MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTM :Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT :Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNo :Ngân hàng Nông nghiệp
VCSH :Vốn chủ sở hữu
NHNN :Ngân hàng Nhà nước
TCTD :Tổ chức Tín dụng
TCKT :Tổ chức kinh tế
TCTC :Tổ chức tài chính
CNH – HĐH :Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
DTBB :Dự trữ bắt buộc
GTCG :Giấy tờ có giá
IPCAS :Hiện đại hóa hệ thống thanh toán & kế toán khách hàng DANH MỤC BẢNG, BIỂU
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CHI NHÁNH NHo&PTNT HÀ NỘI 29
Bảng 2.1
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tình hình huy động vốn của NH No&PTNT Hà Nội 30
Bảng 2.2 Tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội 32
Bảng 2.3 Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT Hà Nội 33
Bảng 2.4: Kết quả tài chính của NHNo Hà Nội giai đoạn 2006- 2008 38
Bảng 2.5 Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của NHNo 40
Biểu đồ 2.1: Quy mô tổng nguồn vốn ( Tỷ đồng) 40
Bảng 2.6: Cơ cấu vốn theo đối tượng huy động của NHNo Hà Nội giai đoạn 2006- 2008 41
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn theo đối tượng 42
Bảng 2.7 : Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn của NHNo Hà Nội 44
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn 47
Bảng 2.8: Hoạt động sử dụng vốn của NHNo&PTNT 2007 – 2008 48
Biểu đồ 2.4 : Cơ cấu vốn theo loại tiền 49
Bảng 2.9 : Vốn huy động nội tệ giai đoạn 2006- 2008 49
Bảng 2.10 : Vốn huy động ngoại tệ giai đoạn 2006 – 2008 50
Bảng 2.11: Phát hành giấy tờ có giá tại Chi nhánh 2007 – 2008 53
Bảng 2.12 : Chi phí huy động vốn 54
Bảng 2.13: Lãi suất chênh lệch năm 2006- 2008 55
LỜI MỞ ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Để thực hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố đầu vào rất quan trọng. Vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả của vốn đầu tư. Vì vậy để đứng vững và nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải được mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, hiện đại hóa máy móc dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Cho nên để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì cần phải có vốn đầu tư.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vốn tự có của doanh nghiệp và người kinh doanh có hạn, vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước cũng có nhiều khó khăn thì vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế chủ yếu là vốn tín dụng ngân hàng. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và thực hiện cho vay đối với các nhà đầu tư, các cá nhân và tổ chức trong xã hội.
Nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, do đó, nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế là rất lớn. Chính vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng vốn nhanh chóng kịp thời cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho chính hệ thống ngân hàng thì công tác huy động vốn cần phải được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại. Và NHNo&PTNT Hà Nội cũng không là ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với kiến thức đã học được ở trường cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, em đã chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về huy động vốn của NHTM.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sỹ Phan Hữu Nghị đã hết sức tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh chị trong Phòng Kế toán – Ngân Quỹ cùng toàn thể cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại đơn vị.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại định chế tài chính trung gian cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được huy động, tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, ngân hàng đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế thị trường: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, NHTM là cầu nối doanh nghiệp với thị trường, là công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô, là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng huy động được để cấp tín dụng, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn nợ. Trong đó vốn nợ gồm vốn huy động, vốn đi vay và một số vốn nợ khác.
1.1.1. Vốn chủ sở hữu
Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác, để bắt đầu hoạt động của mình phải có một lượng vốn nhất định. Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng có quyền sử dụng lâu dài, hình thành nên tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc, trang thiết bị… Tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường mà nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng.
1.1.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Theo quy định của pháp luật về điều kiện thành lập thì ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (vốn điều lệ). Đây là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng cần có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu là khác nhau. Cụ thể, VCSH của ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước do ngân sách nhà nước cấp, VCSH của ngân hàng tư nhân do cá nhân tự bỏ vốn ra, VCSH của ngân hàng Cổ phần do các cổ đông góp cổ phần, VCSH của ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp vốn.
Loại vốn này phải tuân thủ các quy định của NHNN về số vốn tối thiểu – vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có khi bắt đầu hoạt động. Vốn pháp định được quy định cho từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể. Đặc điểm của vốn chủ sở hữu là không phải hoàn trả, chủ ngân hàng có thể tăng, giảm hoặc thay đổi cơ cấu VCSH, quyết định chính sách phân phối lợi nhuận.
1.1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Vốn chủ của ngân hàng không ngừng được tăng lên trong quá trình hoạt động nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn vốn bổ sung này có thể từ lợi nhuận, từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…Nguồn vốn bổ sung này có đặc điểm không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn khi cần thiết.
1.1.1.3. Các quỹ
Hàng năm, sau khi tổng kết kết quả kinh doanh, dựa trên lợi nhuận thu được, ngân hàng đều tiến hành trích lập các quỹ. Mỗi quỹ được sử dụng vào một mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư phát triển, quỹ thặng dư, quỹ bảo toàn vốn, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,…Các quỹ của ngân hàng thuộc quyền sở hữu của ngân hàng.
1.1.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Những khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được xem là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng. Đây là nguồn vốn bổ sung mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài (đầu tư vào nhà cửa, đất đai,…) và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Như vậy, tuy vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn song nó lại có vai trò rất quan trọng. VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấp phép tổ chức và hoạt động. Bên cạnh đó, VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng, cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển các hình thức dịch vụ mới. Và cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định và lâu dài.
1.1.2. Vốn nợ
Đặc trưng hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn chủ. Chính vì vậy, để thực hiện hoạt động kinh doanh như tín dụng, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác thì ngân hàng cần phải chú trọng phát triển nguồn vốn , đặc biệt là nguồn vốn nợ, bao gồm nguồn tiền gửi, nguồn đi vay và nguồn khác.
1.1.2.1. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Chính vì vậy, để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động nhằm thu hút một cách tối đa và hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong xã hội. Các hình thức huy động vốn tiền gửi bao gồm tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, tiền gửi của các ngân hàng khác.
Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn nhưng chưa đến hạn. Tuy nhiên, quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, chiếm hơn 50% tổng nguồn. Đây được xem là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng trong công tác huy động vốn.
Quy mô và cấu trúc của nguồn tiền gửi biến động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như lãi suất huy động, địa điểm ngân hàng, các hình thức huy động vốn, các dịch vụ của ngân hàng, tâm lý của người gửi tiền,…Do vậy, ngân hàng cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi tùy vào từng đối tượng khách hàng để xây dựng chính sách huy động vốn linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
1.1.2.2. Nguồn đi vay
Tuy nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn của ngân hàng nhưng trong trường hợp gặp khó khăn tài chính, thiếu hụt dự trữ, thiếu hụt thanh khoản… thì NHTM vẫn phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả. Khoản vay này đã trở thành nguồn vốn quan trọng do sự biến động thường xuyên giữa việc huy động và sử dụng vốn. NHTM có thể vay vốn ở NHNN, các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn.
Đây là loại vốn mà ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn và quy mô xác định trước do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với tiền gửi là nguồn huy động thường xuyên thì các khoản đi vay chỉ được thực hiện lúc cần thiết, ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Các khoản vay NHNN và vay ngân hàng khác có thời hạn ngắn, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán tức thời của ngân hàng hoặc đáp ứng nhu cầu về dự trữ bắt buộc trong một thời điểm nào đó. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào ngân hàng muốn vay thì đều có thể vay được. Bởi, vay NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà NHNN theo đuổi trong từng thời kì, vay các ngân hàng khác trên cùng địa bàn sẽ gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Vì vậy, muốn mở rộng quan hệ vay mượn trên thị trường liên ngân hàng thì ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế.
Ngân hàng vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…Lãi suất của hình thức huy động này cao hơn các nguồn khác nhưng ngân hàng vẫn sử dụng khi nguồn tiền gửi không đáp ứng được những yêu cầu như ổn định, quy mô vốn đủ lớn trong khoảng thời gian xác định. Thông qua việc phát hành các giấy nợ trung và dài hạn, ngân hàng có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và tạo lập được các nguồn trung, dài hạn có tính ổn định cao. Từ đó, ngân hàng có thể cho vay các dự án lớn, tài trợ cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Các nguồn khác
Nguồn ủy thác
Thông qua các dịch vụ ủy thác mà ngân hàng thương mại thực hiện như ủy thác đầu tư, ủy thác cho vay, ủy thác giải ngân và thu hộ, ủy thác cấp phát. NHTM cũng đã thu hút được lượng vốn bổ sung và làm tăng nguồn vốn. Do việc giải ngân theo tiến độ nên thường xuyên có một bộ phận vốn kết dư trên tài khoản, ngân hàng có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn đó vào kinh doanh.
Nguồn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ( séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C) có thể hình thành nguồn trong thanh toán.
Nhìn chung, đối với những nguồn này ngân hàng không phải trả lãi và quy mô nguồn không lớn. Tuy vậy, chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Để gia tăng các nguồn này, NHTM cần không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng của các loại hình dịch vụ, tối đa hóa tiện ích cũng như lợi ích của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1. Sự cần thiết phải huy động vốn của NHTM
1.2.1.1. Vốn huy động là cơ sở tài chính trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của NHTM
Ngân hàng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn tiến hành hoạt động kinh doanh thì phải có vốn. Vốn điều lệ là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép hoạt động, đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh và thu nhập của ngân hàng. Một ngân hàng có lượng vốn huy động lớn thì ngân hàng đó có thế mạnh trong kinh doanh. Trong hoạt động của ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Do đó, để thực hiện các hoạt động của mình thì ngân hàng cần có các giải pháp thu hút một cách hiệu quả yếu tố đầu vào quan trọng này.
1.2.1.2. Vốn huy động quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác
Quy mô các hoạt động của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng đó. Một ngân hàng có khả năng về vốn dồi dào thì ngân hàng đó có thể mở rộng được các hoạt động kinh doanh và đáp ứng được nhu cầu đa dạng về vốn của khách hàng trong cho vay, bảo lãnh, đầu tư... Vốn lớn, ngân hàng có thể cho vay với mọi thành phần kinh tế, cho vay với số lượng lớn mà vẫn đảm bảo được khả năng thanh khoản. Điều này, làm cho quan hệ tín dụng của ngân hàng được mở rộng, quy mô tín dụng tăng lên. Nguồn vốn lớn còn giúp ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình khác nhau như: liên doanh liên kết, kinh doanh chứng khoán, thuê mua tài sản,.. Như vậy, vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh, mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập.
