Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội

Tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội: ... Ebook Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2738 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu khởi sắc với tốc độ phát triển kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người tăng. Để tiếp tục đưa Việt Nam đi lên, trở thành một nước công nghiệp trong tương lai, đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Ngân hàng là ngành then chốt trong lĩnh vực huy động vốn đóng vai trò chủ đạo trong việc dẫn vốn cho nền kinh tế. Nếu như ngân hàng thương mại hoạt động tốt, vốn được lưu chuyển hợp lý, liên tục sẽ tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Trong giai đoạn sắp tới, khi các ngân hàng nước ngoài được phép vào hoạt động trên thị trường nước ta, cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ diễn ra vô cùng gay gắt. Muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường, ngân hàng cần phải có một nguồn vốn đủ mạnh bởi vì vốn là tiền đề quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng thương mại. Để có nguồn vốn đủ mạnh, các ngân hàng thương mại phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm huy động được nguồn vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng thương mại Việt Nam có “thâm niên” hoạt động chưa dài, các hình thức huy động vốn còn đơn điệu, chưa phù hợp và chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế. Đặc trưng nguồn vốn và sử dụng vốn của các Ngân hàng thương mại có sự chênh lệch đặc biệt là sự chênh lệch về kỳ hạn. Vốn huy động của các ngân hàng thương mại chủ yếu là vốn ngắn hạn nhưng nhu cầu sử dụng vốn dài hạn để đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế lớn đã ảnh hưởng đến hiệu quả và an toàn hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nhận thức được vai trò của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng và thực tiễn hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Quân đội, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội”. Hy vọng những vấn đề nghiên cứu sẽ giải quyết được các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu những lý luận chung nhầt về hoạt động huy động vốn của ngân hàng, đặc điểm và vai trò của các hình thức huy động vốn, phân tích đánh giá, tìm hiểu các tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động huy động động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của để tài: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Phạm vi nhiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội trong những năm gần đây và chiến lược đến năm 2010. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động huy động vốn. Bên cạnh đó, đề tàì còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Đánh giá ưu nhược điểm trong hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội. Kết cấu của luận văn Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngân hàng bao gồm nhiều loại hình tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Sự ra đời của hệ thống Ngân hàng thương mại có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và ngược lại, kinh tế hàng hoá phát triển thì hoạt động Ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và ngân hàng trở thành tổ chức không thể thiếu trong nền kinh tế. Mỗi quốc gia đều có những quy định khác nhau về ngân hàng thương mại. Theo pháp luật Mỹ, ngân hàng thương mại được hiểu là bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiển theo yêu cầu và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại. Theo pháp luật ngân hàng Ấn độ, các cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ và đầu tư được gọi là ngân hàng…. Quan điểm về ngân hàng thương mại của Việt Nam được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng (Số 20/2004/QH): Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan; trong đó quy định rõ: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy, có thể hiểu: Ngân hàng thương mại là một Tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, làm phương tiện thanh toán và thực hiện các dịch vụ theo uỷ thác của khách hàng 1.1.2 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đống vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn trong nền kinh tế từ nhiều kênh khác nhau. Vốn chủ sở hữu Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa ngân hàng. Vốn chủ sở hữ được hình thành từ vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu và không ngừng tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng vốn của chủ trong quá trình hoạt động thông qua việc chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư và thông qua việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm. Hoạt động huy động tiền gửi Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Đối với khách hàng trong dân cư, việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, ngoài việc được đáp ứng tất cả các dịch vụ thanh toán khi phát sinh, khách hàng còn được cung ứng một loạt các dịch vụ đa dạng về tài chính có khả năng sinh lời. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể huy động vốn từ các ngân hàng khác tuy nhiên quy mô nguồn này không lớn. Hoạt động đi vay Phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng, vay ngân hàng nhà nước và vay trên thị trường vốn. Ngân hàng vay vốn của ngân hàng nhà nước nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại dưới hình thức tái chiết khấu. Ngân hàng cũng có thể vay vốn trên thị trường vốn như các doanh nghiệp thông qua việc phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu) để bù đắp phần thiếu hụt nguồn tiền trung dài hạn. Các tổ chức tín dụng trên thị trường có thể vay mượn lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng, các khoản vay được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc hoặc không cần tài sản bảo đảm. Hoạt động huy động vốn khác Thông qua nghiệp vụ ngân hàng thương mại có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. 1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong xã hội để các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hoạt động này không chỉ đẹm lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của ngân hàng là hoạt động cho vay và hoạt động đầu tư. Hoạt động cho vay Cho vay là một hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng. Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Sự gia tăng thu nhập và nhu cầu của người tiêu dùng cùng với sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình. Hiện nay, cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình có tốc độ tăng trưởng cao ở các nước có nền kinh tế phát triển. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng còn thực hiện tài trợ cho các dự án xây dựng nhà xưởng, đầu tư máy móc thiết bị. Hoạt động đầu tư dự án có rủi ro cao song lợi nhuận thu được của ngân hàng lớn. Hoạt động cho vay được phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả... Hoạt động đầu tư Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng thương mại còn sử dụng vốn để đầu tư. Ngân hàng có thể đầu tư vào việc mua bán chứng khoán, góp vốn vào các doanh nghiệp hoặc đầu tư vào trang thiết bị tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.1.2.3 Hoạt động dịch vụ trung gian Là trung gian tài chính ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó. Cung cấp các tài khoản giao dịch và và thực hiện thanh toán Các ngân hàng nhận tiền gửi từ các chủ thể của nền kinh tế không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách(còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Thanh toán không dùng tiền mặt tạo nhiều tiện ích cho khách hàng (an toàn, thuận tiện, nhanh chóng) đã khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…. Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận(giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. Các nghiệp vụ trung gian khác Ngoài các hoạt động dịch vụ nêu trên, ngân hàng còn cung cấp cho các chủ thể kinh tế các dịch vụ: ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt, dịch vụ đại lý…. Tóm lại, các hoạt động của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đó là khoản hình thành nên tài sản của ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả. Vốn của ngân hàng là nhũng giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Có thể phân chia vốn của ngân hàng thương mại thành nhiều loại khác nhau dựa trên những tiêu thức nhất định: theo thời gian (vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn), theo nguyên tệ (vốn nội tệ và vốn ngoại tệ), theo đặc điểm của vốn bao gồm nợ và tiền vay… Nếu theo bảng tổng kết tài sản nguồn vốn của ngân hàng thương mại được chia thành: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác 1.2.2 Phương thức huy động vốn 1.2.2.1 Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu là vốn do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trọng quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận để lại. Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó có tính ổn định cao, thường không phải hoàn trả. Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, chức năng bảo vệ và điều chỉnh đối với hoạt động ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn chủ sở hữu thường chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Để bảo đảm hoạt động an toàn hiệu quả, mức vốn tự có của ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này muốn nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng vỡ nợ, mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe doạ bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ quan quản lý xác định, điều chỉnh hoạt động cho ngân hàng ví dụ như hiện nay các ngân hàng chỉ có thể cho một khách hàng lớn nhất vay không quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Ngân hàng cũng như bất kỳ loại hình doanh nghiệp khác vốn chủ sở hữu bao gồm ba bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu Khi ngân hàng thàh lập bao giờ cũng có số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu đóng góp. Tùy tính chất sở hữu của ngân hàng mà tính chất và hình thức tạo vốn của ngân hàng cũng khác nhau. Đối với Ngân hàng Nhà nước, chủ sở hữu ngân hàng là Nhà nước và vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Đối với ngân hàng cổ phần vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với ngân hàng liên doanh vốn ban đầu do các bên liên doanh đóng góp. Tỷ lệ và quy mô vốn góp của các bên phụ thuộc các quy định của pháp luật trong từng thời kỳ, cơ cấu vốn góp. