Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn

Tài liệu Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn: ... Ebook Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu khởi sắc, tốc độ phát triển kinh kế cao và ổn định, lạm phát được kiểm soát, thị trường không ngừng phát triển. Để tiếp tục đưa Việt Nam đi lên, trở thành một nước công nghiệp trong tương lai cần có một khối lượng vốn rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành trong nền kinh tế. Ngân hàng ra đời đóng vài trò then chốt trong lĩnh vực huy động vốn và vì vậy đòi hỏi phải có sự phát triển nhanh hơn một bước so với các ngành kinh tế khác. Nếu ngân hàng thương mại hoạt động tốt, vốn được lưu chuyển hợp lý, liên tục sẽ tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Trong thời kì hội nhập để cạnh tranh và tồn tại được trên thị trường, ngân hàng cần phải có một nguồn vốn đủ mạnh vì vốn là tiền đề quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng thương mại. Để làm được điều đó các ngân hàng cần thi hành nhiều hoạt động nhằm huy động được nguồn vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Trong thời gian vừa qua, hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, các hình thức huy động còn chưa đa dạng và phong phú, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong khâu quản lý và điều hành. Điều này đã làm ảnh hưởng tới chức năng dẫn vốn trong nền kinh tế của ngân hàng thương mại. Để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại, đã có nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện và đang là vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong thời gian gần đây. Xuất phát từ vai trò thiết yếu của hoạt động huy động vốn đối với các ngân hàng thương mại cùng với kết quả trong thời gian thực tập tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lạng Sơn, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Chuyên đề thực tập gồm có ba phần chính được chia làm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề về huy động vốn của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn. Chương III: Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn. Với kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý của các thầy cô giáo và các cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lạng Sơn để giúp tôi có thêm hiểu biết về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Để bắt đầu hoạt động kinh doanh, chủ ngân hàng phải có một số vốn nhất định và đây là điều kiện tiên quyết không thể thiếu để một ngân hàng thành lập và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản có của Ngân hàng. Vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn huy động tiền gửi, vốn từ phát hành tín phiếu… Như vậy nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền ngân hàng tạo lập và huy động để cho vay, đầu tư hay đáp ứng các nhu cầu khác trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của Ngân hàng mà chúng ta quan tâm chủ yếu là nguồn vốn huy động trong quá trình hoạt động (Quản trị ngân hàng thương mại - Peter .S. Rose). Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: Vốn chủ sở hữu. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, sử dụng để mua sắm các trang thiết bị, xây dựng trụ sở, văn phòng… Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ Ngân hàng cũng như yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể hình thành từ một số nguồn: Nguồn vốn hình thành ban đầu Tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu là khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, vốn này do ngân sách Nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh thì vốn do các bên liên doanh đóng góp. Ngân hàng tư nhân là do vốn của tư nhân bỏ ra. 1.1.1.2.Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ngân hàng có thể tăng cường lượng vốn chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Đó có thể là từ lợi nhuận: trong điều kiện thu nhập ròng dương, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn. Tỷ lệ tích luỹ này phụ thuộc vào đánh giá của chủ ngân hàng giữa tích luỹ với tiêu dùng. Vốn chủ cũng có thể được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phiếu (ngân hàng cổ phần) hay góp thêm (với ngân hàng liên doanh), cấp thêm (ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước)…để mở rộng quy mô hoạt động hay để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ cho phù hợp với yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Đây là hình thức thường được các ngân hàng sử dụng khi cần thêm một khối lượng vốn chủ đủ lớn. Các quỹ Giống như nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, ngân hàng cũng có nhiều quỹ với các mục đích khác nhau. Các quỹ này thường được trích lập hàng năm nhằm bù đắp hay đề phòng những tổn thất có thể xảy ra. Các quỹ này thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Đối với ngân hàng thương mại, các khoản vay trung và dài hạn có khả năng chuyển đổi thành thành vốn cổ phần có thể coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu do đặc điểm của nguồn vốn này là có thể sử dụng lâu dài và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Vốn chủ sở hữư mặc dù chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng lại đóng một vai trò quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Có thể nói đây là lá chắn cuối cùng về khả năng thanh toán của ngân hàng đối với các khoản nợ của ngân hàng. Vốn chủ càng lớn thì khả năng chịu đựng của ngân hàng càng cao và là cơ sở cho ngân hàng thương mại đa dạng hoá các hoạt động – phân tán rủi ro, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội gia tăng lợi nhuận. Vốn chủ phải đảm bảo điều kiện là chiếm trên 8% so với tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vốn chủ là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng thương mại, tuy nhiên đối với các nhà quản lý ngân hàng, vốn này không phải càng lớn càng có lợi vì vốn chủ càng lớn sẽ càng làm giảm tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có. Do đó, xác định lượng vốn tự có hợp lý là vấn đề mà các nhà quản lý và điều hành ngân hàng cần quan tâm. Mức vốn chủ sở hữu cần hài hoà giữa lợi ích của chủ ngân hàng và lợi ích của khách hàng. Nguồn vốn huy động Đây chính là nguồn vốn đóng vai trò chủ chốt trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nhờ có nguồn vốn này mà ngân hàng có điều kiện cho vay, đầu tư và tham gia vào các hoạt động có khả năng sinh lời khác. Nguồn vốn huy động được huy động chủ yếu từ hai nguồn chính: 1.1.2.1. Từ tiền gửi Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây cũng là khoản mục phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản cho vay và đầu tư nên cũng là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận. Tiền gửi có thể chia thành hai loại chủ yếu là tiền gửi nhằm mục đích hưởng các lợi ích từ các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng có tài khoản ở ngân hàng và loại thứ hai là nhằm hưởng lãi suất ngân hàng trả cho các món tiền gửi có lỳ hạn xác định. Các khoản tiền gửi nhằm mục đích hưởng các lợi ích từ các dịch vụ ngân hàng là các khoản tiền gửi không kỳ hạn và các khoản tiền gửi thanh toán. Đây là các khoản chủ yếu sẽ sử dụng để thanh toán, chi trả cho các hoạt động mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác được phát sinh một cách thường xuyên. Với các khoản tiền gửi thanh toán thì khách hàng có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào cần để thanh toán. Loại thứ hai là tiền gửi có kỳ hạn. Đây là lại tiền gửi có sự thoả thuận về thời điểm rút tiền của khách hàng. Đây là các khoản tiền được gửi vào nhằm mục đích thu lợi từ lãi ngân hàng trả cho khách hàng. Loại thứ hai do có thời hạn xác định và thường là dài hơn so với tiền gửi không kỳ hạn nên có lãi suất cao hơn. Vốn huy động tùe tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên do nguồn vốn này chỉ tạm thời nằm trong két của ngân hàng trong một khoản kỳ hạn nhất định nên việc sử dụng nguồn vốn này đòi hỏi ngân hàng phải có một lượng dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi đến thời điểm đáo hạn hay khi khách hàng có nhu cầu thanh toán. Nguồn vốn từ tiền gửi có kỳ hạn đem sử dụng sẽ an toàn hơn và ít gặp rủi ro do khách hàng rút vốn trước thời hạn. 1.1.2.2. Từ đi vay Ngân hàng thương mại sử dụng vốn từ tiền gửi để cho vay là chủ yếu tuy nhiên trong quá trình hoạt động có thể ngân hàng thương mại cũng cần gấp một số lượng vốn mà không thể huy động ngay từ tiền gửi. Khi đó ngân hàng sẽ phải huy động vốn bằng cách đi vay ngân hàng Trung ương, hay các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành tín phiếu hay trái phiếu, kì phiếu…Viếc ngân hàng thương mại đi vay là không tránh khỏi trong quá trình hoạt động khi mà ngân hàng thương mại luôn cố gắnn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách cho vay tối đa nhưng lại gặp lúc khách hàng có nhu cầu chi trả hoặc rút tiền. Ngoài ra ngân hàng thương mại cúng có thể có được vốn từ một số nguồn khác như vốn trong quá trình thanh toán hay vốn tài trợ uỷ thác… HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Vai trò của huy động vốn đối với ngân hàng thương mại Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại có thể khác nhau về phạm vi hay công nghệ ngân hàng. Tuy nhiên, nhìn chung các ngân hàng thương mại có ba hoạt động chính như sau: Hoạt động huy động vốn Hoạt động sử dụng vốn Các hoạt động trung gian tài chinh khác Trong đó chúng ta đang xem xét đến hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của ngân hàng thương mại và cũng là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất đối với các hoạt động của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại hoạt động với vai trò là trung gian tài chính của nền kinh tế nên một đặc điểm quan trọng là hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn huy động chứ không phải từ nguồn vốn chủ sở hữu. Vì vậy để có nguồn vốn hoạt động kinh doanh, ngân hàng thuơng mại phải thực hiện các hoạt động nhằm thu hút các nguồn vốn tạm thời chưa được sử dụng trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu hay đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hoặc từ ngân hàng trung ương. Đó chính là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Vai trò của huy động vốn thực chất xuất phát từ vai trò của vốn đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. Vốn của một ngân hàng thương mại đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng có khả năng phát triển lâu dài. Vai trò của vốn được thể hiện trong các mặt sau: 1.2.1.1. Điều kiện để thành lập, tồn tại và chủ động trong kinh doanh Đối với bất cứ loại hình knh doanh nào, vốn luôn là yếu tố đóng vài trò then chốt. Vốn phản ánh năng lực cũng như quyết định khả năng phát triển cua doanh nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, vốn là điều kiện tiên quyết, là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển. Vốn cần thiết cho mọi hoạt động của ngân hàng kể cả khi chưa đi vào hoạt động- mua sắm thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, thuê nhân viên… Trong tổng số vốn của ngân hàng thì vốn chủ sở hữu chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn, phần còn lại là vốn huy động. Một nguồn vốn dồi dào, chất lượng sẽ giúp ngân hàng tự chủ trong kinh doanh, hạn chế việc bị lỡ các cơ hội kinh doanh do vốn. Do đó muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình thì ngân hàng cần phải liên tục bổ sung, tăng trưởng nguồn vốn cả về vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Trong đó dặc biệt quan trọng là nguồn vốn huy động. 1.2.1.2. Cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng và quyết định quy mô kinh doanh Khả năng thanh khoản của vốn quyết định sự tồn tại của ngân hàng thương mại. Vốn tạo niềm tin cho công chúng và cũng là sự đảm bảo đối với chủ nợ (bao gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có một lượng vốn đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay ngân hàng là có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng của họ trong mọi trường hợp. Nếu như vốn của ngân hàng không đủ lớn để đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng, ngay lập tức sẽ tạo ra hiện tượng rút tiền ồ ạt hay chấm dứt quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng gây hậu qủa nghiêm trọng có thể dẫn tới phá sản. Vốn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng mở rộng hay thu hẹp hoạt động tín dụng cũng như các hoạt động khác của ngân hàng. Khả năng tự chủ về vốn tạo tiền đề cho ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều thành phần kinh tế, mở rộng cả quy mô lẫn gia tăng chất lượng tín dụng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng và tất nhiên ngân hàng sẽ thu được ngày càng nhiều lợi nhuận hơn. Với xu thế gia tăng các dịch vụ và tham gia nhiều hạot động hơn trên thị trường, một lượng vốn đủ lớn là điều kiện cần thiết để ngân hàng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Với hình thức kinh doanh đa năng này, ngân hàng sẽ phân tán được rủi ro, nâng cao lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phương tiện điều tiết tăng trưởng Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định lâu dài. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi vốn ngân hàng cần được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một ngân hàng mở rộng quá nhanh hoạt độn huy động vốn và cho vay sẽ nhận được dấu hiệu của thị trường và các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn lực quan trọng của ngân hàng thương mại. Khi các ngân hàng hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng. Bằng cách đó, ngân hàng huy động tiền từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau: Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập ta,j thời chưa sử dụng (các khoản cần tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn à sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn như các kì hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều trương mục tiết kiệm hoắc sổ tiết kiệm cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không thể dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn nếu ngân hàng đồng ý. Tiền gửi thanh toán Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của các khoản tiền gửi thanh toán rất thấp (có thể bằng không). Thay vào đó, chủ tài khoản sẽ được sử dụng các dịch vụ với mức phí thấp. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thế phát sec) cho khách hàng với thủ tục rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay. Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức của tài khoản thanh toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán này rất thuận tiện cho các hoạt động thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Do đó để đáp ứng nhu cầu tăng thu của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kì hạn. Theo đó, người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu khách hàng phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kì hạn mặc dù không thuận tiện bằng tiền gửi thanh toán nhưng có ưu điểm là có lãi suất cao hơn. Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các ngân hàng thương mại có thể gửi tiền tại các ngân hàng khác nhưng quy mô của nguồn này thưòng không lớn. 1.2.2.2. Tiền vay Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nhưng ngân hàng thương mại cũng cần phải đi vay thêm nếu thấy cần thiết. Tại nhiều quốc gia, ngân hàng Trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Vay ngân hàng Trung ương Đây là khoản vay nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu chi trả cấp bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu thường là ngân hàng trung ương tái chiết khấu (hay tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng thương mại đem các thương phiếu lên ngân hàng trung ương tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm giảm thương phiếu của ngân hàng thương mại và dự trữ tại ngân hàng Trung ương tăng lên. Ngân hàng Trung ương điều khiển quá trình này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường ngân hàng Trung ương chỉ tái chiết khấu đối với những thương phiếu có chất lượng (thưòi gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Trung ương trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Vay của các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng không có dữ trữ vượt mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay từ ngân hàng Trung ương. Quá trình vay mượn rất đơn giản: Ngân hàng đi vay chỉ cần vay mượn trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí hoặc ngân hàng Trung ương. Khoản vay có thể không cần bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay được nhiều hơn, còn các ngân hàng nhỏ thường khó vay trực tiếp bằng cách này, họ phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối phức tạp: ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ…cũng cần được quan tâm. Các khoản khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. Tiền uỷ thác Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giả ngân và thu hộ… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng .Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới của ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả đã hình thành nguồn uỷ thác lam tăng nguồn vốn của ngân hàng. Tiền trong thanh toán Các hoạt động thanh toán không dùng tiên mặt có thể hình thành các nguồn trong thanh toán (sec trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C) những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong hợp đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay… CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Giống như bất cứ một sự vật hiện tượng nào, huy động vốn ở ngân hàng thương mại đều chịu sự tác động của môi trường xung quanh. Các ngân hàng thương mại muốn tăng cường hiệu quả của hoạt động huy động vốn thì trước hết phải nắm rõ được các nhân tố gây ra tác động đối với hoạt động huy động vốn từ đó thi hành các biện pháp phát huy, tân dụng mặt tích cực đồng thời hạn chế giảm thiểu những tác động tiêu cực của các nhân tố đó. Có thể chia các nhân tố này thành hai loại là các nhân tố khách quan (môi trường bên ngoài ngân hàng thương mại) và các nhân tố chủ quan (môi trường nội tại của ngân hàng thương mại). Nhân tố khách quan Những nhân tố khách quan thuộc về môi trường bên ngoài ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại chỉ có thể nhận biết và tìm cách hạn chế các tác động tiêu cực của chúng mà không thể thay đổi các nhân tố này được. 1.3.1.1. Môi trường kinh tế- xã hội Một nền kinh tế ổn định luôn là điều kiền thuân lợi cho hoạt động của ngân hàng. Nền kinh tế được coi là ổn định khi có các biểu hiện: lạm phát được kiểm soát, không có dấu hiệu của khủng hoảng, suy thoái, mức sống của người dân được đảm bảo… Khi đó đời sống của người dân ổn định, các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nguồn vốn sẽ chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Với một nền kinh tế phát triển ổn định, giá cả hàng hoá - dịch vụ cũng như sức mua của đồng tiền tạo được cho ngươif dân cảm giác tin tưởng thì họ mới an tâm gửi tiền vào ngân hàng. Ngược lại một nền kinh tế suy thoái hay có lạm phát cao thì người dân sẽ có xu hướng giữ tiền mặt hoặc mua vàng hoặc ngoại tệ mạnh để lưu trữ. Bên cạnh các yếu tố vĩ mô như lạm phát, suy thoái…hoạt động huy động vốn còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như mật độ dân cư trong địa bàn hoạt động, thu nhập trung bình dân cư, các tổ chức kinh tế trong địa bàn… Nếu ngân hàng có địa bàn hoạt động ở khu vực tập trung đông dân cư và các tổ chức kinh tế thì sẽ có khả năng huy động được nhiều vốn hơn là ngân hàng hoạt động ở các địa bàn miền núi hay hải đảo xa xôi. Mức thu nhập của dân cư cũng là tác nhân quyết định quy mô của nguồn vốn huy động được, điều này có thể dễ dàng thấy được rằng nếu như người dân mà có thu nhập tương đối cao, sau khi đã chi trả cho các nhu cầu chi tiêu khác mà vẫn còn lại một khoản tiền thì họ mới gửi tiền vào ngân hàng… Ngoài ra còn một yếu tố mà chúng ta cũng cần phải nhắc đến là thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của người dân. Ví dụ như Việt Nam là một quốc gia mà người dân vẫn quen với việc giao dịch hàng ngày bằng tiền mặt chứ không phải là bằng chuyển khoản. Tất nhiên đây một phần là do trình độ khoa học công nghệ của chúng ta chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thanh toán qua chuyển khoản nhưng nhìn chung tâm lí của người Việt Nam vẫn chuộng sử dụng tiền mặt hơn là sử dụng các dịch vụ của ngân hàng và điều này cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhất là trong lĩnh vực thanh toán. 1.3.1.2. Môi trường chính trị và pháp lí Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ riêng ngành ngân hàng. Chính trị và kinh tế là hai phạm trù có sự tác động ảnh hưởng qua lại rõ rệt. Chính trị ảnh hưởng tới nền kinh tế và các hành động chính trị cũng mang mục đích kinh tế và cũng tạo ra những biến động về chính trị. Bất kì một sự thay đổi nào về chính trị cũng có thể tạo ra một tác động lớn đối với nên kinh tế. Tình hình chính trị ổn định tạo điều kiện cho nền kinh tế vận hành một cách trôi chảy, ổn định. Nếu tình hình chính trị bất ổn thì sẽ tạo ra tâm lí hoang mang trong dân cư, điều họ rút tiền ồ ạt hoặc gửi tiền vào các ngân hàng nước ngoài là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động ngân hàng còn chịu sự chi phối của hành lang pháp lí bao gồm thể chế của cả trong và ngoài quốc gia. Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một ngành có ảnh hưởng quan trọng đối với cả nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng còn mang tính xã hội hoá cao. Do đó, sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống ngân hàng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế thậm chí gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy ngân hàng cần được quản lí một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt để tránh hậu quả đáng tiếc cho nền kinh tế. Khung pháp lí áp dụng đối với ngành ngân hàng cần phải đảm bảo mức độ an toàn cho ngân hàng, ngăn ngừa ngân hàng tham gia vào các vụ đầu tư và hoạt động mạo hiểm có thể có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Pháp luật về ngân hàng thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt chức năng của mình và kinh doanh có hiệu quả. Môi trường pháp lí không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại cho hoạt động của ngân hàng chắc chắn sẽ gây ra khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động và tạo ra rào cản để ngân hàng thương mại phát triển hoạt động của mình. Bên cạnh các quy định của pháp luật còn phải nhắc đến các quy định của Ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại, quy định về quy mô các khoản cho vay, về điều kiện cấp tín dụng, phát hành các loại giấy nợ…đều gây ra ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại. Các nhân tố chủ quan về phía ngân hàng thương mại Đây là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên trong các ngân hàng thương mại, hình thành trong qúa trình hoạt động của các ngân hàng do các nguyên nhân chủ quan về phía ngân hàng. Các ngân hàng khi đã nhận biết được thì có khả năng xoá bỏ các tác nhân gây hậu quả xấu và tăng cường, phát huy các tác nhân mang tính tích cực. 1.3.2.1. Lãi suất huy động Lãi suất là yếu tố mà bất cứ cá nhân hay tổ chức nào gửi tiền vào ngân hàng cũng đều quan tâm. Đây là yếu tố quan trọng đặc biệt quyết định đối với công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại, đặc biệt là quy mô tiền gửi. Tiền gửi mà đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động liên quan về lãi suất, tỉ giá hay nhu cầu chi tiêu. Lãi suất cao sẽ thúc đẩy mọi người gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn nhưng ngược lại ngân hàng sẽ phải chịu chi phí huy động vốn cao hơn. Lãi suất huy động vốn hợp lí là một lãi suất vừa có khả năng hấp dẫn các đối tượng tham gia gửi tiền vào ngân hàng nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo được ngân hàng kinh doanh có lãi. Lãi suất cá nhân và tổ chức gửi tiền quan tâm không phải là lãi suất danh nghĩa mà là lãi suất thực, điều này càng quan trọng khi nền kinh tế có lạm phát. Người ta chỉ gửi tiền vào ngân hàng khi khoản tiền đó có lãi suất thực dương – mang lại giá trị gia tăng cho họ. Lãi suất còn phụ thuộc vào quy mô món tiền, kì hạn gửi, loại tiền gửi… Lãi suất huy động cũng phải tính toán sao cho phù hợp với lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. 1.3.2.2. Marketing ngân hàng Marketing ngân hàng là một khái niệm khá mới mẻ đối với các ngân hàng của Việt Nam. Các ngân hàng thương mại trước đây dường như chưa biết đến sự tồn tại của Marketing ngân hàng. Họ coi việc khách hàng đến với ngân hàng là tự nhiên và coi nhẹ Marketing ngân hàng. Tuy nhiên khi bắt đầu quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế thị trường đã cho thấy Marketing là một công cụ thực sự quan trọng đối với các tổ chức kinh tế. Về một phương diện nào đó có thể Marketing ngân hàng chưa thể hiện được ưu thế rõ rệt về hiệu quả mang lại nếu như so sánh với các giá trị mà Marketing ở một số ngành khác mang lại. Nhưng nếu xem nhẹ vai trò của Marketing ngân hàng là một sai lầm của các ngân hàng thương mại, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay. Cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Marketing ngân hàng là cả một quá trình, bao gồm từ nghiên cứu thị trường, xây dựng chính sách phát triển cho đến giới thiệu, khuếch trương sản phẩm mới ra công chúng. Một ngân hàng có được công tác Marketing ngân hàng tốt sẽ có lợi thế rất lớn trong quá trình hoạt động kinh doanh và có khả năng chiếm ưu thế trên thị trường. Trình độ khoa học công nghệ của ngân hàng Trong thời đại mà công nghệ thay đổi hàng ngày như hiện nay, việc áp dụng công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất là một yêu cầu cấp bách đối với tất cả các tổ chức kinh tế nói chung chứ không riêng gì các ngân hàng thương mại. Công nghệ ngân hàng đòi hỏi một khoản chi phí không nhỏ, do đó nếu đầu tư không đúng vừa gây lãng phí vừa làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng bao gồm cả công nghệ quản lí, các máy móc thiết bị, các quy trình tín dụng cũng như huy động vốn. Ngân hàng thương mại cần chọn cho mình công nghệ phù hợp với tình hình công nghệ hiện tại tránh đầu tư lãng phí, dàn trqải cho nhũng công nghệ cao mà không mang lại hiệu quả thiết thực, cũng trnhs mua về những công nghệ đã lác hậu hoặc sắp bị thay thế. Đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng Cán bộ nhân viên của ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và cũng chính là bộ mặt của ngân hàng. Nếu như đội ngũ này không đủ trình độ nghiệp vụ, không khéo léo trong giao tiếp với khách hàng chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng tới quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Đội ngũ cán bộ ngân hàng còn phải am hiểu rõ về nghiệp vụ cũng như công việc mà mình đamr trách để thực hiện đúng các quy trình, trách nhiệm. Tron._.g môi trường làm việc hiện đại, nguồn nhân lực luôn là yếu tố chủ chốt quyết định đến sự thành bại của hoạt động kinh doanh, nếu như nguồn lực này mạnh thì tổ chức kinh tế mạnh và ngược lại, nguồn nhân lực yếu kém sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng phải chú trọng đến việc sử dụng và đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng của mình cho phù hợp với những yêu cầu ngày càng cao của môi trường cạnh tranh. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LẠNG SƠN 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LẠNG SƠN 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn Ngày 5/6/1965 Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết Lạng Sơn, tiền thân của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Lạng Sơn được thành lập. Trải qua hơn 40 năm xây dựng, trưởng thành, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Lạng Sơn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, khẳng định vai trò chủ lực phục vụ đầu tư phát triển. Với bước đi đúng đắn, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn luôn được Cấp uỷ, Chính quyền địa phương cũng như Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đánh giá cao và năm 2000 Chi nhánh đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III , Từ năm 2001-2006 tập thể và nhiều cá nhân Chi nhánh đã được Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, các Bộ ngành tặng thưởng Cờ thi đua xuất sắc và nhiều Bằng khen, giấy khen… Giai đoạn Ngân hàng Kiến thiết (1957- 1981) Tháng 5/1965, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh đã ký Quyết định số 128/TC – QĐTCCB thành lập Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Lạng Sơn. Đến tháng 2/1976 khi hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng hợp nhất với nhau, Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Cao Lạng được thành lập