1.2.1.3. Vốn quyết định khả năng thanh toán và bảo đảm uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính
Uy tín đối với một ngân hàng là vấn đề sống còn, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đó. Chính vì vậy, các ngân hàng luôn quan tâm và chú trọng nâng cao uy tín của mình trên thị trường tài chính. Uy tín đó được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng, ở khả năng cho vay và đầu tư đối với những dự án lớn có thời hạn dài. Để có thể đáp ứng được thì ngân hàng cần có một lượng vốn lớn, mà chủ yếu là vốn huy động. Với tiềm năng vốn lớn và khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể yên tâm cho vay mà vẫn bảo đảm tính thanh khoản cao, tạo tâm lý yên tâm và thoải mái cho khách hàng. Đồng thời, ngân hàng có thể kinh doanh đa năng, tham gia vào các lĩnh vực như đầu tư chứng khoán, kinh doanh góp vốn, đồng tài trợ các dự án.. giúp ngân hàng phân tán rủi ro trên cơ sở một nguồn vốn dồi dào, nhằm tăng sức cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thị trường.
1.2.1.4. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Cạnh tranh trong NHTM là sự tranh đua, giành giật khách hàng dựa trên tất cả những khả năng mà ngân hàng có được để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có sự đặc trưng riêng của mình so với các NHTM khác trên thị trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận ngân hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế trên thị trường. Và vốn là điều kiện không thể thiếu để các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Những ngân hàng hoạt động không hiệu quả, quy mô vốn bé tất yếu sẽ bị giải thể hoặc sát nhập. Những ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn vay, linh hoạt về lãi suất,…Các dịch vụ của ngân hàng sẽ ngày càng phong phú, hiện đại và tiện ích hơn đối với khách hàng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến, giao dịch và sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Đồng thời, nguồn vốn của ngân hàng lớn cũng là cơ sở để ngân hàng liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua, mua bán nợ,.. Các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng, tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Như vậy, vốn có vai trò then chốt trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động của ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động của bất cứ NHTM nào, đòi hỏi ngân hàng phải cực kỳ nhanh nhạy trong việc huy động và điều hành vốn.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của NHTM
Hoạt động huy động vốn góp phần giải quyết “ đầu vào” của ngân hàng. Không có hoạt động huy động vốn, NHTM sẽ không có đủ nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động của mình. Ngoài ra, NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng thông qua hoạt động huy động vốn. Bởi vậy, các NHTM đã đưa ra các hình thức huy động đa dạng và linh hoạt nhằm huy động tối đa nguồn vốn trong nền kinh tế.
1.2.2.1 Phân loại theo đối tượng huy động
a. Huy động vốn từ dân cư
Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Mỗi cá nhân và gia đình trong xã hội đều có những khoản tiền nhàn rỗi, dự phòng để chi tiêu trong tương lai. Xã hội càng phát triển, thu nhập của người dân càng tăng lên thì các khoản dự phòng này càng cao. Vì vậy, các NHTM đã tìm mọi hình thức nhằm huy động tối đa các khoản tiết kiệm này. Từ đó đã tạo ra một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đồng thời thu được lợi nhuận cho chính ngân hàng. Tiền gửi của dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên sổ tiền gửi tiết kiệm, được hưởng lãi và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Đây được xem là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng.
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi của cá nhân gửi vào tài khoản thanh toán với mục đích gửi, giữ tiền hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán.
b. Huy động vốn từ các Tổ chức tín dụng và NHNN
- Vay các TCTD: Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Và ngược lại, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Đây là khoản vay dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó có thể bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN.
- Vay NHNN: Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM như thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán,… Ở Việt Nam hiện nay, NHNN cho các NHTM vay vốn dưới các hình thức:
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Ngoài ra, NHNN còn cho NHTM vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN còn chi vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống. Nhìn chung, NHNN điều hành vay mượn một cách chặt chẽ và NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Tuy vốn vay các tổ chức tín dụng và vay NHNN thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của NHTM nhưng khoản vay này có tác dụng góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của NHTM.
c. Huy động vốn từ các Tổ chức kinh tế
Các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán. Song nhiều khoản thu bằng tiền sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Dó đó, trên cơ sở nắm bắt được chu kì sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ chức mà ngân hàng đưa ra các hình thức huy động hợp lý, linh hoạt để thu hút các nguồn tiền này. Tiền gửi từ các Tổ chức kinh tế bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kì hạn.
d. Huy động từ các Tổ chức tài chính
Khoản tiền gửi của các tổ chức này thường mang tính chất thanh toán, chi trả, lưu thông tiền tệ và cung cấp thêm vốn cho ngân hàng.
1.2.2.2 Phân loại theo phương thức huy động
a. Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kì hạn)
Là loại tiền gửi của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích giao dịch thanh toán, chi trả các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh. Ngân hàng mở tài khoản thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Không phải lúc nào khách hàng cũng sử dụng số dư trong tài khoản. Vì vậy, đôi khi số dư này tạm thời nhàn rỗi và trở thành nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền này cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, đặc tính cơ bản của loại tiền này là không ổn định, khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào mà không cần bao trước cho ngân hàng. Cho nên đối với loại tiền gửi này, ngân hàng thường trả lãi suất thấp hoặc thậm chí không trả lãi cho khách hàng. Chính vì vậy, khách hàng thường duy trì số dư tài khoản tiền gửi không nhiều, vừa đủ đáp ứng nhu cầu chi trả hàng ngày của họ. Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng là không lớn. Nhưng ngân hàng là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp các dịch vụ thanh toán nên số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng kể.
b. Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường có một bộ phận vốn tạm thời nhàn rỗi như: tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên liệu, trả lương; các quỹ đầu tư phát triển; quỹ phúc lợi; quỹ khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến,…Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời, các doanh nghiệp có thể gửi số vốn này vào tài khoản tiền gửi có kì hạn ở các ngân hàng, hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Đặc điểm của loại tiền gửi này là có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài, các ngân hàng thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kì hạn hoặc hưởng mức lãi suất tươn ứng theo loại kì hạn nhất định do ngân hàng quy định.
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Loại hình tiền gửi này được thiết kế dành cho khách hàng là các tầng lớp dân cư trong xã hội có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Nguồn này vừa có tính ổn định cao, thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn. Các khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này thường thấp, khách hàng mang tính ổn định cao, ít biến động, thuận lợi cho việc hoạch định chính sách hoạt động của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
d. Huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ
Ngân hàng có thể huy động vốn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua. Đối tượng mua các giấy tờ có giá là các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Đặc điểm của các kỳ phiếu, trái phiếu này là có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng.
- Trái phiếu ngân hàng là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ của ngân hàng phát hành đối với chủ sở hữu trái phiếu. Ngân hàng phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, ngân hàng chịu sự quản lý của NHNN, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
- Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn ngắn hạn. Ngân hàng cam kết sẽ trả lãi được hưởng và vốn gốc cho nhà đầu tư khi kỳ phiếu đến hạn.
- Chứng chỉ tiền gửi là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. Người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán lãi định kỳ và nhận vốn gốc khi hết hạn.
Với hình thức huy động vốn này, các ngân hàng có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng.
1.2.2.3 Phân loại theo thời gian huy động
a. Huy động vốn ngắn hạn
Việc mở các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn và phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ đã tạo ra nguồn vốn ngắn hạn trong NHTM. Phần lớn số vốn này để thực hiện cho vay ngắn hạn hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho vay trung và dài hạn. Đây là hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM. Do có thời hạn ngắn hay không có thời hạn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp và tính ổn định kém.
b. Huy động vốn trung hạn
Là nguồn vốn huy động có thời hạn từ 1 đến 5 năm, có lãi suất huy động cao hơn nguồn ngắn hạn. Các NHTM sử dụng nguồn vốn này để cho các doanh nghiệp vay trung, dài hạn để đầu tư có chiều sâu vào các dự án mở rộng sản xuất, thay đổi công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
c. Huy động vốn dài hạn
Hoạt động này tạo ra nguồn vốn dài hạn ( từ 5 năm trở lên) trong ngân hàng. Đây là nguồn có tính ổn định cao và được các NHTM sử dụng đầu tư vào các dự án phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như : đầu tư vào các dự án quốc tế dân sinh, xây dựng các nhà máy,… Lãi suất mà ngân hàng phải trả để huy động nguồn này thường rất cao. Tuy nhiên tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng không cao.
1.2.2.4 Phân theo loại tiền huy động
a. Vốn huy động bằng nội tệ
Đây là nguồn vốn chủ yếu trong các NHTM và giữ vai trò quan trọng để duy trì hoạt các hoạt động của ngân hàng. Quy mô của nguồn này phụ thuộc vào thu nhập trong nước và công tác huy động vốn của NHTM.
b. Vốn huy động bằng ngoại tệ
Vốn ngoại tệ bao gồm nguồn vốn huy động từ các loại ngoại tệ như USD, EURO, GBP,.. Lãi suất của các loại tiền gửi là ngoại tệ thường cao hơn lãi suất của tiền gửi nội tệ có cùng kỳ hạn. Các ngân hàng thu hút nguồn ngoại tệ nhằm phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ xuất khẩu, kinh doanh ngoại tệ trong nước,..
1.2.3 Hiệu quả huy động vốn và các tiêu chí đánh giá
1.2.3.1 Hiệu quả huy động vốn
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở quy mô, cơ cấu vốn, chi phí huy động của ngân hàng.
a. Quy mô và tính ổn định của nguồn vốn
Quy mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Quy mô nguồn vốn phải không ngừng tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngày càng tăng của nền kinh tế, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Một khi nguồn vốn tăng trưởng không ổn định sẽ gây khó khăn cho NHTM trong việc hoạch định chính sách sử dụng vốn, cản trở hoạt động cho vay và đầu tư của NHTM với các thành phần kinh tế. Từ đó, làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTM, giảm lợi nhuận và uy tín của ngân hàng. Vì vậy, các NHTM đều đa dạng hóa các hình thức huy động vốn để tăng quy mô đồng thời chú trọng hơn vào nguồn vốn có tính ổn định cao để đảm bảo quy mô nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Tiền gửi của dân cư là nguồn vốn ổn định nhất. Do đó, khi nguồn vốn huy động từ dân cư chiếm tỷ trọng lớn thì nguồn vốn của ngân hàng đó được xem là ổn định. Bên cạnh tiền gửi dân cư thì tiền gửi giao dịch của các tổ chức kinh tế tuy có tính ổn định không cao nhưng nó lại đem đến cho ngân hàng một nguồn vốn với chi phí rẻ và lợi nhuận lớn hơn. Nếu biết tính toán hợp lý chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp thì ngân hàng sẽ chủ động hơn trong việc sử dụng hợp lý và linh hoạt nguồn vốn này.
