LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của một đất nước. Nền kinh tế của một đất nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính tiền tệ đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút, tập trung nguồn vốn nhàn rỗi và phân bổ hợp lý vào các ngành sản xuất kinh doanh.
Với bất kỳ doanh nghiệp nào, vốn là yếu tố đầu tiên cơ bản của quá trình hoạt động
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh. Chủ trương hiện nay về vốn ngân sách chỉ chi cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn, còn toàn bộ nhu cầu vốn của sản xuất kinh doanh, kể cả đầu tư xây dựng, vốn cố định, vốn lưu động…đều phải đi vay. Nếu không có vốn thì không thay đổi được cơ cấu kinh tế, không xây dựng được các cơ sở công nghiệp, các trung tâm dịch vụ lớn. Trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vốn nổi lên như là một yêu cầu hết sức nóng bỏng, cấp bách.
Giải quyết nhu cầu vốn là một đòi hỏi, thách thức lớn đối với các ngân hàng. Các ngành kinh tế và nhân đân hiện nay đang đòi hỏi ở ngành ngân hàng phải tạo điều kiện cho nền kinh tế không bị tụt hậu. Đó chính là vấn đề vốn. Nguồn vốn trong kinh doanh của ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng nó là cơ sở cho công tác tín dụng. Hiện nay, muốn mở rộng việc cho vay phát triển sản xuất kinh doanh không thể trông chờ vào nguồn vốn ngân sách như ở thời kỳ bao cấp mà bản thân ngân hàng phải tổ chức huy động vốn từ nền kinh tế để làm nguồn vốn tín dụng, tìm cách nâng cao khả năng huy động vốn, hoàn thiện thêm những hình thức huy động vốn cho ngân hàng trong tương lai.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng Thương mại hiện nay là: Làm thế nào để tìm ra được giải pháp tối ưu khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế để phục vụ cho tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây không phải là vấn đề mới mẻ nhưng lại là lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Cùng với việc xem xét tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội (NHNNo&PTNT Hà Nội) và sự chỉ dẫn của các cán bộ tại cơ sở thực tập em đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội” làm Chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội.
Do đề tài huy động vốn rộng và phức tạp, thời gian thực tập và nghiên cứu có hạn vì vậy chuyên đề này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự cảm thông và giúp đỡ của các thầy cô và các đồng nghiệp có quan tâm tới đề tài này.
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành Chuyên đề tốt nghiệp này, em xin cảm ơn sâu sắc tới các anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành Chuyên đề tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn tới Cô giáo hướng dẫn Th.S Hoàng Thị Lan Hương - người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Cùng với vốn hiểu biết sâu sắc về Ngân hàng thương mại nói chung và huy động vốn ở Ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng, cô đã hướng dẫn em tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để thực hiện Chuyên đề tốt nghiệp này.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
1.1. VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm
Vốn của Ngân hàng Thương mại là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động hay tạo lập được dùng để cho vay đầu tư hoặc thực hiện các mục đích kinh doanh khác của ngân hàng.
Chúng ta có thể hiểu nguồn vốn của ngân hàng là tất cả nhưng phương tiện tiền tệ của xã hội mà ngân hàng thu hút động viên quản lý nhằm để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ khác của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng đóng một vai trò quan trọng không những đối với bản thân ngân hàng mà nó còn đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung.
1.1.2. Kết cấu
1.1.2.1. Vốn tự có
Là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng tạo lập nên. Vốn tự có của Ngân hàng Thương mại cũng là vốn sở hữu riêng của mỗi ngân hàng được hình thành từ ban đầu. Ở Việt Nam khi thành lập NHTM quốc doanh vốn hình thành ban đầu là vốn của nhà nước cấp, các ngân hàng ngoài quốc doanh do cổ đông đóng góp, liên doanh liên kết.
Vốn tự có có vai trò rất quan trọng, nó là cơ sở để thành lập ngân hàng, nó là nguồn vốn duy nhất dùng để xây dựng mua sắm tài sản cố định. Vì vậy nó quyết định khả năng hiện đại hoá ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng là cơ sở tối thiểu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và an toàn cho người gửi tiền nói riêng. Nó quyết định tới quy mô huy động vốn, sử dụng vốn và khẳng định vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Vốn tự có bao gồm:
Vốn điều lệ (vốn pháp định)
Vốn pháp định là vốn tối thiểu mà phải có để thành lập. Tuỳ theo quy mô và sự hoạt động của ngân hàng thu hẹp hay mở rộng, nhà nước có thể quy định lại vốn pháp định cho phù hợp với thực tế.
Vốn điều lệ là số vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng.
Quỹ dự trữ của Ngân hàng
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra còn các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,...
Các quỹ của Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
Vốn tiếp nhận
Là số vốn tiếp nhận do tài trợ, uỷ thác đầu tư từ ngân sách nhà nước cấp phát và cho vay các công trình trọng điểm của nhà nước, các tổ chức nước ngoài uỷ thác theo chương trình đầu tư trực tiếp ODA, gián tiếp qua các tổ chức tín dụng...
1.1.2.2. Vốn huy động
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng. Đây là tài sản của các chủ sở hữu, ngân hàng được quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả khi huy động. Các ngân hàng không được phép huy động vượt quá 20 lần so với vốn tự có.
Các nguồn vốn huy động:
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế và ký quỹ.
Tiền gửi tiết kiệm
Vốn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
1.1.2.3. Vốn đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM tuy nhiên khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng có thể vay NHTW thông qua hình thức tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Hoặc vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
1.1.2.4. Vốn khác
Các loại vốn khác được hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ và được sử dụng theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.3. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội là một hoạt động hàng đầu của ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư để đáp ứng nhu cầu vay vốn cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó ngân hàng quy định lãi suất đầu ra lớn hơn lãi suất đầu vào để thu lợi nhuận.
Đảm bảo cho công tác huy động vốn có hiệu quả, trong quá trình thực hiện các ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Việc huy động vốn phải căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng với chức năng là cơ quan tập trung nguồn vốn nhàn rỗi nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh đòi hỏi ngân hàng phải luôn có biện pháp để tăng cường nguồn vốn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Mặt khác, ngân hàng là một đơn vị hạch toán kinh doanh do vậy ngân hàng cũng phải huy động vốn sao cho không bị ứ đọng vốn trong ngân hàng ảnh hưởng tới lợi nhuận và hoạt động của đơn vị. Muốn vậy ngân hàng phải nắm được chính sách kinh tế của địa phương, của các đơn vị và của dân cư. Từ đó đề ra chính sách và biện pháp huy động vốn hợp lý để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả.
Nguyên tắc 2: Ngân hàng phải có trách nhiệm trả tiền gửi đúng hạn cả vốn lẫn lãi cho khách hàng.