và đặt trụ sở tại tỉnh lỵ thị xã Cao Bằng. Tháng 2/1979 tách tỉnh Cao Lạng thành hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Lạng Sơn được thành lập trở lại. Trong thời kì này Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết tỉnh đóng trụ sở tại Đồng Bành huyện Chi Lăng - Lạng Sơn và thành lập Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết khu vực thị xã Lạng Sơn đồng thời với Chi nhánh Ngân hàng kiến thiết khu vực Chi Lăng đã có từ trước. Giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng(1981-1988) Ngày 24/6/1981, Hội đồng Chính phủ có quyết định 259/CP chuyển ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính sang trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thành lập Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Lạng Sơn đổi tên là Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng tỉnh Lạng Sơn. Năm 1985 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng tỉnh chuyển từ Đồng Bành về Thị xã Lạng Sơn và giải thể Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng khu vực thị xã Lạng Sơn. Năm 1987-1988 thành lập chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng khu vực Na Dương với nhiệm cụ quản lý và cấp phát vốn XDCB các công trình khu vực Lộc Bình, Na Dương và huyện Đình Lập. Tháng 8/1988 giải thể Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng tỉnh, chi nhánh khu vực Na Dương, chi nhánh khu vực Chi Lăng- Hữu Lũng, thành lập Ngân hàng phát triển Nông Nghiệp tỉnh Lạng Sơn, công tác quản lý phục vụ vốn đầu tư XDCB do Phòng Cấp phát Xây dựng cơ bản trong Ngân hàng phát triển Nông Nghiệp tỉnh đảm nhiệm. Giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và phát triển (1990 đến nay) Ngày 29/3/1990, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định số 20/NH/QĐ thành lập phòng đầu tư và phát triển trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Đến tháng 9/1990 Phòng Đầu tư phát triển tỉnh Lạng Sơn được thành lập. Ngày 14/11/1990, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 401/CT, chuyển Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Theo Quyết định số 105 NH/QĐ ngày 26/11/1990 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, phòng Đầu tư – Phát triển tỉnh được hoạt động với tư cách Chi nhánh từ ngày 1/1/1991. Đến tháng 5/1991 Ban Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được bổ nhiệm và đi vào hoạt động với đầy đủ trách nhiệm là một Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lạng Sơn. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Lạng Sơn 2.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Lạng Sơn Nhiệm vụ Huy động vốn từ các thành viên kinh tế như: tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu với nhiều loại thời hạn (không kỳ hạn và có kỳ hạn) Đầu tư tín dụng với mọi thành phần kinh tế, cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Các dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng trong nước và ngoài nước. Dịch vụ ngân quỹ, mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hối, cất giữ vật quý, tài sản giá trị cũng như dịch vụ liên quan đến hoạt động Ngân hàng. Chức năng Bên cạnh việc hoạt động đầy đủ các chức năng của một ngân hàng thương mại được phép kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, làm ngân hàng đại lý, phục vụ các dự án từ các nguồn vốn, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước, Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Lạng Sơn luôn khẳng định là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư phát triển, huy động vốn cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn cho các thành phần kinh tế và là ngân hàng có nhiều kinh nghiệm về đầu tư các dự án trọng điểm. 2.1.2.2.Cơ cấu tổ chức Căn cứ quyết định số 6939/QĐ-TCCB2 ngày 10/12/2005 của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam về việc " Quy định chức năng, nhiệm vụ chính của các Phòng/ Tổ thuộc sở giao dịch, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển", căn cứ vào thực tế hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Lạng Sơn, chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Lạng Sơn xây dựng chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban tại chi nhánh như sau: Na D­¬ng(14) Thµnh phè (10) §ång §¨ng (11) T©n Thanh(13) C¸c phßng giao dÞch dÞch Phßng kÕ hoach nguån vèn Phßng T§ vµ QLTD Phßng kiÓm tra néi bé Phßng tµi chÝnh kÕ to¸n Tæ ®iÖn to¸n Phßng tÝn dông Phßng dÞch vô kh¸ch hµng Phßng tæ chøc hµnh chÝnh Phßng tiÒn tÖ kho quü Ban gi¸m ®èc S¬ ®å m« h×nh tæ chøc cña bidv l¹ng s¬n Phòng tổ chức hành chính Công tác Tổ chức cán bộ Tham mưu giúp việc cho Giám đốc Chi nhánh xây dựng kế hoạch, chương trình phát triển nguồn nhân lực phù hợp với hoạt động và điều kiện cụ thể của chi nhánh như tuyển dụng, bố trí sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ… và công tác thi đua khen thưởng. Tổ chức lưu trữ hồ sơ Tổ chức cán bộ, quản lí thông tin (thu thập, xử lý, lưu trữ, phân tích, bảo mật, cung cấp…) tổng hợp và làm các báo cáo trong phạm vi nhiệm vụ, nghiệp vụ của phòng để phục vụ quản lý Nhà nước, phục vụ quản trị điều hành, theo quy định của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Phòng trực tiếp thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, quản lí lao động; theo dõi thực hiện nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể; theo dõi tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo và kế hoạch phát triển nguồn lực đảm bảo nhu cầu phát triển của chi nhanh theo quy định. Công tác Hành chính - Quản trị Trực tiếp thực hiện công tác quản lý hành chính văn phòng theo đúng quy định. Thực hiện các công tác hậu cần và chịu trách nhiệm đảm bảo điều kiện vật chất, đảm bảo an ninh cho hoạt động của Chi nhánh, bảo vệ an toàn cơ quan, đảm bảo điều kiện làm việc và an toàn lao động của nhân viên; trực tiếp quản lý, mua sắm, bảo quản tài sản đảm bảo sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm theo quy định. Phòng kế hoạch nguồn vốn Trực tiếp quản lý cân đối nguồn vốn đảm bảo các cơ cấu lớn và quản lí các hệ số an toàn theo quy định, tham mưu giúp việc cho Giám đốc Chi nhánh điều hành nguồn vốn; chịu trách nhiệm về việc đề xuất chính sách biện pháp, giải pháp để phát triển nguồn vốn để đáp ứng yêu cầu phát triển tín dụng của Chi nhánh và các biện pháp để giảm chi phí vốn góp phần nâng cao lợi nhuận. Xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển của Chi nhánh hàng năm, trung và dài hạn; xây dựng chương trình tháng quy để thực hiện kế hoạch kinh doanh; xây dựng chính sách Marketing, chính sách phát triển khách hàng, chính sách huy động vốn và lãi suất của Chi nhánh, chính sách phát triển dịch vụ của Chi nhánh, kế hoạch phát triển mạng lưới và các kênh phân phối sản phẩm; giao kế hoạch cho các đơn vị trong Chi nhánh. Theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, chương trình hoạt động của các đơn vị trong Chi nhánh và của toàn Chi nhánh. Chịu trách nhiệm hoàn toàn về quản lý rủi ro trong lĩnh vực nguồn vốn, cân đối vốn và kinh doanh tiền tệ theo quy chế, quy trình quản lý rủi ro, quản lí tài sản nợ; quản lý các hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, trạng thái ngoại hối của Chi nhánh. Phòng thẩm định và quản lí tín dụng Chức