Như vậy, hoạt động huy động vốn thực sự có hiệu quả khi quy mô nguồn vốn có sự tăng trưởng ổn định.
b. Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn có ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi chí của ngân hàng. Cơ cấu huy động và cơ cấu sử dụng vốn phải có sự phù hợp với nhau. Nếu cơ cấu nguồn vốn không phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn thì sẽ không tối đa được dư nợ tín dụng và đầu tư. Ngượ._.c lại, huy động nhiều nhưng sử dụng không hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn phải chịu lãi suất trên phần vốn huy động thừa, làm tăng chi phí của ngân hàng. Cơ cấu nguồn vốn được xem là hợp lý nếu các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn và chi phí huy động thấp nhất.
- Cơ cấu vốn theo kỳ hạn
Kỳ hạn của nguồn vốn là cơ sở để xây dựng kế hoạch sử dụng vốn. Khi nói đến kì hạn của nguồn chúng ta quan tâm đến kì hạn danh nghĩa, kì hạn thực tế và khả năng chuyển hoán kì hạn của nguồn. Các khoản nợ của ngân hàng thường gắn liền với kì hạn nhất định, đó là kì hạn danh nghĩa của nguồn. Các kì hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất định, nguồn có kì hạn danh nghĩa càng dài thì lãi suất càng cao. Khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền đều cố gắng duy trì kì hạn danh nghĩa để hưởng mức lãi suất cao nhất. Cho nên, kì hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. Để cho vay và đầu tư dài hạn, các ngân hàng cần duy trì tính ổn định của nguồn tiền.
Kì hạn danh nghĩa tạo cơ sở để ngân hàng đưa ra kì hạn huy động phù hợp với thị trường. Tuy nhiên, ngân hàng quan tâm hơn tới kì hạn thực tế của nguồn tiền bởi vì nó liên quan chặt chẽ đến kì hạn của các khoản cho vay và đầu tư. Kì hạn thực tế của nguồn tiền là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một ngân hàng. Sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra sự dịch chuyển giữa các loại tiền gửi trong một ngân hàng, tiền gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, từ loại tiền này sang loại tiền khác, từ kì hạn này sang kì hạn khác. Điều đó làm thay đổi kì hạn thực tế của các khoản tiền gửi.
Một nguồn tiền nào đó trong ngân hàng được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản huy động và đi vay. Chẳng hạn, khoản gửi tiết kiệm với kì hạn danh nghĩa trong 9 tháng nhưng người gửi tiền không rút ra mà duy trì nhiều lần 9 tháng thì sẽ trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn. Như vậy, một nguồn vốn với kì hạn danh nghĩa là ngắn hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kì hạn thực tế trung và dài hạn. Việc phân tích, đo lường kì hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để ngân hàng quản lý thanh khoản, chuyển hoán kì hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kì hạn ngắn để cho vay với kì hạn dài hơn.
- Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền
Cơ cấu vốn theo loại tiền của ngân hàng bao gồm vốn nội tệ và ngoại tệ. Vốn nội tệ phục vụ cho nhu cầu tín dụng trong nội địa, còn vốn ngoại tệ thì chỉ những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mới được ngân hàng cho vay, thanh toán hộ. Ngân hàng chỉ có thể chuyển đổi 15% số vốn ngoại tệ huy động được sang VNĐ để cho vay. Một khi nhu cầu vốn nội tệ tăng lên nhưng không đủ đáp ứng, trong khi nguồn ngoại tệ lại dư thừa, vẫn phải trả lãi sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng. Như vậy, chính nhu cầu sử dụng vốn nội tệ hay ngoại tệ sẽ ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn nội tệ, ngoại tệ của ngân hàng.
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá
a. Chỉ tiêu đánh giá tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
Chênh lệch năm sau so với năm trước = Số tiền năm sau – Số tiền năm trước
Giá trị tuyệt đối của chỉ tiêu này mà nhỏ thì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của ngân hàng ổn định và ngược lại thì không ổn định.
Chênh lệch % số tiền năm sau so với năm trước
=
Số tiền năm sau – Số tiền năm trước
Số tiền năm trước
Giá tri tuyệt đối của chỉ tiêu này càng lớn thì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động nhanh và ngược lại thì chậm.
b. Chỉ tiêu cơ cấu nguồn vốn huy động
Từng loại tiền gửi/ Tổng nguồn vốn huy động: các loại tiền ở đây là sự phân theo các tiêu chí như đối tượng, loại tiền, kỳ hạn,.. để phản ánh cơ cấu tiền gửi theo các tiêu chí đó.
c. Chi phí huy động
- Chi phí trả lãi ( lãi suất huy động)
Đối với những người gửi tiền lãi suất huy động là thu nhập có được khi họ phải tạm thời từ bỏ khoản vốn của mình khi gửi tiền vào ngân hàng. Nhưng đối với ngân hàng, lãi suất huy động là chi phí để ngân hàng thu hút được nguồn vốn từ các thành phần trong xã hội. Lãi suất chi trả ( lãi suất huy động) càng cao thì khả năng huy động và vay mượn được càng lớn. Từ đó, mở rộng hoạt động cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất cao sẽ gây khó khăn trong hoạt động tín dụng do lãi suất huy động quá cao kéo theo lãi suất cho vay phải cao, gây áp lực cho nhà đầu từ khi vay vốn của Ngân hàng. Đồng thời làm tăng chi phí của ngân hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí thì sẽ làm giảm lợi nhuận. Vì vậy, các NHTM cần phải xem xét chi phí lãi phải trả cho nguồn vốn huy động và sự biến động của chi phí này.
- Chi phí khác
Trong quá trình huy động còn có các chi phí khác như chi phí tiền lương, chi phí giao dịch, quảng cáo, chi phí duy trì hoạt động của trụ sở như điện, nước,… Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần làm giảm chi phí của ngân hàng.
Ngoài ra, còn quan tâm chỉ tiêu Hệ số sử dụng vốn và chênh lệch lãi suất để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Hệ số sử dụng vốn
=
Tổng dư nợ
Tổng nguồn vốn huy động
Chênh lệch lãi suất
=
Lãi suất đầu ra
bình quân
-
Lãi suất đầu vào bình quân
Trong đó
Lãi suất đầu ra
bình quân
=
(Tổng thu lãi cho vay, lãi tiền gửi, phí điều chuyển vốn Trung Ương trả bình quân)/Tổng nguồn vốn
Lãi suất đầu vào
bình quân
=
Tổng chi phí huy động vốn / Tổng nguồn vốn
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng là một chủ thể kinh tế hoạt động trong môi trường kinh tế - xã hội. Do đó, hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng đều bị chi phối bởi các yếu tố khách quan và chủ quan.
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
Nhóm nhân tố này có tác động lớn đến tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, ngân hàng không thể kiểm soát hay tránh được mà chỉ có thể dự báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra.
1.3.1.1. Môi trường kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước có tác động không nhỏ đến việc huy động vốn của NHTM. Môi trường kinh tế quyết định đến thu nhập của người dân, nhu cầu đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển thì thu nhập dân cư cao và ổn định. Từ đó, tạo điều kiện tích lũy nhiều hơn làm cho số vốn huy động vào ngân hàng dồi dào và nhu cầu đầu tư mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người dân giảm. Lúc này, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hóa và trang trải cuộc sống. Do đó, ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn.
Khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao làm giảm sức mua của đồng tiền. Điều này làm cho lợi ích của người gửi tiền giảm do lãi suất thực giảm xuống, người dân có xu hướng tích trữ vàng, USD hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó gửi vào NHTM nên lượng vốn huy động của ngân hàng giảm.
1.3.1.2. Môi trường chính trị, pháp luật
Một quốc gia có sự ổn định về chính trị sẽ khiến cho người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng với mục tiêu an toàn và sinh lợi.Việc thu hút một cách dễ dàng và hiệu quả nguồn tiền gửi này sẽ làm tăng quy mô vốn của ngân hàng.
Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động của các ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế và các thành phần kinh tế. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, Chính phủ và NHNN ở mỗi quốc gia cần phải giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt hoạt động của các ngân hàng. Ngoài việc cụ thể hóa các quy định của ngành ngân hàng trong luật, nghị định, thông tư thì còn phải tùy thuộc vào tình hình thực tế để đưa ra các chính sách về tiền tệ, lãi suất, dự trữ,… nhằm đảm bảo mức độ an toàn cần thiết cho các ngân hàng, ngăn ngừa ngân hàng tham gia vào các vụ đầu tư mạo hiểm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và quan trọng nhất là để phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay NHNN để ra. Một môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng kinh doanh hiệu quả và thực hiện tốt các chức năng của mình. Vì vậy, sự thay đổi trong các chính sách của NHNN và Chính phủ về tài chính, tiền tệ, tín dụng hay các chính sách về đầu tư, ưu đãi,… sẽ ảnh hướng đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Chính vì vậy, khi cần huy động vốn đòi hỏi các NHTM đều phải xem xét các quy định của pháp luật.
1.3.2.3. Khách hàng
Khách hàng của ngân hàng là các tổ chức, cá nhân sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng để thỏa mãn các mục tiêu khác nhau như thanh toán, tín dụng, ký quỹ, chuyển tiền... Đây là đối tượng mà bất cứ ngân hàng nào cũng hướng tới. Với những khách hàng là người gửi vốn tại ngân hàng có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý. Thu nhập ảnh hưởng tới nguồn vốn tiềm tàng mà doanh nghiệp có thể huy động được trong tương lai. Và tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Khách hàng càng tin tưởng vào ngân hàng thì nguồn tiền ra, vào ngân hàng càng ổn định, tạo điều kiện huy động vốn tốt hơn cho ngân hàng.