Để huy động vốn có hiệu quả các ngân hàng phải quán triệt nguyên tắc này, tức là phải đáp ứng được lợi ích mà khách hàng đòi hỏi khi có phát sinh quan hệ giữa ngân hàng đối với khác hàng. Để thực hiện nguyên tắc này ngân hàng phải không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng, các thủ tục trong nghiệp vụ huy động vốn cũng như các nghiệp vụ khác có liên quan. Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước cần phải có những quy định thiết thực, hữu hiệu giúp Ngân hàng Thương mại thực hiện tốt nguyên tắc này như việc quy định lãi suất cơ bản, phát hành trái phiếu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc... Đây cũng là cơ sở giúp ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán với khách hàng, giữ uy tín cho ngân hàng.
Nguyên tắc 3: Các Ngân hàng không được huy động vốn vượt quá khả năng cho phép so với vốn tự có của một ngân hàng. Để tránh rủi ro xảy ra trong quá trình thanh toán tiền gốc và lãi cho khách hàng, NHNN thường đưa ra những quy định theo đó các Ngân hàng có thể được tự do hoạt động trong phạm vi đã được nhà nước cho phép để đảm bảo khả năng về vốn của đơn vị. Hiện nay theo luật của ngân hàng và các TCTD thì ngân hàng được phép huy động vốn khoảng 20 lần vốn tự có và các quỹ dự trữ của một Ngân hàng. Tuân thủ theo nguyên tắc này cũng giúp cho các ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả từ đó tạo thu nhập cho ngân hàng. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng nói chung và đặc biệt là hoạt động huy động vốn phải có thủ tục đơn giản, ngắn gọn nhanh chóng, có như vậy mới thu hút được lượng vốn tối đa và nhanh nhất đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Quy trình huy động vốn tại các ngân hàng diễn ra theo xu thế ngày càng đơn giản càng tốt. Bao gồm:
Trước khi đưa ra quyết định huy động vốn thì ngân hàng phải tính toán được số lượng cần thiết phải huy động tại ngân hàng để tránh tình trạng ứ đọng vốn. Sau đó ngân hàng quyết định xem xét lựa chọn hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện của Ngân hàng, của địa phương…
Trên cơ sở lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay tại ngân hàng, lãi suất huy động vốn của ngân hàng khác trên địa bàn, tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn… Ngân hàng tính toán được lãi suất huy động vốn của ngân hàng mình cho phù hợp.
Để thu hút được lượng vốn tối đa, ngân hàng cần có chiến lược marketing phù hợp, thông tin rộng rãi trên các cơ sở thông tin đại chúng về hình thức huy động vốn, cách thức trả lãi (trả lãi trước, trả lãi sau…)
Như vậy trong quá trình hoạt động của mỗi Ngân hàng, khi Ngân hàng có thực hiện tốt nghiệp vụ huy động vốn từ đó mới tạo được nguồn vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác.
1.2. VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.2.1. Vai trò của vốn
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển kinh tế mạnh đều phải có vốn. Vốn có một tầm quan trọng về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều cần phải có vốn. NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp thực hiện kinh doanh vì lợi ích lợi nhuận, chỉ khác đối tuợng kinh doanh của Ngân hàng là tiền tệ. Vốn là nguồn lực chủ yếu quyết định khả năng, quy mô hoạt động của một Ngân hàng nói chung và quy mô thị trường tín dụng nói riêng. Từ đó quyết định đến khả năng cạnh tranh của một Ngân hàng trên thị trường. Quy mô càng lớn thì ưu thế trên thị trường càng cao. Mặt khác vốn của ngân hàng càng lớn cho phép mở rộng đa dạng hoá các hình thức kinh doanh tạo điều kiện cho các ngân hàng hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
Nguồn vốn của ngân hàng dồi dào thì ngân hàng có thể thoả mãn tối đa nhu cầu vốn trên địa bàn mà vẫn đảm bảo khả năng chi trả, do đó giữ được uy tín của ngân hàng trên thị trường. Nguồn vốn của các NHTM nhiều tạo điều kiện cho NHNN thực hiện chính sách tiền tệ, làm cho tiền tệ ổn định giữ vững giá trị đồng tiền. Nguồn vốn của NHTM chủ yếu là vốn huy động, để có được một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn phục vụ cho mục đích mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán chi trả của Ngân hàng đòi hỏi các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và có được một quỹ dự trữ cần thiết.
Vốn có vai trò vô cùng to lớn trong phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế nhanh thực hiện chính sách khuyến nông xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm. Đặc biệt vốn có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.2.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động không chỉ có vai trò quan trọng đối với chính bản thân các NHTM mà còn mang lại lợi ích cho khách hàng gửi tiền, trên bình diện quốc gia nó cũng được nhìn nhận và có hiệu quả kinh tế xã hội tốt đẹp. Xét trên góc độ ngân hàng nguồn vốn được xem là một trông những yếu tố quan trọng nhất để quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Đối với dân cư và doanh nghiệp trong nền kinh tế: Nguồn vốn của ngân hàng là cơ sở đảm bảo nguồn vốn tín dụng dưới mọi hình thức cho dân cư và cho các doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế quốc dân: Nguồn vốn của ngân hàng đảm bảo quá trình hoạt động cho các NHTM và chính điều đó góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế.
1.2.2.1. Đối với khách hàng gửi tiền
Gửi tiền vào Ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu giao dịch của khách hàng là cách cất giữ và sử dụng tiền an toàn, tiện lợi đồng thời khách hàng được một khoản lãi tiền gửi, coi đây là một sự đầu tư của khách hàng. Hiện nay, các ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp tháo gỡ như thông qua bảo
hiểm tiền gửi, mua lại Ngân hàng bị phá sản từ các ngân hàng lớn hơn, đặc biệt là hoạt động ngân hàng mang tính tổ chức liên hiệp và là các ngành được chính phủ quan tâm sâu sắc, nhằm tránh gây ra những đổ vỡ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất cũng như giảm lòng tin của công chúng và gây tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân.
1.2.2.2. Đối với bản thân các Ngân hàng Thương mại
Mục đích của huy động vốn là vấn đề mang tính sống còn của bất kỳ tổ chức tín dụng nào trong nền kinh tế thị trường và cũng là mục tiêu phải đạt tới nằm trong chính sách “đi vay để cho vay” của NHTM.