năng thẩm định: Trực tiếp thực hiện công tác thẩm định và tái thẩm định theo quy định của Nhà nước và các quy trình nghiệp vụ liên quan đối với các dự án, khoản vay, bảo lãnh; đánh giá tài sản đảm bảo nợ (tính pgáp lý, giá trị, tính khả mại); có ý kiến độc lập (đồng ý hoặc không đồng ý hoặc đưa ra các điều kiện) về quyết định cấp tín dụng, phê duyệt khoản vay, bảo lãnh cho khách hàng. Chịu trách nhiệm quản lý thông tin về kinh tế kỹ thuật, thị trường phục vụ công tác thẩm định đầu tư, thẩm định tín dụng. Chức năng quản lí tín dụng: Trực tiếp thực hiện yêu cầu nghiệp vụ về quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh theo quy trình, quy định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và của Chi nhánh: Xác định hạn mức tín dụng, giới hạn tín dụng đối với khách hàng; xếp loại khách hàng, phân loại nợ theo mức độ rủi ro tín dụng. Giám sát thực hiện hạn mức và việc chấp hành chính sách, quy chế, quy trình tín dụng của Phòng Tín dụng và các phòng liên quan. Giám sát đánh giá chất lượng tín dụng, quản lý các khoản nợ xấu, đề xuất biện pháp quản lý, phương án xử lý. Xây dựng chính sách tín dụng, các văn bản hướng dẫn công tác tín dụng, kế hoạch phát triển của Chi nhánh, kế hoạch, giải pháp quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng… Chịu trách nhiệm về việc thiết lập, vận hành hệ thống quản lý rủi ro và an toàn pháp lý trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Quản lý thông tin, về quản lý tín dụng và lập các loại báo cáo về tín dụng và quản lý tín dụng theo quy định. Phòng kiểm tra nội bộ Thực hiện công tác kiểm tra nội bộ theo chương trình (năm, quy, tháng), giám sát việc thực hiện quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy trình ISO trong hoạt động kinh doanh, hoạt động công nghệ tại các đơn vị trong Chi nhánh nhằm phát hiện kịp thời, ngăn chặn những sai sót trong hoạt động của Chi nhánh. Kiểm tra việc chấp hành quy chế điều hành của Tổng giám đốc, Giám đốc Chi nhánh đối với các phòng ban trực thuộc; thực hiện giám sát độc lập việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán và quy định của Nhà nước và của Ngân hàng trong quá trình lập báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính của Ngân hàng. Chịu trách nhiệm về việc đảm bảo tính pháp lý, trung thực, khách quan, chính xác và đúng quy trình của công tác kiểm tra nội bộ; chịu trách nhiệm về việc đảm bảo hoạt động của chi nhánh tuân thủ đúng pháp luật, an toàn và hiệu quả. Phối hợp với đoàn kiểm tra của Hội sở chính, các cơ quan thanh tra, kiểm toán để thực hiện các cuộc kiểm tra tại Chi nhánh theo quy định. Phát hiện những vấn đề chưa đúng về pháp chế trong các văn bản do Giám đốc Chi nhánh ban hành. Phòng tài chính kế toán Tổ chức thực hiện và kiểm tra công tác hạch toán kế toán chi tiết, kế toán tổng hợp và chế độ báo cáo kế toán, theo dõi quản lý tài sản, vốn, quỹ của Chi nhánh theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng. Thực hiện công tác hậu kiểm đối với toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của Chi nhánh bao gồm cả Chi nhánh cấp 2, Phòng giao dịch, Quỹ tiết kiệm theo quy trình luân chuyển và kiểm soát chứng từ. Thực hiện việc kiểm soát, lưu trữ, bảo quản, bảo mật các loại chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định của Nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính thông qua công tác lập kế hoạch tài chính, phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động để phục vụ cho quản trị điều hành kinh doanh của lãnh đạo. Chịu trách nhiệm về tính chính xác, kịp thời, hợp lý trung thực cuả số liệu kế toán, của báo cáo tài chính, bảo đảm an toàn tài sản, tiền vốn của Ngân hàng và khách hàng qua công tác hậu kiểm và kiểm tra thực hiện chế độ kế toán, chế độ tài chính của các đơn vị trong Chi nhánh. Tổ điện toán Trực tiếp quản lý mạng, quản trị hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát tại Chi nhánh, tổ chức vận hành hệ thống thiết bị tin học và các chương trình phần mềm được áp dụng ở Chi nhánh theo đúng quy định, quy trình của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chịu trách nhiệm đề xuất và thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm hệ thống tin học vận hành thông suốt trong mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Ngân hàng, bảo mật thông tin, quản lí an toàn dữ liệu của ngân hàng theo quy định. Hướng dẫn, đào tạo, hỗ trợ kiểm tra các tổ các đơn vị vận hành thành thạo, đúng thẩm quyền và theo đúng quy định trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Thực hiện lưu trữ, bảo quản và phục hồi dữ liệu và hệ thống chương trình phần mềm theo quy định. Phòng tín dụng Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo phạm vi được phân công theo đúng pháp quy và các quy trình tín dụng (tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, dự án, giới thiệu sản phẩm, phân tích thông tin; nhận hồ sơ, xem xét quyết định cho vay theo phân cấp uỷ quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định cho vay, bảo lãnh; quản lí giải ngân, kiểm tra sử dụng các khoản vay, theo dõi thu đủ nợ, đủ lãi , đến khi hoàn tất hợp đồng tín dụng) đối với mỗi khách hàng. Thực hiện các biện pháp phát triển tín dụng, đảm bảo an toàn, hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng trong hoạt động tín dụng của phòng, góp phần phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả tín dụng của toàn Chi nhánh. Chịu trách nhiệm Marketing tín dụng bao gồm việc thiết lập, mở rộng, phát triển hệ thống khách hàng, giới thiệu, bán các sản phẩm tín dụng dịch vụ cho khách hàng, chăm sóc toàn diện, tiếp nhận yêu cầu và ý kiến phản hồi của khách hàng; phối hợp với các phòng ban liên quan, đề xuất với Giám đốc Chi nhánh cách giải quyết, nhằm đáp ứng sự hài lòng của khách hàng. Tư vấn cho khách hàng sử dụng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ và các vấn đề khác có liên quan; phổ biến hướng dẫn, giải đáp thắc mắc cho khách hàng về các quy định, quy trình tín dụng, dịch vụ của Ngân hàng. Phòng Dịch vụ khách hàng Công tác Dịch vụ khách hàng Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giao dịch với khách hàng (tiếp nhận yêu cầu sử dụng dịch vụ Ngân hàng của khách hàng, hướng dẫn thủ tục giao dịch, mở tài khoản, gửi tiền rút tiền, thanh toán, chuyển tiền…); tiếp thị giới thiệu sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng; tiếp nhận các y kiến phản hồi của khách hàng về dịch vụ, đề xuất các biện pháp cải tiến để không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trực tiếp thực hiện, xử lí, tác nghiệp các giao dịch với khách hàng (về mở tài khoản tiền gửi, rút tiền, chuyển tiền, thanh toán, ngân quỹ, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…) và các dịch vụ khác. Chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lệ của các giao dịch, đảm bảo an toàn tiền vốn, tài sản của Ngân hàng và khách hàng. Công tác Thanh toán quốc tế Thực hiện các giao dịch với khách hàng đúng quy trình tài trợ thương mại và thực hiện các tác nghiệp trong tài trợ thương mại phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu và nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng trên cơ sở hạn mức khoản vay, bảo lãnh đã được phê duyệt (trừ bảo lãnh trong nước). Tiếp