Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục – Hà Nam

MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG, BIỂU NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Bình Lục 10 Bảng 2: Tình hình dư nợ của NHNo & PTNT huyện Bình Lục 12 Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT 17 huyện Bình Lục giai đoạn 2006 - 2008 17 Bảng 4: Cơ cấu nguồn huy động theo đối tượng huy động của NHNN&PTNN huyện Bình Lục thời kì 2006 – 2008 18 B

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục – Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng 5 : Tỷ trọng nguồn vốn theo đối tượng huy động của NHNN&PTNT huyện Bình Lục thời kỳ 2006 - 2008 18 Biểu đồ tỷ trọng các chỉ tiêu theo phương thức huy động vốn 23 Bảng 7: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn của NHNN&PTNN huyện Bình Lục trong thời kỳ 2006-2008 29 Biểu đồ tỷ trọng cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn 29 Bảng 8: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền của NHNN&PTNN huyện Bình Lục thời kì 2006-2008 32 Biểu đồ tỷ trọng huy động nguồn vốn theo loại tiền 33 Lời mở đầu Trải qua 56 năm xây dựng và phát triển, ngành ngân hàng đã góp phần to lớn đưa đất nước Việt Nam phát triển theo đường lối của Đảng và Bác Hồ đã chọn. Từ nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Có thể nói, ngân hàng thương mại là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, là mối liên kết giữa nền tài chính quốc gia và tài chính quốc tế, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Bước vào quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt từ 8% trở lên, đời sống nhân dân đang được cải thiện từng ngày, là nơi thu hút vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế. Hòa chung với sự biến đổi của cả nước, ngành ngân hàng đang tự khẳng định vị thế của mình đối với công cuộc phát triển của đất nước. Sau gần hai thập kỉ đổi mới, hệ thống ngân hàng nước ta đã tạo lập được những cơ sở vững chắc để tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng, cống hiện vào sự nghiệp chung của cả nước. Tuy nhiên, so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới thì trình độ các ngân hàng nước ta chỉ ở mức trung bình, hoạt động còn đơn điệu, công nghệ vẫn còn lạc hậu, giao dịch thủ công, chưa đồng bộ, khó liên kết với các ngân hàng khác. Để có thể tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn cho mình con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một trong các phương pháp tốt để giải quyết vấn đề của mình trong bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại phải tăng cường hoạt động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước, từ đó có thể đảm bảo khả năng thanh toán, phát triển các hoạt động đầu tư và cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Cùng với hệ thống NHNN&PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục được thành lập và hoạt động trong bối cảnh khó khăn về nhiều mặt, những ảnh hưởng to lớn và nặng nề của cơ chế bao cấp để lại. Tuy vậy, trong gần 12 năm qua chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục đã có nhiều cố gắng đặc biệt trong cơ chế thị trường, phát triển vững chắc, góp phần tích cực vào xây dựng nền kinh tế tỉnh Hà Nam cũng như sự phát triển bền vững của NHNN&PTNT VN. Nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển của ngân hàng và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện nay, em đã chọn đề tài nghiên cứu “Tăng cường huy động vốn tại NHNN&PTNT huyện Bình Lục – Hà Nam”. Đề tài có kết cấu gồm 2 phần: Chương 1: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại chí nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục Chương 2:Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại chi ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, em đã được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS-TS Từ Quang Phương, các thầy cô trong khoa Kinh tế đầu tư, các cô chú, anh chị trong Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN BÌNH LỤC I. Khái quát về Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện Bình Lục 1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Bình Lục Bình Lục là môt huyện thuần nông thuộc tỉnh Hà Nam diện tích tự nhiên vào khoảng 155,5 km2, và có dân số 160.019 người (thông kê huyện năm 2007). Huyện Bình Lục có 21 xã và 1 thi trấn, nằm trên quốc lộ 21A nối liền tỉnh Nam Định, Thái Bình so với các huyện khác Bình Lục có vị trí địa lý tương đối thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Khó khăn cho tỉnh nhà mới thành lập vào năm 1997 được tách ra nên đội ngũ cán bộ còn non trẻ nên điểm xuất phát kinh tế Hà Nam rất thấp. Mặc dù trong nhưng năm qua nền kinh tế phát rất khá, Bình Lục vẫn huyện nghèo so với mặt bằng chung của tỉnh, tỉ lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao do chủ yếu thiếu vốn để phát triển. 2. Sơ lược về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nôn thôn Việt Nam và chi nhánh huyện Bình Lục Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tên tiếng Anh VIET NAM BANK FOR AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT có trụ sở chính tại số 2 Láng Hạ - Ba Đình - Hà Nội, được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/ 3/ 1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ). Đến nay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Viêt Nam có mạng lưới rộng khắp tỉnh thành trên toàn quốc, bao gồm số lượng lớn nhân viên làm việc tại các sở giao dịch chi nhánh tỉnh, thành phố, huyện, xã. Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục là chí nhánh cấp 2 trực thuộc ngân hàng nông nghiệp tỉnh Hà Nam là chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHNN&PTNT Việt Nam và được tách ra từ NHNN&PTNT tỉnh Nam Hà (năm 1997). Có trụ sở chính tại thị trấn Bình Mỹ - huyện Bình Lục - tỉnh Hà Nam. Hiện nay ngân hàng đã thành lập 2 chi nhánh cấp 3 là: - Ngân hàng nông nghiệp Ngọc Lũ - Ngân hàng nông nghiệp Tiêu Động Ngân hàng nông nghiệp huyện Bình Lục đã và đang ngày càng phát triển hoà chung vào sự phát triển toàn nghành và của đất nước.Phát huy vai trò to lớn của mình đối với kinh tế địa phượng, đưa kinh tế huyện đi lên, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước, xứng đáng là đơn vị được nhà nước trao tặng Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. 2.1 Cơ cấu tổ chức, mạng lưới hoạt động Theo quy định chung cơ cấu tổ chức sở giao dịch, chí nhánh cấp 1 và chi nhánh cấp 2 như sau: TRỤ SỞ CHÍNH CÔNG TY TRỰC THUỘC ĐỢN VỊ SỰ NGHIỆP VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN CHI NHÁNH CẤP I SỞ GIAO DỊCH QUỸ TIẾT KIỆM PHÒNG GIAO DỊCH CHI NHÁNH CHI NHÁNH CẤP II QUỸ TIẾT KIỆM PHÒNG GIAO DỊCH CHI NHÁNH CẤP III PHÒNG GIAO DỊCH QUỸ TIẾT KIỆM - Đến nay NHNo huyện Bình Lục có 8 phòng ban và 2 chi nhánh trực thuộc gồm 50 cán bộ,trong đó nữ chiếm trên 60%. Lao động làm chuyên môn nghiệp vụ: Tín dụng 42%, kế toán 20%, giám định viên 2%, ngân quỹ 16%, tin học 4%, hành chính, lái xe, bảo vệ, lao công 14%, nghiệp vụ khác 2%. - Về trình độ chuyên môn: Đại học, Cao đẳng 54% Trung học: 36%, Sơ cấp:10%. BGĐ của NHNo huyện Bình Lục bao gồm Giám đốc và 2 Phó giám đốc và các Trưởng phó Phòng (Tổ) nghiệp vụ vừa điều hành kinh doanh chung đối với các Chi nhánh trực thuộc và tham mưu giúp việc cho Ban giám đốc. Giám đốc Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNN&PTNT huyện Bình Lục Phó giám đốc Phòng hành chính Phòng kế toán Phòng kiểm soát viên Ngân quỹ Kế toán Phòng tín dụng Phòng nguồn vốn Chi nhánh NHNo Tiêu Động Chi nhánh NHNo Ngọc Lũ 2.2 Chức năng và nhiệm vụ chính của các Phòng (Tổ) tại NHNo huyện Bình Lục. a - Phòng Kế toán- Ngân quỹ : Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán , xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo qui định của NHNo & PTNT trên địa bàn. b - Phòng Tín dụng: Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, phân