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô vốn ban đầu của ngân hàng rất quan trọng nhưng số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thường giữ lại một phần lợi nhuận để tạo lập các quỹ và tái đầu tư. Vốn có được từ lợi nhuận không chia là nguồn tài chính quan trọng, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, hạn chế được những rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động. Lợi nhuận không chia của ngân hàng ngoài việc sử dụng để tái đầu tư còn được sử dụng để trích lập các quỹ, chẳng hạn: Quỹ dự phòng rủi ro - được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra; Quỹ bảo toàn vốn để bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của làm phát, quỹ khen thưởng phúc lợi,….Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng của các quỹ. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc từng điều kiện cụ thể. Trong điều kiện thu nhập ròng của ngân hàng lớn các ngân hàng có xu hướng chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm nếu là ngân hàng cổ phần hoặc được cấp thêm từ ngân sách nhà nước nếu là ngân hàng quốc doanh để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, công nghệ hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do Nhà nước quy định. Đây không phải là nguồn thường xuyên song nó giúp ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu khi cần thiết. 1.2.2.2 Vốn huy động từ nền kinh tế Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh Tiền gửi thanh toán Tiền gửi thanh toán còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc (tiền gửi giao dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Mục đích gửi khoản tiền vào ngân hàng không phải để hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Ngân hàng thương mại buộc các khách hàng nếu muốn được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thì cần phải ký quỹ một lượng tiền tối thiểu, đồng thời với những khoản tiền gửi vào tài khoản thanh toán phải có thời gian nhất định mới được rút ra để thanh toán điều đó giúp ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Nguồn vốn này có đặc điểm là tính ổn định thấp, thời gian sử dụng ngắn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ và ngân hàng phải chủ động trả cho khách hàng bất cứ lúc nào nhưng ngược lại chi phí huy động của nguồn vốn này rất thấp. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu phí trên số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng còn trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Khi sử dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng phải thận trọng nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải tốn chi phí để đi vay. Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán ngân hàng cần phải khuyến khích các cá nhân và Tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng thời cũng cần phải nâng cấp các tiện ích và dịch vụ do ngân hàng cung cấp kèm theo như: dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán,… Tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian đó ngân hàng có quyền chủ động sử dụng số tiền đó khi khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn cần phải báo trước và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh nghiệp,… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn vốn này lại cao Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả. Chính vì vậy, ngân hàng thương mại thường tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Đây là nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của dân cư, mục đích của người gửi tiền là nhằm hưởng lãi suất do đó yếu tố được người gửi quan tâm nhất là lãi suất. Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính vì vậy huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Để huy động được nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiêu dùng, tiết kiệm, các đặc tính về văn hóa, xã hội. Muốn huy động nguồn tiền gửi tiết kiệm ngân hàng cần phải chú ý mạng lưới huy động, cung cấp các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi tiền. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Như vậy, để huy động được nguồn tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng cần phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý và sử dụng thích ứng. Phát hành giấy tờ có giá Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các ngân hàng thương mại còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá với kỳ hạn và khoản lãi được hưởng hấp dẫn in trên giấy tờ có giá. Hình thức huy động này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn với số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết. Việc huy động thông qua chứng chỉ tiền gửi thường có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác. Huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn vì vậy chi phí vốn cho việc huy động nguồn vốn bằng cách này rất cao tuy nhiên “tính lỏng” của loại vốn này lại cao vì có thể được mua bán thị trường vốn và có tính ổn định. Một số giấy tờ có giá thường được ngân hàng thương mại phát hành huy động vốn là trái phiếu, kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi. Trái phiếu là cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương, các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng. Kỳ phiếu là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng. Chứng chỉ tiền gửi là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ. 1.2.2.3 Vốn vay Tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh của mình tuy nhiên ngân hàng không thể chủ động trong việc huy động tiền gửi, một số thời điểm nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng vượt quá khả năng hiện có của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng trong những trường hợp cần thiết, ngân hàng có thể vay các tổ chức tín dụng khác hoặc ngân hàng trung ương. Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi, các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định trước nên tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Ngân hàng chỉ thực hiện đi vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Nguồn vốn đi vay của ngân hàng chủ yếu có 02 nguồn chính là vay từ các tổ chức tín dụng khác và vay ngân hàng trung ương. Vay từ các tổ chức tín dụng khác Các ngân hàng thực hiện vay vốn lẫn nhau thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất đi vay phụ thuộc vào quy mô món vay, thị trường và kỳ hạn. Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại, kỳ hạn của khoản vay có thể rất ngắn (qua đêm) nhưng lãi suất của các nguồn tiền này cao hơn so với các nguồn tiền huy động khác. Vay từ ngân hàng trung ương Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị trường mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần tiền mặt, ngân hàng thương mại thực hiện cầm cố tại ngân hàng trung ương. Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng thanh khoản. Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong những trường hợp đặc biệt các ngân hàng vẫn có thể vay ngân hàng trung ương để cho vay lại nền kinh tế theo chỉ định của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay này thường bị hạn chế về số lượng đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt. Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại. 1.2.2.4 Các nguồn khác Các nguồn vốn này thường không lớn, việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác. Vốn ủy thác Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân, ủy thác tiền, tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng cho vay (ủy thác cho vay), đầu tư (ủy thác đầu tư), giải ngân (ủy thác giải ngân) ... Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều Tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn cho ngân hàng. Nguồn này khá ổn định, các ngân hàng thực hiện hộ khách hàng và hưởng hoa hồng, không phải trả lãi tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể như phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu dự án mà họ tài trợ,… Vốn trong thanh toán Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn vốn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở LC…). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có thể kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay Ngoài ra, nguồn vốn của ngân hàng còn được hình thành từ nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản hộ. Khi ngân hàng thương mại càng phát triển nghiệp vụ trung gian càng nhiều thì nguồn này chiếm tỷ trọng càng lớn. 1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động đối với ngân hàng thương mại 1.2.3.1 Vốn là điều kiện để thành lập, tổ chức hoạt động kinh doanh Đối với bất cứ loại hình kinh doanh nào, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Vèn ph¶n ¸nh n¨ng lùc còng nh­ quyÕt ®Þnh kh¶ n¨ng ph¸t triÓn cña doanh nghiÖp. Đối với Ngân hàng, vốn còn là cơ sở nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không còn đơn thuần là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của Ngân hàng Thương mại , trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Như vậy, những Ngân hàng có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những Ngân hàng có ít vốn cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến h._.ành kinh doanh. Muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại cần liên tục bổ sung, tăng trưởng vốn. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn huy động và vốn huy động cũng chiếm khoảng hơn 90% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh thông suốt ngân hàng cần tăng cường hoạt động huy động vốn để thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng và cá nhân, doanh nghiệp. 1.2.3.2 Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của ngân hàng Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Khả năng thanh toán là một chỉ số quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì uy tín của ngân hàng càng lớn. Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự bảo đảm đối vói các chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có lượng vốn đủ mạnh để có thể đáp ứng mọi nhu cầu cả khách hàng. Nếu lượng vốn của ngân hàng không đủ lớn để đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng, ngay lập tức sẽ tạo ra hiện tượng rút tiền ồ ạt hay chấm dứt quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thậm chí có thể dẫn tới phá sản. Trong hoạt động Ngân hàng, uy tín có thể nói là yếu tố quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự sống còn của Ngân hàng. Uy tín của ngân hàng trong kinh doanh được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả năng thanh toán chi trả của Ngân hàng càng cao thì uy tín cũng như vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Hay nói cách khác, khả năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với lượng vốn của Ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của Ngân hàng nói riêng. 1.2.3.3 Đảm bảo khả năng cạnh tranh Vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quy định quy mô hoạt động tín dụng trung và dài hạn và các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng, thông thường so với những ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục đầu tư kém đa dạng, khối lượng và phạm vi tín dụng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn có nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn cho vay được cả thị trường trong nước và quốc tế, thì ngân hàng nhỏ thiếu vốn sẽ bị giới hạn cho vay trong phạm vi hẹp. Thêm vào đó khả năng vốn hạn hẹp nên ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy với những biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Ngân hàng có vốn ít sẽ hiếm khi có điều kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ. Mặt khác ngân hàng cũng sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia vào các danh mục đầu tư dài hạn như mua trái phiếu Nhà nước, trái phiếu công trình,… thu lợi nhuận cao. Mặt khác, vốn lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa dạng trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như: kinh doanh chứng khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua... chứ không chỉ dừng lại ở dịch vụ cho vay đơn thuần. Và chính các hình thức kinh doanh đa dạng này đã góp phần phân tán giảm thiểu rủi ro, nâng cao lợi nhuận và tăng sức cạnh tranh cho Ngân hàng thương mại trên thị trường. Tóm lại, vốn đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng thương mại chính vì vậy huy động vốn luôn là hoạt động được ưu tiên hàng đầu. Nguồn vốn không chỉ giúp ngân hàng thương mại tồn tại, hoạt động được mà nó còn cho phép ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động, vươn tới nhiều lĩnh vực mới giúp ngân hàng có đủ uy tín và sức mạnh để tồn tại và phát triển trên thương trường. 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Trong điều kiện nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển các ngân hàng thương mại cần phải nỗ lực hết mình, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong đó, huy động vốn có tầm quan trọng hàng đầu đặc biệt là tạo lập nền vốn vững chắc thông qua nghiệp vụ huy động vốn, tuy nhiên đó không phải là một bài toán dễ đòi hỏi ngân hàng phải có những nghiệp vụ linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực phù hợp từng giai đoạn hoạt động của ngân hàng cũng như tình hình kinh tế chính trị- xã hội, chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy ngân hàng cần phải có sự đi sâu phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn: 1.3.1 Nhân tố khách quan 1.3.1.1 Chính sách của Nhà nước Hoạt động của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế do đó ngành ngân hàng chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Chính phủ mà trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước. Khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước đồng thời nó còn có tác động làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ, ngược lại khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn cho Ngân hàng trong công tác huy động vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước Các ngân hàng ngoài chịu tác động trực tiếp các văn bản quy phạm pháp luật do Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính ban hành còn chịu tác động gián tiếp các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ngành khác ban hành như luật đất đai, luật thuế, luật nhà ở…..Hiện nay, nhận thấy được sự cần thiết phải tập trung vốn cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn chính vì thế Nhà nước đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các Ngân hàng thương mại ngày càng mở rộng huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu về vốn của nền kinh tế. 1.3.1.2 Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế: Sự phát triển hệ thống ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Quá trình phát triển nền kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, sự phát triển của hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nền kinh tế phát triển sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của ngân hàng và các chủ thể khác. Nhu cầu của thị trường cũng tăng lên khi nền kinh tế phát triển kéo theo nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…của các doanh nghiệp. Nhu cầu vốn và sử dụng các dịch vụ của các doanh nghiệp tăng lên đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường huy động nguồn vốn, các sản phẩm tiện ích mớiđể phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp. Quyết định của khách hàng luôn gắn liền với từng động thái của nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế bất ổn, giá cả và sức mua của đồng tiền biến động mạnh thì người dân có xu hướng tích trữ vàng, ngoại tệ hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó đi gửi tại các ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả quan hơn và xu hướng gửi tiền ở các ngân hàng thương mại tăng lên là một điều tất yếu. Nền kinh tế phát triển cũng kéo theo sự phát triển của thị trường tài chính, tạo thêm một kênh huy động mới cho ngân hàng thông qua việc phát hành các loại giấy tờ có giá. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thêm đối thủ cạnh tranh mới đó là việc các doanh nghiệp cũng có thể thông qua đó huy động vốn nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình ngân hàng mới và các tổ chức phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty chứng khoán,quỹ tiết kiệm… . Xu hướng cạnh tranh với ngân hàng trong lĩnh vực huy động vốn ngày càng tăng. 1.3.1.3 Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế: Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, trong đó nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn và có tính ổn định, dài hạn cao. Năng lực tài chính của người dân ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Người dân có thu nhập càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể càng tăng, đặc biệt khi thu nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ tiết kiệm không phải tăng lên theo tương quan tỷ lệ với sự gia tăng của thu nhập mà tăng với một tỷ lệ lớn hơn so với thu nhập do những nhu cầu thiết yếu lúc này đã được thỏa mãn hoàn toàn và lượng tiền dư ra sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, lượng tiền dư ra đó có được gửi vào Ngân hàng thương mại hay không còn phụ thuộc vào tâm lý tiêu dùng của dân cư, họ có thể đem gửi ngân hàng, tích trữ dưới dạng tiền mặt, vàng, ngoại tệ hay mua các tài sản khác. Để thu hút được nguồn tiền tiết kiệm từ dân cư, các ngân hàng thương mại cần hiểu được động cơ, thói quen và những mong muốn của người gửi tiền để đưa ra những chính sách và biện pháp phù hợp để có được quy mô và cơ cấu nguồn vốn như mong muốn. Các chính sách để thu hút được nguồn tiền tiết kiệm bao gồm: chính sách lãi suất, chính sách tổ chức kỹ thuật, chính sách chăm sóc khác hàng, chinh sách sản phẩm…. Bên cạnh đó, nguồn tiết kiệm của các Tổ chức kinh tế - xã hội cũng rất quan trọng. Mục đích gửi tiền của các doanh nghiệp thường là nhờ ngân hàng quản lý, ký quỹ hoặc chi trả trong thanh toán, …thông thường có kỳ hạn ngắn nhưng bù lại lượng tiền này của doanh nghiệp rất lớn. Ngân hàng thương mại có thể huy động được nguồn vốn này thông qua việc đáp ứng các nhu cầu về thanh toán, tài trợ vốn, bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, ngân hàng có thể phát hành trái phiếu để thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp 1.3.2 Nhân tố chủ quan 1.3.2.1 Uy tín của ngân hàng Uy tín là tài sản vô hình của các doanh nghiệp. Cá nhân và tổ chức gửi tiền, tài sản vào ngân hàng ngoài mục đích sinh lời còn nhằm mục đích an toàn. Vì vậy uy tín trở thành yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng có số lượng khách hàng khá lớn so với các doanh nghiệp khác, mỗi khách hàng có những nhu cầu và đặc điểm riêng biệt trong khi tính cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng ngày càng tăng. Để thu hút được nguồn tiền từ các khách hàng thì các ngân hàng cần chú trọng giữ gìn chũ tín, niền tin đối với các khách hàng. Uy tín của ngân hàng thường được các khách hàng đánh giá qua các tiêu chí: số năm hoạt động, quy mô vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật, ... 