cận, tiếp thị phát triển khách hàng, giới thiệu sản phẩm; tìm hiểu các nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng, trước hết là các dịch vụ liên quan đến đối ngoại; tiếp nhận các phản hồi từ phía khách hàng và đề xuất cách giải quyết, tư vấn cho khách hàng về các giao dịch đối ngoại, hợp đồng thương mại quốc tế… Phòng tiền tệ kho quỹ Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ về quản lý kho quỹ (tiền mặt, hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, chứng từ có giá, vàng, bạc, đá quý, các tài sản do khách hàng giữ hộ…) Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ về thu – chi tiền mặt, đảm bảo an toàn kho quỹ và phát triển các dịch vụ về ngân quỹ…; phối hợp chặt chẽ phòng Dịch vụ khách hàng thực hiện nghiệp vụ thu chi tiền mặt tại quầy, phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện. Theo dõi, tổng hợp và gửi báo cáo về công tác tiền tệ - kho quỹ theo quy định. Các phòng giao dịch Các phòng giao dịch là đại diện pháp nhân của chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Lạng Sơn, có nhiệm vụ huy động vốn, cho vay và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác theo phân cấp uỷ quyền của chi nhánh ngân hàng tỉnh. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua Hoạt động trong môi trường cạnh tranh khá khốc liệt trên địa bàn Lạng Sơn (hiện trên địa bàn có 4 Ngân hàng thương mại), để đứng vững trong cạnh tranh, Ban lãnh đạo Chi nhánh luôn tạo được sự đoàn kết thống nhất cao cùng với các phòng chức năng và toàn thể cán bộ công nhân viên phối hợp một cách nhịp nhàng trên tinh thần phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo và với phương châm hoạt động: “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng chính là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển”. Điều đó đã mang lại cho Chi nhánh kết quả kinh doanh đáng ghi nhận. 2.1.3.1. Về kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Bên cạnh những thuận lợi về mặt địa lý, Lạng sơn cũng còn nhiều khó khăn: Kinh tế hàng hoá phát triển chưa mạnh, trình độ dân trí thấp, các doanh nghiệp nhà nước ít, qui mô kinh doanh nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chậm phát triển và mở rộng. Nhưng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã từng bước hoạt động có hiệu quả. Bảng1 : Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh qua 3 năm (2004-2006) Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tổng thu nhập 70 78 99 Tổng chi phí 64 70 88 Chênh lệch thu (+), chi (-) +6 +8 +11 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) Lợi nhuận của chi nhánh năm sau cao hơn năm trước với mức tăng trưởng khá cao. Do Chi nhánh đã mở rộng được thị trường và có những chính sách hợp lý trong hoạt động kinh doanh như công tác tiếp cận dự án cho vay, tiếp thị khách hàng những tiện ích của dịch vụ Ngân hàng. Đó là những thành công của Chi nhánh trong hoạt động kinh doanh của mình những năm qua. 2.1.3.1.1. Về huy động vốn Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về đổi mới và điều hành nguồn vốn, vận dụng vào điều kiện cụ thể trên địa bàn, Chi nhánh hết sức chú trọng đa dạng các hình thức huy động. Cùng với hình thức huy động truyền thống như: Huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư. Chi nhánh còn phát triển và đẩy mạnh hình thức huy động Kỳ phiếu trả lãi trước, trả lãi sau với nhiều loại kỳ hạn và lãi suất linh hoạt; Tăng cường huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển thông qua các đợt huy động Chứng chỉ tiền gửi, Trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; Khai trương dịch vụ tiết kiệm tích luỹ. Đáp ứng yêu cầu và tín hiệu của thị trường. Trong từng thời điểm, Chi nhánh đã chủ động bám sát tình hình diễn biến về lãi suất huy động, phân tích tâm lý người dân và xu hướng tiền nhàn rỗi của họ. Chính điều này đã giúp chi Chi nhánh có những quyết sách đúng đắn về hình thức huy động cũng như về lãi suất. Là Ngân hàng có thị phần nguồn vốn cao nhất chiếm trong các Ngân hàng thương mại trên địa bàn. Nguồn vốn huy động đạt được qua các năm như sau: Năm 2004 đạt 700 tỷ đồng, năm 2005 đạt 735 tỷ đồng và 850 tỷ đồng năm 2006. Bảng 2: Tình hình biến động nguồn vốn huy động Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng số Tổng số ± (%) Tổng số ± (%) ∑ nguồn vốn huy động 700 735 +5 850 +15.6 Theo loại tiền 1. VNĐ 650 680 +4.6 795 +16.9 Tỷ trọng (%) 92.8 92.5 93.5 2. USD(qđ) 50 55 +10 55 +0 Tỷ trọng (%) 7.1 7.5 6.5 Theo đối tượng 1. Tổ chức kinh tế 70 95 +35.7 180 +85 Tỷ trọng (%) 10 12.9 21.1 2. Dân cư 630 640 +1.5 670 +4.6 Tỷ trọng (%) 90 87 78.8 Theo kỳ hạn 1. Có kỳ hạn 200 215 +7.5 250 +16.2 Tỷ trọng (%) 28.5 29.2 29.4 2. Không có kỳ hạn 500 520 +4 600 +15.3 Tỷ trọng (%) 71.4 70.7 70.5 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) 2.1.3.1.2 Về tình hình dư nợ cho vay Trong những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn, vốn ít, hiệu quả thấp vì vậy hoạt động tín dụng của Chi nhánh chưa thực sự mang lại hiệu quả cho Ngân hàng, tổng dư nợ tín dụng năm 2004 đạt 386 tỷ đồng, năm 2005 đạt 276 tỷ đồng, năm 2006 đạt 197 tỷ đồng. Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng số Tổng số ± (%) Tổng số ± (%) Tổng dư nợ 386 276 -0.3 197 -0.3 Theo thành phần kinh tế 1. Doanh nghiệp nhà nước 143 97 -0.3 59 -0.4 Tỷ trọng (%) 37 35 30 2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 243 179 -0.3 138 -0.2 Tỷ trọng (%) 63 65 70 Theo kỳ hạn 1. Ngắn hạn 174 160 -0.08 128 -0.2 Tỷ trọng (%) 45 58 65 2. Trung và dài hạn 212 116 -0.4 69 -0.4 Tỷ trọng (%) 55 42 35 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) 2.1.3.1.3. Các hoạt động dịch vụ Ngân hàng + Dịch vụ bảo lãnh: Được thực hiện theo đúng chế độ và có hiệu quả, đáp ứng mọi nhu cầu bảo lãnh của khách hàng trong hoạt động kinh doanh nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như: Bảo lãnh thanh toán; Bảo lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh ứng trước… Tổng doanh số bảo lãnh ( trong và ngoài nước) qua năm (2004-2006) đạt trên 750 tỷ đồng (bao gồm cả ngoại tệ quy đổi) trong đó năm 2004 đạt 130 tỷ, năm 2005 đạt 240 tỷ, năm 2006 đạt 380 tỷ. Doanh số hoạt động đã góp phần quan trọng vào thu dịch vụ của chi nhánh. Đáng chú ý là trong những năm qua Chi nhánh chưa để xảy ra trường hợp nào Ngân hàng phải trả thay. + Thanh toán quốc tế, thanh toán biên mậu: Phát huy tiềm năng thế mạnh của địa bàn tỉnh biên giới - cửa ngõ giao lưu thương mại của các doanh nghiệp trong nước với Trung Quốc. Từ cuối năm 1999, Chi nhánh bắt đầu khai trương thanh toán biên mậu Việt -Trung và đến tháng 5/2000, Chi nhánh đã vươn ra thực hiện công tác thanh toán quốc tế trực tiếp, đã tạo ra sự phong phú trong hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh. Đây là dịch vụ có tiềm năng, giúp cho Chi nhánh có điều kiện tăng tỷ trọng thu từ dịch vụ trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Tổng doanh số thanh toán năm 2004: 620 tỷ; năm 2005 là 650 tỷ và năm 2006 đạt 720 tỷ. + Kinh doanh ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn chấp hành tốt các qui định, qui trình nghiệp vụ, những quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nước và đảm bảo trạng thái ngoại hối dương. Ngoài giao dịch bằng USD, Chi