Như chúng ta đã biết, trong kinh doanh đòi hỏi các tổ chức kinh tế nói chung phải có nguồn vốn. NHTM là tổ chức kinh tế có quan hệ mật thiết với cá nhân và các tổ chức kinh tế khác nên phải có điểm chung đó. Có nghĩa là nguồn vốn của Ngân hàng không phải chỉ là nguồn vốn tự có, vốn vay từ các tổ chức tín dụng mà phải huy động từ nội bộ nền kinh tế. Mặt khác nguồn vốn này ngày càng phải chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. Nếu nguồn vốn huy động phát triển theo chiều hướng trên thì Ngân hàng Thương mại được chấp nhận, tín dụng ngày càng mở rộng phù hợp với quy luật khách quan. Chức năng huy động vốn giúp Ngân hàng thực hiện tốt chức năng của mình. Chức năng cung ứng tín dụng nhằm mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, bởi vì lợi nhuận có được ngoài việc chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất đi vay còn phải tính đến khối lượng tín dụng cung ứng cho khách hàng trên cơ sở nguồn vốn. Huy động vốn còn tạo ra cơ hội cho các Ngân hàng từng bước hiện đại hoá hoạt động bằng cách đầu tư trang thiết bị phục vụ nhanh chóng, tiện lợi nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng nhiều hơn.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế thị trường
Huy động vốn trong nước là cần thiết cho nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, thể hiện tính tự cường dân tộc. Một số nước chỉ dựa vào ngồn vốn nước ngoài sẽ không có nhiều lợi thế kể cả mất đi tính tự cường dân tộc.
Ngân hàng thương mại huy động vốn trong nền kinh tế thông qua tái phân phối tiền tệ của xã hội, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế cộng đồng. Như chúng ta đã biết NHTM có chức năng tạo tiền từ một lượng tiền gửi ban đầu - tiền huy động được mà nó bắt nguồn từ việc mở tài khoản tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân để thanh toán qua ngân hàng. Do đó nó mang ý nghĩa to lớn là người mở đầu, người tham gia góp phần quyết định mọi quá trình sản xuất sẽ không tạo được các nguồn tích luỹ cho nền kinh tế.
Mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế có quá trình tích luỹ và sử dụng vốn luôn diễn ra không giống nhau, lúc tạm thừa vốn có lúc xuất hiện nhu cầu cần bổ sung vốn. Để khắc phục tình trạng này các NHTM có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tập hợp các nguồn vốn tạm thời thừa của các doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời bổ sung kịp thời nhu cầu thiếu vốn cho nền kinh tế.
Thu nhập của nhà nước không phải lúc nào cũng đủ chi, do đó có nhiều trường hợp Chính phủ vay nợ các NHTM không phải là việc không thể xảy ra. Chính nhờ việc huy động vốn mà Ngân hàng mới có vốn nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của Chính phủ. Việc cung ứng tín dụng trong trường hợp này đã làm cho hoạt động của Chính phủ được trôi chảy, giải quyết được tình hình thiếu hụt ngân sách nhà nước, sử dụng vốn đó vào mục đích phúc lợi công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cuối cùng từ việc huy động vốn thì nguồn vốn trong nước được tập trung lại, từ đó tài trợ cho các khu vực có nhu cầu tín dụng, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Bản chất của huy động vốn là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Vốn huy động đó đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Vốn của Ngân hàng luôn biến động nên Ngân hàng không thể sử dụng hết nguồn vốn kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
Vốn huy động có một ý nghĩa quan trọng đối với NHTM. Nó quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh, đến khả năng thanh toán chi trả, đến năng lực cạnh tranh của NHTM. Để có vốn nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, NHTM chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động là chính, do đó Ngân hàng phải quan tâm đến các biện pháp tạo vốn và phải áp dụng một cách hài hoà. Trong đó đa dạng các hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp sống còn. Nó góp phần khai thác vốn ở mọi tầng lớp dân cư, mọi thành phần trong nền kinh tế. Các hình thức huy động vốn trong nền kinh tế của Ngân hàng Thương mại bao gồm:
1.3.1. Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi bao gồm hai loại sau:
1.3.1.1. Tiền gửi thanh toán
Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận lợi. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại Ngân hàng trên hai loại: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai.
1.3.1.2. Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý
Là khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản. Khi cần khách hàng có thể đến rút ra để chi tiêu. Cũng giống như trường hợp trên, ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
Ở Việt Nam tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức như: Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, cá nhân. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt còn thấp, để khuyến khích thực hiện thanh toán qua Ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho loại tiền gửi này. Ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm vị trí tương đối quan trọng trong kết cấu nguồn vốn và có chi phí đầu vào thấp.
1.3.2. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng với ngân hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và các ký thác để hưởng lãi. Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn đó là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút. Thông thường tiền gửi có kỳ hạn thường có kỳ hạn dài và lãi suất cao. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn để kinh doanh chính vì vậy NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hoá loại tiền gửi này nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Ở Việt Nam hình thức gửi tiền tiết kiệm bằng các chứng chỉ tiền gửi chính là cái mà chúng ta gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích. Tuy mới sử dụng song hình thức huy động này đã phát huy được vai trò trong việc tạo vốn của Ngân hàng.
1.3.3. Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của cá nhân người lao động. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích luỹ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai hình thức sau:
1.3.3.1. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
1.3.3.2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Là khoản tiền gửi có thoả thuận trước về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm được coi là một công cụ vốn lưu truyền của các NHTM. Vốn huy động từ tài khoản tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm có thể chia ra làm hai loại: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản tiền này, chủ tài khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không phải báo trước. Số dư tài khoản này thường không lớn nhưng có ưu điểm hơn so với tài khoản tiền gửi giao dịch ở chỗ số dư này ít biến động chính vì vậy đối với loại tiền gửi này các NHTM thường phải trả lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các Ngân hàng dễ dàng huy động loại vốn này.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Có hai loại là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn khá quen thuộc ở Việt Nam. NHTM Việt Nam thường huy động tiết kiệm từ ba tháng đến một năm. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn song để tăng tính cạnh tranh các NHTM vẫn cho khách hàng rút trước thời hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, tiền gửi tiết kiệm dài hạn chỉ được phép rút ra khi đến hạn nên nó tạo nguồn vốn có tính ổn định cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của NHTM.
1.3.4. Huy động bằng vốn vay
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM không phải chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau song chủ yếu từ NHTW, các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác hoặc từ việc phát hành các giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi… nhằm bổ sung vốn hoạt động khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động. Nguồn vốn này thường có chi phí đầu vào cao nhưng nó giúp các Ngân hàng giải quyết các nhu cầu có tính tức thì.
1.3.4.1. Vay từ Ngân hàng Trung ương
Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. NHTW với vai trò là người cho vay cuối cùng, luôn sẵn sàng cho các NHTM vay với một mức giá nhất định đó chính là lãi suất tái chiết khấu được NHTW sử dụng như là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mức lãi suất này có thể cao hoặc thấp.