tích khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn, thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền, thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn (NQH), tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục. c - Phòng Nguồn vốn - Kế hoạch tổng: Xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của NHNo, tổng hợp theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch đến các chi nhánh NHNo trên địa bàn. d- Phòng Vi tính: Tổng hợp, thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh, xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ và tín dụng và các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh. e- Tổ Tiếp thị: Nghiên cứu, phân loại thị trường, phân loại khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng về nguồn vốn, thị trường đầu tư vốn và thị trường tín dụng, nghiên cứu thị trường để đưa ra các sản phẩm dịch vụ NH hiện đại. f- Tổ Thẻ. Làm nhiệm vụ quản lý, theo dõi hoạt động các máy rút tiền tự động, thanh toán Thẻ tín dụng nội địa., đầu mối phát hành Thẻ các loại và thực hiện các nghiệp vụ khác liên quan đến công tác hoạt động của các máy ATM, POS.. và quản lý các loại thẻ do NHNo VN phát hành. g - Phòng Tổ chức - cán bộ: Xây dựng quy định lề lối làm việc trong đơn vị và mối quan hệ với tổ chức Đảng, Công đoàn, chi nhánh trực thuộc trên địa bàn, đề xuất mở rộng mạng lưới kinh doanh trên địa bàn. h - Phòng Hành chính: Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được giám đốc chi nhánh phê duyệt, đảm bảo công tác hậu cần, cơ sở vật chất phục vụ kịp thời các hoạt động kinh doanh của NHNo huyện Bình Lục. 3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNN & PTNT huyện Bình Lục Sau 12 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, NHNN&PTNT huyện Bình Lục đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và các hoạt động khác Bên cạnh việc tích cực tìm mọi giải phát để huy động vốn nhất là tiền gửi từ dân cư và đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, từ năm 2001 ngân hàng đã có bước tăng trưởng khá. Nguồn vốn tăng trưởng bình quân đạt 40%/năm, dư nợ tăng trưởng bình quân 20%/năm, lợi nhuận tăng trưởng bình quân 20%/năm. Tự chỗ luôn thiếu tiền mặt để chi cho các nhu cầu lĩnh tiền mặt, đến nay luôn bội thu tiền mặt, tất cả các nhu cầu nộp lĩnh tiền mặt của các đơn vị và cá nhận có quan hệ tiền mặt với NHNo&PTNT huyện Bình Lục đều được đáp ứng kịp thời, đầy đủ, chính xác góp phần tích cực vào sự ổn định tiền tệ và giá cả trên địa bàn . Để chuẩn bị cho hội nhập trong khu vực và quốc tế, NHNo&PTNT huyện Bình Lục đã từng bước hiện đại hóa hoạt động Ngân hàng mà trọng tâm là công tác thanh toán, chuyển tiền điện tử cho khách hàng, đến nay mọi nhu cầu chuyển tiền cho khách hàng trong và ngoài hệ thống được thực hiện ngay trong ngày làm việc, thậm chí chỉ trong thời gian rất ngắn với độ an toàn và chính xác cao. Đến nay Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Bình Lục đã và đang triển khải thực hiện tất cả các sản phẩm dịch vụ tiện ích của Ngân hàng hiện đại như: - Nhận các loại tiền gửi, tiền gửi tiết kiểm, kỳ phiếu bằng VNĐ và ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế và cá nhân với lãi suất linh hoạt, hấp dẫn. Tiền gửi của các thành phần kinh tế đều được bảo hiểm theo quy định của Nhà nước. - Thực hiện đồng tài trợ bằng VND, USD các dự án, chương trình kinh tế lớn với tư cách là ngân hàng đầu mối hoặc ngân hàng thành viên với thủ tục thuận lợi nhất, hoàn thành nhanh nhất. - Cho vay các thành phần kinh tế theo lãi suất thỏa thuận với các loại hình cho vay đa dạng: ngắn hạn, trung, dài hạn bằng VND và các ngoại tệ mạnh. Cho vay cá nhân, hộ gia đình có bảo đảm bằng tài sản, cho vay tiêu dùng… - Phát hành thẻ tín dụng nội địa. - Bảo lãnh ngân hàng: Bảo lãnh dự thầu , Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Bảo lãnh thanh toán, Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm... - Thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, chuyển tiền bằng hệ thống SWIFT với các ngân hàng lớn trên thế giới bảo đảm nhanh chóng, an toàn, chi phí thấp. - Chuyển tiền nhanh chóng trong và ngoài nước với dịch vụ chuyển tiền nhanh Weston Union, chuyển tiền du học sinh, kiều hối. - Mua bán trao ngay và có kỳ hạn các loại ngoại tệ. - Thanh toán thẻ Visa, Master, … - Cung cấp các dịch vụ ngân quỹ: Dịch vụ thu chi tiền mặt… - Dịch vụ rút tiền tự động 24/24 (ATM). - Dịch vụ vấn tin qua điện thoại, giao dịch từ xa qua mạng. - Thực hiện các dịch vụ khác về tài chính, ngân hàng. 3.1 Hoạt động huy động vốn Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Bình Lục (Đơn vị: triệu đồng) LOẠI NGUỒN VỐN Thực hiện 31/12/2006 Thực hiện 31/12/2007 Thực hiện 31/12/2008 SO SÁNH(08/07) (+) (-) % Tổng nguồn vốn huy động 167.187 210.491 279.809 69.318 32,93 I. Phân loại tiền 1. Bằng VND 151.726 189.288 255.264 65.976 34,85 2. Bằng ngoại tệ 15.461 21.203 24.545 3.342 15,76 II. Phân theo thành phần kinh tế 1. TG dân cư 107.677 132.692 184.406 51.3863 38,63 2. TG các tổ chức KT, TC 59.343 77.471 95.189 17.718 22,87 3. TG các TCTD 167 328 214 -114 -34,75 (Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT huyện Bình Lục) Hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT huyện Bình Lục qua 4 năm đã có sự tăng trưởng vượt bậc, năm 2008 tăng 32,93% so với năm 2007 mà trong năm 2008 lạm phát rất cao do khủng hoảng tài chính toàn cầu nên huy động vốn rất khó khăn. Trong đó đã có sự tăng trưởng cao ở khoản mục Tiền gửi dân cư và TCKT trong nước. Về nguồn vốn huy động phân theo loại tiền có thể thấy nguồn vốn huy động của chi nhánh là nội tệ. Nguồn ngoại tệ giảm mạnh vào năm 2008 chỉ tăng có 15,76% so với năm 2007. Năm 2008 có nhiều sự biến động về tỷ giá của đồng USD. Tỷ giá giăm mạnh vào tháng 2, tăng mạnh vào tháng 6 và lại giảm mạnh vào những tháng cuối năm. Đây là sự biến động mang tính dây chuyền do sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ trong những năm gần đây. Do đó, lãi suất huy động USD cũng có nhiều biến động do đó nguồn huy động từ ngoại tệ giảm mạnh. Nhìn chung, nguồn vốn huy động tăng cao trong những năm gần đây với mức tăng hàng năm khoảng 25%.Tiền gửi từ các TCKT có xu hướng tăng và trở thành nguồn vốn huy động chính của ngân hàng, tăng 22,87% vào năm 2008 so với năm 2007. Đây là nguồn vốn có chi phí rẻ và ít chịu tác động rút tiền trước hạn do thay đổi lãi suất. Để đạt được kết quả như trên NHNo & PTNT huyện Bình Lục đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đáp ứng nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cho khách hàng như huy động tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm khuyến mại bằng tiền và hiện vật đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng có khuyến mại (NHNoViệt Nam phát hành) với nhiều hình thức trả lãi tháng, quý, năm, lãi trước, lãi sau, huy động tiền gửi bậc thang, gửi góp, tiết kiệm khuyến mại, bảo hiểm thân thể, dự thưởng…, phát hành các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi VNĐ, USD, EUR thời hạn từ 01 đến 60 tháng; đồng thời Chi nhánh đã chủ động điều chỉnh lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt, phù hợp lãi suất của các TCTD trên địa bàn, đặc biệt là điều chỉnh lãi suất huy động vốn ngoại tệ, đã góp phần nâng cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ dân. Không những thế phong cách giao dịch được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng. Ngân hàng đã tạo lập được một mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch rộng khắp, do vậy, đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư khá lớn tạo điều kiện cho chi nhánh đủ nguồn vốn đáp ứng cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đầu tư các dự án lớn mở rộng sản xuất, thay đổi thiết bị công nghệ, triển khai xây dựng khu đô thị mới… Thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh. Trong năm công tác huy động vốn của Chi nhánh đã đạt kết quả đáng kể, đặc biệt việc thay đổi cơ cấu nguồn vốn. Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư Chi nhánh còn tìm mọi biện pháp giữ vững và tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các Tổ chức xã hội nhằm tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn . Huy động vốn năm 2008 nhìn chung có nhiều biến động tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, đây là khó khăn chung của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Khắc phục những khó khăn khách quan và chủ quan trong năm NHNo&PTNT huyện Bình Lục đã liên tục đảm bảo khả năng tự cân đối nguồn vốn để đầu tư tín dụng và đáp ứng tốt mọi nhu cầu thanh toán đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn. Bên cạnh đó năm 2008, Chi nhánh thường xuyên khan hiếm nguồn vốn do tình hình kinh tế bất ổn do khủng hoảng tài chính toàn cầu. 3.2 Hoạt động sử dụng vốn Bảng 2: Tình hình dư nợ của NHNo & PTNT huyện Bình Lục (Đơn vị:triệu đồng) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05(%) Số tiền 07/06(%) Số tiền 08/07(%) Tổng dư nợ 150.128 115,02 195.763 130,4 195.276 99,75 Dư nợ ngắn hạn 74.925 121,32 104.126 138,97 123.102 118,22 Dư nợ trung hạn 75.203 118,87 91.637 121,85 72.174 78.77 Nợ xấu 485 125,42 1.048 1116 2.389 227.9 Tỷ lệ nợ xấu/Tổng DN 0,32% 0,53% 1.22% (Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT huyện Bình Lục) Hoạt động tín dụng trong năm 2008 gặp nhiều khó khăn và giảm do kinh tế bất ổn trong thời kỳ lạm phát cao và chưa có định hướng rõ ràng cụ thể. Có giai đoạn thiếu nguồn vốn nên NHNo huyện Bình Lục không có việc để làm Hoạt động đầu tư tín dụng của NHNo huyện Bình Lục năm 2007 thực hiện tốt chỉ đạo của NHNo VN là: Vốn chỉ tập trung chủ yếu cho các phương án, dự án thực sự có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế, tập trung vào các Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Mặt khác NHNo huyện Bình Lục cũng đã và đang thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của NHNN về việc trích và xử lý rủi ro đối với nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro, từng bước nâng cao chất lượng lành mạnh hoá đầu tư tín dụng, do vậy dư nợ đạt gần 195.763 triệu đồng. Cho vay Trung hạn các năm gần đây đều chiếm tỷ trọng cao và tăng dần qua các năm,năm 2007 thì tỷ lệ này đã đạt 121,85% với năm 2006 nhưng năm 2008 chỉ bằng 78,77% so năm 2007. Điều này là một tín hiệu không tốt cho sự tăng trưởng và phát triển của ngân hàng. Mặt khác trong điều kiện thị trường vốn tuy có phát triển trong những năm gần đây nhưng chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn tích cực thì việc ngân hàng tài trợ cho các dự án trung và dài hạn vẫn là một bước đi cần thiết đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà. Để có được những kết quả trên NH đã mở rộng phương thức cho vay, như cho vay đồng tài trợ với các NHTM Quốc doanh, NHTM Cổ phần trên địa bàn đối với các dự án lớn có hiệu quả. Không những thế Chi nhánh còn mở rộng cho vay hộ sản xuất, vay sinh hoạt đối với công chức, viên chức, sĩ quan, công nhân trong các doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, lực lượng vũ trang với dư nợ gần 195.276 triệu đồng, đã hỗ trợ cho nhiều gia đình cải tạo, sửa chữa nhà ở, mua sắm tiện nghi sinh hoạt trong gia đình nhằm cải thiện nâng cao đời sống cán bộ nhân dân trên địa bàn tỉnh. Cùng với việc đầu tư các dự án có hiệu quả chi nhánh đã không ngừng đổi mới, nâng cao phong cách giao dịch văn minh lịch sự, đồng thời còn làm nhiệm vụ tư vấn giúp khách hàng các mặt nghiệp vụ ngân hàng. Do đó, đã có thêm 265 khách hàng là tổ chức kinh tế mở rộng quan hệ giao dịch thanh toán và tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bình Lục. Về chất lượng đầu tư tín dụng: Chất lượng tín dụng của NHNo & PTNT huyện Bình Lục qua 3 năm liên tục có những biến động theo những quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, Nợ xấu năm 2008 tăng cao so với năm 2007do từ năm 2006 Ngân hàng Nhà nước ban hành quy đinh 493 về phân loại nợ, do đó Nợ xấu đã được đánh giá thực chất hơn. Từ năm 2006, để nâng cao chất lượng tín dụng chi nhánh đã quan tâm chỉ đạo sát sao công tác thẩm định món vay, kiểm tra trước trong và sau khi cho vay được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Đặc biệt thực hiện QĐ 493 về việc cơ cấu và phân loại nợ theo nhóm chi nhánh đã triển khai thực hiện nghiêm túc việc rà soát toàn bộ dư nợ hiện tại theo thời điểm hàng tháng nhằm đánh giá thực trạng nợ theo từng thời điểm từ đó đưa ra những giải pháp xử lý nghiêm túc nhằm đảm bảo xác định đúng chất lượng tín dụng đang lưu hành. Đến nay chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt nhờ sự phát triển của các doanh nghiệp, sự chỉ đạo chặt chẽ và nghiêm túc của Ban giám đốc và tinh thần trách nhiệm của cán bộ nghiệp vụ tín dụng. Thực tế, tỷ lệ nợ xấu chưa vượt mức quy định do NH nhà nước đề ra là 2%. Đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng chứng tỏ công tác quản lý nợ có hiệu quả và chất lượng tín dụng của ngân hàng đang được nâng cao. 3.3 Hoạt động dịch vụ Hoạt động thanh toán Hoạt động thanh toán là một nghiệp vụ rất quan trọng, vì nghiệp vụ này có liên quan đến phát triển kinh tế của đất nước cũng như từng doanh nghiệp (DN) nên NHNo & PTNT huyện Bình Lục trong 4 năm đã từng bước làm tốt công tác thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. Do thị trường hối đoái biến động mạnh, chỉ số giá tiêu dùng tăng, cơ cấu xuất nhập khẩu mất cân đối, bên cạnh là sự cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt giữa các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nam nhằm duy trì sự phát triển và mở rộng thị phần. Các ngân hàng chỉ có thể khắc phục bằng cánh không ngừng cải tiến phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoạt động thanh toán của Chi nhánh trong những năm qua đã có sự tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng bình quân từ 15% đến 20%, tốc độ tăng trưởng năm sau tăng nhanh hơn năm trước Trong đó, hoạt động thanh toán nội địa năm 2006 tăng 16,76% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 21,84% so với năm 2006. Doanh thu của hoạt động thanh toán nội địa tăng một phần do nền kinh tế tăng trưởng mạnh trong những năm trở lại đây và nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt cũng tăng cao. Năm 2007 được đánh dấu bởi sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, chính sự kiện này đã thúc đẩy quá trình giao lưu buôn bán hàng hóa giữa Việt Nam với các nước làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu đều tăng mạnh. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong năm 2008 mặc dù gặp nhiều khó khăn do tình hình biến động của tỷ giá thất thường nhưng doanh số mua bán của các loại ngoại tệ chính như USD, EUR, JPY… đều tăng mạnh. Hoạt động chuyển tiền và thanh toán khác Chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày càng được ổn định và từng bước phát huy hiệu quả, bước đầu chiếm lĩnh thị trường và góp phần vào kết quả kinh doanh của Hà Nam như : chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh WU, chuyển tiền phi thương mại…Doanh số các dịch vụ chuyển tiền đều tăng qua các năm. Trong đó, dịch vụ chuyển tiền kiều hối có đà tăng trưởng mạnh, doanh số 2006 tăng 39,79% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 182,05% so với năm 2006. Đạt được sự tăng trưởng trên là do lượng kiều hối của các kiều bào ở nước ngoài chuyển về Việt Nam trong những năm gần đây gia tăng khá mạnh do trong nước xuất hiện nhiều kênh đầu tư bùng nổ cộng với khả năng chuyển tiền nhanh và mối quan hệ với nhiều ngân hàng trên thế giới của chi nhánh. Bên cạnh đó, dịch vụ chuyển tiền WU tăng mạnh 181,81% vào năm 2006 nhưng lại giảm 37,7% vào năm 2007. Sở dĩ có sự giảm mạnh là do sự xuất hiện của nhiều ngân hàng làm đại