xác định mục tiêu và định hướng cho Công ty đầu tư thời gian, con người, vật chất vào hoạt động huy động vốn và từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn trong giai đoạn sắp tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động huy động vốn và vai trò của tăng cường huy động vốn tại PVFC. Phạm vi nghiên cứu là việc tăng cường huy động vốn tại PVFC giai đoạn 2004-2007. 4. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, có kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 5. Những đóng góp về mặt khoa học Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tăng cường huy động vốn tại PVFC; Phân tích, đánh giá về thực trạng của hoạt động huy động vốn tại PVFC; Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn của Công ty Tài chính. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hoạt động tài chính - tiền tệ đã có nhiều đổi mới, theo hướng ngày càng gắn với thị trường, phù hợp với lộ trình mở cửa, hội nhập. Trong quá trình ấy, cùng với sự xuất hiện các loại hình công ty, các công cụ tài chính - tiền tệ mới, các tổ chức tài chính phi ngân hàng (bao gồm các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty thuê mua, công ty chứng khoán, công ty quản lý Qũy đầu tư...) đã ra đời và ngày càng phát triển phong phú, đa dạng. Ngày nay việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của ngân hàng mà bên cạnh ngân hàng còn có CTTC, Công ty Bảo hiểm, CTTC, các tổ chức tín dụng, quỹ tiết kiệm, hợp tác xã tín dụng…Các CTTC ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Trong các nước phát triển hầu như không một công dân nào không biết đến ngân hàng hoặc CTTC. Nền kinh tế phát triển thì hoạt động của CTTC cũng như hoạt động của các ngân hàng ngày một phát triển, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế trong việc thu xếp, tạo lập nguồn vốn cho sự phát triển trên thị trường tài chính tiền tệ và tạo lập các công cụ tài chính. Khái niệm và đặc điểm của Công ty Tài chính (CTTC) Khái niệm CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng. CTTC đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng tiền tệ, tạo lập công cụ tài chính cho thị trường. Theo điều 2, Nghị định Chính phủ Số: 79/2002/NĐ-CP về “tổ chức và hoạt động của CTTC” Hà Nội , Ngày 04 tháng 10 năm 2002 có Định nghĩa CTTC “CTTC là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm”. Theo định nghĩa trên, CTTC được xem như một doanh nghiệp có hạch toán thu chi, có tính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và luôn tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên nếu xét về chức năng và tính đặc thù thì giữa CTTC và doanh nghiệp kinh doanh thông thường lại có sự khác biệt lớn, đó là: CTTC là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, tức là CTTC vừa là người tiêu thụ đồng vốn (các hoạt động đầu tư, hợp tác đầu tư, mở rộng kinh doanh.... vừa là người cung cấp đồng vốn (cho vay cá nhân, cho vay doanh nghiệp, ....). CTTC hoạt động kinh doanh trên cơ sở các điều kiện kinh tế và quy định của luật pháp, thông qua các hoạt động đó chúng tác động đến nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội. Cơ sở kinh tế khách quan của chức năng mà hệ thống CTTC đảm nhận là sự cần thiết có các trung gian tài chính dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, thu xếp vốn v.v... CTTC huy động vốn bằng cách phát hành thương phiếu, cổ phiếu, nhận tiền gửi trên 1 năm với lãi suất nhất định và dùng số vốn huy động được để cho vay thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và người tiêu dùng. Các nguồn lợi nhuận từ CTTC là điều phối dòng tiền từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn, thu xếp dòng tiền phục vụ mục tiêu kinh doanh một cách hợp lý, nguồn tiền đó có thể đầu tư dự án, chứng từ có giá, các khu công nghiệp… và cho vay với lãi suất cao hơn ra ngoài thị trường tạo nên bộ phận thu nhập của CTTC. Để tạo lập nguồn vốn,CTTC phải trả lãi cho các khoản tiền gửi hoặc các khoản vay và các chi phí khác. Với mục tiêu tăng cường hoạt động kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận, CTTC thường xuyên tổ chức khai thác các nguồn vốn với chi phí thấp để mở rộng cho vay và đầu tư, ....Xuất phát từ xu hướng phát triển trong hoạt động của mình, các CTTC không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá hoạt động, các CTTC có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với CTTC thương mại, các định chế tài chính phi tài chính khác trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ. Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế cao như hiện nay, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên sự khác biệt giữa CTTC với các CTTC thương mại ở chỗ, trong khi các CTTC thương mại huy động vốn từng khoản tiền gửi và sau đó cho vay những khoản tiền lớn, thì các CTTC đi huy động, vay các khoản tiền lớn và cho vay những món tiền nhỏ. Một đặc điểm khác với CTTC thương mại và quỹ tiết kiệm là CTTC không phải chấp hành luật dữ trữ bắt buộc và hoạt động ngoài sự kiểm soát của CTTC Trung ương. Các loại hình và đặc điểm của CTTC CTTC ra đời gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, ở các công nghiệp phát triển, thường có 3 loại hình CTTC với các đặc trưng sau: Các CTTC bán hàng, các công ty này cho những người tiêu dùng vay tiền để mua hàng của một nhà sản xuất hay một nhà hàng bán lẻ. Các công ty này trực tiếp cạnh tranh với các CTTC trong nghiệp vụ cho vay tiêu dùng và được người tiêu dùng hưởng ứng hơn vì các khoản cho vay được thực hiện nhanh chóng và tiện lợi ngay tại nơi mua hàng. Các CTTC người tiêu dùng, các công ty này cho người tiêu dùng vay tiền để mua những loại hàng như đồ nội thất gia đình, hoặc vay tiền để trả những món nợ nhỏ. Các CTTC người hoạt động ở khắp mọi nơi trong cả nước, có thể là công ty độc lập, có thể là công ty thuộc sở hữu của một CTTC. Các CTTC kinh doanh, các công ty này ngoài nhiệm vụ huy động vốn cho công ty mẹ, còn có chức năng khinh doanh tiền tệ, ngoài việc vay công chúng bằng cách phát hành các phiếu nợ (thương phiếu, trái phiếu, cổ phiếu) còn trực tiếp vay các CTTC thương mại rồi đem ra thị trường tiền tệ cho vay nóng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch giá. Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là một pháp nhân Việt Nam, hạch toán độc lập. Công ty tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam gồm các loại hình sau: 1) Công ty tài chính Nhà nước: là Công ty tài chính do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh. Công ty tài chính Nhà nước được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới 2 hình thức: Công ty tài chính thuộc Tổng công ty Nhà nước, do Tổng công ty Nhà nước cấp 100% vốn điều lệ. Công ty tài chính Nhà nước khác. Việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của loại hình Công ty tài chính này được thực hiện theo hướng dẫn riêng của CTTC Nhà nước. 2) Công ty tài chính cổ phần: là Công ty tài chính do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của CTTC Nhà nước và các quy định khác của pháp luật được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. 3) Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng: là Công ty tài chính do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình, làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân. 4) Công ty tài chính liên doanh: là Công ty tài chính được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. 5) Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty tài chính được thành lập bằng vốn của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đặc trưng của CTTC tại Việt Nam là các CTTC thường thuộc một Tổng công ty hay thuộc một Tập đoàn, bởi hoạt động của chúng gắn liền với chức năng thu xếp vốn cho đầu tư phát triển của ngành vừa thực hiện chứng năng kinh doanh vốn của Tổng công ty hoặc Tập đoàn đó. Vai trò của CTTC thuộc Tổng công ty hoặc Tập đoàn là hết sức quan trọng, làm gia tăng giá trị của đồng vốn sử dụng, đồng thời là trung gian tài chính giúp ích cho việc luân chuyển vốn chính thức, nhanh chóng, hiệu quả, an toàn giữa các thành viên trong Tổng Công ty hoặc Tập đoàn hoặc từ các thành viên của Tập đoàn với các đối tác bên ngoài. Nếu nhìn vào sự tồn tại của các TCT hiện nay thì với gần 100 tổng công ty (17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90) mới chỉ 6 tổng công ty đã thành lập được CTTC (CTTC bưu điện thuộc TCT bưu chính viễn thông, CTTC tàu thuỷ thuộc TCT tàu thuỷ VN, CTTC dệt may thuộc tổng công ty dệt may, Cty tài chính cao su thuộc TCT cao su VN, Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí VN và mới nhất là CTTC thuộc TCT than VN) hoạt động theo nghị định 79/2002/NĐ-CP về “tổ chức và hoạt động của CTTC” được chính phủ ban hành ngày 04.10.2002 và mẫu điều lệ CTTC trong TCT ban hành theo quyết định số 104/QĐ-NH5.  Trong khi thực hiện vai trò trung gian tài chính trong Tổng công ty hoặc Tập đoàn của mình, CTTC đảm trách việc chuyển vốn nhàn rỗi từ Tập đoàn, Công ty thành viên, dân cư, CTTC sang người có nhu cầu về vốn, đồng thời tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, trong đó điển hình là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, đây là một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua CTTC. Ngày nay, Các CTTC giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của CTTC ngày càng đa dạng, phong phú và có quy mô ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng của nền kinh tế. 1.1.2. Hoạt động cơ bản của CTTC Qua sự hoạt động của CTTC trên thế giới nói chung và đặc điểm của các CTTC hoạt động tại Việt Nam, nhận thấy rằng, Các CTTC ở Việt Nam: Về bản chất: Trong hệ thống tổ chức của Tổng Công ty, CTTC ra đời là dấu hiệu để phân biệt TCT hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh với mô hình TCT kiểu cũ.   Về tư cách pháp nhân: CTTC chịu sự quản lý của TCT về chiến lược phát triển, về tổ chức và nhân sự, chịu sự quản lý của CTTC Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ. CTTC có con dấu riêng, được mở tài khoản tại CTTC Nhà nước, được TCT cấp vốn điều lệ ban đầu. Hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hoạt động theo luật doanh nghịêp và quy chế hoạt động của các tổ chức tín dụng.  