nhánh còn thực hiện thu đổi Nhân dân tệ ( CNY) để phục vụ thanh toán biên mậu. Chi nhánh đã đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ cho khách hàng trả nợ vay và thanh toán XNK. Tổng doanh số năm 2004 là 450 tỷ, năm 2005 là 610 tỷ và năm 2006 là 900 tỷ. 2.1.3.1.4. Về công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ Trong qúa trình hoạt động, Chi nhánh luôn coi trọng công tác kiểm tra, kiểm soát trên cơ sở nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm về những mặt tồn tại, qua đó chỉ đạo các phòng nghiệp vụ liên quan xây dựng kế hoạch sửa sai, tổ chức thực hiện chấn chỉnh theo kế hoạch và thường xuyên báo cáo kết quả thực hiện theo đúng qui định. 2.1.4. Những mặt còn hạn chế trong hoạt động kinh doanh trong 3 năm gần đây 2.1.4.1. Về huy động vốn Mặc dù đạt được một số kết quả khả quan song đó mới chỉ là bước đầu, thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục là: Vốn huy động luôn luôn tăng trưởng nhưng so với tiềm năng trên địa bàn vẫn còn một lượng vốn lớn ngân hàng chưa thu hút được. Mỗi khi ngân hàng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có một sự di chuyển rất lớn từ tiết kiệm sang kỳ phiếu, trái phiếu làm nhiều khi tổng nguồn không tăng lên nhiều nhưng chi phí huy động cho lãi suất tăng nhanh. Việc huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu thông qua việc phát hành trái phiếu, chưa có hình thức huy động trung và dài hạn. Công nghệ còn đơn giản, quá trình thực hiện một nghiệp vụ còn rườm rà. Các hình thức huy động vốn chưa thực sự đa dạng để đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng. Việc tiến hành trả lãi chỉ có loại trả một lần kỳ mà chưa có hình thức rút lãi theo định kỳ tháng, quý… Các sản phẩm huy động còn dừng ở sản phẩm truyền thông, chưa phát triển được nhiều sản phẩm mới, tính tiện ích chưa cao. 2.1.4.2. Công tác tín dụng Chưa bám sát và nắm tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp được kịp thời, nên có thời điểm nợ có vấn đề và nợ xấu tăng cao. Tăng trưởng tín dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được chú trọng, dư nợ chiếm tỷ trọng thấp so với tổng dư nợ toàn chi nhánh. 2.1.4.3. Bảo đảm an toàn tài sản và chấp hành kỷ luật lao động Trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong nghiệp vụ tín dụng, phong cách giao dịch có nơi có lúc còn xảy ra hiện tượng phục vụ chưa tốt, để khách hàng phàn nàn. 2.2. Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn Nhìn chung kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động cho đến nay, hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lạng Sơn đã có nhiều bước phát triển rõ rệt. Nguồn vốn huy động được có xu hướng ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế trong địa bàn. Có thể quan sát sự biến động về nguồn vốn huy động trong 3 năm gần đây qua bảng số liệu sau: Bảng 4 : Tình hình biến động nguồn vốn huy động Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng số Tổng số ± (%) Tổng số ± (%) ∑ nguồn vốn huy động 700 735 +5 850 +15.6 Theo loại tiền 1. VNĐ 650 680 +4.6 795 +16.9 Tỷ trọng (%) 92.8 92.5 93.5 2. USD(qđ) 50 55 +10 55 +0 Tỷ trọng (%) 7.1 7.5 6.5 Theo đối tượng 1. Tổ chức kinh tế 70 95 +35.7 180 +85 Tỷ trọng (%) 10 12.9 21.1 2. Dân cư 630 640 +1.5 670 +4.6 Tỷ trọng (%) 90 87 78.8 Theo kỳ hạn 1. Có kỳ hạn 200 215 +7.5 250 +16.2 Tỷ trọng (%) 28.5 29.2 29.4 2. Không có kỳ hạn 500 520 +4 600 +15.3 Tỷ trọng (%) 71.4 70.7 70.5 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) Để cụ thể hơn về tình hình huy động vốn của Chi nhánh, chúng ta có thể nghiên cứu từng khoản mục huy động vốn của ngân hàng trong 3 năm từ 2004 đến 2006. 2.2.1. Biến động cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng số Tổng số ± (%) Tổng số ± (%) ∑ nguồn vốn huy động 700 735 +5 850 +15.6 Theo loại tiền 1. VNĐ 650 680 +4.6 795 +16.9 Tỷ trọng (%) 92.8 92.5 93.5 2. USD(qđ) 50 55 +10 55 +0 Tỷ trọng (%) 7.1 7.5 6.5 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) Năm 2005: tổng nguồn vốn huy động được là 735 tỷ đồng trong đó có 55 tỷ đồng là ngoại tệ quy đổi ra VNĐ. Tốc độ tăng trưởng so với năm 2004 là 5% (trong đó VNĐ tăng 4,6% và ngoại tệ quy đổi tăng 10%). Sở dĩ có sự chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng của VNĐ và ngoại tệ là do trong năm 2005, cục dự trữ liên bang Mĩ đã tăng lãi suất đồng USD, gây nên sức ép với đồng nội tệ. Tuy nhiên ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỏ ra khá dè dặt trong việc đặt mức lãi suất huy động bằng VNĐ nên tốc độ tăng trưởng của VNĐ không cao. Điều này cho thấy khả năng phản ứng với sự thay đổi về lãi suất trên thị trường của ngân hàng Đầu tư và Phát triển chưa cao. Năm 2006: Tổng nguồn vốn huy động được là 850 tỷ đồng, tăng 15,6% so với năm 2005 trong đó 55 tỷ đồng là ngoại tệ quy đổi ra VNĐ. Mặc dù đã đạt được kế hoạch đặt ra về tông rnguồn vốn huy động, nhưng do trong năm 2006, sức ép về việc tăng lãi suất đồng USD lớn (cục dự trữ liên bang Mĩ liên tục tăng lãi suất trong kì), ngân hàng Đầu tư và Phát triển chậm trễ trong chính sách lãi suất đối với đồng đô la nên nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ không thay đổi so với năm 2005, vẫn còn thấp trên tiềm lực của địa bàn. Trong bối cảnh mà cự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trên địa bàn Lạng Sơn diễn ra gay gắt về lãi suất thì sự tăng trưởng kể trên đã là một sự cố gắng lớn của cán bộ nhân viên Chi nhánh. 2.2.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng Về đối tượng huy động, chúng ta có thể chia ra làm hai loại chủ yếu là huy động trong dân cư và huy động từ các tổ chức kinh tế. Bảng 6: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng số Tổng số ± (%) Tổng số ± (%) Theo đối tượng 1. Tổ chức kinh tế 70 95 +35.7 180 +85 Tỷ trọng (%) 10 12.9 21.1 2. Dân cư 630 640 +1.5 670 +4.6 Tỷ trọng (%) 90 87 78.8 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004-2006) Từ bảng số liệu ta thấy tỉ trọng nguồn vốn từ dân cư cao hơn rất nhiều đối với tỉ trọng nguồn vốn từ tổ chức kinh tế. Tuy nhiên tỉ trọng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế có xu hướng ngày càng tăng lên (từ 10% năm 2004 lên 12,9% năm 2005 và 21,2% năm 2006). Điều này có thể giải thích dựa vào tính chất hành chính – kinh tế của địa bàn hoạt động. Tỉnh Lạng Sơn là tỉnh tập trung chủ yếu là dân cư, các tổ chức kinh tế còn ít, nhưng do sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nên ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức kinh tế huy động trong các lĩnh vực. Do đó nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế khó vượt trội so với nguồn vốn huy động từ dân cư, nhưng đang ngày càng tăng lên. Qua các năm 2004 – 2006 mặc dù lãi suất của ngân hàng không cao so với các ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn nhưng nguồn vốn huy động được từ dân cư và các tổ chức kinh tế đều phát triển qua mỗi năm. Nguyên nhân là do chính sách Marketing cho sản phẩm của ngân hàng có hiệu quả cao nên đã thu hút được khách hàng. Đặc biệt là tốc độ tăng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế đã tăng nhanh qua các năm (năm 2005 tăng 35,7% so với năm 2004, năm 2006 tăng 85% so ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0271.doc
Tài liệu liên quan