1.3.2.2 Lãi suất huy động Bất kỳ người gửi tiền nào cũng quan tâm tới lãi suất huy động của ngân hàng bởi họ cần giá trị tăng thêm của tiền sau thời gian chuyển quyền sử dụng cho ngân hàng. Các ngân hàng có hệ số an toàn và các dịch vụ tiện ích như nhau thì họ sẽ chọn Ngân hàng có lãi suất huy động cao hơn để gửi, điều này hoàn toàn hợp lý với tâm lý của người đầu tư luôn muốn thu được lợi cao nhất. Lãi suất là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến quy mô của nguồn vốn huy đọng nhưng lãi suất tiết kiệm có ảnh hưởng lớn nhất. Người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lợi của dòng tiền đầu tư vào tiết kiệm so với đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản... từ đó đưa ra quyết định có nên gửi vào ngân hàng hay không, gửi bao nhiêu và gửi theo hình thức nào. Ngược lại, đối với các tổ chức kinh tế thì lãi suất huy động lại có ảnh hưởng ít hơn vì phần lớn các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng đều với mục đích thanh toán là chính. Do đó nguồn tiền huy động này chịu ảnh hưởng nhiều bởi kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng cũng như khả năng thanh toán và cho vay vì lượng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế luôn luân chuyển và biến động theo nhu cầu thanh toán. Như vậy, để thực hiện cơ chế lãi suất huy động hợp lý tức là vừa thu hút được vốn, vừa đảm bảo sức cạnh tranh thì các ngân hàng thương mại phải thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên thị trường và ngay trên địa bàn hoạt động để có các quyết định điều chỉnh kịp thời phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường và đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần quan tâm đến lãi suất kho bạc, bởi vì trên thực tế kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại. 1.3.2.3 Chính sách sản phẩm: Sản phẩm của ngân hàng rất khó tạo mới mà chủ yếu phát triển dựa trên các sản phẩm truyền thống, sẵn có. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, có người vì mục đích bảo đảm an toàn, có người gửi chủ yếu để lấy lãi, có người gửi tiền vào ngân hàng để đồng vốn ngày càng được sinh sôi nảy nở... Vì thế họ có những nhu cầu gửi tiền cũng như lĩnh lãi khác nhau có thể là 3, 6, 9 tháng... hoặc lâu hơn. Do vậy, để có thể huy động được nhiều vốn trong dân cư, các ngân hàng thương mại phải đưa ra các hình thức huy động đa dạng. Khi có nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo nhiều cơ hội cho người gửi lựa chọn, đáp ứng những yêu cầu khắt khe, thoả mãn được mong muốn của họ. Mỗi khách hàng đều tìm cho mình cách phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng, bảo đảm có hiệu quả nhất với nguồn vốn của mình. Điều này đồng nghĩa với số lượng người gửi tăng lên và số tiền được gửi vào ngân hàng cũng tăng theo tỷ lệ thuận, kéo theo sự giảm xuống của chi phí huy động vốn. Vì vậy đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt là trong huy động vốn trung và dài hạn có thể coi là “ cuộc chạy đua” giữa các ngân hàng thương mại để giành được thị phần. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn sẽ làm cho công việc quản lý cũng như chi phí quản lý huy động vốn của Ngân hàng sẽ tăng lên, đòi hỏi Ngân hàng thương mại phải tìm cho mình được những mô hình quản lý vốn hợp lý, tiết kiệm chi phí huy động nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc huy động vốn chung là: nguồn vốn có tính ổn định càng cao thì lãi suất huy động cũng phải cao. 1.3.2.4 Hoạt động marketing Hoạt động Marketing ngân hàng sẽ có tác dụng gây sự chú ý cho khách hàng về hình ảnh của Ngân hàng để khách hàng có sự so sánh và chọn lựa trước khi quyết định tham gia giao dịch với Ngân hàng. Mặt khác, không phải ai cũng thông hiểu hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng. Nhất là đối với những khách hàng do trình độ học vấn chưa cao và với những khách hàng mới lần đầu đến ngân hàng gửi tiền. Với hoạt động Marketing ngân hàng, thông qua các bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và không cảm thấy cực nhọc khó khăn về thủ tục khi gửi tiền. Hơn nữa, nó sẽ giúp cho khác hàng tìm thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho ngân hàng. Tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tiếp xúc và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Ngoài ra còn phải kể đến một vài nhân tố thuộc về nội bộ ngân hàng cũng có những tác động không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chẳng hạn như: chiến lược kinh doanh của ngân hàng, quy mô cơ cấu vốn tự có, cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị của ngân hàng... Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức huy động vốn thậm chí là đến cả uy tín của ngân hàng trên thị trường, nó đảm bảo giữ vững lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng cũng như là giới hạn tối đa của nguồn vốn huy động. Đi liền với hoạt động quảng bá hình ảnh là những hoạt động khuyến mại, giúp đẩy mạnh hơn việc thu hút vốn vào ngân hàng. Các hình thức khuyến mại đa dạng sẽ tạo được tâm lý thoải mái cho khách hàng, nghệ thuật tặng quà nhiều khi không thể hiện ở giá trị món quà mà là ý nghĩa của món quà đối với người được tặng vừa thể hiện được hình ảnh của ngân hàng mà còn thực hiện những dụng ý và mục đích của ngân hàng. Nếu ngân hàng có một sự ưu đãi cho những khách hàng gửi tiền món lớn, thường xuyên cũng làm cho khách hàng cảm thấy hài lòng, bên cạnh đó ngân hàng cũng cần chú trọng đến những sản phẩm dịch vụ và phục vụ sau giao dịch để khách hàng luôn cảm thấy họ được quan tâm chăm sóc chu đáo. Việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, địa điểm của ngân hàng cũng ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng khắp, địa điểm thuận lợi nơi dân cư có thu nhập cao thường có nhiều cơ hội thu hút được nhiều nguồn vốn hơn so với những ngân hàng có mạng lưới nhỏ hẹp, địa điểm không thuận lợi. 1.3.2.5 Trình độ của đội ngũ nhân viên, trình độ công nghệ: Đội ngũ nhân viên đặc biệt là những nhân viên giao dịch là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, đại diện hình ảnh của ngân hàng vì vậy nếu trình độ của nhân viên cao, thái độ niềm nở, ân cần sẽ gây được thiện cảm của khách hàng, tạo sự gắn kết lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng. Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là điều kiện tốt để ngân hàng khai thác và phát triển các sản phẩm mới, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng ngoài việc đáp ứng nhu cầu phục vụ nhanh chóng, thuận tiện còn phải đáp ứng được yêu cầu bảo mật, truyền tải dữ liệu chính xác. Nhận thức được vai trò quan trọng của công nghệ đối với hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thường xuyên đầu tư, đổi mới hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng được nhu cầu phát triển và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẨN QUÂN ĐỘI 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (gọi tắt là Ngân hàng Quân đội) ra đời là sự hội tụ của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất phải kể đến đó là thời điểm và ý tưởng thành lập ngân hàng. Trước đây, trong chiến tranh các ý tưởng thành lập một ngân hàng giống như các ngân hàng ở Liên Xô cũ đã được hình thành. Các ngân hàng này được yêu cầu tách ra khỏi chức năng cấp phát cho các đơn vị quân đội làm kinh tế và dần tiến đến tự chủ về tài chính trong hoạt động vừa dựng nước vừa giữ nước. Song ý tưởng đó đã không thực hiện được do còn nhiều hạn chế về cơ chế thành lập. Đến năm 1990, các ý tưởng này được hồi sinh khi Pháp lệnh về Ngân hàng đã hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước quản lý và ổn định tiền tệ; các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Từ các ý tưởng nhen nhóm ban đầu cùng các chuyến đi khảo sát tại các nước trong khu vực và trên thế giới thì một yêu cầu đặt ra là phải có một ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế. Ngân hàng Quân đội được thành lập theo Quyết định số 0054/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 14/09/1994 và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060297 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/09/1994, khai trương hoạt động từ ngày 04/11/1994. Ngày đầu thành lập, Ngân hàng Quân độichỉ có một trụ sở chính tại 28A Điện Biên Phủ - Ba Đình – Hà Nội, gồm 25 cán bộ nhân viên với 4 phòng ban chức năng: tín dụng, kế toán, kho quỹ và văn phòng. Số vốn điều lệ ban đầu của Ngân hàng là 20 tỷ đồng với định hướng hoạt động trong giai đoạn đầu là trung gian tài chính phục vụ các doanh nghiệp Quân đội tham gia phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng. Cổ đông sáng lập chủ yếu là các Tổng Công ty, công ty, các nhà máy thuộc Bộ Quốc phòng và một số thể nhân đóng góp. Trải qua gần 14 năm hoạt động, Ngân hàng Quân đội từ một ngân hàng chưa có tên tuổi trên địa bàn Hà nội cũng như trong cả nước với số vốn điều lệ nhỏ 20 tỷ đồng, với 25 nhân viên đến nay Ngân hàng Quân đội trở thành một hệ thống với hơn 80 điểm giao dịch trong cả nước, tập trung tại các thành phố, trọng điểm kinh tế của Việt nam như: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà nẵng, Biên Hoà, Vũng Tàu, Cần Thơ, Nha Trang ..... với số lượng cán bộ nhân viên gần 2.000 người, vốn điều lệ là 2.363 tỷ đồng (đến 31/5/2008). Ngân hàng Quân đội có các cổ đông chính là các tổ chức thuộc các lĩnh vực công nghiệp, tài chính – ngân hàng, dịch vụ và khoảng 7.000 cổ đông cá nhân khác. Trong xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Quân đội cũng không ngừng lớn mạnh. Đối tượng khách hàng của Ngân hàng Quân đội cũng ngày càng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (doanh nghiệp Nhà nước; công ty cổ phần; công ty TNHH; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…) và các cá nhân. Với phương châm hoạt động an toàn hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, những năm qua, Ngân hàng Quân đội luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của Ngân hàng cũng ngày càng phát triển. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Quân đội Ngân hàng Quân đội là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần được hình thành sớm trong hệ thống ngân hàng cổ phần, là doanh nghiệp cổ phần được tổ chức hoạt động theo mô hình của các ngân hàng thương mại. Hệ thống tổ chức được hình thành và hoàn thiện dần theo mô hình của một tập đoàn trong tương lai. Bên cạnh việc hoạt động đầy đủ chức năng của một ngân hàng thương mại được phép kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, làm ngân hàng đại lý, phục vụ các dự án từ các nguồn vốn, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước. Ngay từ khi ra đời, mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Quân đội đã được xác định rõ là thực hiện hoạt động như một ngân hàng đa năng phục vụ cho các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế và cung cấp dịch vụ ngân hàng cho mọi thành phần kinh tế; Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân đội Công ty Chứng khoán Thăng Long Đại Hội Cổ Đông Công ty AMC Ban Kiểm Soát Công ty quản lý quỹ Hội Đồng Quản Trị Phòng Đầu tư & Dự án Khối mạng lưới bán hàng Các Uỷ Ban Cao Cấp Khối Tresury Khối Khách hàng cá nhân Tổng Giám Đốc Khối khách hàng doanh nghiệp Phòng Kiểm Tra, Kiểm Soát Nội Bộ Khối quản lý tín dụng Phòng KHTH & Pháp chế Khối Tài chính - Kế toán Trung tâm công nghệ thông tin Khối Tổ chức - Nhân sự - Hành chính Phòng nghiên cứu phát triển & Xây dựng chính sách Sở giao dịch và chi nhánh 2.1.3 Khái quát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân đội 2.1.3.1 Hoạt động tạo lập vốn Trong những năm qua, Ngân hàng Quân đội rất quan tâm đến công tác huy động vốn với phương châm "huy động để cho vay", đa dạng hoá nguồn vốn bằng việc đa dạng hoá các hình thức, biện pháp, các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong mọi thành phần kinh tế xã hội. Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, vốn tự có của Ngân hàng Quân đội đã góp phần đáng kể vào nguồn vốn. Tuy vốn tự có chưa cao nhưng có tốc độ tăng trưởng hàng năm rất khá. Đến 31/12/2007, Ngân hàng Quân đội đã có số vốn chủ sở hữu là 3.549,8 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ gần 12% trong tổng nguồn vốn, tăng hơn 2.5 lần so với năm 2006 và tăng hơn 8.5 lần so với năm 2003. Số liệu cụ thể như sau : Bảng 2.1: Nguồn vốn của Ngân hàng Quân đội(2003-2007) Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 04/03 (±%) 2005 05/04 (±%) 2006 06/05 (±%) 2007 07/06 (±%) Tổng nguồn vốn 4,321 6,995 61.88% 8,432 20.54% 13,611 61.42% 29,623 117.64% 1.Vốn chủ sở hữu 413 480 16.22% 637 32.71% 1,413 121.82% 3,549 151.17% Tỷ lệ so với tổng nguồn vốn 9.56% 6.86% 7.55% 10.38% 11.98% 2.Vốn huy động 3,485 4,983 42.98% 7,046 41.40% 11,602 64.67% 23,136 99.41% Tỷ lệ so với tổng nguồn vốn 80.65% 71.24% 83.56% 85.24% 78.10% + Từ dân cư 907 1,225 35.06% 1,603 30.86% 3,452 115.35% 6,432 86.33% + Từ các TCKT 2,196 3,238 47.45% 4,723 45.86% 7,050 49.28% 14,584 106.86% + Từ đối tượng khác( TCTD) 382 520 36.13% 720 38.46% 1,100 52.78% 2,120 92.73% 3. Nguồn vốn khác 423 1,532 262.17% 749 -51.11% 596 -20.48% 2,938 393.22% Tỷ lệ so với tổng nguồn vốn 9.79% 21.90% 8.88% 4.38% 9.92% (Nguồn : Báo cáo của NHQĐ năm 2003-2007) Số liệu trên bảng 2.1 cho thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng Quân đội chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn qua các năm ( từ 71-80%), công tác huy động vốn được chú trọng nên hàng năm vốn huy động đều có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động trong 5 năm bình quân đạt 62,12%/năm. Đặc biệt là trong năm 2007, mặc dù việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, Ngân hàng Quân đội vẫn hoàn thành xuất sắc mục tiêu đặt ra, nguồn vốn huy động của Ngân hàng Quân đội có sự tăng trưởng vượt bậc (tăng gần gấp đôi so với năm 2006) và bằng 140% so với kế hoạch đề ra. Có được điều đó là do Ngân hàng Quân đội đã đa dạng hoá rất nhiều hình thức huy động như: tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn (1,2 tuần,1,3,6,9,12,18,24,36 tháng...) với các hình thức: trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ, tiết kiệm tích luỹ, chương trình tiết kiệm dự thưởng, phát hành kỳ phiếu... nên đã khơi thông nguồn vốn huy động. Huy động tiết kiệm có sự tăng trưởng khá. Trong hai năm 2006 và 2007 loại tiền gửi này tăng mạnh (tăng 115,35% so với năm 2005 và tăng 86.33% so với năm 2006). Điều này có thể được lý giải bởi việc đa dạng hoá sản phẩm tiền gửi tạo nhiều tiện ích cho khách hàng kết hợp với lãi suất hấp dẫn, tuy nhiên tốc độ tăng huy động từ dân cư năm 2007 giảm hơn so năm 2006 do tình hình thị trường biến động quá mạnh, lạm phát, sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng thương mại; sự phát triển không ổn định của nèn kinh tế là yếu tố tác động lớn đến người gửi tiền. Vốn huy động từ Tổ chức kinh tế luôn là thế mạnh của Ngân hàng Quân đội do công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng được đẩy mạnh, hơn nữa Ngân hàng Quân đội có khối lượng khách hàng lớn và truyền thống như: Tổng công ty viễn thông quân đội(Viettel), Công ty xăng dầu quân đội, Tông công ty lắp máy Việt Nam( LILAMA), Tập đoàn tài chính dầu khí, Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam..., sử dụng nhiều dịch vụ và thường xuyên có lượng vốn không kỳ hạn luân chuyển lớn qua Ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Quân đội, chủ yếu là huy động từ tổ chức kinh tế ( chiếm tỷ tệ 63.26%), huy động từ dân cư chiếm tỷ lệ khiêm tốn, hơn 27.1%, phần còn lại huy động từ tiền gửi và vay tổ chức tín dụng khác và Ngân hàng Nhà nước chiếm tỷ lệ 9.64%. Đây là hình thức huy động vốn tạm thời trong khâu thanh toán và nhận vốn đồng tài trợ uỷ thác cho vay khi Ngân hàng Quân đội thực hiện đầu tư cho vay khách hàng lớn vượt 15% vốn tự có theo quy định của Ngân Hàng Nhà nước. Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước cũng có sự tăng trưởng mạnh qua các năm do hoạt động tín dụng của Ngân hàng Quân đội đẩy mạnh vào một số khách hàng có dư nợ lớn, vì vậy cần nhận vốn đồng tài trợ, uỷ thác. Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động chiếm ưu thế thì nguồn vốn của Ngân hàng Quân đội còn có nguồn vốn khác đó là kinh doanh ngoại tệ, vốn thanh toán trong hệ thống và khoản chênh lệch tỷ giá, nguồn vốn này chiếm tỷ lệ rất nhỏ bình quân khoảng 8-10% trong tổng nguồn vốn. 2.1.3.2 Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng trong nhiều năm qua vẫn chiếm một vị trí quan trọng, mang lại cho Ngân hàng Quân đội một nguồn thu thập đáng kể. Mảng hoạt động tín dụng luôn được Ngân hàng quan tâm, chú trọng đầu tư về thị trường sản phẩm và chất lượng kinh doanh, với chủ trương, nâng cao chất lượng tín dụng, cơ cấu lại danh mục nợ vay, đẩy mạnh hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho vay tiêu dùng. Vì thế tổng dư nợ của Ngân hàng Quân đội tăng ổn định và chất lượng tín dụng luôn được đảm bảo. Doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ tín dụng của Ngân hàng Quân đội có tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian gần đây. Năm 2004, tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu này lần lượt là 25,66% ; 26,37% ; 32,2%. Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng năm 2005 có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhưng số lượng tăng vẫn đạt mức cao, doanh số thu nợ tăng cao cả số lượng và tốc độ tăng trưởng. Năm 2006 và 2007 doanh số cho vay và dư nợ có tốc độ tăng trưởng cao với các tỷ lệ tăng trưởng (50.11%, 65,81% và 62,00%, 107,87%) doanh số thu nợ tăng trưởng thấp hơn nhưng về số tuyệt đối vẫn đạt ở mức cao. Trong các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Quân đội thì chỉ tiêu về nợ quá hạn có chiều hướng phát triển không tốt. Mặc dù, ngân hàng đã hạn chế được nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh, thu hồi được phần lớn nợ đọng, nhưng số nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng tăng. Năm 2003, tỷ lệ nợ quá hạn là 2.50%, đến năm 2004 và 2005, tỷ lệ này lần lượt là 3,9% và 3,5% đến năm 2006 giảm nhẹ còn 2.80%, năm 2007 giảm thấp còn 1.10%, tuy nhiên con số tuyệt đối về nợ quá hạn vẫn còn 213 tỷ đồng vào cuối năm 2007. Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu phản ánh hoạt động tín dụng của Ngân hàng Quân đội(2003 – 2007) Đơn vị : Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 04/03 (±%) 2005 05/04 (±%) 2006 06/05 (±%) 2007 07/06 (±%) Doanh số cho vay 4.345 5.460 25,66% 6.984 27,91% 10.484 50,11% 16.984 62,00% Doanh số thu nợ 3.565 4.505 26,37% 5.293 17,49% 6.791 28,30% 6.947 2,30% Dư nợ tín dụng 2.966 3.921 32,20% 5.612 43,13% 9.305 65,81% 19.342 107,87% Nợ quá hạn 74 153 106.23% 196 28.45% 261 32.64% 213 -18.34% Tỷ lệ nợ quá hạn 2.50% 3.90% 1.40% 3.50% -0.40% 2.80% -0.70% 1.10% -1.70% (Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Quân đội 2003-2007) Nếu xét về tốc độ tăng trưởng thì tăng trưởng nguồn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng nhìn chung là hợp lý. Song xét về số tăng tuyệt đối thì tình hình cho vay chậm hơn so với huy động vốn. Bởi vì trong chiến lược phát triển, ngân hàng đã xác định phấn đấu trở thành một ngân hàng bán lẻ, tăng cường các hoạt động dịch vụ phi tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Ngoài ra chính sách Ngân hàng Nhà nước là cơ cấu và đánh giá lại nợ của các Ngân hàng thương mại đã tác động và phản ánh một cách trung thực tình hình tín dụng của các Ngân hàng thương mại, trong đó nợ quá hạn tăng vọt đã khiến các Ngân hàng thương mại thắt chặt tín dụng. Hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư của Ngân hàng Quân đội bao gồm đầu tư c._.Quân đội có thể từng bước mở rộng các loại hình huy động mới phù hợp với thực tiễn như: gửi một nơi rút nhiều nơi, gửi một lần rút nhiều lần, gửi nhiều lần rút một lần (tiết kiệm gửi góp) hay gửi nhiều lần rút nhiều lần với số tiền vào các khoảng thời gian được thoả thuận từ đầu kỳ gửi, vừa tạo thuận lợi cho người gửi tiền, vừa tạo thêm tích luỹ cho người gửi, qua đó Ngân hàng Quân độisẽ tăng cường nguồn