Ngoài ra, tập quán thói quen tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng quan trọng trong việc huy động vốn của ngân hàng. Cụ thể, ở những vùng người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì việc huy động vốn sẽ dễ dàng hơn ở những vùng người dân có thói quen cất trữ tiền, vàng trong nhà. Ở những nước phát triển, người dân thường xuyên sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán. Trong khi đó, ở một số nước, người dân vẫn chưa có thói quen thanh toán không dùng tiền mặt. Điều này làm cho công tác huy động vốn của ngân hàng gặp khó khăn hơn. Vì vậy, các ngân hàng cần phải tích cực tuyên truyền sâu rộng về các hoạt động của mình và các lợi ích của người gửi tiền cũng như các thủ tục cần thiết để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đến gửi tiền tại ngân hàng.
1.3.1.4. Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng
Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Trong môi trường mà các đối thủ cạnh tranh càng nhiều đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngân hàng tìm đủ mọi biện pháp để cung cấp sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao với nhiều lợi ích cho khách hàng, với mức giá và chi phí cạnh tranh nhất. Bên cạnh sự đảm bảo về tính chính xác, độ tin cậy và sự tiện lợi nhất nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần để đạt được lợi nhuận cao nhất. Ngân hàng có năng lực cạnh tranh cao thì khả năng huy động vốn của ngân hàng đó dễ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, cạnh tranh vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó có hoạt động huy động vốn.
1.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan
Đây là nhóm nhân tố nội tại bên trong ngân hàng. Do vậy, ngân hàng có thể tác động vào từng yếu tố chủ quan, điều chỉnh từng yếu tố phù hợp với tình hình thực tế hoạt động nhằm đạt kết quả huy động vốn và kết quả kinh doanh tốt nhất.
1.3.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Các ngân hàng thường xây dựng cho mình các chiến lược kinh doanh khác nhau tùy thuộc vào tình hình thực tế và những mục tiêu của từng ngân hàng. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên cơ sở ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được thế mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Theo đó, ngân hàng có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng quy mô huy động vốn, thay đổi cơ cấu các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động vốn. Với một chiến lược kinh doanh đúng đắn, ngân hàng sẽ thu hút được tối đa các nguồn vốn trong xã hội.
Trong chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng đóng vai trò quan trọng, có tác động trực tiếp trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Dựa trên đặc điểm riêng của từng đối tượng, thói quen, tâm lý, mong muốn của người gửi tiền để đưa ra chính sách giá cả hợp lý, nâng cao chất lượng phục vụ và giao tiếp tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng giao dịch. Từ đó, thu hút được số lượng lớn khách hàng đến với ngân hàng, sẽ tạo thuận lợi hơn cho công tác huy động vốn.
1.3.2.2 Uy tín của ngân hàng
Uy tín của một ngân hàng được xây dựng nên sau nhiều năm hoạt động ổn định, đạt kết quả kinh doanh cao. Ngân hàng vừa có quy mô lớn, vừa có uy tín sẽ có được lợi thế hơn trong công tác huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng là tiền đề cho việc ngân hàng huy động được những nguồn vốn lớn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian. Thực tế cho thấy, mặc dù lãi suất tiền gửi tại ngân hàng thấp hơn đôi chút nhưng những người có tiền vẫn lựa chọn ngân hàng có uy tín hơn để gửi mà không gửi vào những nơi có lãi suất cao hơn. Vì họ tin rằng, tại đó đồng vốn của mình được tuyệt đối an toàn.
1.3.2.3 Lãi suất huy động vốn
Lãi suất là một trong những mối quan tâm hàng đầu của người gửi tiền khi muốn gửi tiền vào ngân hàng. Trước khi quyết định gửi tiền vào một ngân hàng, họ thường xem xét uy tín của ngân hàng, địa điểm, chất lượng phục vụ và so sánh lãi suất huy động giữa các ngân hàng. Nếu khách hàng đánh giá các ngân hàng có cùng hệ số an toàn và các dịch vụ tiện ích thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng có lãi suất huy động cao hơn.
Lãi suất là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Vì vậy, việc xây dựng chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt là điều kiện giúp ngân hàng có được nguồn vốn hợp lý về quy mô và cơ cấu, đảm bảo cho ngân hàng thu hút được nhiều vốn, đồng thời vẫn kinh doanh có lãi.
1.3.2.4 Các hình thức huy động vốn
Nhu cầu và mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng rất đa dạng. Do đó, để huy động được nhiều vốn từ dân cư và các thành phần trong xã hội, các ngân hàng đưa ra các hình thức huy động vốn đa dạng, đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. Khi áp dụng nhiều hình thức huy động vốn, người gửi sẽ có cơ hội lựa chọn hình thức gửi phù hợp với nhu cầu của họ. Các ngân hàng đều tìm cho mình những hình thức huy động vốn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, tâm lý dân cư tại vùng ngân hàng đặt địa điểm và phù hợp với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả nguồn vốn huy động. Khi đó, số lượng người sử dụng các sản phẩm tiền gửi của ngân hàng tăng lên đồng nghĩa với số tiền huy động được cũng tăng lên.
1.3.2.5 Mạng lưới
Ngoài việc quan tâm đến lãi suất và các dịch vụ tiện ích có được khi gửi tiền vào ngân hàng, các tầng lớp dân cư còn quan tâm đến vấn đề thuận tiện khi đến ngân hàng đó. Các khoản tiết kiệm của dân cư thường là những khoản không lớn nên họ thường sẽ lựa chọn những ngân hàng gần nơi họ sinh sống hoặc cất giữ tiền ở nhà. Vì vậy, để huy động được khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư thì nhất thiết các ngân hàng phải mở rộng mạng lưới chi nhánh và nâng cao chất lượng mạng lưới phục vụ. Mặt khác, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu của khách hàng khi giao dịch tại ngân hàng càng cao. Những ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng, cung ứng các dịch vụ tiện ích nhanh chóng, kịp thời thì sẽ càng thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
1.3.2.6 Trình độ và thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng
Các nhân viên ngân hàng là những người mang hình ảnh cho cả ngân hàng. Do đó, phong cách làm việc, thái độ phục vụ và trình độ của cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và hiệu quả ngân hàng. Khi tiếp xúc với nhân viên ngân hàng có thái độ nhã nhặn, nhiệt tình tư vấn cho khách hàng và thực hiện các thao tác nghiệp vụ nhanh chóng sẽ tạo cho khách hàng một tâm lý thoải mái, tin tưởng. Điều đó không chỉ giúp ngân hàng có một khối lượng lớn khách hàng truyền thống, trung thành mà còn thu hút thêm nhiều khách hàng mới đến với ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt thì cán bộ ngân hàng không chỉ cần có đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm với công việc, hết lòng phục vụ khách hàng mà còn cần phải trang bị cho mình trình độ nghiệp vụ vững vàng, phong cách làm việc chuyên nghiệp, nhạy bén, sẵn sàng tiếp cận với phương thức kinh doanh hiện đại đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và phát triển kinh tế.
1.3.2.7 Trình độ công nghệ ngân hàng
Hoạt động huy động vốn ngân hàng ngày càng có sự cạnh tranh mạnh mẽ không chỉ với các NHTM trong nước mà còn với các ngân hàng nước ngoài. Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập, khi mà khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển, đòi hỏi hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng không ngừng được đổi mới để bắt kịp với sự phát triển của mạng lưới ngân hàng quốc tế. Ngân hàng có trình độ công nghệ cao không chỉ thực hiện các giao dịch, các nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác mà còn cung cấp các dịch vụ tiện ích hơn, hiện đại hơn. Đây là một yếu tố phi lãi suất rất quan trọng trong cạnh tranh vì khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất mà còn quan tâm đến chất lượng phục vụ và tiện ích khi sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ thông tin ngày càng đa dạng, hướng đến việc tối đa hóa tiện ích và lợi ích của khách hàng. Vì vậy, ngân hàng nào hiện đại hơn, có chất lượng phục vụ tốt hơn thì sẽ khiến cho khách hàng tin tưởng và giành ưu thế. Do đó, sẽ giảm được chi phí huy động vốn, chi phí quản lý và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 26 tháng 3 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 53/ HĐBT thành lập các Ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam (nay là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam). Để mở rộng mạng lưới hoạt động của mình, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam đã thành lập các chi nhánh, và các phòng giao dịch trên phạm vi cả nước.
Theo tinh thần đó, Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp Thành phố Hà Nội (nay là NHNo&PTNT Hà Nội) đã được thành lập theo quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng Giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt Nam).
Từ những ngày đầu mới thành lập Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã gặp không ít khó khăn, luôn trong tình trạng thiếu vốn thiếu tiền mặt và sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động và lợi thế hơn hẳn. Tuy nhiên, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho Nông nghiệp. Và chỉ sau hơn hai năm hoạt động, từ năm 1990 trở đi, Ngân hàng đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội có 17 phòng giao dịch trực thuộc.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội đã từng bước hiện đại hóa hoạt động Ngân hàng mà trọng tâm là công tác thanh toán, chuyển tiền điện tử cho khách hàng. Đến nay mọi nhu cầu chuyển tiền cho khách hàng trong và ngoài hệ thống được thực hiện nhanh chóng với độ an toàn và chính xác cao.
Sau 20 năm phấn đấu, NHNo&PTNT Hà Nội đã có những bước tiến vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phát triển đa dạng hóa các dịch vụ. Ngoài ra, Chi nhánh cũng đã quan tâm và phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích như: chuyển tiền, bảo lãnh dự thầu, bào lãnh thực hiện hợp đồng, mở LC nhập khẩu, Phone - banking, thẻ ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ, tư vấn trong thanh toán Quốc tế, ...mở mang nhiều tiện lợi cho khách hàng và tăng thu từ dịch vụ cho Ngân hàng.
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, NHNo&PTNT Hà Nội luôn luôn lấy đoàn kết nội bộ làm trọng tâm, phát huy sức mạnh của các tổ chức quần chúng như Công đoàn cơ sở, Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công… Cán bộ viên chức NHNo&PTNT Hà Nội đã tích cực hưởng ứng các công tác xã hội như ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, ủng hộ người nghèo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tổ chức thăm hỏi và tặng quà các gia đình thương binh, liệt sỹ với trên 300 triệu, nuôi dưỡng 1 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ xây nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách với 152 triệu đồng....
Với những công hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế Thủ đô cũng như với sự phát triển của ngành Ngân hàng, Đảng Bộ NHNo&PTNT Hà Nội luôn đạt danh hiệu Đảng Bộ trong sạch vững mạnh, được Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công hạng Ba, 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phụ, 37 Bằng khen của Thống đốc NHNN Việt Nam, 33 bằng khen của Chủ tích UBND thành phố Hà Nội, 39 Chiến sỹ thi đua, 1266 lượt lao động giỏi cấp cơ sở.