1.3.4.2. Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Trong thực tế, các ngân hàng luôn không có sự cân đối giữa nguồn huy động và nguồn vốn sử dụng, vì vậy khi thiếu đột suất ngân hàng có thể vay của các tổ chức tín dụng khác qua thị trường liên ngân hàng. Do ngân hàng là một doanh nghiệp hạch toán toàn ngành, vì vậy khi phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, các chi nhánh ngân hàng thường phải điều chuyển vốn cho các ngân hàng khác thiếu vốn vay. Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của ngân hàng với các tổ chức tài chính khác và chất lượng thanh toán của các ngân hàng bởi tỷ trọng của nguồn vốn này lớn chứng tỏ ngân hàng rất có uy tín trong quan hệ thanh toán cả đối với khách hàng và cả đối với các tổ chức tín dụng khác.
1.3.4.3. Vay từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
Thực chất nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng cách phát hành chứng từ có giá trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại nợ trung và dài hạn. Chúng được ngân hàng phát hành thành nhiều đợt. Huy động vốn dưới hình thức này NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với huy động tiền gửi. Như vậy khi thực hiện huy động dưới hình thức này ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định lãi suất huy động, thời hạn và phương thức huy động.
Trái phiếu ngân hàng được phát hành nhằm huy động vốn dài hạn trên thị trường vốn. Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn và việc được quyền hưởng thụ một khoản lãi trên số tiền mua trái phiếu. Ngân hàng trả lãi và gốc cho người mua sau một thời gian nhất định theo cam kết. Hình thức huy động vốn này giúp cho NHTM chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn.
Kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi thực ra là một trái phiếu nhưng nó linh động hơn, được phát hành thường xuyên hơn so với trái phiếu, có nhiều loại khác nhau từ 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,…đến 60 tháng phù hợp với khách hàng. Đối với từng Ngân hàng khác nhau lãi suất thường xuyên thay đổi.
Nói chung khi huy động vốn bằng cách đi vay các ngân hàng đều phải chịu chi phí lớn vì vậy hiệu quả kinh tế đem lại từ việc sử dụng nguồn vốn này đối với các NHTM không cao nên trong thực tế nguồn vốn này cũng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
1.3.4.4. Huy động vốn khác
Thông qua quá trình làm trung gian thanh toán Ngân hàng Thương mại tạo ra được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán như: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tiền gửi đảm bảo thanh toán séc, tiền gửi ký quỹ. Thông qua nghiệp vụ đại lý NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu chi hộ khách hàng. Do việc phát tiền vay được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn song nó có chi phí đầu vào thấp. Ngân hàng Thương mại còn có thể thu hút vốn từ các hoạt động uỷ thác đại lý, nhưng để huy động nguồn vốn này ngân hàng phải có vị thế và uy tín đồng thời phải đáp ứng được các yêu cầu của người uỷ thác.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, các nhân tố đó có thể chia ra như sau:
1.4.1. Lãi suất cạnh tranh
Đây là một nhân tố tác động rất mạnh tới hiệu quả hoạt động huy động vốn, đặc biệt đối với khoản vốn mà người gửi hoặc đầu tư vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Các Ngân hàng cạnh tranh không phải chỉ với các ngân hàng khác mà với cả thị trường tiền tệ. Một sự khác biệt nhỏ về lãi suất có thể thúc đẩy dòng vốn đầu tư theo chiều hướng khác nhau. Như vậy việc xác định một mức lãi suất hợp lý có tính cạnh tranh là một việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm thu hút cho ngân hàng. Nhưng ngân hàng cũng phải tính toán sao cho chi phí đầu vào là hợp lý nhất.
1.4.2. Cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự
Nhìn chung người ta mong muốn tiến hành giao dịch với một ngân hàng có trụ sở bề thế, có cơ sở vật chất hiện đại và đội ngũ cán bộ nhân viên dễ mến, lịch thiệp. Một ngân hàng được trang bị công nghệ hiện đại sẽ rút ngắn được thời gian sử lý công việc mà vẫn đảm bảo được tính chính xác cao. Một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn được trang bị tốt kiến thức marketing ngân hàng sẽ làm nên những điều kỳ diệu, họ sẽ xử lý công việc một cách nhanh chóng, chính xác, khoa học và tạo nên sự thân thiện dễ mến. Tất cả những cái đó làm tăng chất lượng dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng ra thị trường.
1.4.3. Tính đa dạng của các hình thức huy động vốn
Xu hướng đa dạng hoá sản phẩm đang trở thành phổ biến trong kinh doanh nhằm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Người có nhu cầu có thể chọn cho mình một sản phẩm phù hợp. Một NHTM phải đưa ra nhiều hình thức huy động để khách hàng lựa chọn điều này giúp cho ngân hàng có thể thu hút vốn ở mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội.
1.4.4. Chính sách kinh doanh của Ngân hàng
Các chính sách cơ bản của ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới công tác huy động vốn. Nếu có một chính sách biện pháp đúng
đắn ngân hàng có thể dễ dàng đạt được mục tiêu của mình. Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn là một mục tiêu trung gian mà ngân hàng cần đạt được. Hệ thống chính sách như: chính sách sản phẩm dịch vụ, chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách khuếch trương giao tiếp... có tác động mạnh tới hoạt động huy động vốn.
1.4.5. Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng
Nếu một ngân hàng đưa ra được các dịch vụ tốt, đa dạng sẽ có cơ hội, lợi thế hơn các ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Khi ngân hàng cung ứng dịch vụ đa dạng sẽ tạo được nhiều mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng do đó ngân hàng có thể dễ dàng tìm thấy cơ hội thu hút vốn hơn. Một ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán tốt sẽ có nhiều khách hàng mở tài khoản để thực hiện thanh toán hoặc cung ứng dịch vụ thông qua hình thức tín dụng thấu chi để tìm kiếm được nguồn vốn lúc tài khoản dư có.
1.4.6. Địa điểm và mạng lưới hoạt động
Trong khi người kinh doanh đi tới các ngân hàng khác nhau không phụ thuộc vào khoảng cách để được vay thì người tiêu dùng ít có khuynh hướng đó hơn. Yếu tố địa điểm thường tác động vào tâm lý khách hàng bởi nếu có một ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như ở trung tâm thành phố, thị xã... điều kiện đi lại thuận tiện, khu vực xung quanh an toàn cho việc giao dịch... thì sẽ gây cho khách hàng sự chú ý và khách hàng dễ._. bị thu hút về phía ngân hàng đó. Phần lớn khách hàng thường có rất ít thời gian để đến ngân hàng do thời gian giao dịch trùng với giờ hành chính nên càng gần, càng tiện lợi thì khách hàng càng thích. Mạng lưới huy động rộng khắp sẽ có nhiều cơ hội để thu hút vốn. Nó tạo sự tiện lợi, giúp cho khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để thực hiện một cuộc giao dịch.
1.4.7. Uy tín và vị thế của Ngân hàng
Khách hàng thường chọn ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị trường để thực hiện các cuộc giao dịch, đặc biệt là đối với người ký thác và đầu tư niềm tin đối với một ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn ngân hàng.