Về vai trò và nhiệm vụ: CTTC có nhiệm vụ huy động và cho vay đáp ứng nhu cầu của TCT và các đơn vị thành viên của về vốn. Quan hệ giữa CTTC với các đơn vị thành viên của TCT được thực hiện theo nguyên tắc có vay có trả. Trường hợp thực hiện việc cho vay đối với các tổ chức đơn vị kinh doanh khác ngoài TCT, CTTC phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị .  Đối với các TCT 90 và 91, nhu cầu huy động vốn phục vụ cho chiến lược phát triển là rất lớn. Hầu hết các TCT đều đang rất cần vốn để thực hiện các chiến lược phát triển dài hạn. Vì vậy khi các TCT này trở thành các tập đoàn kinh doanh hoạt động theo mô hình CT mẹ - CT con thì CTTC ra đời với các hoạt động theo điều lệ của CTTC nhà nước có thể trở thành công cụ để TCT tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động cho TCT với các nghiệp vụ:  1) Hoạt động huy động vốn  Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo vốn từ việc nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân, từ các hoạt động thanh toán, uỷ thác hoặc từ việc phát hành các chứng từ có giá để phục vụ cho các hoạt động cho vay, đầu tư của CTTC. 2) Hoạt động tín dụng Cho vay: Như hoạt động cho vay của ngân hàng, CTTC cũng cho vay nhằm tài trợ về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức. Các CTTC giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi. *) Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của CTTC Nhà nước. Tuỳ theo thời hạn cho vay, khoản vay của khách hàng được phân thành vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngắn hạn: thời hạn vay dưới 12 tháng; Trung hạn: thời hạn vay từ 12 tháng đến 05 năm; Dài hạn: thời hạn vay từ 05 năm trở lên. Tình trạng khóa khăn về tài chính của một số CTTC thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý, tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế… Vốn vay từ nguồn cho vay trung và dài hạn sẽ cấu thành nên tài sản cố định của các doanh nghiệp được tồn tại dưới hình thức hiện vậy đó là: phương tiện vận tải, thiết bị máy móc, nhà cửa tăng thêm. Với những tài sản cố định được bổ sung sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh một cách bình thường. Về phía CTTC cũng tìm được đối tượng đầu tư ổn định và có hiệu quả. Cho vay trung dài hạn đem lại cho CTTC nguồn thu lớn. CTTC có thể cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, dài hạn trên cơ sở cân đối nguồn vốn trung và dài hạn (không đuợc cho vay trung và dài hạn bằng vốn vay ngắn hạn. Nhưng của điều lệ cũng qui định: dư nợ cho vay ngắn hạn của một khách hàng không quá 10% vốn tự có của CTTC, riêng đối với khách hàng là TCT hoặc các doanh nghiệp thành viên thì dư nợ cho vay không quá 15% vốn tự có của CTTC. Trong trường hợp cho vay trung và dài hạn theo dự án của TCT thì phải dựa tên cơ sở cân đối nguồn vốn thích hợp và căn cứ vào các dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và mức cho vay đối với một dự án không đuợc vượt quá 20% vốn tự có của CTTC (nếu có bảo lãnh của Hội đồng quản trị thì tỷ lệ này có thể lên đến 30%, nếu vượt qua tỷ lệ này nữa thì phải được sự chấp thuận bằng văn bản của thống đốc CTTC nhà nước) Nhưng lãi suất cho vay và huy động của CTTC do TGĐ TCT quyết định theo uỷ quyền của hội đồng quản trị dựa trên khung lãi suất do Thống đốc. *) Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác. Nhận ủy thác là việc Công ty Tài chính sử dụng vốn ủy thác để cho vay hoặc đầu tư vào các dự án, công trình trên cơ sở hợp đồng ủy thác giữa bên uỷ thác và Công ty Tài chính. *) Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp. CTTC cho vay đối với người tiêu dùng để mua hàng trả góp hàng hóa lâu bền như xe máy, nhà cửa… Phương thức cho vay có thể là cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. CTTC có thể tài trợ một phần hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi ro cao, nhiều khoản cho vay có thời gian dài như mua nhà trả góp, vì vậy CTTC thường yêu cầu cho vay với lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nhân thọ. Ở các nước phát triển, cho vay tiêu dùng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu tín dụng CTTC. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ cho CTTC để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức chiết khấu; CTTC có thể chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. Tái chiết khấu là việc CTTC thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán thuộc sở hữu của các Tổ chức tài chính khác. Các giấy tờ có giá này đã được các CTTC chiết khấu, tái chiết khấu trên thị trường thứ cấp. Bảo lãnh Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của CTTC Nhà nước. CTTC cam kết sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi nếu người được bảo lãnh không thực hiện đúng và đủ những cam kết đối với bên yêu cầu bảo lãnh. CTTC thực hiện bảo lãnh cho khách hàng dưới các hình thức: bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và một số hình thức bảo lãnh khác. Đồng tài trợ dự án đầu tư: CTTC đứng ra làm đầu mối kêu gọi các tổ chức tín dụng khác cùng cho vay một dự án. Điều này là do CTTC thiếu vốn, hoặc có thể hạn mức cho vay đối với doanh nghiệp đã hết. Và đây thường là những dự án lớn, thời gian dài và lãi suất cao. Thu xếp vốn đầu tư: CTTC sẽ thay mặt bên vay tìm kiếm nguồn vốn cho dự án; Soạn thảo, đàm phán các điều kiện của Hợp đồng vay vốn; Hỗ trợ bên vay và các thành viên đồng tài trợ, giải ngân, thu nợ, thu lãi, giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến Hợp đồng tín dụng Các hình thức cấp tín dụng khác Công ty Tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của CTTC Nhà nước. 3) Đầu tư Bên cạnh hoạt động cho vay, CTTC còn sử dụng vốn để đầu tư. Đây là nghiệp vụ quan trọng quyết định phần lớn lợi nhuận của công ty tài chính thu được trong hoạt động kinh doanh Kinh doanh cổ phiếu và Chứng từ có giá: mua tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ; mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và các lọai chứng khoán khác trên thị trường chứng khoán bằng việc tiếp cận với các đơn vị đang chuẩn bị cổ phần hoá, các đơn vị đã cổ phần hoá và sẽ phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ…. Cổ phần bán ra của các đơn vị sẽ được CTTC nghiên cứu đầu tư. Cũng như các loại CTCG trên thị trường thường rất đa dạng, các CTTC tìm kiếm thông tin và mua của các tổ chức phát hành đáng tin cậy. Góp vốn mua cổ phần của các tổ chức kinh tế hưởng thu nhập hàng năm. Do tính không chắc chắn, về khả năng hoàn trả và lợi tức cũng như tính lỏng kém của nó nên loại chứng khoán này ít được các CTTC quan tâm. Các CTTC lớn có thể tham gia vào việc thành lập doanh nghiệp, hợp tác thành lập doanh nghiệp. Việc tham dự vốn vào các doanh nghiệp sẽ giúp cho CTTC nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và qua đó thực hiện các nghiệp vụ tín dụng an toàn. Thông qua CTTC, vốn của công ty mẹ (vốn chủ sở hữu và vốn huy động) đựơc đầu tư vào các công ty con theo chiến lược của công ty mẹ đồng thời cũng căn cứ vào qui mô hoạt động của từng công ty con thông qua CTTC. Các công ty con có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn cũng như chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn từ CTTC lẫn vốn huy động đuợc từ bên ngoài.   Hiện nay, các công cụ đầu tư trên thị trường tài chính ngày càng đa dạng, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế, trong điều kiện thị trường tài chính phát triển như vậy, hoạt động đầu tư của các CTTC cũng trở nên ngày càng đa dạng hơn. Tỷ trọng sử dụng vốn đầu tư trong tổng tài sản có ngày càng tăng. Đầu tư ngắn hạn Hoạt động đầu tư ngắn hạn của CTTC chủ yếu là việc nắm giữ các giấy tờ có giá ngắn hạn, thông thường có thời hạn dưới 12 tháng, bao gồm: Tín phiếu kho bạc, thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác. Việc nắm giữ các giấy tờ có giá ngắn hạn cũng làm tăng tính lỏng của tài sản có, khi có nhu cầu, các CTTC có thể dễ dàng mua – bán các giấy tờ này trên thị trường tiền tệ thứ cấp. Tại các nước có thị trường tài chính tiền tệ và phát triển, tỷ trọng sử dụng vốn đầu tư vào các giấy tờ có giá ngắn hạn, đặc biệt là tín phiếu kho bạc chiếm một tỷ lệ đáng kể bởi đây là loại hàng hoá có tính lỏng cao, tạo điều kiện cho các CTTC linh hoạt trong việc sử dụng vốn khả dụng. Đầu tư trung và dài hạn Đầu tư trung và dài hạn của các CTTC là các hoạt động đầu tư có thời hạn trên 1 năm, bao gồm: Đầu tư vào các loại chứng khoán dài hạn như trái phiếu chính phủ, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và các loại chứng khoán khác trên thị trường chứng khoán cả trong nước và quốc tế; góp vốn, mua cổ phẩn của các tổ chức kinh tế, góp vốn đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp… Trong các loại giấy tờ có giá dài hạn, trái phiếu chính phủ là loại hàng hoá có độ rủi ro thấp, tạo điều kiện cho CTTC giảm thiểu rủi ro khi nắm giữ nó. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu và đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp cũng giúp cho các CTTC thâm nhập vào hoạt động của doanh nghiệp, nắm được thông tin của khách hàng, mở rộng màng lưới khách hàng… qua đó, nâng cao hiệu quả, hoạt động kinh doanh tiền tệ. 4) Các dịch vụ khác: CTTC thay mặt khách hàng thực hiện việc thanh toán hay các ủy thác khác để thu lệ phí: Hoạt động mua bán ngoại tệ/kinh doanh vàng: đây là hoạt động mua hoặc bán loại ngoại tệ hoặc vàng để lấy một loại ngoại tệ/vàng khác và hưởng phí dịch vụ. Ngày nay, cùng với sự phát triển các công cụ tài chính, hoạt động mua bán ngoại tệ, mua bán vàng ngày càng sôi động hơn bằng các công cụ như quyền chọn, swap,… Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp. Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, CTTC, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng. Cung ứng các dịch vụ tư vấn về CTTC, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng. Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, đặc biệt là trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt giữa CTTC, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm…. các CTTC không ngừng áp dụng những tiến bộ, thành tựu khoa học công nghệ, kết hợp với uy tín kinh doanh mình làm cho hoạt động này ngày càng được thay đổi về chất. Hoạt động huy động vốn của CTTC Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo vốn từ việc nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân, từ các hoạt động thanh toán, uỷ thác hoặc từ việc phát hành các chứng từ có giá để phục vụ cho các hoạt động cho vay, đầu tư của CTTC. Vốn là năng lực chủ yếu đối với CTTC, nó quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động của nó. CTTC có nguồn vốn kinh doanh lớn cho phép mở rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, quyết định khả năng thanh toán chi trả của CTTC. Nếu có nguồn vốn lớn, năng lực thanh toán tốt thì giúp cho các CTTC giảm thiểu rủi ro, sẽ gây được uy tín trên thị trường. Vốn của CTTC còn là một nhân tố tác động đến sự thắng lợi trong cạnh tranh, tạo cho CTTC có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. CTTC có khả năng vốn dồi dào cho phép điều chỉnh phí bình quân đầu vào và chủ động trong việc hợp tác đầu tư, thu xếp vốn kinh doanh, đây thực sự là một lợi thế cạnh tranh. Mặt khác, hoạt động của CTTC khi có nguồn vốn lớn và dồi dào sẽ có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình ._.thức kinh doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô hoạt động tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và chủ động trong việc đầu tư, hợp tác đầu tư, thu xếp vốn kinh doanh, đây thực sự là một lợi thế cạnh tranh. Vốn của CTTC là nhận tiền gửi của TCT, các doanh nghiệp thành viên của TCT, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật mà TCT kinh doanh và công nhân viên trong TCT Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn phong phú, đa dạng đòi hỏi các CTTC phải đa dạng hoá được các nguồn vốn nghĩa là có một tỷ trọng vốn trung và dài hạn thích hợp để thực hiện chức năng của một tổ chức tài chính, khi thực hiện tốt chức năng đó, CTTC sẽ luôn giữ được lợi thế trong cạnh tranh, uy tín của tổ chức sẽ không ngừng được nâng cao.Vốn nói chung của CTTC bao gồm: Vốn chủ sở hữu và Vốn nợ. Huy động vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu gồm có vốn hình thành ban đầu, vốn điều lệ và vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh. Vốn chủ sở hữu là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, của các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc nộp lên... Như vậy vốn điều lệ là vốn ghi trên giấy phép đăng ký kinh doanh còn vốn chủ sở hữu là số vốn thực của chủ doanh nghiệp. Khi vốn chủ sở hữu lớn hơn vốn điều lệ thì tùy theo loại hình doanh nghiệp mà có ý nghĩa khác nhau. Vốn chủ sở hữu của CTTC là vốn thuộc sở hữu của CTTC. Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của công ty. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn chủ sở hữu mà CTTC có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như: mua sắm máy móc trang thiết bị... phục vụ cho bản thân CTTC, cho vay, đầu tư và tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn chủ sở hữu được coi là tài sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp gặp thua lỗ. Vốn chủ sở hữu của CTTC bao gồm: *) Vốn hình thành ban đầu: gồm có vốn pháp định và vốn điều lệ. Vốn pháp định: Vốn pháp định của Công ty Tài chính được Chính phủ quy định. Việc thay đổi mức vốn pháp định của Công ty Tài chính do Chính phủ quyết định. Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3 tháng 10 năm 1998 của Chính phủ về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các Tổ chức tín dụng, cụ thể như sau: Vốn pháp định của Công ty tài chính Nhà nước, Công ty tài chính cổ phần, Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng là 50 tỷ VND; Vốn pháp định của Công ty tài chính liên doanh, Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD. Vốn điều lệ: Vốn điều lệ của Công ty tài chính được đóng góp dưới những hình thức sau: Bằng tiền: Đối với Công ty tài chính thuộc Tổng công ty Nhà nước, Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng và Công ty tài chính cổ phần, vốn điều lệ được góp bằng Đồng Việt Nam; Đối với Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, vốn điều lệ được góp bằng Đôla Mỹ; Đối với Công ty tài chính liên doanh: bên nước ngoài góp vốn điều lệ bằng Đôla Mỹ, Bên Việt Nam góp vốn điều lệ bằng Đôla Mỹ hoặc bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp góp bằng Đồng Việt Nam, số tiền góp vốn điều lệ phải được quy đổi ra Đôla Mỹ theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên CTTC giữa Đồng Việt Nam với Đôla Mỹ do CTTC Nhà nước công bố tại thời điểm góp vốn. Bằng hiện vật: Vốn điều lệ được góp bằng hiện vật phải là tài sản có giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu và là tài sản cần thiết phục vụ trực tiếp cho hoạt động của Công ty tài chính. Việc định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn được thực hiện theo quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam. *) Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, CTTC gia tăng vốn chủ sở hữu từ nguồn lợi nhuận, từ phát hành cổ phần, góp thêm, cấp thêm hoặc từ các khoản vay trung và dài hạn có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần. Nói chung vốn bổ sung này không thường xuyên, phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của CTTC hoặc vào từng điều kiện cấp thiết. Huy động nợ Các CTTC với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính trung gian, huy động vốn từ các nguồn sau: *) Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của CTTC Nhà nước. Các CTTC nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân, tuy nhiên khác biệt giữa nghiệp vụ tiền gửi của các CTTC với ngân hàng là kỳ hạn tiền gửi từ một năm trở lên. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Căn cứ vào mục đích của tiền gửi, có thể phân loại thành ba loại tiền gửi sau: *) Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán nhưng bù lại được hưởng lãi suất cao. Tiền gửi có kỳ hạn về nguyên tắc được rút ra khỏi khi hết hạn hợp đồng, nhưng trên thực tế để cạnh tranh, các CTTC thường chấp nhận việc khách hàng có nhu cầu rút tiền trước kỳ hạn qui định (Kỳ hạn thấp nhất là 1 năm) bằng cách cho hưởng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn như ngân hàng. Tiền gửi này có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh, chính vì vậy các CTTC luôn đa dạng hoá tiền gửi này bằng cách áp dụng mức lãi suất linh hoạt cùng với nhiều chính sách khách hàng để thu hút tối đa nguồn vốn này. *) Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Là nguồn vốn mà CTTC huy động tạm thời tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Về bản chất đây là thu nhập cá nhân, người lao động do chưa có nhu cầu sử dụng ngay cho tiêu dùng. Họ gửi tiền vào CTTC với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và tạo thêm thu nhập từ số tiền đó. *) Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành. Đây là việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn tạo tính hấp dẫn cho sản phẩm huy động vốn của các CTTC nhằm cạnh tranh với CTTC thương mại. Thông thường đây là những khoản vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn. *) Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Đây là vốn được hình thành trên quan hệ vay mượn giữa CTTC thương mại với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này thường được sử dụng khi CTTC đã sử dụng hết lượng vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động kinh doanh (hay thiếu vốn khả dụng). *) Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Chính phủ, các tổ chức và cá nhân có vốn nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định tiến hành uỷ thác cho CTTC quản lý số tiền của mình với lãi suất và kỳ hạn cụ thể được quy định chi tiết trong thoả thuận chuyển vốn do hai bên ký. Trong trường hợp này, nếu các tổ chức và cá nhân có nhu cầu rút vốn trước hạn thì lãi suất khách hàng được hưởng sẽ là lãi suất trả trước hạn được thống nhất trong thoả thuận chuyển vốn uỷ thác Chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động huy động vốn. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ hoạt động trong cơ chế thị trường, hoạt động của nó thực sự nhạy cảm. Cho dù một CTTC, hoặc một TCT tài chính nào dù là rất lớn, vững chắc nhưng bất kỳ một chấn động kinh tế, chính trị, xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động huy động vốn nói riêng. Vậy trên phương diện nghiên cứu về đề tài này, để nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động huy động vốn, đánh giá nó một cách xác thực cần dựa trên các chỉ tiêu sau: Chi phí vốn hợp lý. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động. Đảm bảo an toàn vốn huy động. Chi phí huy động vốn hợp lý Một CTTC có hai lĩnh vực kinh doanh nòng cốt: huy động vốn và lựa chọn tài sản, dự án sinh lời để đầu tư, hợp tác đầu tư, cho vay và làm các dịch vụ khác từ các nguồn vốn huy động được. Các CTTC luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ các lĩnh vực này. Do đó, phương pháp xác định chi phí huy động vốn rất hữu ích cho Công ty để xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu quả. Từ phương pháp xác định được chi phí vốn, quyết định đến việc tính toán hiệu quả của hoạt động huy động vốn vì nó quyết định đến phương thức sử dụng vốn và lợi nhuận kinh doanh của công ty. Quản lý chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của mỗi CTTC vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hay lãi suất đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập ròng của CTTC. Có hai lý do chủ yếu mà CTTC quan tâm khi xác định chi phí huy động vốn: Tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà CTTC cần thu được từ các tài sản có sinh lời. Loại hình nguồn vốn mà CTTC huy động được và việc sử dụng nguồn vốn này ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Có 3 phương pháp được các CTTC áp dụng phổ biến là: chi phí trung bình theo nguyên giá; chi phí biên của từng nguồn vốn huy động và chi phí bình quân gia quyền dự kiến cho tất cả nguồn vốn. Trong phạm vi luận văn này ta đề cập tới hai loại là Chi phí trung bình theo nguyên giá và chi phí biên của từng nguồn vốn huy động. Mỗi phương pháp có một ý nghĩa tuỳ theo mục đích sử dụng của con số chi phí huy động vốn tính toán được, chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến từng phương pháp tính. Phương pháp Chi phí bình quân gia quyền theo phương pháp nguyên giá (Historical average cost method) là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất. Phương pháp này chú trọng vào cơ cấu hỗn hợp các nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động được trong quá khứ và xem xét cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đã áp đặt CTTC phải trả cho mỗi nguồn vốn đi vay. Tích số của lãi suất phải trả và tổng mức vốn đi vay được sử dụng trong quá khứ tạo thành chi phí nguồn vốn bình quân gia quyền. Nó được tính toán theo công thức lấy chi phí trả lãi chia cho tổng số vốn đi vay và tiền gửi. Công thức1 - Công thức tính chi phí trả lãi bình quân gia quyền Tổng chi trả lãi Tổng số vốn đi vay và trả lãi Chi phí trả lãi bình quân gia quyền = ------------------------- Ví dụ: Giả sử một CTTC có số dư cuối kỳ trên sổ sách như sau: tổng chi phí trả lãi là 11,36 triệu, tổng nguồn vốn là 225 triệu. Chi phí lãi phải trả bình quân gia quyền của ngân hàng trên sẽ là: Chi phí lãi bình quân = (Tổng chi phí lãi) / (Tổng nguồn vốn vay) = 11,36 / 225 triệu = 5,05% Trong trường hợp này CTTC cần phải kiếm cho được tỷ suất sinh lợi từ các khoản cho vay và đầu tư ít nhất là 5,05% thì mới đủ bù đắp chi phí lãi phải trả cho nguồn vốn huy động. Phương pháp này có ích khi sử dụng để đánh giá tình hình huy động vốn trong quá khứ, nhưng nó có các nhược điểm sau: Một vài loại hình nguồn vốn được đem đầu tư vào các tài sản có không sinh lời như dự trữ bắt buộc, tài sản cố định, dự trữ thanh toán, đóng phí bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa mỗi loại nguồn vốn và qui mô hoạt động của mỗi ngân hàng lại có mức dự trữ bắt buộc và yêu cầu dự trữ thanh khoản rất khác nhau. Trong trường hợp này do tỷ suất lợi nhuận không thu được lại thay đổi tuỳ theo loại hình nguồn vốn khác nhau nên cần phải có những điều chỉnh về chi phí và lợi nhuận cần thu được để bù đắp chi trả lãi vay. Nó không bao gồm các chi phí liên quan đến huy động vốn như quảng cáo, chi phí khuyến mãi….Mặt khác, phương pháp này thiếu độ tin cậy nếu muốn sử dụng để làm cơ sở quyết định sẽ lựa chọn huy động loại hình vốn nào hoặc sẽ định giá tài sản có ra sao trong giai đoạn lãi suất biến động mạnh. Đối với hai nhược điểm đầu có thể khắc phục bằng cách sử dụng tài sản sinh lợi làm cơ sở tính toán chi phí, tức là so sánh chi phí lãi và phi lãi trong huy động vốn với lượng tài sản sinh lợi thuần theo công thức sau: Công thức 2: Công thức tính phí trả lãi bình quân gia quyền Chi phí trả lãi Tài sản có sinh lời Chi phí trả lãi bình quân gia quyền = ------------------------- Khi chia cho tài sản có sinh lời tức là đã loại trừ phần nguồn vốn đã đầu tư vào tài sản không lời. (Chi phí trả lãi+ Chi phí liên quan huy động vốn) Tài sản có sinh lời Chi phí trả lãi bình quân gia quyền = ----------------------------------------------------------- Công thức 3: Công thức tính chênh lệch lãi suất Chênh lệch lãi suất = Lãi cho vay bình quân – Chi phí vốn Chênh lệch lãi suất là phần quan trọng nhất và chủ yếu tạo nên lợi nhuận của CTTC. Chi phí huy động vốn biên Chi phí trả lãi tăng thêm Phương pháp chi phí bình quân tuy có ưu điểm là đơn giản nhưng chỉ nhìn về quá khứ để xem xét chi phí và tỷ suất lợi nhuận tối thiểu đã thực hiện của CTTC. Trong khi đó, chúng ta cần phải hướng về tương lai với những quyết định của hôm nay và ngày mai. Phương pháp chi phí huy động vốn biên nhằm khắc phục nhược điểm của phương pháp chi trả lãi bình quân gia quyền dựa trên nguyên giá. Chi phí biên là chi phí bỏ ra để có thêm một đồng vốn huy động. Căn cứ vào chi phí biên, CTTC xác định mức lợi nhuận tối thiểu cần đạt được từ những tài sản có thêm từ các nguồn vốn này. Chi phí trả lãi tăng thêm Tổng số vốn huy động tăng thêm Chi phí trả lãi bình quân gia quyền = --------------------------------------------------- Công thức chi phí huy động vốn biên trên đây áp dụng trong trường hợp chi phí huy động của một loại nguồn vốn. Chi phí biên này được sử dụng khi CTTC quyết định nên huy động từ một loại nguồn vốn nào. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao. Vốn huy động của CTTC phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của CTTC. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn định về mặt thời gian. Nếu CTTC huy động được một lượng vốn lớn lớn nhưng lại không ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn, hiệu quả huy động vốn không cao, thường xuyên phải đối đầu với vấn đề thanh khoản. Kết quả, trong nhiều trường hợp CTTC sẽ gặp phải rủi ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu nguồn vốn huy động được ổn định, dù nhỏ nó cũng có thể yên tâm sử dụng số tiền đó vào các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao. Chỉ tiêu này được đánh giá qua: tốc độ tăng trưởng vốn huy động, tốc độ tăng trưởng vốn huy động theo kỳ hạn, theo loại tiền và theo đối tượng khách hàng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động. Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu ấy. Để đạt được mục tiêu này, CTTC phải có cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn theo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, theo tiền gửi dân cư và tiền gửi các tổ chức kinh tế khác. Cơ cấu vốn hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sửdụng vốn, không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn. Các chỉ tiêu sử dụng khi phân tích cơ cấu vốn và khả năng đáp ứng của vốn huy động gồm: Số dư cho vay và đầu tư Số dư vốn huy động Hệ số sử dụng vốn = --------------------------------- Chỉ tiêu này cho biết khả năng đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư của vốn huy động, qua đó cho biết khả năng cung ứng vốn của CTTC cho nền kinh tế. Đảm bảo an toàn vốn huy động. Một CTTC có khối lượng vốn lớn, tăng trưởng không ngừng, đảm bảo đáp ứng các nhu cầu của đối tác đầu tư và của khách hàng ở các phương diện khác nhau, đặc biệt là các đối tác và khách hàng lớn, dự án lớn. Khi một CTTC có khả năng như vậy thì khả năng thanh khoản rất cao, rất đáng tin cậy khi hoạt động trên thị trường tài chính, bởi vì rất nhiều công ty và cả NHTM có những lúc đã rơi vào tình cảnh khó khăn, mất cân đối vốn cho hoạt động nghiệm trọng mà ta đã thấy thời gian sau tháng 2 năm 2008. Vốn huy động được sử dụng cho vay và đầu tư, tuy nhiên đây là những hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động sử dụng vốn không hiệu quả, tạo nợ quá hạn, nợ xấu, gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của CTTC, làm giảm hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Chính vì lý do đó, đảm bảo an toàn vốn huy động là một tiêu chuẩn đo lường hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Xét trên khía cạnh đảm bảo an toàn nguồn vốn, trước hết là nằm ở bản thân con người điều hành tổ chức tài chính mà cụ thể bằng việc tổ chức quản lý công ty hoạt động hiệu quả, bằng việc chấp hành đầy đủ những chỉ tiêu về an toàn vốn như: Hệ số an toàn vốn chủ sở hữu so với tổng tiền gửi, Hệ số giữa vốn chủ sở hữu và các nguồn dài hạn, Hệ số thanh toán, kiểm tra kiểm soát nội bộ tốt, quản lý dòng tiền tốt…. Việc có áp dụng triệt để những chỉ tiêu trên hay không là còn tuỳ thuộc vào quy định của CTTC nhà nước, vào chiến lược kinh doanh, vào đặc điểm riêng của từng CTTC trong những điều kiện cụ thể nhất định. Tuy nhiên, nếu mỗi CTTC áp dụng được thì nó không chỉ đảm bảo an toàn cho bản thân CTTC mà còn củng cố sự vững chắc chung cho toàn hệ thống. Trong cơ chế thị truờng phát triển theo cạnh tranh, hoạt động của Công ty có thể nói là rất nhạy cảm đối với nền kinh tế, đặc biệt là công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tê. Một CTTC cho dù rất lớn, rất vững chắc nhưng bất kỳ một chấn động kinh tế, chính trị, xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng và đòi hỏi CTTC phải có những điều chỉnh về cơ cấu. Bởi vậy, CTTC sẽ không chỉ đánh giá đúng đắn hoạt động mà sẽ điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả, tính thích nghi và khẳng định sự nhạy cảm đối với thị trường. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động huy động vốn Trong cơ chế thị trường mọi hoạt động đều tuân thủ một nguyên tắc nhất định, các công ty bắt buộc phải tuân thủ luật chơi, đúng nguyên tắc. Các CTTC cũng không nằm ngoài qui luật đó và phải chịu rất nhiều tác động ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tăng cường huy động vốn. Chung ta chia ra làm hai nhân tố: nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của CTTC. Đối vối nhóm nhân tố này CTTC cần thích ứng một cách tốt nhất. nó bao gồm có chính trị văn hóa, pháp luật, môi trường kinh tế và công nghệ. Nhân tố chủ quan bao gồm các nhân tố bên trong nằm trong sự kiểm soát của CTTC, chiến lược với nhóm nhân tố này là xác định và phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu. nhóm nhân tố này bao gồm giá cho dịch vụ của nhân hàng, con người, chi nhánh, dịch vụ và quy trình. Đầu tiên ta xét nhân tố chủ quan như sau: 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1) Lãi suất huy động Theo tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng nghiên cứu kinh tế, Viện phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, thì: “Một trong những biện pháp giảm lạm phát chính là tăng lãi suất VND, nhưng trong năm 2007, cả hệ thống ngân hàng thương mại gần như đứng im, đã nảy sinh lãi suất thực âm. Hiện nay, dưới sức ép của chính phủ, của dư luận, các ngân hàng đã tăng lãi suất huy động vốn VND. Đây là giải pháp bình thường để kiềm chế lạm phát, mặc dù nó có thể khiến lượng cho vay giảm, lãi của các ngân hàng giảm và các doanh nghiệp đi vay vốn cũng khó khăn hơn”. Không lạc quan như vậy, việc các Tổ chức tài chính tăng lãi suất huy động VND có thể tăng lượng khách hàng, nhưng lại đang ẩn chứa nguy cơ đẩy tổ chức này vào thế cạnh tranh với các ngân hàng lớn, có tiềm lực tài chính mạnh mẽ hơn. Khi lãi suất tiền huy động tiền đồng tăng cao, đương nhiên các doanh nghiệp đi vay vốn phải chịu lãi suất cao hơn nữa để bù vào cho ngân hàng hoặc công ty tài chính. Chi phí sản xuất sẽ tăng, huy động vốn đầu vào tăng thì đầu ra cũng sẽ tăng cao. Về dài hạn, việc các ngân hàng và