Hai mươi năm, một chặng đường chứa đựng những thay đổi to lớn, đánh dấu sự phát triển và trưởng thành của một ngân hàng chi nhánh. NHNo&PTNT Hà Nội luôn là lá cờ đầu vững mạnh trong hệ thống ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Tin rằng trước yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập NHNo&PTNT Hà Nội sẽ phát triển bền vững và giành được nhiều thành tích to lớn hơn nữa.
Giới thiệu chung về NHNo&PTNT Hà Nội:
- Tên chính thức: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
- Tên tiếng anh: Agriculture and rural development Ha Noi bank.
- Trụ sở chính : Số 77 Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Website: www.agribankhanoi.com
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Ngân hàng No&PT Hà Nội là chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. Là đơn vị có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh. Đến nay, Ngân hàng đã 17 Phòng giao dịch trực thuộc.
Cơ cấu tổ chức bao gồm Ban giám đốc và 10 phòng ban nghiệp vụ. Ban giám đốc của NHNo&PTNT Hà Nội bao gồm Giám đốc và bốn Phó Giám đốc. Giám đốc hiện nay là ông Nguyễn Quốc Hùng. Các phòng nghiệp vụ tại NHNo&PTNT Hà Nội:
Phòng Hành chính và Nhân sự
Phòng Kiểm tra, Kiểm soát nội bộ
Phòng Kế toán – Ngân quỹ
Phòng Tín dụng
Phòng Điện toán
Phòng Dịch vụ & Marketing
Phòng Giao dịch
Phòng Kế hoạch Tổng hợp
Phòng Kinh doanh ngoại hối
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CHI NHÁNH NHo&PTNT HÀ NỘI
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC 2
PHÓ GIÁM ĐỐC 3
PHÓ GIÁM ĐỐC 4
PHÓ GIÁM ĐỐC 1
P.PCNS(TCCB)
P.KTKSNB
P.KTNQ
P.HCNS(HC)
P.P.Tín dụng
P. Điện toán
P.DV&MKT
Phòng giao dịch
P.KHTH
P.KDNH
2.1.3. Thực trạng hoạt động kinh doanh của NH
Trong những năm qua, đặc biệt là năm 2008 - năm thứ ba thực hiện Đề án phát triển hoạt động kinh doanh giai đoạn 2006 – 2010 của chi nhánh NHNo Hà Nội và hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp trên địa bàn Thủ đô đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào sự nghiệp CNH – HĐH theo định hướng phát triển kinh tế.
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn của NH No&PTNT Hà Nội
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
06/05
%
Số tiền
07/06
%
Số tiền
08/07
%
Tổng nguồn vốn huy động
12845
+10,7
13821
+7,6
15322
+10,9
I. Phân theo loại tiền
1. Bằng VNĐ
11489
+9,6
12947
+12,7
14233
+9,9
2. Bằng ngoại tệ
(quy ra VNĐ)
1356
+21,6
874
-35,5
1089
+24,6
II. Phân theo đối tượng
1. Tiền gửi dân cư
3632
+22,9
2536
18,3%
-30,2
5587
36,5%
+120,3
2. Tiền gửi TCKT
3854
-22,9
5241
37,9%
+36,0
6063
39,6%
+15,7
3. Tiền gửi TCTD
1874
+365,0
1601
11,6%
-14,6
1145
7,4%
-28,5
4. Tiền gửi TCTC
3485
+7,8
4443
32,2%
+27,5
2527
16,5%
-43,1
( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo&PTNT Hà Nội)
Nhìn chung tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng đều có sự tăng trưởng qua các năm. Năm 2008 đạt 15322 tỷ, tăng 1500 tỷ so với năm 2007.
Theo bảng tổng hợp về cơ cấu nguồn vốn huy động cho thấy tỷ trọng nguồn vốn huy động theo dân cư và tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng cao. Trong đó, tiền gửi từ các tổ chức kinh tế vẫn là nguồn vốn huy động chủ yếu của Chi nhánh trong ba năm qua. Năm 2008 đạt 6063 tỷ, tăng 15,7% so với năm 2007. Đây là nguồn vốn có chi phí rẻ và ít chịu tác động rút tiền trước hạn do thay đổi lãi suất. Đặc biệt, ở khoản mục tiền gửi từ dân cư có sự tăng trưởng cao, đạt 5587 tỷ, tăng 1,2 lần so với năm 2007.
Phân theo loại tiền có thể thấy nguồn vốn huy động chủ yếu của Chi nhánh là nội tệ, chiếm tỷ trọng cao (trên 89% ) trong tổng nguồn vốn. Nguồn ngoại tệ tuy tăng 27,1% so với năm 2007 nhưng chiếm tỷ trọng không đáng kể.
Những kết quả trên có được là do NHNo Hà Nội đã thực hiện áp dụng các hình thức huy động vốn với nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng gửi tiền: huy động tiết kiệm bậc thang, tiết dự thưởng, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm lũy tiến số dư theo lãi suất… Các hình thức tiết kiệm đa dạng với nhiều hình thức trả lãi tháng, quý, năm, lãi trước, lãi sau linh hoạt, phù hợp với lãi suất và mặt bằng chung của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, đặc biệt là việc điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội, ngoại tệ linh hoạt kịp thời đã góp phần nâng cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trụ sở làm việc được chỉnh trang, thay đổi, trang thiết bị làm việc được bổ sung thay mới và phong cách giao dịch được ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng đã thu hút một lượng lớn khách hàng đến với ngân hàng.
Năm 2008, năm mà sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt hơn ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là việc nâng lãi suất huy động vốn nội, ngoại tệ của các NHTM Cổ phần tạo thêm nhiều áp lực trong hoạt động kinh doanh năm 2008 của NHNo Hà Nội. Tuy nhiên, khắc phục những khó khăn đó, NHNo Hà Nội đã liên tục đảm bảo khả năng tự cân đối nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng và nhu cầu thanh toán đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn.
2.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Về quy mô hoạt động tín dụng
Bảng 2.2 Tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng dư nợ
2457
-0,41
2737
+11,4
3438
+25,6
I. Phân theo thời gian
1. Ngắn hạn
Tỷ trọng
1336
54,38%
-4,98
1446,38
52,85%
+8,3
1323
38,48%
-8,5
2. Trung và dài hạn
Tỷ trọng
1121
45,62%
+18,9
1290,62
47,15%
+15,1
2115
61,52%
+63,8
II. Phân theo loại tiền
Bằng nội tệ
Tỷ trọng
2044
81,19%
+16,86
2007
73,3%
-1,8
2606
75,8%
+29,8
Bằng ngoại tệ ( quy ra VNĐ)
Tỷ trọng
413
18,81%
-42,48
730
26,7%
+76,7
832
24,2%
+13,9
( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo&PTNT Hà Nội)
Hoạt động tín dụng của NHNo Hà Nội năm 2008 đã tập trung đầu tư cho các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, mặc dù hệ thống ngân hàng đang khó khăn về vốn đầu tư tín dụng, song tổng dư nợ của chi nhánh đạt 3438 tỷ, tăng 25,6% so với năm 2007. Đặc biệt trong năm 2008 Chi nhánh đã đầu tư dây chuyền thiết bị cho một số tổng công ty lớn như: Tổng công ty Rượu Bia nước giải khát, Công ty Cổ phần Cồn rượu Hà Nội… để mở rộng thêm nhà máy sản xuất tại các tỉnh Hưng Yên, Vĩnh Phúc… với doanh số hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra, Chi nhánh tiếp tục đầu tư với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động kinh doanh.
Xét về loại tiền, dư nợ bằng nội tệ luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ: Năm 2006 là 2044 tỷ, chiếm 81,19%; năm 2008 đạt 2606 tỷ, chiếm 75,8%. Có được điều này là do các dự án mà chi nhánh cho vay chủ yếu là các dự án của các doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. Dư nợ về ngoại tệ chưa chiếm tỷ trọng cao song đã có mức tăng trưởng cao qua các năm. Đặc biệt năm 2007, dư nợ ngoại tệ có mức tăng trưởng là 76,7% so với năm 2006. Năm 2008 đạt 832 tỷ, tăng 13,9% so với năm 2007.
Xét về kỳ hạn, năm 2006 Chi nhánh chủ yếu cho vay các dự án ngắn hạn, với tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm trên 54,38%. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập, khi mà các doanh nghiệp có nhu cầu nhiều hơn về vay vốn trung và dài hạn thì Chi nhánh đã có sự điều chỉnh kịp thời. Điều này được thể hiện ở tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn của doanh nghiệp trong ba năm qua đều có tăng trưởng: Năm 2006 tăng 18,9% so với năm 2005, năm 2007 tăng 15,1% so với năm 2006, và tăng mạnh vào năm 2008, tăng 63,8% so với năm 2007. Đây là môt dấu hiệu tốt trong việc tăng thêm doanh thu từ lãi và cho thấy khả năng đáp ứng vốn cho tín dụng ngày càng cao của ngân hàng.
Về chất lượng hoạt động tín dụng
Bảng 2.3 Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT Hà Nội
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ xấu
41
-56,38
21
-48,78
34,35
+63,6
Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng Dư nợ
2%
0,6%
1%
( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo&PTNT Hà Nội)
Chi nhánh luôn chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, từng bước lành mạnh hóa công tác tín dụng nhằm ổn định và phát triển. Chính vì vậy, công tác thẩm định dự án, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Đồng thời chi nhánh kiên quyết thực hiện quyết định 493 về việc trích lập & phân loại nợ và Quyết định 18 của NHNN. Theo đó, đẩy mạnh thu nợ, thường xuyên rà soát các khoản cho vay, tình hình dư nợ và đưa ra các giải pháp xử lý rủi ro, nợ xấu một cách kịp thời và linh hoạt. Do vậy, chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt, nợ xấu chỉ còn dưới 1%, tỷ lệ thu lãi đạt trên 98%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp đầu tư đã phát huy hiệu quả đồng vốn đảm bảo trả nợ tốt cho ngân hàng. Đây là một tín hiệu đáng mừng chứng tỏ công tác tín dụng, quản lý nợ và chất lượng tín dụng của ngân hàng đang được nâng cao và có hiệu quả hơn.