Uy tín và vị thế của một ngân hàng là hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng và nó được tạo thành từ rất nhiều yếu tố: năng lực tài chính, năng lực kinh doanh, mức độ thâm niên của ngân hàng, thông tin quảng cáo, chất lượng dịch vụ... do đó vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải tìm mọi cách để nâng cao uy tín và vị thế của mình trên thị trường.
1.4.8. Các nhân tố khác
Ä Tăng trưởng kinh tế: Các khoản tiền ký thác thường tăng rất nhanh trong thời kỳ hưng thịnh của chu kỳ sản xuất so với giai đoạn suy thoái. Trong giai đoạn hưng thịnh các hãng kinh doanh tăng các khoản ký thác để giao dịch kinh tế. Bên cạnh đó nền kinh tế phát triển các hãng kinh doanh mọc lên như nấm, các giao dịch kinh tế tăng mạnh, thu nhập của các hãng kinh doanh và dân cư tăng lên hình thành nên một bộ phận tích luỹ tạo nên một môi trường tiềm tàng cho hoạt động huy động vốn.
Ä Cơ chế chính sách của Nhà nước: Có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư và nó cũng có những tác động gián tiếp tới hoạt động tạo vốn của một NHTM.
Ä Tập quán tiêu dùng tích luỹ: Cũng có ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng. Tập quán tiêu dùng tiền mặt, tập quán tích luỹ bằng tiền hoặc vàng không gửi vào ngân hàng, có ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút vốn. Đặc biệt đối với các nước chậm phát triển thì việc tập trung phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển thị trường tiền tệ có một ý nghĩa tích cực trong việc thu hút vốn.
Ä Sự can thiệp của NHTW: Khi thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW cũng có ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho Ngân hàng trong việc huy động vốn vay từ NHTW, không những thế mà nó còn làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong hoạt động huy động vốn vay từ NHTW.
Trong nền kinh tế thị trường nguồn vốn huy động của NHTM có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay và nhiều năm tới, vốn đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách. Do vậy việc mở rộng nguồn vốn huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó là mối quan tâm hàng đầu của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1. MỘT SỐ NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNNo&PTNT Hà Nội
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNNo&PTNT Hà Nội.
Được thành lập theo quyết định số 51- QĐ/NHNN ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà Nội (nay là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công - Nông – Thương Thành phố Hà Nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp huyện được đổi tên từ các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Huyện đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung - quận Hai Bà Trưng - Hà nội.
Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách Huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn đọng. Trụ sở, phương tiện, kho tàng không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt, những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của liên hiệp các công ty lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp.
Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới nông thôn ngoại thành Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, nhờ vậy chỉ sau hơn hai năm hoạt động, từ năm 1990 trở đi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã phối hợp với Hội nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ Thành phố đã đẩy mạnh cho vay phát triển các sản phẩm nông nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò sữa, gia súc gia cầm, phát triển vùng chuyên canh rau, hoa cây cảnh… nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống.
Tháng 9/1991, bảy Ngân hàng huyện thị: Mê Linh Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về tỉnh Vĩnh Phú và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm về Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Lúc này Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng Nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dáng dấp của sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội.
Để đứng vững tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành.
Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng).
Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm).
Năm 1996 thành lập Ngân hàng quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân.
Năm 1997 thành lập Ngân hàng quận Cầu Giấy.
Năm 2000 thành lập Ngân hàng quận Đống Đa và khu vực Tam Trinh.
Năm 2001 thành lập 10 phòng giao dịch
Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền Plaza và 11 phòng giao dịch.
Năm 2003 thành lập 3 chi nhánh Chợ Hôm, Hàng Đào, Nghĩa Đô.
Tháng 12/2004 bàn giao 2 chi nhánh Chương Dương về chi nhánh Long Biên và chi nhánh Tây Hồ về chi nhánh Quảng An.
Tháng 5/2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng.
Tháng 3/2006 bàn giao chi nhánh Cầu Giấy về Trung ương.
Tháng 12/2007 bàn giao chi nhánh Thanh Xuân về Trung ương.
Ngày 31/3/2008 bàn giao 3 chi nhánh Hoàn Kiếm, Tam Trinh, Đống Đa về Trung ương.
Ngày 1/4/2008 chuyển các chi nhánh cấp hai thành phòng giao dịch.
Đến 31/12/2008 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội gồm hội sở chính có các phòng nghiệp vụ:
1.Phòng hành chính sự nghiệp
2.Phòng kế hoạch tổng hợp
3.Phòng kế toán và ngân quỹ
4.Phòng điện toán
5.Phòng tín dụng
6.Phòng kinh doanh ngoại hối
7.Phòng dịch vụ và marketing
8.Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
Và 17 phòng giao dịch trực thuộc.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNNo&PTNT Hà Nội
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội
Hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng để đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng rất coi trọng nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động vốn, luôn chủ trương mở rộng các hình thức huy động vốn, và coi trọng việc tăng trưởng nguồn vốn là nhiệm vụ hàng đầu.
Ngoài nguồn vốn do Trung ương điều chuyển, nguồn vốn còn lại Ngân hàng tự cân đối. Điều đó đủ nói lên sự cố gắng rất lớn của Ngân hàng trong công tác huy động vốn. Trong từng thời điểm Ngân hàng đã chủ động thường xuyên bám sát tình hình diễn biến về lãi suất huy động, phân tích được tâm lý người dân và xu hướng tiền nhàn rỗi của họ. Chính điều này đã giúp cho Ngân hàng có những quyết định đúng đắn về hình thức huy động cũng như về lãi suất. Hơn nữa Ngân hàng cũng mở rộng mạng lưới huy động, áp dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt, mang tính cạnh tranh, cải tiến phương thức phục vụ khách hàng theo hướng khép kín các dịch vụ ngân hàng làm tốt công tác marketing ngân hàng. Kết quả huy động vốn của ngân hàng từ năm 2006 đến năm 2008 như sau:
Bảng số liệu 1: Kết quả huy động vốn trong 3 năm 2007-2009
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm
Nguồn vốn huy động
Tăng giảm so với các năm trước
Số tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
2007
13.821
976
7,60
2008
15.321
1.500
10,85
2009
14.487
-834
-5,44
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Trong ba năm 2007-2009 nguồn vốn huy động của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có sự biến động khá lớn. Nguồn vốn huy động của ngân hàng có sự tăng trưởng rõ rệt từ 2007-2008 cả về số tuyệt đối và tỷ lệ phần trăm. Tuy nhiên, bước sang năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh hưởng hệ thống tài chính của nước ta kết quả là làm cho tiền gửi vào hệ thống ngân hàng giảm đáng kể cả về số tuyệt đối lẫn tương đối (năm 2009, nguồn vốn huy động giảm 834 tỷ đồng hay giảm 5,44% so với năm 2007).