lý cho dịch vụ chuyển tiền WU vào năm 2007. Ngoài ra, các hoạt động khác như thanh toán séc du lịch, thẻ tín dụng quốc tế, chuyển tiền phi thương mại mặc dù chưa duy trì được độ tăng trưởng ổn định và tạo thu nhập còn chưa cao nhưng cũng mang lại một khoản lợi nhuận đóng góp vào lợi nhuận từ dịch vụ của chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục. Phát triển dịch vụ ngân hàng Đến nay Chi nhánh đã triển khai nhiều hình thức dịch vụ: Chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thanh toán biên mậu, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa thẻ ghi nợ. Thanh toán thẻ ACB, Master Card, VisaCard, American Express, thanh toán séc du lịch … thu đổi ngoại tệ, dịch vụ Fone-banking, dịch vụ thu chi tiền mặt tại DN, tại nhà đối với khách hàng có số tiền gửi lớn, dịch vụ bảo lãnh dự thầu, thu hộ chi hộ, thanh toán xuất nhập khẩu, thanh toán phi thương mại, dịch vụ Ngân quỹ, đại lý bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, cầm cố chiết khấu bộ chứng từ, dịch vụ thanh toán biên mậu với các nước có chung đường biên giới. Việc thu chi tiền mặt, quản lý thẻ phiếu trắng, ấn chỉ có giá được chấp hành nghiêm túc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHNo VN. Do vậy Chi nhánh luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình thu chi tiền mặt đối với khách hàng, quản lý tài sản của NH không để xảy ra tình trạng sai sót trong quá trình giao dịch. Nhìn chung năm 2008 việc triển khai các loại hình dịch vụ đã triển khai thực hiện ngay từ đầu năm trong toàn Chi nhánh đã được quán triệt đến từng Phòng ban, từng chi nhánh trực thuộc và toàn thể cán bộ nắm bắt và hiểu rõ các sản phẩm dịch vụ tiện ích, đây là một việc làm khó nhưng toàn thể cán bộ nhân viên đã nâng cao ý thức, coi việc phát triển các loại hình dịch vụ là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Bình Lục trước mắt và những năm tiếp theo, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. 3.4 Kết quả kinh doanh Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bình Lục giai đoạn 2006 - 2008 (Đơn vị:triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 % (06/05) Năm 2007 % (07/06) Năm 2008 % (08/07) 1.Tổng thu 18.557 124,75 30.084 162,11 42.543 141,41 2.Tổng chi 12.677 119,15 21.072 166,22 35.610 168,99 Lợi nhuận 5.880 138,81 9.012 153.26 6.933 76,93 (Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT huyện Bình Lục) Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều sự biến động lớn nhưng nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh rất khả quan và theo chiều hướng tốt. Có thể thấy rõ tổng thu nhập và chi phí của chi nhánh đều tăng qua các năm, trung bình tăng đến 47% mỗi năm. Điều này có thể nhận thấy rõ khi mà cả nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của chi nhánh đều tăng qua các năm. Bên cạnh đó, lạm phát tăng cao nên lãi suất huy động đầu vào và chi trả đầu ra cũng tăng lên đáng kể. Chính các yếu tổ này gây nên ảnh hưởng lớn đối với tổng thu nhập và chi phí năm 2008 nên lợi nhuận chỉ bằng 76,93% so với năm 2007 Nhưng do những nguyên nhân khách quan đã nêu ở trên của nền kinh tế cộng với việc xuất hiện các kênh đầu tư khác như bất động sản. thị trường chứng khoán… phát triển mạnh mẽ trong năm 2007, việc bùng nổ của hệ thống các NHTM cổ phẩn trong năm qua đã thu hút một số lượng lớn khách hàng làm cho mức tăng lợi nhuận của ngân hàng có vẻ chững lại. Theo chiều hương mấy năm qua thì ngân hàng đang chú trọng phát triển các mảng cung cấp các dịch vụ. Và tiếp tục phát triển tốt mảng dịch vụ nên đây là một tín hiệu đáng mừng chứng tỏ hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đang được tăng cao thông qua kênh cung cấp dịch vụ thanh toán. Tóm lại trong 3 năm vừa qua, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, biến động nhưng chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bình Lục vẫn tiếp tục đứng vững và duy trì được hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. II. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo huyện Bình Lục 1. Theo đối tượng Bảng 4: Cơ cấu nguồn huy động theo đối tượng huy động của NHNN&PTNN huyện Bình Lục thời kì 2006 – 2008 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05 (%) Số tiền 07/06 (%) Số tiền 08/07 (%) Tiền gửi từ dân cư 107.677 147,45% 132.692 123,23% 184.406 138,63% Tiền gửi từ TC KT-TC 59.343 117,8% 77.471 130,54% 95.189 122,87% Tiền gửi từ TCTD 167 20,84% 328 196,4% 214 65,24% Tổng NV huy động 167.187 134,61% 210.491 125,9% 279.809 132,93% Bảng 5 : Tỷ trọng nguồn vốn theo đối tượng huy động của NHNN&PTNT huyện Bình Lục thời kỳ 2006 - 2008 Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tiền gửi từ dân cư 64,4% 63,04% 65,9% Tiền gửi từ TC KT-TC 35,5% 36,8% 34,02% Tiền gửi từ TCTD 0,1% 0,16% 0,08% Tổng NV huy động 100% 100% 100% (Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT huyện Bình Lục) Nhìn vào bảng có thể thấy là hoạt động huy động vốn của chi nhánh qua các năm đều đạt mức tăng trưởng khá. Tiền gửi từ dân cư Xét về bản chất tiền gửi tiết kiệm từ dân cư là môt phần thu nhập người lao động họ gửi vào ngân hàng để an toàn và được hưởng lãi từ số tiền gửi đó. Các khoản tiền gửi tiết kiệm từ dân cư có thể là nhỏ lẻ nhưng nhiều khoản của đông đảo khách hàng tập hợp lại sẽ tạo thành nguồn vốn có quy mô lớn, dồi dào cho những ngân hàng biết khai thác. Do đặc điểm thường là tiền gửi tiết kiệm nên có kỳ hạn dài, do đó ngân hàng thường sử dụng nguồn vốn này cho việc tài trợ các dự án đầu tư dài hạn của ngân hàng. Số lượng khách hàng đến gửi tiết kiệm NHNN&PTNT huyện Bình Lục nhiều hơn TCTD và ngân hàng khác trên địa bàn, vì có quảng bá rộng rãi về các hình thức gửi tiết kiệm trên các phương tiện thông tin đại chúng và dịch vụ chăm sóc khách hàng. Năm 2007, Thị trường chứng khoán phát triển, trở thành kênh đầu tư hấp dẫn hàng đầu, thu hút rất nhiều nhà đầu tư. Điều này là nguyên nhân khiến tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng của dân cư bị giảm và chảy mạnh qua chứng khoán. Nhưng nguồn vốn huy động từ dân cư vẫn tăng khá 23,23 % tương ứng với 25.015 triệu đồng so với năm 2006, chiếm tỷ trọng 63,04% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2007, sự cạnh tranh của khá nhiều NHTM cổ phần mới xuất hiện trong khu vực cũng là một nguyên nhân làm tốc độ tăng trưởng của nguồn tiền này có xu hướng giảm nhẹ so với năm 2006. Năm 2008, Chi nhánh đã thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi như tiến hành rầm rộ các đợt tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm có khuyến mãi bằng hiện vật, phát hành kì phiếu và chứng chỉ tiền gửi có thời hạn từ 01 đến 60 tháng, đợt phát hành trái phiếu của NHNN&PTNN Việt Nam…. Nhờ đó, nguồn vốn huy động từ dân cư trong năm nay có sự tăng trưởng đột biến với mức tăng trưởng 38,63%, tương ứng với 51.714 triệu đồng so với năm 2007, chiếm tỷ trọng tới 65,9% trong Tổng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên năm 2008 cùng với các chiến dich huy động tiền gừi rầm rộ các dịch vụ chăm sóc khách hàng, các hình thức gửi tiêt kiệm mới (gửi tiết kiệm bậc thang, gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, rút gốc linh hoạt…), lạm phát làm đồng t._.iền mất giá, lãi suất tiết kiệm thay đổi liên tục, có lúc lãi suất tiết kiệm bị đẩy lên cao, có thời điểm là 17%/năm vào tháng 10 năm 2008 và làm người dân hoang mang chỉ gửi thời gian rất ngắn 1 tuần đến 1 hoặc 2 tháng… Những vấn đề này đã gây khó khăn trong hoạt động của ngân hàng cũng như làm tăng chi phí huy động nguồn. Nguồn tiền huy động từ dân cư là nguồn tiền có quy mô lớn, có thể dùng cho việc tài trợ các dự án dài hạn nhưng lại mang tính không ổn định, phụ thuộc nhiều vào quyết định của người gửi tiền. Khách hàng loại này có thể không đưa tiền đến gửi ngân hàng nếu như họ tính được lãi suất mà ngân hàng trả cho khoản tiền mà họ hy sinh thời gian