2.1.3.3. Hoạt động Kinh doanh đối ngoại
Ngân hàng luôn chú trọng công tác thanh toán quốc tế. Hoạt động này không những làm tăng nguồn thu cho ngân hàng mà còn khẳng định vị thế của ngân hàng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi lẽ, sau khi gia nhập WTO, kí kết các hiệp định thương mại, việc các doanh nghiệp trong nước mở rộng giao lưu buôn bán, xuất khẩu nhập khẩu hàng._.nay các ngân hàng không chỉ đưa ra mức lãi suất cạnh tranh hấp dẫn mà còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tiện ích như: séc, thẻ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ tin vấn số dư tài khoản qua SMS Banking,…Các dịch vụ ngày càng đa dạng, chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngày càng cao thì càng thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng khi sử dụng. Điều này càng làm cho khách hàng biết đến ngân hàng nhiều hơn, càng tin tưởng vào ngân hàng và trung thành hơn đối với ngân hàng. Từ đó, họ sẽ yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng, tăng thu từ dịch vụ cho ngân hàng. Có thể xem đây cũng là một phương thức huy động vốn của ngân hàng. Do đó, NHNo Hà Nội cần chú trọng hơn nữa vào việc hoàn thiện hơn các dịch vụ đã có và phát triển dịch vụ mới.
Đối với nhóm dịch vụ mà Ngân hàng đang áp dụng
Chuyển tiền: trên cơ sở hoạt động chuyển tiền hiện có như chuyển tiền nhanh, chuyển tiền Westion Uion,… Chi nhánh cần cải tiến, mở rộng thêm các phương thức chuyển tiền mới, đơn giản thủ tục chuyển tiền, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người chuyển tiền và nhận tiền trên cơ sở đảm bảo vốn tối đa.
Thanh toán quốc tế: triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thanh toán biên mậu, thanh toán hàng xuất khẩu,.. tại các chi nhánh và phòng giao dịch trược thuộc NHNo Hà Nội.
Thanh toán trong nước: Phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, rút ngắn thời gian giao dịch và đơn giản hóa thủ tục thanh toán. Ngoài ra, cần triển khai tốt dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Visa và Mastercard,…
Dịch vụ ngân quỹ: tiếp tục phát triển dịch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện kiểm đếm nhanh, chính xác và trung thực.
Các dịch vụ khác: Tiếp tục triển khai dịch vụ đại lý bảo hiểm phi nhân thọ cho Bảo Việt nhằm tăng thu từ dịch vụ. Phát triển dịch vụ Phone – banking đến các ngân hàng chi nhánh.
Phát triển các sản phẩm dịch vụ mới
- Chi nhánh cần đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc mở thêm Tài khoản cá nhân. Phát triển tài khoản cá nhân là cơ sở để triển khai dịch vụ như thẻ ghi nợ, dịch vụ chi trả hộ lương thông qua tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, thu hộ và thanh toán học phí, viện phí, tiền điện, nước, điện thoại,…
- Phát hành thẻ tín dụng nội địa cho đối tượng khách hàng là chủ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, khách hàng cá nhân có số dư tiền gửi tiết kiệm và số dư bình quân trên tài khoản ổn định với số dư lớn từ 100 triệu trở lên.
- Tập trung tiếp cận các trường đại học, bệnh viện, công ty, Ban quản lý dự án để vừa huy động nguồn vốn, vừa triển khai các dịch vụ thu hộ, chi hộ,…Đồng thời, Ngân hàng cần tuyên truyền tiện ích của các dịch vụ và khuyến khích mọi người sử dụng các dịch vụ thanh toán hiện đại, giảm lượng tiền mặt dùng để thanh toán trong lưu thông.
3.2.4. Mở rộng mạng lưới kinh doanh và nâng cao chất lượng phục vụ
Ngân hàng có mạng lưới kinh doanh rộng và sự liên kết của các chi nhánh tốt thì sẽ tạo ưu thế rất lớn trong huy động vốn nhàn rỗi từ mọi thành phần kinh tế. Người dân sẽ không phải đi xa mà vẫn có thể sử dụng các dịch vụ của ngân hàng một tiện lợi và nhanh chóng. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Vì vậy, để nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh doanh của các chi nhánh và Phòng giao dịch trực thuộc, NHNo Hà Nội cần phải:
- Rà soát lại toàn bộ mạng lưới các phòng giao dịch. Tiến hành điểu chỉnh và sắp xếp lại mạng lưới phù hợp với yêu cầu. Đối với những phòng giao dịch hoạt động không hiệu quả, NHNo Hà Nội cần tìm hiểu nguyên nhân và có giải pháp khắc phục kịp thời.
- Ngân hàng cần tích cực tìm địa điểm xây dựng trụ sở Hội sở cũng như các ngân hàng Quận, các Phòng giao dịch trực thuộc. Bên cạnh việc đi thuê, Ngân hàng có thể mua lại nhà dân hoặc góp vốn liên kết vào các khu cao ốc, chung cư để tạo văn phòng làm việc thoáng mát, hiện đại, ổn định và gắn liền lâu dài với dân cư và các TCKT.
- Chuẩn hóa các điểm giao dịch theo hướng vừa tạo không gian chờ rộng rãi thoải mái cho khách hàng vừa đảm bảo khu vực làm việc của các nhân viên được an toàn.
-Trang bị cơ sở vật chất với định hướng hiện đại và đồng bộ đến Phòng giao dịch trực thuộc phù hợp với mô hình Ngân hàng hiện đại. Nhằm đảm bảo đủ điều kiện cần thiết trong công tác giao dịch và phục vụ khách hàng, không ngừng nâng cao uy tín và vị thế của Ngân hàng trên thị trường.
-Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị như máy tính, máy Photo, fax và các máy móc thiết bị khác phục vụ hoạt động tác nghiệp và nghiệp vụ. Định kỳ kiểm tra, khắc phục kịp thời để các thiết bị hoạt động tốt, không làm gián đoạn và ảnh hưởng đến việc thực hiện nghiệp vụ của nhân viên.
- Tiếp tục ứng dụng các công nghệ thông tin và khai thác có hiệu quả chương trình công nghệ phục vụ các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất việc thực hiện dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng, thu hút thêm lượng khách hàng mới tham gia sử dụng dịch vụ của Ngân hàng.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay
Huy động vốn và cho vay là hai hoạt động chính của Ngân hàng, giữa chúng có mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ, hỗ trợ và chi phối lẫn nhau. Nguồn vốn dồi dào và ổn định, với cơ cấu hợp lý là cơ sở vững chắc để ngân hàng tiến hành hoạt động cho vay và mở rộng đầu tư. Ngược lại, hoạt động sử dụng vốn có hiệu quả thì mới kích thích hoạt động huy động vốn. Thực tế cho thấy, việc cho vay có hiệu quả sẽ mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng, làm tăng uy tín và vị thế của Ngân hàng. Từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng và ngân hàng sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền. Mặt khác, khi đồng vốn đầu tư và cho vay phát huy hiệu quả làm cho kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên và khi đó, nhu cầu cho tích lũy của người lao động cũng tăng lên. Nhờ đó, ngân hàng có thể thu hút nguồn vốn ngày càng nhiều hơn. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển vốn một cách vững chắc nhất. Do đó, Ngân hàng cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay như sau: nâng cao chất lượng thẩm định dự án trước và sau khi cho vay; giám sát việc sử dụng vốn vay ở doanh nghiệp; đa dạng hóa các phương thức cho vay; xây dựng và rà soát danh mục khách hàng dựa trên thế mạnh thật sự của mình để cấp và quản lý tín dụng một cách tốt nhất; nâng cao trình độ nghiệp vụ và trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng; cải tiến thủ tục cho vay; nâng cao chất lượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận và vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh.
3.2.6. Áp dụng nhanh chóng và hiệu quả công nghệ Ngân hàng hiện đại
Hiện nay, hầu hết các sản phẩm dịch vụ tiện ích mới mà Ngân hàng đang triển khai như: SMS Banking, Vn Topup, Thẻ tín dụng quốc tế, Thẻ ghi nợ quốc tế, giao dịch Thẻ ghi nợ nội địa qua thiết bị POS,…đều bị chi phối bởi công nghệ thông tin. Năm 2008 là năm đầu tiên Agribank triển khai lắp đặt đồng bộ hệ thống IPCAS đến các Chi nhánh và phòng giao dịch trên khắp cả nước. Do đó, NHNo Việt Nam nói chung và bản thân các Chi nhánh cũng như NHNo Hà Nội nói riêng cần phải rà soát, kiểm tra lại chương trình IPCAS một cách thường xuyên, tránh tình trạng nghẽn đường truyền, lỗi cơ sở dữ liệu do khi chuyển đổi từ dữ liệu cũ sang dữ liệu mới,…đảm bảo cho mọi thông tin về tài khoản của khách hàng, các thông tin tài chính được truyền đi một cách nhanh chóng và chính xác. Từ đó, tăng tính liên kết trong mạng lưới các ngân hàng, tạo tiện lợi cho khách hàng trong việc gửi và rút tiền nhiều nơi trong cùng một hệ thống.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải tiếp tục hoàn thiện và nâng cao vai trò của công tác quản trị mạng, quản trị toàn hệ thống. Vì việc cho ra đời các sản phẩm mang tính công nghệ cao như Internet Banking, SMS Banking, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ quốc tế Visa, Master Card,..thì tội phạm trên mạng sẽ xuất hiện ngày càng nhiều. Công nghệ thông tin càng phát triển thì hoạt động của tội phạm máy tính ngày càng tinh vi hơn, chúng sẽ xâm nhập vào các hệ thống dữ liệu và gây tổn hại cho bất kỳ hệ thống ngân hàng nào, khách hàng nào. Những tổn hại này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín, chất lượng cũng như hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3.2.7. Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng
Marketing ngân hàng có một ý nghĩa rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Nó được xem là công cụ hữu hiệu và không thể thiếu để ngân hàng cung cấp thông tin về bản thân ngân hàng, về hình ảnh, về các loại hình sản phẩm dịch vụ mới,…nhằm tiếp cận gần hơn với mọi đối tượng khách hàng. Đặc biệt, trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì việc xây dựng chiến lược marketing của các ngân hàng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Việc sử dụng có hiệu quả marketing sẽ nâng cao năng lực cạnh của ngân hàng, tạo được uy tín và thương hiệu, từ đó tạo được lòng tin đối với khách hàng và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Vì vậy, để tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh thì NHNo Hà Nội cần phải chú trọng hơn nữa vào hoạt động marketing như tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng, tổ chức quảng cáo và xây dựng hình ảnh, tổ chức bộ phận nghiên cứu thị trường.
Tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng
Việc chăm sóc khách hàng sau khi cung cấp các sản phẩm là rất quan trọng. Khách hàng sẽ cảm thấy rất hài lòng và có ấn tượng tốt về chất lượng phục vụ, sự chu đáo, chuyên nghiệp của Ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, công tác này chưa được Ngân hàng triển khai rộng rãi do số lượng khách hàng quá đông, trong khi nhân lực, phương tiện và công nghệ ngân hàng chưa đủ điều kiện đáp ứng. Trong thời gian tới, để giữ chân và thu hút khách hàng, NHNo Hà Nội cần nghiên cứu và đưa vào áp dụng các biện pháp chăm sóc khách hàng sau:
- Ngân hàng có thư cảm ơn và đến tất cả đối tượng khách hàng đã sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Đối với khách hàng truyền thống, khách hàng có lượng tiền gửi lớn,…bên cạnh việc dành các ữu đãi về lãi suất, phí dịch vụ thì vào các dịp lễ, tết, ngày thành lập doanh nghiệp, Ngân hàng nên gửi thư chức mừng, cảm ơn, và tặng các tặng phẩm lưu niệm đến khách hàng. Điều này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của Ngân hàng đối với khách hàng, làm khách hàng và Ngân hàng gắn kết với nhau hơn. Đồng thời, có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng.
- Cần phải hướng tới mọi khách hàng từ những điều đơn giản nhất như tạo không gian chờ thoáng mát, phục vụ nước uống, báo và tạp chí, đồng thời giữ gìn và trông nom cẩn thận phương tiện đi lại của khách, tạo tâm lý thoải mái và yên tâm cho khách mỗi khi đến giao dịch với Ngân hàng.
- Cần thông báo nhanh chóng và kịp thời cho khách hàng khi có sự điều chỉnh về lãi suất, thay đổi biểu phí giao dịch và các đợt tung ra sản phẩm mới tới mọi đối tượng khách hàng thông qua số điện thoại cá nhân, trang web của Ngân hàng và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Nâng cao khả năng tiếp thị trong lòng mỗi cán bộ ngân hàng để tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn và sử dụng sản phẩm của ngân hàng.
Tổ chức quảng cáo và xây dựng hình ảnh
Đây là hoạt động marketing chủ yếu mà các ngân hàng đang thực hiện. Do đó, các chương trình quảng cáo phải làm nổi bật và dễ nhớ logo, biểu tượng và thương hiệu riêng của NHNo&PTNT Hà Nội. Thực hiện quán triệt tinh thần tự hào thương hiệu, ý thức phát triển và quảng bá thương hiệu tới từng cán bộ, tạo hình ảnh và ấn tượng tốt về NHNo Hà Nội đến từng khách hàng. Ngoài ra, tham gia tài trợ cho các chương trình truyền hình, tham gia các chương trình xã hội như từ thiện, văn hóa, văn nghệ, hội thảo, giúp đỡ mẹ Việt Nam anh hùng, trao học bổng cho sinh viên nghèo,…cũng là cách tốt để xây dựng hình ảnh và khuếch trương danh tiếng cho Ngân hàng.
Mỗi khi triển khai đợt huy động vốn, hay sản phẩm mới, Ngân hàng cần đẩy mạnh và phát triển công tác thông tin tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, tờ rơi,...Tăng cường nghiên cứu làm áp phích, quảng cáo lớn, nổi bật và đặt tại những địa điểm đông dân cư để mọi người biết và tham gia. Thường xuyên cập nhật và đổi mới trang web thông tin điện tử của Ngân hàng để tạo tiện ích cho khách hàng trong việc tra cứu thông tin về các sản phẩm, các dịch vụ, lãi suất,... Đặt tờ rơi về các đợt huy động, sản phẩm dịch vụ mới, các dịch vụ tiện ích, phát hành thẻ,…ngay tại các ô giao dịch để khách hàng biết nhiều hơn về cách thức của các đợt huy động hay đặc điểm của các sản phẩm dịch vụ mới. Các hình thức quảng cáo cần làm nổi bật một số thông tin mà khách hàng quan tâm như lãi suất tiền gửi, các hình thức huy động, lợi ích mà khách hàng có thể nhận được khi gửi tiền tại Ngân hàng.
Định kỳ Ngân hàng cần tổ chức đánh giá hiệu quả của các chương trình quảng cáo, khuyếch trương.
Tổ chức bộ phận nghiên cứu thị trường
Chi nhánh cần đầu tư nhiều hơn nữa vào công tác nghiên cứu thị trường. Tổ chức lấy ý kiến khách hàng thông qua hệ thống thanh điểm đánh giá chất lượng từng sản phẩm dịch vụ cũng như chất lượng công tác dịch vụ với các tiêu chuẩn đánh giá cụ thể như chất lượng sản phẩm dịch vụ, phong cách giao dịch của nhân viên ngân hàng. Định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng, qua đó thu thập thông tin, ý kiến phản hồi từ phía khách hàng. Để từ đó tìm hiểu nhu cầu và giải pháp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, đồng thời chỉ ra các hạn chế trong công tác marketing về đợt huy động trước để những đợt huy động sau được tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích các đối tượng khách hàng trên địa bàn, Ngân hàng chọn lựa các tiêu chí để phân loại khách hàng thành: khách hàng dân cư – khách hàng tổ chức kinh tế, khách hàng có quy mô lớn, vừa – khách hàng có quy mô nhỏ, khách hàng truyền thống – khách hàng tiềm năng,.. Từ đó xây dựng chiến lược khách hàng nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của từng nhóm khách hàng và đề ra những chính sách marketing thích hợp với từng đối tượng khách hàng. Đối với khách hàng tiềm năng Ngân hàng chủ động tiếp cận, xây dựng quan hệ ban đầu và vận động khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bằng các hình thức thư ngỏ, tờ rơi quảng cáo, quảng cáo trên báo, đài, Internet,…
3.2.8. Nâng cao chất lượng nguồn lực và thái độ phục vụ
Từ trước đến nay, vấn đề nhân sự luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, nó có vai trò quyết định đến sự phát triển hay diệt vong của một doanh nghiệp nói chung. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ vững vàng về trình độ chuyên môn, am hiểu nghiệp vụ, năng lực cao, có phẩm chất đạo đức tốt sẽ không chỉ nâng cao hiệu quả huy động vốn nói riêng mà còn đảm bảo sự phát triển ổn định, vững mạnh, nhất là đối với những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng. Những sai sót, vi phạm trong công tác nghiệp vụ cũng như quản lý đều bắt nguồn từ yếu tố nhân sự. Trong những năm gần đây, khi mà thị trường tài chính Việt Nam đã và đang phát triển khá mạnh thì vấn để nguồn nhân lực càng được đề cao hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, NHNo Hà Nội cần phải thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực như:
- Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại cán bộ mà trước hết là cán bộ lãnh đạo các phòng ban, các đơn vị trực thuộc về chuyên môn nghiệp vụ, phong cách giao dịch. Đồng thời chú trọng đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học, từng bước hội đủ điều kiện tác nghiệp trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh của NHNo Hà Nội.
- Trình độ cán bộ ngân hàng cần được chú trọng đào tạo để bắt kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ ngân hàng hiện đại. Ngay từ giai đoạn tuyển dụng Ngân hàng cần chú ý đến những ứng cử viên vừa đáp ứng đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, hiểu biết về xã hội, vừa có khả năng thích ứng và tiếp thu nhanh những công nghệ mới.
- Cử cán bộ, nhân viên đi tham quan, học tập, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng khác trên địa bàn cũng như các ngân hàng trong hệ thống và ngân hàng nước ngoài để vừa nâng cao kiến thức, vừa học hỏi thêm những kinh nghiệm quý báu về vận dụng phục vụ cho ngân hàng mình.
- Ngân hàng cần bố trí đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với trình độ chuyên môn của mỗi người nhằm đảm bảo đúng người đúng việc, khai thác tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân và phát huy triệt để năng lực của họ.
- Xây dựng được một đội ngũ giao dịch viên có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, tác phong chuyên nghiệp, nghiêm chỉnh, trung thực, luôn tôn trọng khách hàng. Nhân viên ngân hàng cần phải hiểu và nhận biết được sự sống còn của Ngân hàng chính là chính là khách hàng, phải biết quan tâm và chia sẻ đối với những khách hàng thường xuyên, cũng như những khách hàng mởi. Điều này sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thân thiện khi đến giao dịch, họ sẽ trở nên gắn bó hơn với ngân hàng và trở thành khách hàng truyền thống của ngân hàng.
- Đảm bảo đội ngũ nhân viên hướng dẫn, trả lời và giải quyết những thắc mắc khiếu nại của khách hàng một cách nhanh nhất, đảm bảo quyền lợi của khách hàng trên sự hài hòa lợi ích của ngân hàng. Tránh tình trạng bất mãn, thờ ơ khi tiếp xúc với khách hàng. Mỗi nhân viên ngân hàng không được tranh cãi với khách hàng dù trong bất cứ trường hợp nào mà phải hướng dẫn, giải thích cho khách hàng một cách cụ thể, rõ ràng.
- Ngân hàng tiếp tục phát động các phong trào thi đua, các sáng kiến cải tiến nghiệp vụ, quy trình giao dịch với khách hàng và có chế độ khen thưởng kịp thời với những tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác chuyên môn. Điều này đã khuyến khích mỗi công nhân viên và cán bộ ngân hàng luôn tích cực trong công tác và có những sáng kiến giúp cho hoạt động ngân hàng tốt hơn. Đồng thời có chế độ kỷ luật và phê bình thích đáng đối với những cán bộ làm sai nguyên tắc ngân hàng, vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp và đạo đức, nhất là những cán bộ tha hóa biến chất, biết sai mà vẫn cố tình làm gây tổn thất cho ngân hàng và khách hàng. Ngoài ra, Ban lãnh đạo Ngân hàng cần quan tâm, động viên đến cán bộ nhân viên trong ngân hàng, tạo cho họ môi trường làm việc thuận lợi với tâm lý thoải mái. Từ đó, thúc đẩy mỗi thành viên hết sức cố gắng, hết lòng làm việc để Ngân hàng lớn mạnh và phát triển bền vững.