2.1.2.2. Kết quả hoạt động đầu tư tín dụng
Đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, NHNNo&PTNT Hà Nội thực hiện cho pháp nhân và các cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật Việt Nam được vay vốn khi có nhu cầu theo đúng các thể thức tín dụng ngắn hạn và dài hạn. Do chú trọng đến chất lượng và hiệu quả tín dụng coi đó là điều cơ bản quan trọng nhất, lấy hiệu quả của khách hàng là mục đích kinh doanh của mình. Từ năm 2007 đến nay hoạt động cho vay đã quyết định một phần lớn kết quả kinh doanh của NHNNo&PTNT Hà Nội.
Bảng số liệu 2: Kết quả hoạt động đầu tư tín dụng trong 3 năm 2007-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
So sánh 08/07
So sánh 09/08
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng doanh số cho vay
12.750
14.286
15.860
1.536
12
1.574
11
Tổng doanh số thu nợ
12.142
13.854
14.020
1.712
14
166
1,19
Tổng dư nợ
2.882
3.688
4.646
806
27,9
958
25,9
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy kết quả hoạt động đầu tư tín dụng của NHNNo&PTNT Hà Nội trong ba năm 2007, 2008, 2009 nhìn chung có sự tăng cả về doanh số cho vay và doanh số thu nợ thể hiện sự nỗ lực cố gắng của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên trong Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội. Tổng doanh số cho vay năm 2009 là 15.860 tỷ đồng tăng thêm 1.574 tỷ đồng tương ứng với 11%. So sánh với tổng doanh số cho vay ta thấy sự tích cực thu hồi nợ của Chi nhánh có sự tăng trưởng rõ rệt năm 2008 tăng lên so với năm 2007 là 1.712 tỷ đồng tương ứng 14%. Điều này cho thấy sự lớn mạnh trong hoạt động đầu tư tín dụng của Chi nhánh trong 3 năm qua là điều kiện thuận lợi để tiến hành hoạt động khác tạo đà cho nhiều bước phát triển mới của Chi nhánh. Có được kết quả trên là do NHNo&PTNT Hà Nội đã không ngừng củng cố, duy trì các mối quan hệ với khách hàng truyền thống, nghiên cứu thị trường đê tìm khách hàng mới, đồng thời chú trọng đổi mới phong cách giao dịch, luôn cập nhật thông tin để tư vấn thị trường cho khách hàng.
2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNNO&PTNT HÀ NỘI
2.2.1. Thực trạng huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội
Là một NHTM trong nền kinh tế thị trường, hơn nữa là một ngân hàng chuyên ngành trong lĩnh vực đầu tư và phát triển nông nghiệp nông thôn NHNNo&PTNT Hà Nội đã mở rộng và nâng cao hoạt động kinh doanh nói chung, công tác huy động vốn nói riêng nhằm thực hiện và phát huy những chức năng đó của mình.
Bảng số liệu 3: Biến động nguồn vốn thời kỳ 2007-2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tổng nguồn vốn huy động
13.821
15.321
14.487
Tăng giảm( tỷ đồng)
976
1.500
-834
Tốc độ tăng giảm ( %)
7,60
10,85
-5,44
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Kết quả trên phần nào có thể thấy rõ qua thực trạng huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội với phương châm: “nguồn vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc”, Ngân hàng đã cố gắng thực hiện đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn khác nhau tạo nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
Bảng số liệu 4: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nguồn vốn huy động
13.821
100
15.321
100
14.487
100
- Nội tệ
12.947
93,7
14.232
92,9
12.915
89,15
- Ngoại tệ
874
6,3
1.089
7,1
1.572
10,85
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Nhìn vào bảng số liệu kết cấu nguồn vốn huy động trên ta thấy cơ cấu nguồn vốn này có sự thay đổi qua các năm. Từng loại vốn có những đặc điểm riêng mà biến động của nó liên quan đến nhân tố cấu thành và đặc điểm của nó. Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng nguồn vốn trong cơ cấu huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội một cách chi tiết. Cụ thể như sau:
2.2.1.1. Nguồn vốn nội tệ
Đây là một trong hai nguồn vốn huy động chính mà ngân hàng đã và đang huy động. Nguồn vốn này được ngân hàng huy động dưới các hình thức đó là:
Tiền gửi tổ chức kinh tế và ký quỹ;
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư;
Phát hành giấy tờ có giá và chứng chỉ tiền gửi;
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng;
Tiền gửi khác.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu sự biến động của từng loại trong việc huy động nguồn vốn.
a) Tiền gửi của các tổ chức kinh tế và kỹ quỹ
Đây là bộ phận tiền gửi tạm thời chưa sử dụng đến trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khoản tiền gửi này bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) và tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế và ký quỹ thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của một ngân hàng. Chính vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến loại tiền gửi này. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế không chỉ giúp ngân hàng tăng số vốn huy động mà còn giúp ngân hàng nắm chắc được tình hình tài chính, những biến động về tài chính của các tổ chức kinh tế này. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra những quyết sách đúng đắn nhất đối với từng dự án đầu tư của từng tổ chức kinh tế, giúp ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Bảng số liệu 5: Biến động của doanh số huy động vốn từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế và ký quỹ trong 3 năm 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tiền gửi TCKT và ký quỹ
5.140
5.883
4.511
So sánh thời điểm sau so với trước
1.043
743
-1.372
Tỷ lệ % sau so với trước
27,9%
14,5%
-23,32%
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư, ngân hàng còn tìm mọi biện pháp tiếp cận các doanh nghiệp, Tổ chức kinh tế. Đây là nguồn vốn rất quan trọng với chi phí đầu vào thấp hơn so với các nguồn vốn khác. Các tổ chức kinh tế gửi tiền vào không phải để lấy lãi như người dân gửi tiết kiệm, mà họ gửi tiền vào ngân hàng là muốn sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Sở dĩ các tổ chức kinh tế muốn sử dụng dịch vụ này bởi vì hiện nay giá trị các hợp đồng kinh tế đầu tư ngày càng lớn, mặt khác hiện nay ngân hàng đã có mạng lưới khá rộng để phục vụ nhằm đảm bảo thanh toán kịp thời đầy đủ. Do Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn giữ vững được mối quan hệ tốt với các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn cho nên nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng và rất quan trọng đối với ngân hàng vì thông thường khi ngân hàng huy động nguồn vốn này có lãi suất thấp hơn so với lãi suất tiết kiệm nguồn dân cư.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy năm 2007 đạt 5.140 tỷ đồng tăng 1.043 tỷ đồng tương ứng với 27,9% so với năm 2006. Năm 2008 đạt 5.883 tỷ đồng tăng 743 tỷ đồng tương ứng 14,5% so với năm 2007. Tuy nhiên, sang năm 2009, tiền gửi của TCKT và ký quỹ chỉ đạt 4.511 tỷ đồng, giảm 1.372 tỷ đồng so với năm 2008. Nguyên nhân là do trong hai năm 2008-2009 nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn, bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế trên thế giới và lạm phát làm cho hoạt động của các doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc. Mặc dù năm 2009 số tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong NHNNo&PTNT Hà Nội có giảm so với 2008 nhưng đạt được kết quả trên cũng là sự nỗ lực rất lớn của NHNNo&PTNT Hà Nội trước bối cảnh chung của nền kinh tế. Do vậy việc duy trì ổn định nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế có uy tín, kinh doanh tốt là một cố gắng rất lớn của NHNNo&PTNT Hà Nội.