các CTTC chạy đua tăng lãi suất thời gian qua sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong năm nay. Việc tăng lãi suất lần này không nằm ngoài mục tiêu thực hiện tăng tính hấp dẫn để đạt yêu cầu huy động vốn cho cả năm mà các Tổ chức tài chính đã đặt ra với mức tăng khá cao so với năm ngoái. Thực ra, dấu hiệu khởi động tăng lãi suất của nhiều Tổ chức tài chính đã xuất hiện từ đầu tháng 3 với một số Tổ chức tài chính tăng lãi suất huy động USD. Có nhiều lý do khiến lãi suất tăng, tuy nhiên, lý do được nhiều người nhắc đến trong thời điểm này là các TCTC đang gặp phải không ít khó khăn trong huy động tiết kiệm do một phần lớn trong dân đang được đổ sang chứng khoán. Thậm chí, đã xuất hiện tình trạng người dân rút tiền tiết kiệm đổ sang chứng khoán. Vì vậy, để thực hiện cơ chế lãi suất huy động hợp lý tức là vừa thu hút được vốn, vừa đảm bảo sức cạnh tranh thì các TCTC phải thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên thị trường và ngay trên địa bàn hoạt động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường và đặc điểm riêng của mỗi TCTC. Bên cạnh đó CTTC cũng cần quan tâm đến lãi suất kho bạc, bởi vì trên thực tế Kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các TCTC 2) Hình thức huy động Xuất phát từ đặc tính gửi tiền hoặc đặc tính từ phía tổ chức, cá nhân gửi tiền vào cho các Tổ chức tài chính, các CTTC phải nắm bắt các nhu cầu đó, nhằm phân tích đặc tính khách hàng, đưa ra những đặc tỉnh sản phẩm nhằm mục đích đa dạng loại hình, tăng việc cạnh tranh của mình. Các cá nhân hoặc tổ chức gửi tiền với nhiều hoàn cảnh và mục đích khác nhau, có người vì mục đích bảo đảm an toàn, có người gửi chủ yếu để lấy lãi tiêu dùng hàng tháng, có người gửi tiền vào Ngân hàng để đồng vốn ngày càng được sinh sôi nảy nở. Khi có nhiều hình thức huy động sẽ tạo nhiều cơ hội cho khách hàng lựa chọn các hình thức phù hợp với đặc tính, loại tiền đáp ứng những yêu cầu khắt khe, thoả mãn được mong muốn của họ. Mỗi khách hàng đều tìm cho mình cách phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng, bảo đảm có hiệu quả nhất với nguồn vốn của mình. Điều này đồng nghĩa với số lượng người gửi tăng lên và số tiền được gửi vào CTTC cũng tăng theo tỷ lệ thuận, kéo theo sự giảm xuống của chi phí huy động vốn. 3) Mạng lưới Cơn sốt chứng khoán đang tạo ra sự luân chuyển vốn rất lớn trên thị trường tài chính, trong đó một phần vốn gửi tiết kiệm ngân hàng và các công ty tài chính của dân cư đang được rút ra để đầu tư vào chứng khoán khiến việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các Thành phố lớn. Công tác huy động vốn của không ít CTTC đang trông chờ vào mạng lưới chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong tình hình khó khăn của nền kinh tế và của thị trường tài chính, các ngân hàng và CTTC đã tận dụng các mối quan hệ, mở rộng quan hệ khách hàng, màng lưới thu tiền gửi tại nhà, hoặc tự nhân viên phải khai thác theo doanh số, các nhân viên này chịu sức ép của việc gửi tiền của khách hàng là rất lớn. 4) Họat động Marketing Hoạt động khuyếch trương hết sức quan trọng trong tiến trình huy động vốn đã được các công ty tài chính và ngân hàng sử dụng trong thời gian vừa qua một cách hiệu quả. Nhiệm vụ hoạt động khuyếch trương, tuyên truyền quảng bá là giúp Công ty và khách hàng tăng thêm mối quan hệ về thông tin các hình thức huy động vốn, loại hình huy động vốn. Hoạt động khuyếch trương, quảng bá gắn liền với hoạt động khảo sát nhu cầu của thị trường tại những khu vực địa lý khác nhau sẽ có chính sách khách hàng khác nhau. Khi hoạt động Marketing phát triển, hình ảnh và thương hiệu của CTTC sẽ được nâng lên, tạo sự khác biệt với các đối thủ trên thị trường, nâng cao tính cạnh tranh, đưa đến sự tin tưởng, tâm lý an toàn cho khách hàng. Chính việc làm thương hiệu đúng sẽ nâng cao vị thế hoạt động, sự chuyên nghiệp của Tổ chức trên thị trường, góp phần nâng cao các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức cũng như nâng cao hiệu quả việc huy động vốn. 5) Nhân lực Trong giai đoạn hiện nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính vừa thừa lại vừa thiếu. Theo điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại 63.000 doanh nghiệp ở 36 tỉnh thành phố trên cả nước, có tới 1/3 lãnh đạo các doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới đại học. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể tham gia quản lý tại nước ta cũng mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Đây là lý do tại sao Việt Nam có lợi thế là lực lượng lao động trẻ, chi phí lương thấp, nhưng nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam vẫn phải thuê nhân viên đến từ các nước lân cận như Trung Quốc, Philippine, Singapore... Hoạt động ở môi trường tài chính, nguồn nhân lực cũng ở mức cao do đối tượng khách hàng tiếp xúc. Việc tuyển chọn được nhân lực ưng ý trong lĩnh vực này hết sức khó khăn. Người tuyển chọn phải có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, giỏi chuyên môn để phục vụ khách hàng tốt nhất, tiếp cận với các phương thức kinh doanh hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế. Hình ảnh của cán bộ giao dịch góp phần gây dựng hình ảnh của CTTC trong tâm trí khách hàng. Hoạt động Tài chính hiện nay đòi hỏi các cán bộ ngoài trình độ chuyên môn giỏi phải có sự nhạy bén và khả năng phán đoán cao, óc sáng tạo trong công việc có như vậy mới đưa hoạt động Công ty cạnh tranh được với các công ty khác trong giai đoạn cạnh tranh ngày một gay gắt này 6) Công nghệ Chất lượng dịch vụ huy động vốn phụ thuộc vào các CTTC có đáp ứng được các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi công nghệ phải không ngừng cải tiến, hiện đại và nâng cấp để thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực trong các hoạt động của Công ty tài chính, nhất là trong công tác huy động vốn. Vì đối tượng khách hàng của CTTC họ đòi hỏi cao, họ cần thời gian, sự an toàn, uy tín và sự tôn trọng ở mức cao nhất. Để đầu tư dài hạn, nâng cao uy tín trên thị trường bằng tính chuyên nghiệp, chi phí đầu tư dài hạn sẽ thấp đi bằng việc phát triển công nghệ trong lĩnh vực này một cách bài bản và đồng bộ. Có tầm nhìn dài hạn sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí, đảm bảo tốt, thông suốt trong hoạt động kinh doanh. 7) Hiệu quả hoạt động sử dụng vốn Việc sử dụng vốn ảnh hưởng, chi phối việc huy động vốn. Khi sử dụng vốn một cách hiệu quả, mang lại nguồn lợi cao từ những đồng vốn đó là tác nhân khiến những khách hàng, cả tổ chức và cá nhân yên tâm vì đã hợp tác hoặc gửi tiền vào những công ty có uy tín, tiềm năng phát triển trong tương lai. Khi việc sử dụng vốn và huy động vốn song hành cùng mang lại hiệu quả chính là luồng chảy sinh ra lợi nhuận lớn. Cũng giống như ngân hàng, các CTTC huy động vốn để cho vay và lợi nhuận cũng từ sự chênh lệch mức vay và cho vay đó. Tuy nhiên, hoạt động của các CTTC là đầu tư tài chính rất mạnh, nguồn vốn đó họ trực tiếp đầu tư các dự án sinh lời lớn, mang lại nguồn thu nhập cho công ty. Một hoạt động nữa là Điều hòa dòng vốn, thu xếp vốn cho các dự án lớn có tiềm năng. Các công ty sẽ đứng trung gian trong việc thu xếp, huy động vốn từ các nguồn tiền khác nhau trong doanh nghiệp và dân cư. 8) Các nhân tố khác Ngoài các hoạt động chủ quan trên, hoạt động huy động vốn còn ảnh hưởng của các nhân tố khác trong nội bộ của công ty như Văn hóa doanh nghiệp, các quy tắc và quy định chăm sóc khách hàng. Đặc biệt hơn nữa là khâu quản lý, điều hành, định hướng của Ban lãnh đạo khi duyệt thiết kế của các chương trình huy động vốn và cách thức tiếp cận với nguồn vốn lớn, lãi suất thấp. Ngoài ra nhanh chóng xây dựng thương hiệu, xây dựng uy tín trên thị trường tiền tệ khi sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. 1.3.2. Nhân tố khách quan 1) Môi trường kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế mặt dù được duy trì ở mức cao trong nhiều năm nhưng thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích lũy trong dân cư tuy đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiền tiết kiệm. Yếu tố giá cả gia tăng mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt ta thấy trong đầu năm 2008, gây ra tâm lý e ngại gửi tiền VND vào hệ thống tài chính, dẫn đến việc người dân, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào các lĩnh vực khác như vàng, bất động sản, USD, chứng khoán… Việc huy động vốn trong nước bằng việc thực hiện cổ phần hóa theo chỉ đạo của Nhà nước còn chậm, thị trường chứng khoán còn ở trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ bé, chất lượng dịch vụ chưa cao, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. 2) Môi trường chính trị, pháp luật Môi trường chính trị, pháp luật ổn định gây tâm lý tin tưởng vào việc điều hành của Nhà nước, dẫn đến việc các nhà đầu tư, dân cư sẽ gửi tiền vào các ngân hàng và CTTC. Tuy nhiên về pháp luật có nhiều sửa đổi trong năm vừa qua nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật còn khá phức tạp với nhiều cấp độ khác nhau: Luật, Pháp lệnh, Nghị Định, Thông tư. Việc hướng dẫn tạo ra độ trễ khá lớn về mặt thời gian từ khi văn bản pháp luật đó có hiệu lực đến khi nó được áp dụng vào cuộc sống. 3) Môi trường kỹ thuật-công nghệ Tuy đã có những phát triển về công nghệ ứng dụng, các công ty tài chính và ngân hàng đã lựa chọn đúng hướng đầu tư công nghệ, nên có những cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng hoạt động rất hiệu quả. Nhưng nhìn chung, công nghệ vẫn tồn tại những khó khăn, vứng mắc làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của toàn nghiệp vụ, đưa uy tín của tổ chức xuống, đồng thời giảm việc tin tưởng của dân cư vào tổ chức đó. Những khó khăn như: sự phát triển chưa đồng đều về công nghệ, hiệu quả phần mềm chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý, xử lý chậm và quản trị dữ liệu không cao, không phù hợp với việc phát triển hiện nay làm ảnh hưởng đến việc huy động vốn. Bên cạnh đó là sự phát triển manh mún, thiếu đồng bộ và những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghệ được mời về làm tại công ty. 4) Môi trường cạnh tranh Việc cạnh tranh nguồn vốn giữa các CTTC, các ngân hàng diễn ra rất gay gắt và mạnh mẽ trong những năm qua. Các CTTC