sử dụng không bằng việc mua vàng hay đô la hoặc tham gia đầu tư khác. Vì thế, nguồn tiền này phụ thuộc rất lớn vào khả năng phân tích cũng như đưa ra quyết định đầu tư của khách hàng. Một điểm đáng chú ý là nguồn tiền huy động từ dân cư là nguồn huy động quan trọng nhất đối với chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục, chiếm tới hơn 60% tổng nguồn vốn huy động. Do đặc điểm kinh tế của huyện Bình Lục: là huyện thuần nông, kinh tế kém phát triển, các Tổ chức tín dụng cũng như các Tổ chức kinh tế - tài chính trong huyện là không nhiều, quy mô hoạt động nhỏ lẻ, nên nguồn vốn huy động từ các Tổ chức kinh tế - tài chính này là không cao, chủ yếu là tiền gửi thanh toán, không ổn định. Bởi vậy, nguồn huy động từ dân cư là nguồn vốn khá ổn định, tiềm năng lớn, càng trở nên quan trọng hơn đối với hoạt động của Chi nhánh. Kết quả cho thấy chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục luôn lỗ lực hết mình để nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn, đặc biệt từ tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi từ các Tổ chức tín dụng Đây là khoản tiền gửi của các Tổ chức tín dụng tại ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 0,1% trong tổng nguồn vốn và dùng để sử dụng linh hoạt nhưng lại khá cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng. Khoản tiền này thường dùng vào mục đích thanh toán, tạo ra sự lưu thông giữ các ngân hàng trong cùng hệ thống các ngân hàng thương mại, đảm bảo cho khâu thanh toán được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Do nguồn này thường không dùng để đầu tư sinh lời, mà chỉ để đáp ứng nhu cầu thanh toán giữa các ngân hàng, nên nhìn chung thì nguồn tiền này đang có xu hướng ổn định cả về tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ trọng qua các năm. Tiền gửi từ các Tổ chức kinh tế - Tài Chính Khoản tiền gửi từ các Tổ chức kinh tế trong 3 năm qua thường chiếm tỷ trọng cao và đạt mức tăng trưởng khá. Đây là khoản tiền mà các doanh nghiệp gửi vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là thanh toán và có thể nhằm để sinh lời khi nguồn vốn nhàn rỗi chưa cần sử dụng đến. Do đó, đây là nguồn vốn có chi phí thấp, quy mô lớn, sử dụng tuy linh hoạt nhưng lại không phụ thuộc vào nhiều vào tác động của lãi suất cạnh tranh. Do đó, nguồn tiền này có thể được dùng để tài trợ cho các dự án ngắn hạn. Có thể thấy, nguồn vốn huy động từ đối tượng này tuy chiếm tỷ trọng lớn, quy mô lớn, đạt được mức tăng trưởng nhanh chóng nhưng có đặc điểm không ổn định, phụ thuộc nhiều vào tình hình sản suất kinh doanh của đối tác, cũng như bị ảnh hưởng bởi tính chất mùa vụ của sản xuất lưu thông, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó cần có các biện pháp quản lý thanh khoản, để đáp ứng nhu cầu thanh toán trong một số thời điểm trong năm. Đây là một nguồn huy động rẻ và linh hoạt, rất quan trọng, nên Chi nhánh cần đưa ra các chính sách khách hàng linh hoạt và cụ thể, xác định đúng đối tượng trọng tâm, khách hàng chiến lược, đưa ra các mức lãi suất linh hoạt và cung cấp, đa dạng hóa thêm các dịch vụ… để tăng lượng huy động và chất lượng từ nguồn vốn tiềm năng này Tổ chức tài chính được đề cập ở đây là các tổ chức chuyên trách về tài chính như kho bạc nhà nước… Do đó, khoản tiền gửi của các tổ chức này thường mang tính chất thanh toán, chi trả, lưu thông tiền tệ, cung cấp thêm vốn đối với NHNN&PTNN tuy là một ngân hàng thương mại nhưng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp nên cũng được áp dụng các hình thức ưu tiên. Năm 2007 huy động vốn từ các tổ chức KT-TC tăng 30,54% so với 2006 tuơng ứng 18.128 triệu đồng và chiếm tỉ trọng 36,8 % trong tổng nguồn vốn. Trong năm 2008 tăng 22,87% so với năm 2007 và tương ứng 17.718 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 34,02% tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn giảm sút vì những ảnh hưởng kinh tế năm 2008 Đây là nguồn vốn có tỷ trọng khá cao và ổn định trong tổng nguồn vốn huy động., chi nhánh cần tiếp tục phát huy các biện pháp sử dụng trong việc tăng cường huy động nguồn vốn này. 2. Theo phương thức huy động Bảng 6: Cơ cấu nguồn huy động phân theo phương thức huy động của NHNN&PTNN huyện Bình Lục thời kỳ 2006 - 2008 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05(%) Số tiền 07/06(%) Số tiền 08/07(%) Tiền gửi không kỳ hạn 65.704 244,4% 87.143 132,6% 76.378 87,65% Tiền gửi có kỳ hạn 57.011 94,5% 63.779 111,9 88.142 138,2% Tiền gửi tiết kiệm 40.125 105,5% 46.941 117% 109.965 234,3% Phát hành giấy tờ có giá 4.347 149,1% 12.628 209,5% 5.324 42,2% Tổng NV huy động 167.187 134,61% 210.491 125,9% 279.809 132,93% Biểu đồ tỷ trọng các chỉ tiêu theo phương thức huy động vốn ( Nguồn báo cáo tổng kết hoạt động của NHNN&PTNN huyện Bình Lục) Có thể nhận thấy, tại những nước đang phát triển như ở Việt Nam, đa phần người dân thường sử dụng tiền mặt trong thanh toán và sử dụng vàng, bất động sản hoặc các ngoại tệ mạnh làm phương tiện cất giữ tiền. Do đó, việc đa dạng hóa các phương thức huy động có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì điều đó đồng nghĩa với việc khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn để phù hợp với điều kiện và mong muốn của mình. Nhận thức được xu hướng trên, các ngân hàng thương mại trong cả nước nói chung và Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục nói riêng đã đa dạng hóa ngày càng nhiều các hình thức huy động vốn nhằm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu của người dân trên địa bàn. Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục có thế mạnh trong khu vực mạng lưới hoạt động rộng khắp với 2 chi nhánh cấp 3, am hiểu tường tận tình hình kinh tế trên địa bàn. Ngay từ khi thành lập, Chi nhánh đã thường xuyên chăm lo, duy trì và phát triển mối quan hệ với các đối tượng khách hàng khác nhau và luôn đa dạng hóa các hình thức huy động để có thể thu hút được các khách hàng nhiều hơn. Tiền gửi không kỳ hạn Đây là khoản tiền mà cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức khác gửi vào ngân hàng nhằm mục tiêu thanh toán. Số lượng tài khoản cá nhân mở tại Chi nhánh đang có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Hiệu quả của nghiệp vụ thanh toán đang ngày càng được chú trọng và tăng cao: nhanh chóng, thuận tiện và chính xác hơn. Nguồn tiền gửi này thường có các dịch vụ đi kèm như thanh toán và phải trả phí. Có thể nhận thấy, đây là nguồn tiền có quy mô lớn, tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng cao. Tuy đây là nguồn tiền có tính thất thường, kỳ hạn gửi thực tế trung bình thường rất ngắn nhưng đây là nguồn vốn có chi phí thấp, được thu phí dịch vụ và là nguồn vốn tiềm năng khai thác của Chi nhánh. Đồng thời, việc tăng tiền gửi không kỳ hạn và phát triển các dịch vụ kèm theo còn giúp ngân hàng phát triển mối quan hệ với nhiều khách hàng, mở rộng thị phần; theo dõi thông tin, tình hình tài chính của khách hàng… để cung cấp các sản phẩm tín dụng với các khách hàng tiềm năng… Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ phân tích, có thể thấy Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã thực hiện có hiệu quả hoạt động huy động vốn từ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, đặc biệt là các khoản tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội. Năm 2006, chi nhánh đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong huy động vốn từ loại này, tăng 144,4%, tương ứng với 38.776 triệu đồng so với năm 2005, chiếm 39,3% trong tổng nguồn vốn huy động. Để đạt được thành tích này, Chi nhánh đã phải nỗ lực không ngừng trong việc tìm kiếm khách hàng, đưa ra nhiều dịch vụ thanh toán mới nhanh chóng và chính xác. Năm 2007, mức tăng trưởng có vẻ chững lại nhưng vẫn duy trì tăng trưởng đều đặn, tăng 32,6% tương ứng với 21.493 triệu đồng so với năm 2006, chiếm tỷ trọng 41,4% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2008, do