b) Tiền gửi tiết kiệm
Bảng số liệu 6: So sánh sự biến động của doanh số huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm qua các năm 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
So sánh
So sánh
2008/2007
2009/2008
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nguồn TK
1.968
1.332
1.760
- 636
- 32,3
428
32,1
Không kỳ hạn
230
170
271
- 60
- 26,1
101
59,4
Kỳ hạn dưới 12T
1.049
679
915
- 370
- 35,5
236
34,7
Kỳ hạn trên 12T
689
483
574
- 206
- 29,9
91
18,8
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Nhìn chung hiện nay tiền gửi tiết kiệm vẫn là công cụ huy động vốn hữu ích của ngân hàng vì nó vẫn được người dân tín nhiệm và quen dùng, thủ tục gửi và lĩnh đơn giản dễ hiểu, dễ phù hợp với mọi tầng lớp dân cư. Với môi trường cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng hiện nay thì lãi suất đang dần được điều chỉnh linh hoạt theo hướng đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp nên không khuyến khích được người gửi tiền, nó thường chỉ bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi và sẽ được sử dụng trong tương lai gần, gửi tiền vào ngân hàng không vì mục đích sinh lời. Do đó, nó chiếm tỷ trọng thấp trong tổng vốn huy động tiết kiệm được của ngân hàng .
Nhận định được ưu thế của tiền gửi tiết kiệm là có lợi cho cả khách hàng và cho cả ngân hàng nên Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội – ngoài việc sử dụng biện pháp truyền thống trong huy động tiết kiệm như sổ tiết kiệm không kỳ hạn, sổ tiết kiệm có kỳ hạn trả lãi hàng tháng, hàng quý, tiết kiệm có kuyến mại bằng hiện vật, tiết kiệm dự thưởng và quà tặng đối với tiền gửi nội tệ, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội còn bổ sung thêm nhiều hình thức tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 1 đến 60 tháng với nhiều hình thức trả lãi: lãi tháng, lãi quý, lãi trước, lãi sau, tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng có khuyến mại…nhằm đa dạng hoá các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và huy động tốt hơn nguồn vốn này. Kết quả là năm 2009, nguồn vốn huy động tiết kiệm bằng nội tệ đạt 1.760 tỷ đồng, tăng 32,1% so với năm 2008 (cùng kỳ 2008 giảm 32,3%).
c) Giấy tờ có giá và chứng chỉ tiền gửi
Giấy tờ có giá và chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với những người đầu tư vốn, người sở hữu các giấy tờ có giá và chứng chỉ tiền gửi được hưởng thu nhập (lãi) trên tổng số tiền mua và được trả gốc khi đến hạn thanh toán. Mục đích của việc phát hành giấy tờ có giá và chứng chỉ tiền gửi của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là nhằm huy động vốn trung và dài hạn trong nước từ các tầng lớp dân cư để cho vay đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hoá, góp phần hình thành và phát triển thị trường vốn trong nước.
NHNNo&PTNT Hà Nội ngoài các hình thức huy động vốn còn phát hành các giấy tờ có giá như trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh và cũng để thu hút một phần tiền mặt từ lưu thông. Để hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này chúng ta cùng tìm hiểu về tình hình phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng qua bảng số liệu sau:
Bảng số liệu 7: Biến động của doanh số huy động vốn từ phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tổng nguồn vốn
620
3.032
843
So sánh thời điểm sau so với trước
- 135
2.412
-2.189
Tỷ lệ % sau so với trước
- 17,9%
389%
-72,19%
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Huy động kỳ phiếu là một kênh để Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội tăng trưởng nguồn vốn, do đó ngân hàng phát hành kỳ phiếu nhằm mục đích huy động vốn dân cư trên địa bàn Thủ đô để đáp ứng nhu cầu vốn cho toàn hệ thống và cân đối vốn tại địa phương.
Kỳ phiếu thường huy động ngắn hạn lãi suất kỳ phiếu thay đổi tuỳ từng thời kỳ nhưng thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm và có thể được trả trước.
Đối với ngân hàng, mỗi lần phát hành chứng chỉ tiền gửi thể hiện sự vay vốn trên thị trường để hoạt động, đây là loại vốn vay ngắn hạn dùng để giải quyết nhu cầu về tiền mặt cấp thiết của ngân hàng. Do đó loại chứng chỉ này không đổi thành tiền mặt khi chưa đến hạn do đó nguồn này giúp ngân hàng chủ động trong việc kinh doanh. Nhưng tính thanh khoản của nó không cao nên khách hàng cũng không sử dụng loại này nhiều do đó loại này có tỷ trọng không cao trong cơ cấu vốn.
Qua số liệu ta thấy, vốn huy động bằng kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi giảm 72,19% trong năm 2009, ngoại trừ tăng đột biến trong năm 2008. Việc huy động kỳ phiếu phụ thuộc vào nhu cầu vốn của từng thời kỳ, chính vì vậy để cân đối tài chính và tăng nguồn thì Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có thể mở từng đợt phát hành kỳ phiếu. Khi đó ngân hàng sẽ chủ động hơn về số lượng huy động, thời hạn và lãi suất…và đây chính là ưu điểm nổi bật của kỳ phiếu Ngân hàng thương mại. Mặt khác, việc hạch toán kế toán đối với kỳ phiếu lại đơn giản, thủ tục gửi và lĩnh dễ dàng, ngân hàng thuận lợi trong việc tổ chức màng lưới huy động và chi trả kỳ phiếu khi đến hạn.
Ngân hàng có thể sử dụng hình thức này để huy động vốn thường xuyên và liên tục cũng như huy động tiền gửi tiết kiệm nhưng lãi suất, phương thức trả lãi, thời hạn thanh toán…linh hoạt phù hợp với thị trường hơn tiền gửi tiết kiệm.