không chỉ đối mặt với các đối thủ như ngân hàng mà phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư vàng ….. cạnh tranh nhau bằng rất nhiều hình thức, tính chất tiếp thị ngày càng tinh vi hơn, quyết liệt hơn, với những biểu hiện rõ nét là các chính sách khách hàng, các phòng ban được thành lập liên quan đến việc tạo lập nguồn vốn, phát triển thị trường, mạng lưới hoạt động ngày mộ._. gia phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống tài chính phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong thời gian tới để các Tổ chức tài chính phát huy hơn nữa công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư thì các chính sách điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước cần phải tiếp tục được hoàn thiện và đổi mới, cụ thể như sau: Tiếp tục có biện pháp kiềm chế và đẩy lùi lạm phát Chính điều này nhằm ổn định giá trị của đồng nội tệ vì ổn định giá trị là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ bởi nếu lạm phát cao, đồng tiền bị mất giá sẽ khiến người dân chuyển qua giữ tài sản dưới dạng tích luỹ vàng, ngoại tệ…hơn nữa, khi đồng tiền bị mất giá để huy động được đồng vốn, ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để bù đắp trần trượt giá. lãi suất huy động vốn dẫn tới lãi suất cho vay cao gât khó khăn cho việc mở rộng tín dụng, kết quả làm cho các ngân hàng bị ứ đọng vốn. Trong thời gian vừa qua chúng ta chứng kiến hàng loạt ngân hàng, công ty tài chính đua nhau tăng lãi suất Các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất: ngày 10/04/2008, Lãi suất tăng cao các ngân hàng không mong đợi ngày 18/02/2008 . Vận hành hiệu quả công cụ tỷ giá hối đoái Để hạn chế sự biến động về tỷ giá, tạo sự an tâm cho người gửi tiền, cho các nhà đầu tư nước ngoài đang hoặc sẽ đầu tư vào trong nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các CTTC huy động được nguồn vốn ngoại tệ đang nằm trong dân, trong thời gian tới, chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện trên cơ sở tập chung vào các vấn đề sau: Không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối, đảm bảo luôn đi sâu, đi sát với tình hình thực tế. Trên cơ sở đó hoàn thiện, thống nhất, tập trung cơ chế quản lý, điều hành và can thiệp của NHNN. Triển khai có hiệu quả các quỹ ngoại tệ tập trung do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp đứng ra điều hành và quản lý với mục đích dự trữ một lượng ngoại tệ mạnh đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Nới rộng phạm vi kiểm soát để tỷ giá hình thành khách quan hơn, sát thực hơn với quan hệ cung –cầu về ngoại tệ trên thị trường vào thời điểm nhất định. Phát triển hiệu quả thị trường vốn. Hoạt động của thị trường này có tác động rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong đó có công tác huy động nguồn tiền gửi của các NHTM, CTTC. Mặt khác, sự phát triển của thị trường vốn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Khi đó với một thị trường chứng khoán phát triển sẽ xoá bỏ được hoàn toàn sự mâu thuẫn tồn tại lâu nay giữa nhu cầu vốn kinh doanh trung - dài hạn của các doanh nghiệp với sự thay đổi về hình thức đầu tư của các nhà đầu tư. Đồng thời góp phần huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi đang nằm rải rác trong dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp xúc được với những nguồn vốn có chi phí thấp, tính ổn định cao... Ở nước ta hiện nay, thị trường vốn còn kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, phần lớn lượng vốn đầu tư vẫn phải dựa vào việc khai thác từ thị trường tiền tệ (thị trường tài chính ngắn hạn)... Hơn nữa, thị trường chứng khoán mới trong giai đoạn đầu phát triển, các Nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán theo tâm lý số đông, hiểu biết về họat động thị trường chứng khoán còn mơ hồ. Chính vì vậy, việc phát triển thị trường đòi hỏi sự hợp tác kết hợp chặt chẽ của tất cả các ngành cùng đứng ra thực hiện theo sự chỉ đạo nhất quán của Chính Phủ nói chung và của Bộ Tài Chính nói riêng. NHNN ngoài việc kiểm soát mức độ an toàn trong chi trả của các CTTC còn phải kiểm soát thông qua các chỉ tiêu khác như dự trữ bắt buộc hoặc khe hở kỳ hạn để hạn chế rủi ro kỳ hạn nảy sinh. Ngoài ra, Bộ Tài chính, NHNN cần thực hiện: Xây dựng và thực hiện mối quan hệ mở rộng, đa phương, đa dạng giữa hệ thống CTTC trong nước với nước ngoài. Thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra nhằm chấn chỉnh, xử lý kịp thời và nghiêm trị những hành vi, biểu hiện sai trái làm thất thoát vốn của nhà nước, đưa hoạt động của các tổ chức tín dụng đi vào nề nếp không ngừng nâng cao uy tín của CTTC Trên đây là những giải pháp về Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam, các giải pháp dù ở phương diện nào cũng phải thực hiện hết sức đồng bộ và quyết liệt để phát huy được hiệu quả cao. Tuy nhiên, PVFC cần chủ động với những giải pháp trong nội bộ công ty mình nhằm chấn chỉnh, nâng cao nghiệp vụ trong chính nội bộ công ty mình để đảm bảo việc Huy động vốn có hiệu quả nhất KẾT LUẬN Luận văn này thực hiện trong thời điểm nền kinh tế gặp hết sức khó khăn về nhiều mặt trên toàn thế giới, Việt Nam đang đứng trong vòng xoáy của lạm pháp, và với xuất khẩu chiếm tới 60% tổng sản lượng GDP, nghĩa là một thị trường nội địa còn quá thấp, cho nên khi các nước bị suy trầm, kinh tế Việt Nam sẽ bị giao động nặng nhất. Mục tiêu trước mắt là giảm lạm pháp và khắc phục những dấu hiệu của sự suy thóa. Tuy vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước vẫn được đặt trọng tâm dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. PVFC xuất phát với những khó khăn lớn từ nền kinh tế, từ thị trường chứng khoán, từ kinh doanh bất động sản, đã không khỏi không ảnh ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam. Là một công ty tài chính đã làm tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi, góp phần đáp ứng phần nào nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thành công đó bước đầu khẳng định sự đúng đắn trong các chính sách chỉ đạo của Nhà nước, của Ban lãnh đạo PVFC trong tiến trình hội nhập và phát triển. Trong thời gian tới, để tiếp tục đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh và ngày càng gia tăng của các doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, ngoài những nỗ lực tìm tòi và phát triển các hình thức huy động mới có hiệu quả, PVFC cũng rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi để PVFC thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cung ứng vốn choi các doanh nghiệp phục vụ hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động phát triển kinh doanh của các công ty tại Việt Nam. Mặc dù đã có thời gian tìm hiểu nghiên cứu, song do năng lực và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên trong cuốn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế nhất định. Do vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo cùng toàn thể các đồng nghiệp tại PVFC để cuốn luận văn này có thể phát huy được hiệu quả thiết thực. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Davidcox (1997), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS Vũ Duy Hào, Đàm Viết Huệ (1998), Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê, Hà Nội. TS Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ -Trường Đại học Kinh tế Quốc dân TP Hồ Chí Minh, NXB Thống kê, Hà Nội. TS Lưu Thị Hương (1998), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Giáo dục, Hà Nội. Trần Bắc Hà (2006), Giải pháp Huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, Tạp chí Ngân hàng-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Hà (2005), Các Ngân hàng thương mại:Cạnh tranh huy động vốn, Diễn đàn chứng khoán Hoàng Kim (2001) Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội. Cao Bá Khoát (2008), Thời cơ lớn của các công ty tài chính, Tạp chí Nhà Quản lý, số 3/2008. PGS.TS Nguyễn Văn Nam; PGS, TS Vương Trọng Nghĩa (2002), Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính, Hà Nội. Hồng Quân (2008), Huy động vốn-Giải pháp hàng đầu, Báo Vĩnh phúc, Vĩnh phúc. TS Phan Thu Hà-TS Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, Hà Nội. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (2003), Sổ tay tín dụng, Quy trình nghiệp vụ huy động tiền gửi tại PVFC. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (2006), Báo cáo tình hình hoạt động của năm 2005, 2006 và triển khai nhiệm vụ năm 2007, 2008. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam, Báo cáo tài chính năm 2002, Báo cáo tài chính năm 2003, Báo cáo tài chính năm 2004, Báo cáo tài chính năm 2007, Báo cáo tài chính Quý III/2008. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (2005), Bảng lãi suất huy động bằng VNĐ của chi nhánh qua các năm 2003 – 2005. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (2004), Kế hoạch và chiến lược phát triển Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (2004), Quy chế tổ chức hoạt động. . Website điện tử như: www.pvfc.com.vn, www.congnghemoi.net; PHẦN MỞ ĐẦU Quá trình cải cách mạnh mẽ đang diễn ra ở Việt Nam và tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã và đang được đẩy mạnh góp phần làm gia tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, việc Việt Nam gia nhập WTO là thời điểm tốt để các định chế đầu tư tài chính tham gia khám phá thị trường tài chính Việt Nam. Quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và tăng cường năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập đang tạo ra cơ hội phát triển của ngành dịch vụ tài chính và cơ hội cho các định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp. Trong hoạt động của Công ty tài chính, nguồn vốn tự có chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, còn lại chủ yếu do huy động, vốn đi vay và vốn khác. Trong đó huy động vốn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vì vậy vấn đề huy động vốn là yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự phát triển và mở rộng kinh doanh, giúp tạo dựng nguồn vốn vững chắc, ổn định đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Công ty đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Xuất phát từ lý luận và những đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)” làm luận văn thạc sỹ của mình. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn của Công ty Tài chính. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính Khái niệm và đặc điểm của Công ty Tài chính (CTTC) Khái niệm Theo điều 2, Nghị định Chính phủ Số: 79/2002/NĐ-CP về “tổ chức và hoạt động của CTTC” Hà Nội , Ngày 04 tháng 10 năm 2002 có Định nghĩa CTTC “CTTC là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm”. Các loại hình và đặc điểm của CTTC: Công ty tài chính Nhà nước; Công ty tài chính cổ phần; Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng; Công ty tài chính liên doanh; Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài 1.1.2. Hoạt động cơ bản của CTTC:  1) Hoạt động huy động vốn  Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo vốn từ việc nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân, từ các hoạt động thanh toán, uỷ thác hoặc từ việc phát hành các chứng từ có giá để phục vụ cho các hoạt động cho vay, đầu tư của CTTC. 2) Hoạt động tín dụng Cho vay: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của CTTC Nhà nước; Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác; Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác Bảo lãnh; Đồng tài trợ dự án đầu tư; Thu xếp vốn đầu tư; Các hình thức cấp tín dụng khác 3) Đầu tư: Đầu tư ngắn hạn; Đầu tư trung và dài hạn 4) Các dịch vụ khác: Hoạt động huy động vốn của CTTC Vốn nói chung của CTTC bao gồm: Vốn chủ sở hữu và Vốn nợ. Huy động vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu gồm có vốn hình thành ban đầu (vốn pháp định và vốn điều lệ) và vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh. Huy động nợ Các CTTC với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính trung gian, huy động vốn từ các nguồn sau: Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của CTTC Nhà nước. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành. Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động huy động vốn. Trên phương diện nghiên cứu về đề tài này, để nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động huy động vốn, đánh giá nó một cách xác thực cần dựa trên các chỉ tiêu sau: Chi phí vốn hợp lý; Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao; Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động; Đảm bảo an toàn vốn huy động. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động huy động vốn 1.3.1. Nhân tố chủ quan Nhân tố chủ quan là nhân tố thuộc nội tại trong PVFC, đây là nhóm nhân tố cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến Huy động vốn, như sau:Lãi suất huy động; Hình thức huy động; Mạng lưới; Họat động Marketing; Nhân lực; Công nghệ; Hiệu quả hoạt động sử dụng vốn; Các nhân tố khác 1.3.2. Nhân tố khách quan Đây là nhóm nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô, nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố này đến tăng cường huy động vốn tại PVFC nhằm đưa ra được những kiến nghị phù hợp với các cơ quan quản lý nhà nước. Nhân tố khách quan bao gồm: Môi trường kinh tế; Môi trường chính trị, pháp luật; Môi trường kỹ thuật-công nghệ; Môi trường cạnh tranh. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI PVFC 2.1. Giới thiệu chung về PVFC 2.1.1. Khái quát Sau 8 năm thành lập và phát triển, PVFC đã thành lập 09 chi nhánh tại các tỉnh/thành phố lớn như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thanh Hóa,… có 13 phòng giao dịch và các đơn vị thành viên mới thành lập như: Công ty CP Đầu tư và Tư vấn TCDK VN, Công ty CP Truyền thông TCDK VN, Công ty Quản lý Quỹ TCDK; Công ty CP Bất động sản TCDK; 1) Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức bộ máy của PVFC đến thời điểm hiện nay là: Hội đồng Quản trị; Ban Kiểm soát ; Ban TGĐ và các phòng ban phân theo 2 khối là: Khối quản lý và khối kinh doanh. 2) Ngành nghề kinh doanh 3) Thị trường hoạt động của Công ty đã mở rộng khắp tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước và khu vực có hoạt đồng dầu khí như Hà Nội, Tp.HCM, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định, Thanh hóa… 4) Khách hàng và đối tác đa dạng bao gồm: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam: Tập đoàn và các đơn vị thành viên trong Tập đoàn là các khách hàng chủ yếu của Công ty; Các tổ chức tài chính ngân hàng: Ngoài các đơn vị trong Tập đoàn, PVFC đã mở rộng đối tác khách hàng ra các tổ chức kinh tế ngoài ngành. 2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh tại PVFC 1) Hoạt động huy động vốn Bảng 2.2. Hoạt động huy động vốn của PVFC Đơn vị: triệu đồng Huy động vốn 2002 2003 2004 2005 2006 3/2008 9/2008 Tiền gửi, tiền vay từ tổ chức tín dụng khác 185.319 769.368 1.510.386 2.630.160 4.644.646 6.963.201 6.268.149 Tiền gửi của khách hàng 31.665 139.036 140.520 109.476 296.333 130.168 276.043 Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư 467.325 803.900 2.142.606 3.609.347 6.506.054 19.791.792 25.879.792 Phát hành giấy tờ có giá - - - - 665.215 2.190.394 2.200.390 Nguồn: Báo cáo tài chính của PVFC 2) Hoạt động cho vay Hoạt động tín dụng của PVFC có sự tăng trưởng tốt. Cơ cấu cho vay của PVFC thay đổi theo từng năm, trong vòng 3 năm gần đây, việc cho vay tổ chức kinh tế, cá nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất. 3) Hoạt động đầu tư, hợp tác đầu tư và thu xếp vốn Từ ngày đầu thành lập, PVFC xác định hoạt động đầu tư, hợp tác đầu tư, thu xếp vốn là các sản phẩm, dịch vụ mũi nhọn đưa lại doanh số lớn cho công ty. Thu xếp vốn và tài trợ tài chính các dự án: Đầu tư tài chính: Phát huy lợi thế và năng lực đầu tư của PVFC trong những năm trước, sau cổ phần hóa PVFC tiếp tục đẩy mạnh lĩnh vực đầu tư tài chính, xây dựng và quản lý danh mục đầu tư với phương châm hoạt động "PVFC là một nhà đầu tư chiến lược" 4) Hoạt động khác Ngoài các hoạt động trên, PVFC còn thực hiện một số hoạt động như cung cấp các dịch vụ tài chính và tiền tệ, phát hành bảo lãnh bằng ngoại tệ, cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngoại hối cho khách hàng, cung cấp các dịch vụ ủy thác, quản lý tài sản bằng ngoại tệ. 2.2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại PVFC 2.2.1. Cơ cấu vốn huy động Cơ cấu vốn huy động thường xuyên của PVFC hiện nay gồm: Tiền gửi và vay từ các TCTD khác; Tiền gửi của khách hàng; Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư; Phát hành giấy tờ có giá. 1) Tiền gửi và tiền vay từ các tổ chức tín dụng khác: Tiền gửi và tiền vay từ các tổ chức tín dụng khác tăng nhanh qua các năm. Nếu như năm 2002, mới chỉ có tiền vay là 185.319 triệu đồng thì bắt đầu từ năm 2003 đã có thêm tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác và tiếp tục tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (năm 2003: 769.368 triệu đồng, năm 2004: 1.510.386 triệu đồng, năm 2005: 2.630.160 triệu đồng, năm 2006: 4.644.646 đồng, tháng 3/2008: 6.963.201 triệu đồng. 2) Tiền gửi của khách hàng: Tiền gửi của khách hàng (tổ chức và cá nhân) tăng trưởng không đều. Năm 2003, tiền gửi tăng gấp hơn 4 lần so với năm 2002, nhưng sau đó năm 2004 chỉ tăng nhẹ và năm 2005 thì giảm sút. Đến năm 2006 số tiền gửi đã tăng gần 3 lần so với năm 2005, năm 2007 có sự sút giảm. 3) Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư: Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư của PVFC không ngừng tăng lên qua các năm (năm 2002: 467.325 triệu đồng, năm 2003: 803.900 triệu đồng, năm 2004: 2.142.606 triệu đồng, năm 2005: 3.609.347 triệu đồng, năm 2006: 6.506.054 triệu đồng, đến tháng 3/2008: 19.791.792 triệu đồng, đến tháng 9/2008: 25.879.792 triệu đồng). 4) Phát hành giấy tờ có giá và quá trình cổ phần hóa: Trong năm 2006, PVFC đã phát hành trái phiếu dầu khí bằng VND và USD với thời hạn 3 năm (từ 19/6/2006 đến 19/6/2009) với lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng (+) 0,6%/năm đối với trái phiếu bằng VND và (+) 0,5%/năm đối với trái phiếu bằng USD. Tổ chức bảo lãnh phát hành là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Trong năm 2007, PVFC đã phát hành 1.500 tỷ VND trái phiếu Tài chính Dầu khí với thời hạn 5 năm với lãi suất cố định là 8,6%/năm. Ngoài ra, trong năm 2007, PVFC đã tiến hành cổ phần hóa với kết quả là đã bán đấu giá 59.638.900 cổ phần ra công chúng (chiếm 12% vốn điều lệ), xác định được cổ đông chiến lược là Morgan Stanley chiếm 10%. 2.2.2. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động Tốc độ tăng trưởng vốn huy động đều tăng qua các năm, trong đó năm 2003 ở mức cao nhất là 150,22%, sau đó tốc độ tăng năm sau so với năm trước có xu hướng giảm dần. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động có xu hướng giảm xuống phản ánh đúng thực trạng chung của hệ thống các tổ chức tín dụng hiện nay là tốc độ tăng trưởng vốn huy động giảm xuống do tác động của lạm phát, tâm lý và lòng tin của người dân vào hệ thống các tổ chức tín dụng bị giảm sút. Bảng 2.5. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của PVFC. Đơn vị: triệu đồng Huy động vốn 2002 2003 2004 2005 2006 3/2008 9/2008 Số vốn huy động 684.309 1.712.304 3.793.512 6.348.983 12.112.248 29.075.555 34.624.374 Tăng năm sau so với năm trước 150,22% 121,54% 67,36% 90,77% 40,1% 19,1% Nguồn: Báo cáo tài chính của PVFC và tính toán của tác giả. 2.2.3. Quy mô và thị phần vốn huy động của PVFC Sau 8 năm thành lập, PVFC đã tạo dựng được một thương hiệu có uy tín trên thị trường tài chính Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, vốn điều lệ của PVFC đã tăng mạnh, từ 100 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng, trở thành Công ty Tài chính Nhà nước có vốn điều lệ cao nhất. Hiện nay, thị trường hoạt động của PVFC được mở rộng tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước và khu vực có hoạt động dầu khí như Hà Nội, Tp. HCM, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định,… 2.3. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại PVFC 2.3.1. Kết quả đạt được - Nguồn vốn huy động tăng trưởng qua các năm, góp phần tạo ra lợi nhuận cao. Khi so sánh giữa năm sau so với năm trước đều tăng khá: Năm 2003: 150,22%, năm 2004: 121,54%, năm 2005: 67,36%, năm 2006: 90,77% và trong cả năm 2007 đến tháng 3/2008 tăng có 40,1%. - Chi phí huy động vốn vẫn ở mức phù hợp, thu nhập lãi thuần tăng lên. Chi phí vốn (được tính bằng chi phí trả lãi so với tổng vốn huy động) của PVFC qua các năm ở mức phù hợp, khoảng dưới 6%. Thu nhập lãi thuần (tính bằng thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự trừ đi chi phí lãi và các khoản tương tự) dương và tăng lên qua các năm. - Quy mô vốn chủ sở hữu ngày càng tăng. Vốn chủ sở hữu của PVFC tăng qua các thời kỳ khác nhau (năm 2002: 106.194 triệu đồng, năm 2003: 112.402 triệu đồng, năm 2004: 318.531 triệu đồng, năm 2005: 359.674 triệu đồng, năm 2006: 1.134.859 triệu đồng, năm 2007: 3.134.148 triệu đồng). Theo số liệu chưa được kiểm toán, tính đến 30/9/2008, vốn chủ sở hữu là 6.642.683 triệu đồng. Trong số đó, vốn điều lệ của của PVFC cũng tăng mạnh từ 100 tỷ đồng khi mới thành lập, đến nay là 5.000 tỷ đồng. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 1) Hạn chế Trong những năm PVFC đã đạt được môt số thành tựu cơ bản trong công tác Huy động vốn. Tuy nhiên vẫn còn có một số hạn chế, điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau: - Xu hướng tăng của nguồn vốn huy động chưa ổn định: Điều này thể hiện ở tốc độ tăng trưởng vốn huy động qua các năm, năm 2003: 150,22%, năm 2004: 121,54%, năm 2005: 67,36%, năm 2006: 90,77% và trong cả năm 2007 đến tháng 3/2008 tăng có 40,1%. Sự giảm xuống của tốc độ tăng trưởng vốn huy động cũng phản ánh bối cảnh chung của năm 2008, thời điểm đánh dấu sự khó khăn đối với các tổ chức tín dụng nói chung trong việc huy động vốn. - Chi phí vốn huy động có xu hướng tăng lên qua các thời kỳ: Số liệu từ năm 2002 đến năm 2008 cho thấy chi phí vốn huy động có xu hướng tăng lên: năm 2002 là 3,14%, năm 2003 là 5,55%, năm 2004 và 2005 có giảm xuống (4,36% và 4,95%) nhưng đến năm 2006 và 2007 lại tăng lên (năm 2006: 6,02%, năm 2007 và quý I/2008: 8,35%). - Còn tiềm ẩn rủi ro cho các nguồn vốn huy động được. 2) Nguyên nhân chủ quan Nhân tố chủ quan là nhân tố thuộc nội tại trong CTTC, đây là nhóm nhân tố cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến Huy động vốn. Sau đây là một sô nhân tố chủ quan: Hình thức huy động vốn chưa được đa dạng hóa; Chính sách lãi suất chưa linh hoạt; Hoạt động quảng bá chưa tương xứng với thương hiệu của PVFC; Hệ thống màng lưới còn khiêm tốn; Chưa ứng dụng nhiều các công nghệ hiện đại trong các hoạt động nghiệp vụ, quản trị doanh nghiệp chưa có nhiều đổi mới; Nguồn nhân lực còn yếu và thiếu. 3) Nguyên nhân khách quan - Sự cạnh tranh ngày càng tăng từ phía các tổ chức tín dụng khác. - Việc thu hút vốn của khách hàng chịu sự tác động lớn bởi việc đầu tư (chủ yếu là đầu cơ) vào các thị trường chứng khoán, bất động sản và vàng. - Trong mấy năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2007 đến nay, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, lạm phát tiếp tục tiềm ẩn ở mức cao. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI PVFC 3.1. Định hướng phát triển của PVFC 3.1.1. Định hướng phát triển của PVFC Gắn với mục tiêu xây dựng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thành một Tập đoàn Công nghiệp – Thương mại – Tài chính vững mạnh. Chiến lược phát triển của PVFC phải dựa trên cơ sở vị thế tài chính của ngành Dầu khí và phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển tập đoàn Dầu khí. Với mục tiêu là xây dựng PVFC trở thành định chế đầu tư tài chính mạnh của Tập đoàn Dầu khí - Định chế đầu tư tài chính hàng đầu ở Việt Nam. 3.1.2. Định hướng chiến lược huy động vốn của PVFC Với định hướng chiến lược của Tổng công ty trong thời gian tới, Huy động vốn được xem là sản phẩm dịch vụ nền tảng trong chiến lược phát triển sản phẩm dịch vụ. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn phải đảm bảo tạo dựng được nguồn vốn vững chắc, ổn định đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Công ty đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Các nguồn huy động vốn đa dạng, chú trọng tạo vốn từ nguồn tiền tệ của Tập đoàn và các đơn vị thành viên thông qua tài khoản trung tâm của Tập đoàn, từ hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. 3.2. Giải pháp huy động vốn tại PVFC Đa dạng hoá các hình thức huy động, chuyên môn hoá theo khách hàng, liên kết giữa các sản phẩm. Đa dạng hóa các hình thức huy động Tăng cường các hình thức huy động dài hạn Với đặc thù là hoạt động đầu tư tài chính, để giảm thiểu rủi ro bắt buộc Công ty phải lựa chọn và sử dụng hiệu quả nguồn vốn dài hạn thông qua kênh: Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu bằng ngoại tệ và nội tệ, đặc biệt là các trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn trên 5 năm tập trung vào các tầng lớp dân cư, các công ty/quỹ bảo hiểm, công ty chứng khoán,…và niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán; Đẩy mạnh hợp tác với các công ty bảo hiểm để làm dịch vụ bán bảo hiểm, thu phí và thanh toán tiền bồi thưởng thiệt hại cho người được bảo hiểm; Nghiên cứu phát hành trái phiếu ra thị trường nước ngoài. Phát hành trái phiếu, cổ phiếu Đa dạng hoá kỳ hạn Đa dạng hoá kỳ hạn của các sản phẩm huy động vốn hiện có và các kênh thu hút vốn nhằm bảo đảm cơ cấu nguồn vốn hợp lý với cơ cấu sử dụng vốn để giảm thiểu rủi ro kỳ hạn, đồng thời tối ưu hóa chi phí huy động vốn thông qua tiếp cận các nguồn vốn rẻ và ổn định. Tăng cường huy động từ các thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Với vai trò là trung tâm tài chính của Tập đoàn, việc quan hệ với các thành viên rất thuận lợi: Triển khai tốt Marketing nội bộ trong Công ty, các công ty thuộc Tập đoàn và Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam; Thực hiện việc chăm sóc khách hàng nội bộ; Triển khai gói sản phẩm Ủy thác đầu tư cho doanh nghiệp, trước tiên phải khẳng định trên thị trường PVFC là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. 2) Liên kết các sản phẩm - dịch vụ: Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh ngày một gay gắt, các doanh nghiệp thường sử dụng nhiều biện pháp nhằm chiếm ưu thế trên thị trường bằng các dạng thức khác nhau. Liên kết các sản phẩm tạo thành sản phẩm chọn gói là giải pháp mà các tổ chức tài chính, các ngân hàng hiện đại cũng đã áp dụng. 3) Chuyên môn hóa theo khách hàng Với mục tiêu lựa chọn từng đối tượng khách hàng nhằm đưa tiện ích cho từng loại khách hàng khác nhau, tăng cường phân loại theo nhóm khách hàng để chăm sóc tốt hơn. 4) Các giải pháp khác: Tăng cường thu hút các nguồn vốn ủy thác cho vay, đầu tư từ các tổ chức trong và ngoài nước; để thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, các khoản đầu tư ngắn hạn của các TCTD dưới dạng tiền gửi và tiền vay; Phát hành trái phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán; phát hành chứng chỉ tiền gửi. Quản lý lãi suất huy động gắn liền với lãi suất cho vay một cách linh hoạt 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing, truyền thông và phát triển thương hiệu. Đẩy mạnh hoạt động Marketing, phát triển thương hiệu mạnh trong thời kỳ mới, xây dựng bản sắc thương hiệu riêng biệt, sự đồng nhất bản sắc thương hiệu trên toàn hệ thống trong và ngoài nước, xây dựng các chính sách marketing phù hợp, tiết kiệm chi phí và mang lại hiệu quả cao. Phát triển mạng lưới theo hướng hiệu quả Hiện tại PVFC đã mở nhiều chi nhánh tại các tỉnh và thành phố tiềm năng. Tuy nhiên việc mở nhiều chi nhánh là điều tất yếu của việc phát triển, nhưng cũng cần có định hướng hoạt động hiệu quả, nhất là trong giai đoạn hiện nay cần có giải pháp thực hiện đồng bộ như sau: cơ sở hạ tầng, sản phẩm dịch vụ sẵn sàng đáp ứng nhu cầu, kiểm soát chặt chẽ, nghiên cứu khu dân cư, vị trí…. Phát triển công nghệ Công nghệ giữ vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động của các công ty, đặc biệt là công ty chuyên đầu tư và kinh doanh tiền tệ, là nền tảng để CTTC phát triển các sản phẩm - dịch vụ và nâng cao năng lực quản lý, do vậy một chiến lược phát triển công nghệ đúng đắn có ý nghĩa rất lớn đối với khả năng cạnh tranh của CTTC. Phát triển nguồn nhân lực: PVFC là một Công ty trẻ, chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vẫn luôn là một trong những giải pháp quan trọng đối với Công ty đặc biệt trong điều kiện thị trường như hiện nay. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa hoạt động đầu tư, nguồn vốn và dòng tiền một cách hiệu quả. Sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả: Bên cạnh mục tiêu huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, công ty cũng cần phải sử dụng nguồn vốn hiện có sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách triệt để và có hiệu quả. 3.3. Một số kiến nghị với Nhà nước Hoàn thiện dự thảo thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục có biện pháp kiềm chế và đẩy lùi lạm phát Vận hành hiệu quả công cụ tỷ giá hối đoái Phát triển hiệu quả thị trường vốn. KẾT LUẬN Trong bối cảnh khó khăn lớn từ nền kinh tế, từ thị trường chứng khoán, từ kinh doanh bất động sản, tình hình kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam, PVFC đã làm tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi, góp phần đáp ứng phần nào nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thành công đó bước đầu khẳng định sự đúng đắn trong các chính sách chỉ đạo của Nhà nước, của Ban lãnh đạo PVFC trong tiến trình hội nhập và phát triển. Trong thời gian tới, để tiếp tục đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh và ngày càng gia tăng của các doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, ngoài những nỗ lực tìm tòi và phát triển các hình thức huy động mới có hiệu quả, PVFC cũng rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi để PVFC thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cung ứng vốn cho các doanh nghiệp phục vụ hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động phát triển kinh doanh của các công ty tại Việt Nam. Mặc dù đã có thời gian tìm hiểu nghiên cứu, song do năng lực và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên trong cuốn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế nhất định. Do vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo cùng toàn thể các đồng nghiệp tại PVFC để cuốn luận văn này có thể phát huy được hiệu quả thiết thực. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-82.doc
Tài liệu liên quan