vốn. Ví dụ: Người có thu nhập hàng tháng 2 triệu đồng/tháng nhưng chỉ tiêu hết 1 triệu đồng/tháng có thể gửi góp vào ngân hàng trong một thời gian 2 năm, 3 năm, 5 năm… để rút ra mua sắm tài sản có giá trị lớn. Ngược lại, người được hưởng khoản tiền lớn (thừa kế, cho tặng không có tiền tiêu hàng tháng có thể rút một khoản tiền nhỏ bé để chi tiêu hàng ngày, hay người vừa có thu nhập có thể rút một khoản tiền nhỏ bé đẻ chi tiêu hàng ngày, hay người vừa có thu nhập vừa cần chi tiêu nhưng thời gian thu nhập và chi tiêu không ăn khớp nhau (3 tháng thu một lần, một tháng chi tiêu một lần) có thể thực hiện hình thức gửi nhiều lần rút nhiều lần trong kế hoạch thời gian dài 1 năm, 2 năm, 3 năm… bằng những hình thức đó, đa dạng các kênh như vậy, Ngân hàng Quân đội sẽ thu hút được các loại tiền còn đang nằm trong dân, nhất là đối với cán bộ công nhân viên Nhà nước với thời gian dài. Sử dụng công cụ tiền gửi có mục đích. Đây là hình thức tiết kiệm trung, dài hạn. Khi khách hàng mang tiền gửi vào ngân hàng dưới hình thức này thì giữa ngân hàng và khách hàng đều biết rõ mục đích của việc gửi tiền. Đối tượng chủ yếu của hình thức này là người có thu nhập thấp nhưng ổn định có dự định chi tiêu trong tương lai, có nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị lớn nhưng mức tiết kiệm của họ trong thời gian ngắn không thể đáp ứng được. Do biết được mục đích gửi tiền của khách hàng, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về thời gian và phương thức gửi tiền. Tiết kiệm tuổi già và tiết kiệm tích luỹ (hay tiết kiệm nhân thọ): đây là hình thức tương tự như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Ai cũng có lúc đến tuổi già phải sinh sống, do đó khi còn mạnh khoẻ, còn lao động tới mỗi người dành một ít tiền từ thu nhập hàng tháng của mình gửi tiền tiết kiệm tuổi già để đến lúc hết tuổi lao động có thêm nguồn để sinh sống. Hình thức tiết kiệm tuổi già cùng với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo cho người già có sức sống ổn định và cuộc sống có ý nghĩa hơn. Tiết kiệm nhà ở: Những người dân có nhu cầu làm nhà, mua nhà ở nhưng tài chính có hạn, gửi dần tiền tích luỹ được vào ngân hàng đến lúc nào đó có thể rút ra để mua nhà, xây nhà. Ngân hàng cần có chính sách cho vay ưu đãi để làm nhà, mua nhà đối với những người gửi thường xuyên, đều đặn và có quy mô đến một độ lớn nào đó thì có thể cho vay thêm để mua nhà, xây nhà bằng cách kết hợp lợi ích của người dân với lợi ích của ngân hàng, sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho hình thức này. Tiết kiệm học đường: Hình thức này dành cho những gia đình trẻ có con hoặc chưa có con nhưng muốn tiết kiệm để sau này có một khoản tiền chi trả cho con cái học hành, hình thức này cũng tương tự như hình thức các công ty bảo hiểm đang áp dụng và đã thành công như vậy ngân hàng cũng có thể áp dụng vì đây là hình thức phù hợp với tâm lý và mong muốn của người Việt Nam. Tiền tiết kiệm mua sắm phương tiện đắt tiền(ô tô, xe máy…): Cũng như người làm nhà, mua nhà, người mua sắm ô tô, xe máy nhưng chưa đủ tiền. Số tiền có được và thu nhập hàng tháng có thể gửi vào ngân hàng để đến lúc nào đó có thể rút ra mua sắm. Ngân hàng cũng cần có cơ chế cho vay ưu đãi thêm đối với những người gửi thường xuyên và có số dư đang kể. Ngoài ra Ngân hàng Quân đội cũng có thể tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm các hình thức tiết kiệm như tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm rút dần, tiết kiệm tích điểm để trao thưởng,…càng đa dạng thì càng dễ thu hút được khách hàng đến giao dịch. Ngân hàng Quân đội cần tổ chức kiểm soát, phân tích điều kiện, tình hình huy động vốn tại từng thời điểm để có biện pháp thiết thực nhằm tăng khả năng huy động vốn. Bám sát các địa bàn đông dân cư để mở thêm các bàn tiết kiệm để tăng cường công tác huy động vốn. Ngoài việc xem xét đưa ra các hình thức huy động mới vào kinh doanh, Ngân hàng Quân đội cũng nên huy động vốn qua việc phát hành các giấy tờ có giá (như kỳ phiếu, trái phiếu). Hiện nay Ngân hàng Quân đội đang bắt đầu triển khai thức huy động vốn qua hình thức này. Chi phí huy động qua hình thức này tuy lớn hơn chi phí huy động qua nguồn tiền gửi nhưng lại nhỏ hơn chi phí của nguốn tiền vay, nó giúp ngân hàng chủ động cơ cấu lại nguồn vốn, tăng cường nguồn vốn trung dài hạn, nguồn có kỳ hạn dài. Đối với phát hành kỳ phiếu và trái phiếu: Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả trong thời gian qua tuy nhiên các loại kỳ phiếu, trái phiếu này còn khá đơn điệu về kỳ hạn và lãi suất chủ yếu vẫn là kỳ hạn 3 và 6 tháng và nếu khách hàng đã mua kỳ phiếu, trái phiếu phải đợi đến khi đáo hạn mới được rút điều này làm cho tính lỏng của các loại kỳ phiếu, trái phiếu này rất kém chính vì vậy trong thời gian tới Ngân hàng Quân đội cần phải có những thay đổi tích cực để kỳ phiếu và trái phiếu thực sự trở thành một sản phẩm hấp dẫn đối với khách hàng. Cần nghiên cứu đưa vào triển khai sản phẩm kỳ phiếu, trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo thị trường hoặc lãi suất thả nổi. Đồng thời để tăng tính lỏng cho các kỳ phiếu trái phiếu này cần thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, mua một nơi chiết khấu được nhiều nơi để thuận tiện hơn cho khách hàng khi cần tiền. Bên cạnh đó hiện nay kỳ phiếu do Ngân hàng Quân đội phát hành chỉ có loại chứng chỉ ghi danh. Thời gian tới nên đưa thêm loại vô danh tạo tiện ích hơn hơn cho khách hàng . Đối với kỳ phiếu và trái phiếu, người mua tuy được hưởng lãi suất cao nhưng khi đến hạn mà người mua không đến đổi sổ thì sẽ chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn kể cả khi kỳ hạn thực gửi là bội số của kỳ hạn đăng ký ban đầu chính vì vậy có nhiều khách hàng đã phải chịu thiệt khi để chứng chỉ tiền gửi của mình quá hạn với thời gian khá lâu khi đó kỳ hạn đầu tiên khách hàng được hưởng lãi suất cam kết trên sổ còn những kỳ hạn tiếp theo chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn trong khi đó những khách hàng đó là khách hàng lâu năm, có gắn bó với ngân hàng chính vì thế ngân hàng cần có chính sách chăm sóc những khách hàng mua kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng. Đối với những chứng chỉ tiền gửi đó Ngân hàng có thể là gọi điện thông báo sổ đến hạn cho khách hàng hoặc có chính sách lãi suất ưu đãi hơn cho những kỳ hạn quá hạn của khách hàng. Phát hành trái phiếu dài hạn: Đây là công cụ huy động vốn dài hạn khá hiệu quả của Ngân hàng Quân đội nhằm tăng vốn tài trợ cho các dự án, các công trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước góp phần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Tuy nhiên để khai thác tối đa tiềm năng vốn của nền kinh tế thì việc đa dạng hóa công cụ này rất cần thiết. Nhằm huy động vốn trung hạn và dài hạn chính vì thế Ngân hàng Quân đội có thể nghiên cứu các kỳ hạn dài hơn như 10, 15, 20 năm so với hiện tại chỉ mới có loại 3 năm và 5 năm, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và Ngân hàng kinh doanh có lãi. Ngoài ra Ngân hàng Quân đội cũng cần có sự nghiên cứu và xin phép Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước để phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất có thể điều chỉnh, trái phiếu dài hạn có thể chuyển đổi sang công cụ nợ khác,… tạo điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng có thể mua trái phiếu của ngân hàng. Như vậy đa dạng hóa và cung cấp các dịch vụ tiện ích kèm theo phát hành kỳ phiếu, trái phiếu là một phương thức hữu hiệu để thu hút khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài vào Ngân hàng Quân đội đồng thời tạo điều kiện cho Ngân hàng Quân đội có được nguồn vốn trung và dài hạn để có thể chủ động hơn trong các hoạt động đầu tư của mình. Vì thế Ngân hàng Quân đội cần phải nỗ lực hơn nữa để biến kỳ phiếu trái phiếu trở thành một công cụ huy động vốn hữu hiệu phục vụ cho sự tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng. 3.2. 4 Vận dụng chế độ lãi suất linh hoạt Lãi suất là một công cụ quan trọng trong công tác huy động vốn của các ngân hàng đặc biệt là huy động vốn từ các tầng lớp dân cư, do đó một chính sách lãi suất linh hoạt vừa có sức cạnh tranh vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng là rất cần thiết. Tuy nhiên nếu tăng lãi suất tiền gửi thì lại phải tăng lãi suất cho vay điều đó sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp sử dụng vốn vay và gây áp lực cho công tác tín dụng. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi tiền, vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra: Nâng cao lãi suất tiền gửi trung và dài hạn, hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và ngắn hạn, đảm bảo lãi suất trung bình vẫn không tăng lên đối với toàn bộ nguồn huy động. Có biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì được số dư tài khoản với thời gian dài hơn thời hạn ban đầu bằng cách thưởng phần trăm lãi suất. Hiện nay mức lãi suất huy động nói chung của các ngân hàng còn nhiều bất cập, lãi suất huy động vốn (VNĐ) có chiều hướng tăng trong khi đó lãi suất cho vay lại hạ do cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Để tăng cường huy động vốn, ngân hàng cần tăng lãi suất tiền gửi, nhưng điều này gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Vì vậy, ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi lại vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra. Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cần được tăng lên, đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để đảm bảo lãi suất trung bình không bị tăng lên đối với toàn bộ vốn huy động. Việc nâng cao lãi suất trung dài hạn phải nằm trong khung giá, phải có tính cạnh tranh, ngân hàng có thể dựa vào khung lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các ngân hàng lớn để đưa ra mức lãi suất vừa hấp dẫn, mang tính cạnh tranh. Hiện nay, lãi suất huy động trái phiếu của các ngân hàng lớn là 8,2%/năm đối với kỳ hạn 2 năm; 8,5%/năm đối với kỳ hạn 5 năm, như vậy Ngân hàng Quân đội có thể đưa ra mức lãi suất từ 8,2% - 8,4%/năm đối với kỳ hạn 2 năm: từ 8,5-8,7%/năm đối với kỳ hạn 5 năm. Các hình thực trả lãi phải được thực hiện linh hoạt. Bên cạnh việc áp dụng hình thức trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, Ngân hàng Quân đội có thể áp dụng hình thức lãi suất luỹ tiến theo số lượng gửi tiền. Với cùng một kỳ hạn như nhau, ngân hàng có thể thay đổi mức lãi suất với những khoản tiền lớn. Với chính sách lãi suất nhạy cảm như vậy, ngân hàng có thể thu hút được những khoản tiền lớn. Trong những năm tới, khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua ngân hàng được hiện đại hoá, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối với các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã làm hiện nay. Ngược lại, với các khoản tiền gửi trung và dài hạn thì mục đích chính của người gửi tiền là để hưởng lãi hoặc tích luỹ cho các mục đích mua sắm… Do đó, ngân hàng có thể tăng lãi suất loại tiền gửi này để khuyến khích người dân. Tuy nhiên, tăng ở mức vừa phải để đảm bảo tốc độ tăng huy động lớn hơn tốc độ tăng chi phí để không làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Đối với khách hàng rút tiền trước hạn, khách hàng được hưởng lãi suất bậc thang, ngược lại, ngân hàng có thể khuyến khích người gửi giữ tiền trên tài khoản với một thời gian dài hơn kỳ hạn gửi ban đầu. Ví dụ: người gửi tiết kiệm một năm nhưng không rút tiền trong 2 năm thì có thể được ngân hàng thưởng thêm một tỷ lệ phần trăm nào đó. 3.2. 5 Hoàn thiện tiện ích phục vụ người gửi tiền: Để mở rộng huy động vốn trong thời gian tới ngoài việc tìm kiếm các khách hàng mới thì Ngân hàng Quân đội cần chú trọng duy trì được những khách hàng truyền thống đã có sẵn. Muốn vậy cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng phục vụ và hoàn thiện tiện ích phục người gửi tiền thông qua một số nội dung sau: Hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật: Đối với những địa điểm giao dịch đã có sẵn cần phải có đề án cải tạo, hoàn thiện địa điểm giao dịch tạo một không gian giao dịch lịch sự, thuận tiện, hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong quá trình mở rộng mạng lưới, Ngân hàng Quân đội cần chú trọng lựa chọn địa thế thuận lợi và xây dựng cơ sở vật chất khang trang, một địa điểm giao dịch sang trọng, có nơi đỗ xe, có sơ đồ chỉ dẫn, có dịch vụ tư vấn,… là một nhân tố quan trọng thu hút khách hàng tới giao dịch. Khách hàng sẽ cảm thấy an tâm hơn, hài lòng hơn khi đến giao dịch tại một địa điểm thuận tiện, sang trọng và hiện đại. Hoàn thiện chính sách chăm sóc khách hàng như chăm sóc khách hàng có số dư lớn nhân dịp sinh nhật, các ngày lễ tết như Tết âm lịch, 8/3, 2/9, 20/10 và một số ngày lễ lớn, thực hiện việc thông báo số dư tài khoản, sổ đến hạn để khách hàng thấy được sự quan tâm của ngân hàng không chỉ tới số dư tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng mà là tới cả bản thân khách hàng. Mở rộng dịch vụ quỹ lưu động, giao dịch với khách hàng lớn tại địa điểm do khách hàng chỉ định như nhà của khách hàng, nơi khách hàng thu tiền,… để nhận tiền tại nhà, có xe ô tô đưa đón, dịch vụ bảo vệ cho khách hàng khi khách hàng đến giao dịch với những khoản tiền lớn. Bên cạnh đó ngân hàng có thể tổ chức Hội nghị khách hàng để nắm nguyện vọng và phổ biến chế độ, chính sách Ngân hàng cho khách hàng. Bố trí cán bộ tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng thông qua điện thoại: Không phải khách hàng nào cũng có thời gian để đến ngân hàng tìm hiểu các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đang cung cấp trước khi chọn cho mình một sản phẩm phù hợp chính vì thế việc tư vấn qua điện thoại là một công việc cần thiết. Ngân hàng cần thông báo rộng rãi số điện thoại, địa chỉ liên hệ để khách hàng tiện liên lạc và giao dịch. Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn: Đảm bảo ngoài việc thực hiện tốt chuyên môn còn phải có khả năng tư vấn giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo đem lại sự hài lòng cho khách hàng về sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, cần phải có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động vốn có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Công khai các chỉ tiêu tài chính: Ngân hàng cần phải công khai các chỉ tiêu tài chính quan trọng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng có sự hiểu biết về ngân hàng một cách đầy đủ. Mặt khác cũng cần đẩy mạnh mối quan hệ với cấp ủy và địa phương nơi hoạt động để tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cơ quan chức năng Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ: Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ cần phải xử lý mà vẫn đảm bảo được tuân thủ đúng các nguyên tắc kế toán ngân hàng cần phải hiện đại hóa, vi tính hóa tất cả các quy trình xử lý nghiệp vụ. Trước đây khách hàng rất ngại đến ngân hàng gửi tiền vì thủ tục giấy tờ rất rườm rà mất thời gian, nhân viên phục vụ thiếu mềm mỏng, tận tình nhiều nơi còn biểu hiện cửa quyền hách dịch. Hiện nay Ngân hàng Quân đội đã và đang không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình, tổ chức lại bộ máy, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình nghiệp vụ. Từng bước áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại, đồng thời tiếp tục thực hiện cải tiến các nghiệp vụ thanh toán truyền thống cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế Mặt khác, thủ tục giấy tờ trong giao dịch cũng cần được chú trọng hơn để giảm bớt công việc và thời gian cho khách hàng. Thiết kế giấy tờ giao dịch một cách khoa học, dễ đọc, dễ hiểu, ngắn gọn,… đảm bảo cho khách hàng có thể tiếp cận và hiểu một cách thấu đáo về nghiệp vụ giao dịch. 3.2.6 Nâng cao uy tín Ngân hàng Bên cạnh yếu tố hưởng lợi từ những khoản tiền lãi mà ngân hàng trả cho những món tiền gửi vào ngân hàng sau những thời gian nhất định thì yếu tố an toàn cũng không kém phần quan trọng đối với những người gửi tiền. Chính vì thế uy tín của ngân hàng là sự đảm bảo cho sự an tâm của khách hàng. Thông thường khách hàng sẽ đánh giá uy tín của Ngân hàng thông qua quy mô vốn, hoạt động lâu năm, trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật, danh tiếng trên thương trường… để đánh giá xem ngân hàng có đáng tin cậy để đem tài sản của mình gửi vào đó trong một khoảng thời gian nhất định hay không. Như vậy uy tín của ngân hàng là tổng hợp tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng, để khẳng định được uy tín của mình với khách hàng, đối tác và kể cả đối thủ cạnh tranh đòi hỏi phải có một sự nỗ lực hết mình của cả một tập thể với chiến lược cụ thể. Muốn vậy trước tiên cần phải thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi trường hợp không được phép thất chi, hoãn chi với khách hàng vì lý do thiếu tiền. Bên cạnh đó phải thực hiện khâu thanh toán nhanh chóng, chính xác thông qua áp dụng công nghệ hiện đại trong giao dịch: như máy đếm tiền, máy rút tiền tự động, máy soi tiền,… tham gia các kênh thanh toán trong và ngoài địa bàn để đảm bảo tính chính xác, tiết kiệm thời gian, thuận tiện cho khách hàng. Cần tạo dựng và duy trì hình ảnh các nghiệp vụ huy động cũng như ngân hàng trong con mắt xã hội và với khách hàng tiềm năng thông qua nhân viên ngân hàng như: thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, thái độ lịch sự, hướng dẫn nhiệt tình, vui vẻ, thể hiện phong cách giao tiếp hiện đại theo nét văn hóa riêng có của Ngân hàng Quân đội, thực hiện đúng Slogan của Ngân hàng Quân đội“ Vững vàng tin cậy”. 3.2.7 Xây dựng các chương trình marketing hiệu quả Ngày nay thông tin tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo là hoạt động cần thiết của tất cả các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng, nó vừa là một phương tiện, phương pháp kỹ thuật, nghệ thuật vừa là công cụ để nối liền hoạt động kinh doanh của ngân hàng với thị trường. Trong thời gian qua công tác tuyên truyền đã được Ngân hàng Quân đội chú trọng triển khai nhưng chưa thực sự có hiệu quả. Trong thời gian tới Ngân hàng cần phải tập trung hơn nữa cho công tác tuyên truyền quảng cáo tập trung một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, hình thức huy động, các hình thức khuyến mại, khai trương chi nhánh, phòng giao dịch mới,…Thực tế cho thấy nhiều đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng với lãi suất hấp dẫn trong một thời hạn ngắn mà vẫn không thu hút được nhiều khách hàng. Đó là do phần lớn người dân không biết đến những thông tin này ngoại trừ những khách hàng đã có mối liên hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những khách hàng có giao dịch với ngân hàng vào đúng thời điểm huy động của ngân hàng.Vì vậy việc tuyên truyền, quảng cáo cần phải tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng để từng người dân có thể biết đến những dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp và lợi ích của họ khi gửi tiền cũng như sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Cụ thể công tác khuyếch trương cần phải chú trọng những vấn đề sau: Cần phải khảo sát tất cả các đơn vị hành chính, tổ chức kinh tế, trường học, bệnh viện, tòa nhà, có địa điểm xung quanh trụ sở, chi nhánh, phân lọc các đơn vị có số lượng lao động tập trung. Tiếp cận và xây dựng mối quan hệ với các đơn vị trên. Phối kết hợp tất cả các phòng ban trong chi nhánh tận dụng các mối quan hệ để tiếp thị các doanh nghiệp mở tài khoản, sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như: dịch vụ thanh toán trong nước, quốc tế, tín dụng, trả lương qua tài khoản và sử dụng dịch vụ ATM,… Thực hiện dán áp phích quảng cáo cho các đợt tăng lãi suất, sản phẩm huy động mới. Gửi thư kèm tờ rơi, quà tặng cho từng phòng ban các đơn vị, từng khách hàng để giới thiệu về sản phẩm huy động mới, sự gia tăng lãi suất, chất lượng dịch vụ,…Khuyếch trương hình ảnh ngân hàng thông qua treo các băng rôn khẩu hiệu, tham gia tài trợ cho các chương trình hoạt động phổ biến tại các khu vực