Tuy nhiên kỳ phiếu của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội hiện nay cũng còn những hạn chế đó là chi phí huy động thường cao hơn các loại tiền gửi khác, người mua kỳ phiếu không được sử dụng các dịch vụ ngân hàng từ hình thức này, các giao dịch liên quan đến kỳ phiếu phải thực hiện ở trụ sở ngân hàng làm cho chi phí về thời gian lớn.
d) Tiền gửi tổ chức tín dụng
Đây là nguồn tiền huy động chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Nó góp phần làm tăng tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Bảng số liệu 8: Biến động của doanh số huy động vốn từ tiền gửi TCTD giai đoạn 2007-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tổng nguồn vốn
1.412
1.184
3.049
So sánh thời điểm sau so với trước
- 130
-228
1.865
Tỷ lệ % sau so với trước
- 8,4%
-16,2%
157,5%
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư, ngân hàng còn tìm mọi biện pháp tiếp cận các Tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi gia tăng thêm nguồn vốn của ngân hàng mình. Đây là nguồn vốn rất quan trọng với chi phí đầu vào thấp hơn so với các nguồn vốn khác.
Do Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn giữ vững được mối quan hệ tốt với các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn cho nên nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, và tăng mạnh trong năm 2009 sau khi giảm liên tiếp trong 2 năm 2007-2008 (năm 2007 giảm 8,4%, năm 2008 giảm 16,2%, năm 2009 tăng 157,5%). Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với ngân hàng vì thông thường khi ngân hàng huy động nguồn vốn này có lãi suất thấp hơn so với lãi suất tiết kiệm nguồn dân cư.
e) Tiền gửi khác
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động được của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Nhưng nó là khoản mục không thể thiếu được trong nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Đó là các khoản vốn nhận uỷ thác đầu tư của các tổ chức tài trợ, chủ yếu ở đây là vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển…hay là các khoản vay của Ngân hàng Nhà nước.
Bảng số liệu 9: Biến động của doanh số huy động vốn từ nguồn tiền gửi khác 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tổng nguồn
4.443
2.526
3.094
So sánh thời điểm sau so với trước
957
-1.917
568
Tỷ lệ % sau so với trước
27,50%
-43,10%
22,49%
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Qua bảng số liệu trên ta thấy vốn huy động từ nguồn tiền gửi khác biến động liên tục và không đều qua các năm. Cụ thể năm 2007 đạt 4.443 tỷ đồng tăng 957 tỷ đồng tương ứng 27,5% so với năm 2006. Năm 2008 đạt 2.526 tỷ đồng tăng 1.917 tỷ đồng tương ứng 43,1% so với năm 2007. Năm 2009 đạt 3.094 tỷ đồng, tăng 22,49% so với năm 2008.
2.2.1.2. Nguồn vốn ngoại tệ
Ngoại tệ chủ yếu mà NHNNo&PTNT Hà Nội huy động là đô la Mỹ. Đây là một ngoại tệ mạnh và có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới.
Bảng số liệu 10: Biến động của doanh số huy động vốn ngoại tệ trong 3 năm 2007-2009
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Nguồn ngoại tệ quy đổi
874
1.089
1.572
So sánh thời điểm sau so với trước
-483
215
483
Tỷ lệ % sau so với trước
-35,60%
24,60%
44,35
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Trong xu thế toàn cầu hoá và cạnh trang ngày càng quyết liệt thì nguồn vốn ngoại tệ càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng và hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung.
Nguồn vốn ngoại tệ của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội tăng trưởng mạnh qua 2 năm 2008-2009 sau khi giảm trong năm 2007. Cụ thể: năm 2007 là 874 tỷ đồng, giảm 35,6% so với năm 2006; năm 2007 nguồn vốn ngoại tệ 1.089 tỷ đồng, tăng 24,6% so với năm 2007; năm 2009 nguồn vốn ngoại tệ là 1.572 tỷ đồng, tăng 44,35% so với năm 2008. Có được kết quả nêu trên là do Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã nhận thức được tình hình thực tế và nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hoá nên đã cố gắng phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn để đạt được kết quả tốt; đặc biệt là chất lượng của các sản phẩm dịch vụ được nâng cao rõ rệt, bước đầu chiếm lĩnh thị trường trong nước và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kết quả sản xuất kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội như chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh Wester Union, thnah toán séc thẻ, thu đổi ngoại tệ, đại lý đổi ngoại tệ. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã đa dạng hoá các kênh chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam thông qua dịch vụ chuyển tiền nhanh Wester Union.
2.2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội.
Trong hoạt động ngân hàng, nguồn vốn vừa có tính chất tiền đề vừa có tính chất quyết định cho sự tăng trưởng của ngân hàng. Vì vậy, trong những năm qua NHNNo&PTNT Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong công tác huy động, quản lý và điều hành nguồn vốn. Cụ thể như sau:
ð Tổng nguồn vốn liên tục gia tăng, trong cơ cấu nguồn vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế và ký quỹ, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng khá lớn, tỷ trọng của trái phiếu, kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi ngày càng tăng trưởng. Ngân hàng đã năng động khơi tăng nguồn vốn, đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ ngân hàng, tăng trưởng tín dụng đảm bảo an toàn vốn và kinh doanh có lãi, làm tròn nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
ð NHNNo&PTNT Hà Nội đã chủ động linh hoạt áp dụng các mức lãi suất huy động đối với mọi thành phần kinh tế. Đồng thời tích cực thu hồi các khoản nợ đến hạn, quá hạn nhằm tạo nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, đáp ứng nhu cầu về vốn của mọi thành phần trong quá trình phát triển kinh tế.
ð Bên cạnh đó, trên cơ sở thu hút một lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, NHNNo&PTNT Hà Nội đã thông qua nghiệp vụ cho vay đầu tư phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Cơ cấu tín dụng và đầu tư được tập trung theo chương trình và loại cho vay phù hợp.
ð Song song với hoạt động kinh doanh đối nội, NHNNo&PTNT Hà Nội đã không ngừng đẩy mạnh kinh doanh đối ngoại, thu hút nguồn vốn nước ngoài vào đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
Có thể nói hoạt động huy động vốn đã bám sát tình hình thực tế, trở thành một công cụ điều hành quan trọng trong việc quản lý tài sản nợ, có một cơ cấu vốn hợp lý, cân đối với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo tốt khả năng thanh toán của ngân hàng.
2.3. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNNO&PTNT HÀ NỘI
2.3.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trên song với vai trò của một NHTM đa năng trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng gặp không ít khó khăn trong công tác huy động vốn. Cụ thể:
- Mặc dù Ngân hàng nhà nước đã cho phép các Ngân hàng thương mại đa dạng hoá các loại tiền gửi với nhiều hình thức khác nhau. Nhưng nguồn vốn huy động ngoại tệ của NHNNo&PTNT Hà Nội vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn (chiếm khoảng 10% tổng nguồn vốn huy động).
- Nguồn vốn chưa có tính ổn định cao, nguồn huy động từ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25594.doc