ảnh hưởng kinh tế thế giới và các chính sách tiền tệ của Chính Phủ, nên lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá, lãi suất huy động tiền gửi tăng mạnh, nên nguồn tiền gửi thanh toán giảm và chỉ bằng 87,65% so với năm 2007, và chiếm 27,3% tổng nguồn vốn. Một phần lớn nguồn tiền gửi thanh toán giảm xuống này được chuyển thành tiền gửi kỳ hạn ngắn và tiền gửi tiết kiệm. Có thể thấy trong 3 năm gần đây, nguồn tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng khá cao và chắc chắn trong tổng nguồn vốn huy động. Để làm tốt được điều này là sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên Chi nhánh trong việc duy trì và phát triển số lượng khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn Để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình, các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội gửi vào các ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn để nhằm mục đích sinh lãi. Các khoản tiền này thường được gửi vào ngân hàng với kỳ hạn ngắn và không đựợc hưởng các dịch vụ về thanh toán đi kèm. Đặc điểm của các khoản tiền gửi có kỳ hạn là khá ổn định, kỳ hạn thực tế ngắn, và có chi phí vốn trung bình, và chiếm tỷ trọng cao, hơn 30% tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh. Nó mang lại nguồn vốn ổn định cho Chi nhánh trong các hoạt động kinh doanh, cho vay ngắn hạn. Từ số liệu trong bảng cho thấy, nguồn tiền này chưa đạt được mức tăng trưởng ổn định nhưng lại chiếm tỷ trọng khá cao và ổn định trong tổng nguồn vốn huy động. Cụ thể, trong năm 2006, Chi nhánh chỉ huy động được bằng 95,5% so với năm 2005, chiếm tỷ trọng 34,1% trong tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2007, nguồn tiền tăng 11,9%, tương ứng với 6.768 triệu đồng., chiếm 30,3% trong tổng nguồn vốn huy động. Đến năm 2008, do mở rộng quan hệ với nhiều khách hàng, và do lãi suất huy động tăng cao, nguồn vốn huy động trong loại này của Chi nhánh lại có sự tăng trưởng đột biến mạnh mẽ, tăng 38,2%, tương ứng với 24.363 triệu đồng so với năm 2007, chiếm 31,5% trong tổng nguồn vốn huy động. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn tiền này, Chi nhánh luôn tích cực trong việc tiếp cận khách hàng, đa dạng hóa cả về hình thức và lãi suất huy động. Chính điều này đã đem lại hiệu quả cao cho Chi nhánh trong việc huy động vốn tiền gửi có kỳ hạn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và thực hiện các dự án đầu tư ngắn hạn của Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục. Tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn huy động truyền thống và đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng, là khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân không dùng đến đem gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Nguồn tiền này được dân cư tín nhiệm và quen dùng, thủ tục gửi và lĩnh tiền đơn giản, dễ hiểu, dễ phù hợp với mọi tầng lớp dân cư. Trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện nay thì lãi suất đang dần được điều chỉnh linh hoạt theo hướng càng ngày càng chú trọng hơn đến quyền lợi của người gửi tiền. Nhược điểm lớn nhất của tiền gửi tiết kiệm là vấn đề lãi suất. Do lạm phát tăng cao trong những năm gần đây nên để bù đắp phần thiệt hại do lạm phát, các ngân hàng đang phải tiến hành tăng lãi suất huy động. Điều này làm tăng chi phí huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng, gây khó khăn trong hoạt động của ngân hàng. Dù chi phí vốn cao, nhưng tiền gửi tiết kiệm vẫn là nguồn tiền huy động rất quan trọng, thường có kì hạn thực tế khá dài nên được sử dụng để cho vay và đầu tư cho các dự án trung và dài hạn, mang lại các khoản thu nhập lớn cho ngân hàng. Nguồn tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh trong 3 năm gần đây đang có xu hướng tăng do thu nhập của dân cư tăng, và thế mạnh về mạng lưới hoat động và với lãi suất cạnh tranh nên thu hút được nhiều hơn hẳn so với các TCTD và NHTM khác trên cùng địa bàn. Cụ thể, năm 2006, tiền gửi tiết kiệm tăng 5,5% so với năm 2005, chiếm 24% tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2007, tăng trưởng vẫn được duy trì 17%, tương ứng với 6.816 triệu đồng so với năm 2006 nhưng tỷ trọng lại giảm nhẹ, chiếm 22,3% tổng nguồn vốn huy động. Đến năm 2008, nguồn tiền gửi tiết kiệm tăng 134,3% tương ứng với 63.024 triệu đồng, tỷ trọng tăng lên 39,3% tổng nguồn vốn huy động. Sự tăng đột biến trong tỷ trọng của tiền gửi tiết kiệm trong năm 2008 còn do lãi suất tăng mạnh, thu hút lượng tiền nhàn rỗi lớn từ dân cư. Để tăng cường nguồn vốn tiết kiệm trong môi trường cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng thương mại cổ phần, Chi nhánh cần phải đưa ra các biện pháp tích cực hơn nữa để thu hút nhiều hơn khách hàng. Phát hành giấy tờ có giá Để huy động các nguồn vốn ổn định hơn nhằm tài trợ cho các dự án dài hạn, Chi nhánh còn phát hành thêm Kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi. Kỳ phiếu do Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục thường có kỳ hạn 12 hoặc 13 tháng với lãi suất thay đổi trong từng thời kỳ nhưng thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm và có thể được trả trước. Kỳ phiếu là một công cụ linh hoạt để ngân hàng có thể huy động vốn ổn định, tài trợ cho các nhu cầu trung và dài hạn. Chứng chỉ tiền gửi do Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục là loại chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, thường là từ 1 đến 12 tháng nhưng vẫn có loại cá biệt lên tới 60 tháng với lãi suất cao dùng để tài trợ cho các dự án dài hạn. Theo quy định, chứng chỉ này không thể đổi thành tiền mặt khi chưa tới hạn thanh toán. Do đó, Chi nhánh hoàn toàn có thể chủ động trong việc sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh. Mặt khác, chứng chỉ này có thể mua đi bán lại trên thị trường nhưng ở Việt Nam, các thị trường mua bán chứng chỉ loại này chưa phát triển, do đó tính thanh khoản của loại này thường kém và chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn. Qua bảng số liệu và đồ thị cho thấy, năm 2006, nguồn vốn huy động từ loại này tăng 49,1% so với năm 2005, chiếm 2,6% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2007, nhờ có chiến dịch quảng cáo rầm rộ cộng với đợt phát hành trái phiếu dài hạn của NHNN&PTNN Việt Nam nên nguồn tiền huy động từ loại này tăng mạnh 109,5%, so với năm 2006, chiếm tỷ trọng lên tới 6%. Sang năm 2008, nguồn tiền huy động từ loại này có giảm do kinh tế đang lạm phát cao giảm chỉ bằng 42,2% năm 2007, chiếm tỷ trọng 1,9% trong tổng nguồn vốn huy động. Tỷ trọng của nguồn huy động này tại Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Bình Lục hiện nay là khá thấp. Phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi có khá nhiều ưu điểm, do đó Chi nhánh cần phải nhận thức được tính ưu việt của phương thức huy động này để có các hình thức huy động phù hợp như: sử dụng công cụ lãi suất, cách tính trả lãi, thời hạn thanh toán… linh hoạt, phù hợp hơn với thị trường để có thể huy động được nguồn tiềm năng này một cách thường xuyên, liên tục và tận dụng được các ưu điểm của nó so với các nguồn khác. 3. Theo kỳ hạn Bảng 7: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn của NHNN&PTNN huyện Bình Lục trong thời kỳ 2006-2008 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05 (%) Số tiền 07/06 (%) Số tiền 08/07 (%) Tiền gửi không kỳ hạn 65.704 244,4% 87.143 132,6% 76.378 87,65% Tiền gửi dưới 12 tháng 71.389 102,5% 75.145 105,3% 157.253 209,3% Tiền gửi từ 12 tháng trở lên 30.094 59,9% 48.203 160,2% 46.178 95,8% Tổng NV huy động 167.187 134,61% 210.491 125,9% 279.809 132,93% (Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục) Biểu đồ tỷ trọng cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn Việc phân theo kỳ hạn các nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định sự chuyển dịch cơ cấu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng của nền kinh tế. Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn thường được dùng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng và thanh toán, có kỳ hạn thực tế rất ngắn và không ổn định. Tiền gửi không kỳ hạn bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố chu kỳ kinh doanh, tính thời vụ… của các tổ chức kinh doanh hoặc tiêu dùng các nhân. Mặc dù đây là một nguồn vốn rất rẻ đối với ngân hàng nhưng nó không ổn định và có thể gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Do đó duy trì tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn ở mức cao gây khó khăn trong việc cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn và tài sản của ngân hàng. Nhìn vào bảng số liệu phân tích có thể thấy rõ các nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Tiền gửi không kỳ hạn tăng từ 39,3% tổng vốn huy động năm 2006 lên tới 41,4% năm 2007. Do lãi suất huy động cao, năm 2008, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn đã giảm xuống, tuy nhiên vẫn chiếm 27,3% tổng vốn huy động. Chiếm tới 30% - 40% tổng vốn huy động, Chi nhánh hiện nay đang có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn khá cao so với mức bình quân ngành, điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi cho vay trung – dài hạn, làm giảm lợi nhuận, và không đáp ứng được các nhu cầu về vốn của khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng Tiền gửi dưới 12 tháng thường là nguồn huy động lớn nhất của các ngân hàng do có kỳ hạn ngắn, linh hoạt, lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn, nên được các tổ chức kinh tế và dân cư ưa thích hơn. Đồng thời, do tiền gửi dưới 12 tháng có kỳ hạn thực tế ngắn, nhưng khá ổn định với lãi suất không cao nên cũng là một nguồn huy động hấp dẫn đối với ngân hàng. Do một phần tiền gửi có kỳ hạn của dân cư (tiền tiết kiệm) thường có kỳ hạn thực tế lớn hơn kỳ hạn danh nghĩa của nó, nên Tiền gửi có kỳ hạn loại này không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho vay ngắn hạn của ngân hàng mà còn đáp ứng một phần nhu cầu cho vay và đầu tư trung - dài hạn của ngân hàng. Đây là một nguồn quan trọng cần được chú trọng huy động. Theo bảng số liệu ta có thể thấy, tiền gửi dưới 12 tháng ở Chi nhánh chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi dưới 12 tháng đã giảm từ 42,7% năm 2006 xuống còn 35,7% năm 2007. Năm 2008 nguồn vốn ngắn hạn này đã tăng lên, chủ yếu do lãi suất tăng mạnh và thất thường, chiếm tỷ trọng lớn là 56,2% tổng nguồn vốn, tăng tới 109,3% so với năm 2007 tương ứng 82.108 triệu đồng. Chi nhánh cần tiếp tục duy trì và tăng mức tiền gửi này. Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Loại tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm dài hạn của dân cư. Tiền gửi có kỳ hạn dài thường có lãi suất huy động cao hơn so với tiền gửi dưới 12 tháng, tuy nhiên loại tiền gửi này là rất ổn định, và ngân hàng chỉ phải duy trì dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán của loại tiền gửi này thấp hơn hẳn so với tiền gửi dưới 12 tháng và tiền gửi không kỳ hạn nên chi phí huy động thực tế không cao hơn nhiều so với các loại tiền gửi kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, loại tiền gửi nay không được các khách hàng ưa thích, vì lạm phát cao, lãi suất không ổn định, bất ổn kinh tế… như hiện nay làm tăng rủi ro đối với khách hàng khi gửi với kỳ hạn dài. Do đó loại tiền gửi này thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Theo số liệu, tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng đã tăng từ 18% năm 2006 lên 22,9% năm 2007 tương ứng với mức 18.109 triệu đồng, là một mức tăng trưởng khá. Nhưng năm 2008, loại tiền gửi này đã giảm 2.025 triệu đồng, và chỉ chiếm 16,5% tổng vốn huy động, do lãi suất biến động thất thường. Nhìn chung, nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, khỏng hơn 80% trong tổng vốn huy động của Chi nhánh, trong đó tiền gửi không kỳ hạn là khá cao. Như vậy, Chi nhánh có kỳ hạn trung bình của vốn khá ngắn, cơ cấu kỳ hạn còn bất hợp lý. Các nguyên nhân của tình trạng này là: Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, một trong các nguồn vốn huy động chính của Chi nhánh là từ các Tổ chức kinh tế, vì thế các nguồn này thường là nguồn tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán. Thứ hai, trong những năm gần đây, tình hình lạm phát tăng cao, vào năm 2007 tỷ lệ lạm phát là 8,3%, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng 12,36% so với cùng kì năm ngoái, đến năm 2008 lạm phát quá cao có lúc tới 28,3% vào tháng 8 cao nhất trong 17 năm qua. Do vậy người dân chủ yếu giữ tiền để tiêu dùng hoặc gửi ngân hàng với kì hạn ngắn. Thứ ba, do xuất hiện nhiều kênh đầu tư khác như thị trường chứng khoán và bất động sản… nên người dân chủ yếu gửi tiền với kỳ hạn ngắn để linh hoạt trong đầu tư. Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao làm cho lãi suất huy động bình quân thấp, chi phí đầu vào rẻ, từ đó dẫn đến lãi suất cho vay thấp, thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao doanh số hoạt động tín dụng. Tuy nhiên điều này lại đặt ra một thách thức đối với NHNN&PTNN huyện Bình Lục là làm sao để chủ động trong việc cho vay trung và dài hạn trong khi nguồn vốn huy động lại hầu hết là ngắn hạn. Ngân hàng huy động vốn không chỉ về số lượng mà còn phải vì chất lượng, có nghĩa là làm thế nào để có thể đảm bảo cân đối giữa vốn dài hạn và vốn ngắn hạn, để từ đó có thể đáp ứng được các nhu cầu vay vốn của khách hàng. 4. Theo loại tiền Bảng 8: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền của NHNN&PTNN huyện Bình Lục thời kì 2006-2008 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05 (%) Số tiền 07/06 (%) Số tiền 08/07 (%) Nội tệ 151.726 129,8% 189.288 124,75% 255.264 137,85% Ngoại tệ 15.461 121,4% 21.203 137,13% 24.545 115,76% Tổng NV huy động 167.187 134,61% 210.491 125,9% 279.809 132,93% ( Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục) Biểu đồ tỷ trọng huy động nguồn vốn theo loại tiền Một trong những lý do mà người dân không yên tâm gửi tiền tại các ngân hàng là tâm lý e ngại sự trượt giá của bản tệ. Do đó, họ chọn cách giữ tiền hiệu quả hơn là mua vàng, bất động sản hoặc là ngoại tệ mạnh. Hiểu rõ tâm lý của khách hàng và cũng nhằm đáp ứng nhu cầu của các khách hàng trong thanh toán, Chi nhánh đã liên tục triển khai các hình thức huy động, trong đó bao gồm huy động cả ngoại tệ và nội tệ. Vốn huy động bằng nội tệ Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ phân tích có thể thấy nguồn vốn huy động chủ yếu của Chi nhánh là vốn huy động bằng đồng nội tệ, hằng năm chiếm khoảng xấp xỉ 90% tổng nguồn vốn huy động với mức tăng trưởng hằng năm khoảng 30%. NHNN&PTNN huyện Bình Lục là ngân hàng hoạt động trên địa bàn có nhu cầu vốn nội tệ rất lớn, do đó, ngân hàng đã coi việc huy động vốn nội tệ là nhiệm vụ số một có tính quyết định phát triển kinh doanh. Trong môi trường lãi suất cạnh tranh, các Ngân hàng thương mại cổ phần luôn duy trì lãi suất tiền gửi cao hơn, Chi nhánh đã phải nỗ lực hết mình trong việc đa dạng hóa các hình thức huy động như tiết kiệm bậc thang, tiết kiêm gửi góp, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm khuyến mãi, gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng … để thu hút thêm nữa khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh còn giữ mối quan hệ với các khách hàng cũ, tiếp cận, tìm kiếm thêm các khách hàng mới. Do đó, mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng nguồn vốn huy động bằng nội tệ vẫn tăng cao và tăng đều qua các năm, chiếm tỷ trọng khá ổn định, nhằm tài trợ cho các dự án bằng đồng nội tệ. Vốn huy động bằng ngoại tệ Kể từ khi Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới, nhu cầu buôn bán xuất khẩu hàng hóa qua lại giữa Việt Nam với các nước bạn tăng cao, do đó nhu cầu sử dụng các đông ngoại tệ cũng tăng cao. Nhận thức được điều này, công tác huy động nguồn vốn bằng ngoại tệ luôn được các ngân hàng chú trọng và phát triển. Thanh toán biên mậu là một thế mạnh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục, với ưu thế là một ngân hàng có khối lượng giao dịch lớn, khách hàng đa dạng nên dịch vụ này đã được triển khai rộng rãi và đạt được kết quả tốt. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn ngoại tệ năm 2006 là 21,4% so với năm 2005, chiếm 9,25% trong tổng nguồn vốn huy động thì đến năm 2007 vẫn tốc độ tăng trưởng này là 37,13% so với năm 2006, chiếm 10,08% trong tổng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên đến năm 2008, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhẹ 15,76% so với năm 2007 và chỉ chiếm 8,78% tổng nguồn vốn huy động. Sở dĩ trong năm vừa qua lại có tăng chậm như vậy là do năm 2008 là năm ghi nhận rất nhiều biến động về nền kinh tế: tỷ giá đồng USD không ổn định, giảm vào tháng 2, tăng mạnh vào tháng 6 và lại giảm trong những tháng cuối năm. Đây là sự giảm sút dây chuyền ảnh hưởng từ nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, giá vàng tăng cao nên người dân chủ yếu đầu tư vào vàng mà bỏ qua kênh đầu tư vào ngoại tệ mạnh. Mặt khác, do tình hình lạm phát tăng cao nên các ngân hàng thương mại được chỉ thị không huy động ngoại tệ vào để tránh cung cấp một lượng tiền nội tệ ra ngoài thị trường gây tăng lạm phát vào những tháng cuối năm. Nói chung, việc tụt giảm trong huy động vốn bằng đồng ngoại tệ trong năm vừa qua không phải chỉ là do nguyên nhân khách quan từ phía chi nhánh mà phần nhiều là do nguyên nhân khách quan của nền kinh tế. Nhưng đối mặt với những yêu cầu cấp bách của hiện tại, khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO, nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa tăng cao, nhập siêu càng ngày càng tăng, năm 2007 tăng gấp 2,6 lần so với năm 2006 thì nhu cầu sử dụng ngoại tệ càng tăng cao. Do đó, Chi nhánh cần có những biện pháp kịp thời và hiệu quả để làm tăng nguồn vốn huy động từ ngoại tệ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. 5. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo huyện Bình Lục 5.1 Thành tựu đạt được Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục trải qua 12 năm xây dựng và trưởng thành đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, từng bước khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc và cùng hệ thống ngân hàng đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Hà Nam nói riêng và đất nước nói chung. Trong thời gian hoạt động, Chi nhánh luôn xác định hoạt động tăng cường huy động vốn là nhiệm vụ số một và mục tiêu hướng tới của mình. Do đó, ngoài đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, mở rộng nhiều dịch vụ tiện ích để phục vụ khách hàng thì Chi nhánh còn tích cực sử dụng nhiều chính sách phục vụ khách hàng, áp dụng lãi suất huy động một cách linh hoạt phù hợp với sự biến động giá cả trong từng thời điểm… Trong thời gian vừa qua, Chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thứ nhất, tổng vốn huy động của Chi nhánh không ngừng tăng trưởng với tốc độ nhanh và luôn vượt chỉ tiêu đề ra. Mặc dù năm 2008 là năm có tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát quá cao… nhưng tổng nguồn vốn huy động vẫn tăng 32.93% so với năm 2007 (chưa đạt chỉ tiêu đề ra 35%). Thứ hai, các sản phẩm huy động vốn ngày càng được nâng cao vè chất lượng và số lượng. Ngoài hình thức huy động truyền thống thì NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã bổ sung thêm nhiều hình thức như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm khuyến mãi bằng hiện vật, phát hành các giấy tờ có giá với các phương thức trả lãi trước, trong và sau, kỳ hạn đa dạng, phong phú. Thứ ba, cơ cấu nguồn huy động ngày càng hợp lý. Chi nhánh đã linh hoạt với những thay đổi của nền kinh tế thị trường, hoạt động không chỉ hướng tới khối công thương nghiệp mà đã phát triển theo hướng đa năng, chủ trương liên kết, hợp tác với tất cả các thành phần kinh tế. Do vây, chiến lược huy động cũng có từng bước chuyển dịch. Vốn huy động của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, tiền gửi ngắn hạn với chi phí lãi thấp có tỷ trọng ngăy càng cao, phát hành giấy tờ có giá ngày càng thu hút được nhiều hơn nữa sự quan tâm của khách hàng. Thứ tư, Chi nhánh đã làm tốt chiến lược chọn lọc tiếp cận khách hàng, nâng cao năng lực cán bộ cũng như đổi mới cung cách, thái độ phục vụ thể hiện văn minh công sở, mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cấp, sửa sang các phòng giao dịch đã góp phần quan trọng trong việc tăng thêm khách hàng giao dịch với chi nhánh. Do đó, tính đến 31/12/2008, Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã phát triển thêm lượng khách hàng cá nhân là trên 38.000 khách, khách hàng là tổ chức có 4000 khách. Thứ năm, các chi nhánh trong hệ thống đều chủ động và tích cực huy động nguồn vốn tại chỗ. Trong công tác quản lý và điều hành vĩ mô, NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã sớm đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn đúng đắn, thích hợp, luôn bổ sung và hoàn chỉnh các quy chế, phát huy quyền chủ động sáng tạo của từng chi nhánh phù hợp với địa phương mình. Đạt được kết quả hôm nay là do sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của các cán bộ công nhân viên trong toàn chi nhánh, dưới sự chỉ đạo của NHNN&PTNN Việt Nam, sự dìu dắt của Ban lãnh đạo Chi nhánh đã đưa Chi nhánh vượt qua khó khăn trong thời kỳ đầu đổi mới cho đến khi Việt Nam bước vào quá trình hội nhập, mở cửa sâu rộng. 5.2 Hạn chế còn tồn tại Mặc dù Chi nhánh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất, nguồn vốn tuy tăng trưởng cao nhưng các hình thức huy động vốn vẫn tăng trưởng chưa ổn định. Nguồn tiền gửi từ dân cư không ổn định trong năm 2007, 2008. Thứ hai, cơ cấu vốn có sự chuyển dịch tốt nhưng chưa thực sự hợp lý. Nguồn tiền gửi từ dân cư mặc dù chiếm tỷ trọng khá cao nhưng vẫn chưa đạt đến độ phù hợp với nhu cầu sử dụng, Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động còn nghiêng về nguồn vốn ngắn hạn. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động rẻ song lại đưa ra áp lực lớn đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, khiến chi nhánh không thể cân bằng giữa huy động và cho vay, từ đó có thể gây ra rủi ro thanh khoản. Thứ ba, các sản phẩm huy động vốn trong năm tuy có triển khai được nhiều nhưng vẫn chưa đủ và chưa tương xứng với sự phát triển của ngân hàng. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi đã áp dụng, ngân hàng chỉ mới có tiết kiệm bậc thang lãi suất chứ chưa có bậc thang về số tiền gửi, chưa có các gói tiết kiệm hay như rút gốc linh hoạt, chưa có các kì hạn ngắn như ngày, tuần… chưa triển khai phát triển nhiều loại thẻ dùng cho thanh toán phù hợp với từng loại đối tượng. Thứ tư, Nguồn vốn mang tính chất không ổn định. Do nguồn huy động chủ yếu là từ các Tổ chức kinh tế, thường là các khoản tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán nên thời gian sử dụng vốn không dài, gây tình trạng bất ổn cho ngân hàng, gây khó khăn cho các hoạt động tín dụng và đầu tư của Chi nhánh. Thứ năm, nguồn vốn ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, không tới 10% và ngày càng có xu hướng thu hẹp trong khi nhu cầu sử dụng ngoại tệ lại đang tăng cao. Để nguồn vốn có thể phát triển một cách ổn định, bền vững và đem lại hiệu quả thì tất cả các hạn chế nói trên của Chi nhánh cần phải được xem xét và đưa ra những biện pháp kịp thời để khắc phục nhanh chóng. 5.3 Nguyên nhân của những hạn chế 5.3.1 Nguyên nhân khách quan Môi trường tồn tại xung quanh ngân hàng có thể thúc đẩy ngân hàng phát triển nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó lại đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2210.doc
Tài liệu liên quan