3.3 Kiến nghị
3.3.1 Đối với Chính phủ
- Ổn định kinh tế vĩ mô: Trong năm 2009 Chính phủ cần tập trung chỉ đạo triển khai toàn bộ, quyết liệt các giải pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã để ra nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Một khi tình hình trong nước ổn định sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động ngân hàng. Đây là điều kiện, là tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và cho việc đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn cho Ngân hàng nói riêng.
Gói kích cầu 1 tỷ USD đang được Chính phủ triển khai và thực hiện từ tháng 1/2009. Kích cầu là kích thích sản xuất và kích thích tiêu dùng. Chính vì vậy, để gói kích cầu của Chính phủ thực sự có hiệu quả đòi hỏi việc sử dụng nguồn vốn phải được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và có biện pháp giải ngân nhanh để đưa đồng vốn vào sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Song song với nó, Chính phủ cần cải cách các thủ tục hành chính để các doanh nghiệp tiếp cận được dễ dàng và kịp thời hơn đối với các khoản hỗ trợ này. Cần đẩy mạnh công tác kiểm soát và công khai minh bạch thông tin về đồng tiền kích cầu của Nhà nước được đưa vào đâu và hiệu quả như thế nào để cổ vũ những đơn vị làm tốt cũng như phê phán những hành vi lợi dụng vốn kích cầu để mưu lợi, tham ô, tham nhũng. Khi các gói kích cầu của Chính phủ phát huy tác dụng sẽ góp phần bình ổn vĩ mô, tăng trưởng kinh tế. Khi đó, thu nhập của người dân tăng cao, kéo theo nhu cầu cho tích lũy tăng lên tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc huy động vốn.
- Chính phủ tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để đảm bảo nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững và bảo đảm an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng trước những biến động của tình hình tài chính quốc tế.
- Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và làm ăn có hiệu quả. Đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm toán một cách khách quan và trung thực để có các thông tin công khai minh bạch về tình hình tài chính doanh nghiệp. Điều này giúp các ngân hàng có quyết định đúng đắn trong việc cho vay đối với các doanh nghiệp.
- Cần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ nhằm hạn chế sự chồng chéo giữa các luật, các quy định về ngân hàng với các luật và quy định khác.
Việc ban hành, hướng dẫn thi hành và thực hiện các Luật, Quyết định,…cần có sự thống nhất chặt chẽ. Một khi môi trường pháp lý thông thoáng và lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển. Và khi đó, ngân hàng sẽ là sự lựa chọn tin cậy của mọi người dân vì họ yên tâm rằng tiền của mình sẽ được an toàn và mang lại khoản sinh lời cho họ.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
- Nhanh chóng hoàn thiện thể chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Cụ thể NHNN cần tập trung xây dựng và hoàn thiện dự án Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng nhằm tạo ra môi pháp lý rõ ràng, thông thoáng và phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Đồng thời nâng cao vai trò quản lý của NHNN trong việc xây dựng và điều hành chính sách tài chính tiền tệ.
Ngoài ra, NHNN cũng cần tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện các qui định về ngoại hối, về đảm bảo an toàn, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng…Có như vậy mới đảm bảo được những điều kiện cần thiết để các ngân hàng đứng vững và tăng khả năng chống đỡ rủi ro, đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng.
- NHNN cần nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo để có những phản ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế. Điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa giữa điều hành tỷ giá và lãi suất nhằm điều hòa hợp lý lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, duy trì sự ổn định thị trường tiền tệ để khách hàng an tâm gửi tiền vào ngân hàng.
- NHNN cần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn đó cho đầu tư phát triển.
- Tăng cường vai trò của thanh tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD như lạm dụng việc tăng lãi suất để thu hút tiền gửi, lạm dụng cơ chế lãi suất để cạnh tranh trong cho vay,…
- NHNN cần tập trung quản lý và điều hành thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhằm giúp cho các ngân hàng dễ dàng huy động vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng khác khi cần thiết mà không cần phải vay mượn từ NHNN.
3.3.3 Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
- Xây dựng kế hoạch phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước
Việc xây dựng định hướng và chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam cần phải bám sát định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước cũng như phải phù hợp với đặc điểm, thực trạng của ngân hàng. Để trên cơ sở đó, các chi nhánh trực thuộc dễ dàng hơn trong việc hoạch định kế hoạch kinh doanh, đảm bảo hoạt động thống nhất trong toàn hệ thống và phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Ngoài ra, Ngân hàng cần triển khai nhanh chóng, đồng bộ và hướng dẫn cụ thể việc thi hành các văn bản, quyết định, chỉ thị của NHNN và bản thân hệ thống Agribank về hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng, nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng luôn hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, và đạt được hiệu quả cao nhất.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh và hội sở chính là một việc làm cần thiết giúp ngân hàng phát hiện những sai sót, vi phạm và xử lý kịp thời nhằm giảm thiểu các rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. Đảm bảo hoạt động của các chi nhánh, phòng giao dịch thực hiện đúng và phù hợp với định hướng phát triển của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và pháp luật. Vì vậy, hoạt động này phải được thực hiện thường xuyên, toàn diện và chính xác nhằm làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
- Hoàn thiện và phát triển đồng bộ công nghệ thông tin cho toàn hệ thống Agribank.
Công nghệ thông tin ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hoạt động ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng phát triển các dịch vụ, sản phẩm hiện đại, tiện ích và nâng cao năng lực cạnh tranh, làm giảm chi phí, đáp ứng nhanh và chính xác mọi nhu cầu của khách hàng.
Agribank là ngân hàng đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1 Dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ và đang tích cực triển khai giai đoạn 2 của dự án này. Dựa trên lợi thế này, Ngân hàng cần da dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nhanh chóng đưa ra các dòng sản phẩm mới mang tính công nghệ cao, rút ngắn thời gian giao dịch của khách hàng, tạo thuận tiện trong thanh toán với mục tiêu tối đa hóa tiện ích của khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng. Đảm bảo sự đồng bộ về mặt công nghệ thông tin giữa các chi nhánh và phòng giao dịch, tránh tính trạng tắt nghẽn đường truyền, gây tâm lý không tốt cho người tiêu dùng.
- Tăng cường quảng cáo và nâng cao hình ảnh của ngân hàng
Ngân hàng cần làm cho công chúng biết đến mình và thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Ngân hàng cần xây dựng kế hoạch khuếch trương và có mức kinh phí riêng cho hoạt động này. Bên cạnh việc quảng bá hình ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng Ngân hàng có thể thực hiện tài trợ cho các chương trình văn hóa, từ thiện, thể thao,…Với từng đối tượng khách hàng ngân hàng cần xây dựng chính sách chăm sóc khách hàng riêng và chính sách marketing riêng để hoạt động marketing có hiệu quả hơn. Qua đó, thương hiệu và uy tín của ngân hàng được quảng bá rộng rãi trong và ngoài nước.
- Riêng trong công tác huy động vốn, NHNo Việt Nam cần có chính sách cụ thể để hỗ trợ lãi suất cho những chi nhánh có nguồn vốn lớn điều chuyển về Trung Ương trong trường hợp triển khai những sản phẩm huy động của Trung Ương có đầu vào thực tế cao hơn phí điều chuyển vốn. Có như vậy mới động viên công tác huy động vốn thúc đẩy phát triển và tăng trưởng tạo thêm nguồn vốn.
KẾT LUẬN
Sau hai năm Việt Nam gia nhập WTO và đang trong quá trình thực hiện các cam kết thương mại quốc tế, thị trường tài chính của nước ta đã được mở rộng. Các nguồn vốn nước ngoài như ODA, FDI,…đổ vào Việt Nam ngày nhiều. Tuy nhiên, lượng vốn này thường được sử dụng vào các dự án lớn về phát triển kinh tế và cộng đồng cho nên nhiều doanh nghiệp chưa có cơ hội tiệp cận và sử dụng nguồn vốn này. Chính vì vậy, tín dụng ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn quan trọng cho các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hội nhập kinh tế đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường trong nước, trong đó có mở cửa dịch vụ ngân hàng và đối xử bình đẳng với các trung gian tài chính nước ngoài cũng như trong nước đã làm cho cạnh tranh giữa các ngân hàng gay gắt hơn. Để đứng vững và phát triển, các NHTM cần có các giải pháp, chiến lược để tăng cường huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Đảm bảo là nguồn cung cấp vốn thường xuyên và dồi dào cho mọi hoạt động của nền kinh tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội, em đã được trực tiếp tiếp cận với công tác và các nghiệp vụ huy động vốn. Những con số tăng trưởng về nguồn vốn huy động trong những năm qua đã phản ánh nỗ lực và kết quả đáng kể của Chi nhánh trong công tác huy động vốn. Song vẫn còn một vài hạn chế mà Chi nhánh cần phải khắc phục để quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động được tốt hơn.
Do giới hạn về trình độ và thời gian nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Mong thầy giáo hướng dẫn và các anh chị góp ý để bản chuyên đề này được hoàn thiện hơn, các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn có tính thực tiễn hơn, góp phần nhỏ bé vào công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Thị Thu Hà (2007), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Nguyễn Thị Mùi ( 2006), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Nguyễn Minh Kiều (2007), Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, NXB Thống kê
Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính 2004.
Nguyễn Minh Kiều (2006), Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê
Website: www.agribankhanoi.com
Các báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết năm của NHNo Hà Nội ( 2006- 2008).
Các trang web: www.agribank.com
www.vietnamnet.com
www.cpv.org.vn
www.DOANHNHAN360.com.vn
www.VNBA.org.vn
www.vneconomy.vn
NHNo&PTNT Việt Nam Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chi nhánh Hà Nội Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Kính gửi: - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
- Khoa Ngân hàng – Tài chính
Họ và tên sinh viên: Hoàng Thị Hồng Vân
Sinh viên lớp: Tài chính công Khóa: 47 Khoa: Ngân hàng – Tài chính
Thực tập tại Phòng Kế toán – Ngân quỹ Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội
Thời gian thực tập từ ngày 5/1/2009 – 7/5/2009
Trong quá trình thực tập của sinh viên tại Ngân hàng chúng tôi có một số nhận xét sau:
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….…….………………………………………………………………………………….……………………………………………………………………………………….……………………………………………………………………………………….……………………………………………………………………………………….………………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………………..……
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Giám đốc NHNo&PTNT Hà Nội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22002.doc