đông dân cư. Tham gia vào các tổ chức mang tính yểm trợ như: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng ASEAN, Hiệp hội ngân hàng châu Á, tham gia các Hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế,.. qua đó nhằm nâng cao uy tín, đảm bảo khả năng an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng. 3.2.8 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Con người là yếu tố trung tâm quyết định đến sự thành bại của mọi tổ chức doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng thương mại thì yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Muốn cho sự nghiệp kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển, hoạt động quản lý kinh doanh và chiến lược khách hàng được tiến hành thuận lợi, đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên quan tâm và đưa ra chiến lược con người phù hợp bắt đầu từ khâu tuyển dụng, sắp xếp bố trí công tác, thực hiện đào tạo và đào tạo cán bộ để có thể bắt kịp với những thay đổi. Dù hoạt động ở lĩnh vực nào, cán bộ, nhân viên ngân hàng cần quán triệt sâu sắc tinh thần tận tụy, chu đáo với sự nghiệp của toàn đơn vị. Cán bộ ngân hàng được coi như tấm gương phản chiếu về ngân hàng, là một yếu tố củng cố uy tín của ngân hàng. Do vậy phải tạo cho cán bộ ngân hàng một phong cách chuyên nghiệp, tác phong phục vụ khách hàng lịch sự, văn minh và có trách nhiệm. Mọi thành viên cần hiểu rõ khách hàng là người bạn đồng hành của ngân hàng và “khách hàng là người trả lương cho chúng ta”, cần hiểu nhu cầu và mong muốn của họ để từ đó mới thực hiện thành công chiến lược khách hàng vì chiến lược này phải được duy trì thường xuyên lâu dài. Bên cạnh đó cần có chính sách động viên, khuyến khích cán bộ của mình tự nâng cao nghiệp vụ bằng cách hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần, tạo mọi điều kiện cho các cán bộ được tìm hiểu, nghiên cứu, học tập hay tiếp cận với các mô hình, quy trình nghiệp vụ ở các nước có hệ thống ngân hàng hiện đại. Qua đó giúp các cán bộ có thể học hỏi kinh nghiệm, vận dụng một cách phù hợp với thực tế ở nước ta. Đồng thời cũng cần phải kiện toàn bộ máy quản lý, bố trí sắp xếp nhân lực hợp lý ổn định theo định hướng chọn người có trình độ khả năng phù hợp với vị trí công việc. Tổ chức bộ máy hoạt động theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. Để có được kết quả như trên Ngân hàng Quân đội cần chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ cho đến khâu đào tạo, quản lý để có được một đội ngũ cán bộ vừa có năng lực phẩm chất tốt vừa vững vàng về nghiệp vụ chuyên môn chỉ có như thế mới có thể quản lý điều hành tốt công tác huy động vốn cũng như làm tiền đề cho việc mở rộng quá trình huy động vốn trong tương lai. 3.3 KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: Để góp phần đưa nền kinh tế nước ta đi vào phát triển và ổn định, trước hết, chính phủ cần quản lý tốt các nhân tố vĩ mô trong đó quan trọng nhất là kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất để mọi tài sản dù thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được sung dụng vào các mục tiêu kinh tế, đồng thời bảo đảm khả năng sinh lời hợp lý trong mọi hoạt động đầu tư. Hoàn thiện môi trường pháp lý: Nhà nước tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động kinh tế nói chung, đến hoạt động các ngân hàng nói riêng tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động của doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng. Ổn định về tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, định hướng đầu tư, tiếp tục duy trì lạm phát ở mức thấp, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ để khuyến khích đầu tư, thực hiện đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp,…tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động. Có chính sách kinh tế hợp lý: Các chính sách kinh tế của Nhà nước đều có ảnh hưởng đến tất cả các thành phần kinh tế nói chung đến hoạt động ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy khi Nhà nước thực thi những chính sách kinh tế hợp lý sẽ tạo một môi trường hoạt động hiệu quả cho ngân hàng, đặc biệt là những chính sách kích thích đầu tư. Muốn vậy Nhà nước cần phải thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, công chứng và tài sản thế chấp, lệ phí đăng ký sở hữu tài sản,… Sớm hình thành thị trường vốn ở quy mô toàn quốc để mọi nguồn vốn phân tán, nhỏ bé đều được tập trung vào các cơ hội đầu tư sinh lời. Sự thiếu vắng của một thị trường vốn được tổ chức quy mô, bài bản và hiệu quả là một trong những nguyên nhân chính yếu làm cho tiềm năng vốn còn rất lớn ở trong dân cư hiện nay chưa được khai thác đúng mức vào các hoạt động kinh tế ích nước lợi nhà. Gấp rút kiện toàn về mặt tổ chức, thể chế và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp cũng là một bước đi cần thiết để thị trường vốn sớm phát huy tác dụng. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đối với nền kinh tế và là ngân hàng của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có vị trí quan trọng trong việc đề ra định hướng chiến lược kinh tế nói chung và chiến lược huy động vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nói riêng. Trên cơ sở Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng Ngân hàng Nhà nước xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ hệ thống các văn bản dưới luật, các quyết định, quy định của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả. Tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng đặc biệt đối với các trường hợp huy động vốn trái phép, cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng thương mại. Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt trong đó cần phải khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và tổ chức cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước cần dùng lãi suất làm “đòn bẩy” thúc đẩy các Ngân hàng thương mại chú trọng công tác huy động vốn. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài vào Việt nam qua kênh hệ thống các Ngân hàng thương mại. Ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,… nhằm giúp các ngân hàng nhánh chóng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả. Cho phép các Ngân hàng thương mại được phép mua bán các loại giấy tờ có giá như: trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu kho bạc,… nhất là các giấy tờ có giá dài hạn. Đồng thời cũng cần có các khoản vay ưu đãi hỗ trợ về mặt tài chính cho các Ngân hàng thương mại trong việc đổi mới công nghệ ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các tổ chức tín dụng bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó giúp khách hàng có được đánh giá đúng đắn về ngân hàng và đưa ra quyết định đúng đắn cho riêng mình. KẾT LUẬN Với xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, vững bước trên con đường hội nhập, chúng ta cần phải có một lượng vốn đủ mạnh để nâng cao nội lực, nâng tầm hoạt động để sánh vai với các nước trong khu vực. Ngân hàng với vai trò là "kênh dẫn vốn" cho nền kinh tế phải có đủ nguồn vốn đáp ứng mọi nhu cầu ngày càng phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, mỗi ngân hàng thương mại phải đưa ra những giải pháp cụ thể trong từng thời kỳ nhằm thu hút tối đa nguồn vốn huy động trong nước với những hình thức huy động vốn ngày càng phong phú và đa dạng hoá phù hợp với cung cầu vốn của nền kinh tế. Với động cơ này, luận văn đã đi vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. Luận văn đã làm sáng tỏ vấn đề, trong công tác huy động, Các Ngân hàng thương mại không chỉ hoàn thiện những hình thức sẵn có mà còn phải tiếp cận và chọn lọc để sử dụng các hình thức mới phù hợp với hoạt động của từng ngân hàng. Sau khi phân tích thực tế hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Quân độitừ năm 2003 - 2007, những kết quả đạt được, những tồn tại trong công tác huy động vốn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Quân đội. Luận văn trên là kết quả đạt được của tôi từ những nghiên cứu lý luận và thực tế trong nhiều năm công tác tại Ngân hàng Quân đội. Với mong muốn đóng một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào hoạt động thực tế nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Quân đội. Tác giả mong muốn những ý kiến, giải pháp của mình trong luận văn này sẽ có cơ hội thử nghiệm tại Ngân hàng Quân đội cũng như các Ngân hàng thương mại khác và thông qua đó góp phần nâng cao vị thế của Ngân hàng Quân đội trong công tác huy động vốn. Với những đặc điểm phức tạp và thường xuyên thay đổi của thị trường tiền tệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động huy động vốn cần phải được nghiên cứu sâu hơn kết hợp cùng với hoạt động sử dụng vốn để có thể đạt được hiệu quả. Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô và những người quan tâm để có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu này. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 09 năm 2008 Học viên Phạm Thị Hoa DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO David Cox (1997): Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội Frederic S. Mishkin (1991): Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật, Hà nội. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. Nguyễn Văn Nam, Vương Trọng Nghĩa (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại,NXB Tài chính, Hà Nội. Ngân hàng TMCP Quân đội (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2002), Quyết định 1287/2002/QĐ-Ngân hàng Nhà nước của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước, Hà nội Cao Sỹ Kiêm (1995), Đổi mới chính sách tiền tệ - tín dụng – ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. Trần Xuân Kiên (1996), Chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam, NXB Lao động, Hà nội. Peter S. Rose (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà nội. Quốc hội (1997), Luật các tổ chức tín dụng. Nguyễn Quốc Việt (1995), Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-64.doc
Tài liệu liên quan