Tăng cường huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế. Đối với các tổ chức này, huy động vốn là hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng, không huy động được lượng vốn đủ lớn, các Ngân hàng rất khó mở rộng tín dụng cũng như phát triển các hoạt động khác Trong điều kiện kinh tế Việt nam đang hội nhập các Ngân hàng thương mại càng cần để duy trì và nâng cao vị thế trên thị trường. Trên thực tế lượng vốn các tổ chức tài chính này huy động được chưa đủ lớn để đáp ứng n

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu cầu phát triển, mặt khác không ít Ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối giữa các loại vốn. Tăng cường vốn trở thành vấn đề rất cấp bách với các Ngân hàng thương mại hiện nay Chi nhánh Hà nội là một trong những chi nhánh thuộc miền Bắc của Ngân hàng TMCP An Bình hoạt động trong môi trường cạnh tranh mới nên chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động huy động vốn của chi nhánh dù đã có được những thành công nhất định nhưng vẫn còn những hạn chế, tình hình huy động vốn của chi nhánh qua các năm không được ổn định do sự bất ổn của nền kinh tế gây ra bên cạnh những hình thức huy động vốn của chi nhánh chưa thực sự đa đạng. Nếu không tăng cường huy động vốn thì chi nhánh sẽ rất khó phát triển Xuất phát từ nhận định trên, đề tài “Tăng cường huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội” được lựa chọn để nghiên cứu Ngoài danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu sơ đồ, lời mở đầu kết luận và tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày theo kết cấu gồm ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan về huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại không phải được hình thành trong bất cứ điều kiện kinh tế nào. Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển đến trình độ nhất định, sự ra đời của NHTM là tất yếu khách quan. Đến lượt mình, các NHTM lại trở thành động lực phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia được phản ánh rất nhiều thông qua trình độ phát triển của hệ thống NHTM nói riêng, hệ thống tài chính nói chung của quốc gia đó NHTM hiện diện trong nền kinh tế từ hình thức sơ khai nhất là những cửa hiệu hay bàn đổi tiền trong các Trung tâm thương mại, giúp khách du lịch và thương nhân đổi ngoại tệ lấy bản tệ. Hình thái đầu tiên đó xuất hiện ở các thành phố của Hy Lạp, La Mã với hai hoạt động chủ yếu là: đổi tiền và chiết khấu thương phiếu Những ngân hàng thực sự đầu tiên trên thế giới chỉ đơn thuần nhận bảo quản, cất giữ hộ tiền vàng và các vật có giá khác. Khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng trao cho những người chủ chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu với các vật đó. Do có nhiều ưu điểm, những chứng chỉ này sau đó được sử dụng rộng rãi với tư cách là “tiền” thay cho tiền vàng trong các giao dịch, đồng thời các chủ Ngân hàng nhận ra sự không ăn khớp về thời gian và số lượng giữa tài sản được gửi vào và tài sản được rút ra. Họ không dự trữ toàn bộ mà tiến hành cho vay với những người cần vốn. Điều này khiến các Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lớn đồng thời biên Ngân hàng trở thành trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế Nhu cầu ngày càng lớn về loại tiền, chứng thư, do Ngân hàng phát hành khiến các chứng thư được xuất ra một cách mạo hiểm, không có sự đảm bảo của tiền vàng hay vật có giá. Sự lạm dụng phát hành tiền cũng như sự không thống nhất các loại tiền do các Ngân hàng khác nhau phát hành gây ra sự bất ổn cho nền kinh tế, cản trở giao thương. Nhà nước buộc phải can thiệp bằng cách trao quyền phát hành tiền cho một số Ngân hàng mạnh nhất và sau đó là một Ngân hàng duy nhất, Ngân hàng Trung ương. Những Ngân hàng còn lại chỉ còn được phép: nhận tiền gửi, đi vay và cho vay Ngoài NHTW, xét về tính chất và mục tiêu hoạt động, Ngân hàng được phân loại thành: Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng thương mại. Trong đó NHTM chiếm số đông, từ những hoạt động sơ khai: đổi tiền, nhận tiền gửi, cho vay… các Ngân hàng hiện nay đã phát triển rất nhiều hoạt động mới. Việc xây dựng một khái niệm phản ánh đúng và đầy đủ bản chất của NHTM cũng trở nên phức tạp hơn. Các khái niệm về NHTM được đưa ra trên cơ sở những hoạt động thể hiện tính đặc trưng của các tổ chức tài chính này, được gọi chung là các hoạt động ngân hàng. Trong những điều kiện cụ thể, các hoạt động ngân hàng được cụ thể hóa theo những cách diễn đạt khác nhau Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan Trong đó, hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán Thực tế cho thấy: NHTM không phải bỗng dưng xuất hiện và có được sự thịnh vượng như ngày nay. Một lịch sử lâu dài trong sự thúc đẩy của nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đã giúp các NHTM không ngừng hoàn thiện các hoạt động cơ bản và mở rộng nhiều hoạt động mới Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy dộng vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng Nguồn vốn của một ngân hàng thương mại nằm bên phải bảng cân đối kế toán bao gồm các khoản mục sau Vốn chủ sở hữu Đây là loại vốn ngân hàng mà ngân hàng cần phải có để có thể hoạt động ban đầu và được pháp luật cho phép. Vốn này có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, ngân hàng cũng gia tăng vốn của chủ thêo nhiều phương thức khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Đó là nguồn từ lợi nhuận và nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm vốn,... Vốn huy động Vốn huy động có vai trò đáng kể trong khoản mục nguồn vốn của bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vốn huy động là vốn mà ngân hàng cần phải dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ quy định của nhà nước, tuy nhiên lại đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động được chuyển đến ngân hàng thông qua các kênh khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất của vốn huy động phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường cũng như các quyết định về lãi suất huy động của từng ngân hàng. Vốn vay Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn vay nợ là khoản mục lớn thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động. Đối với nguồn vốn này, ngân hàng không bị đòi hỏi về dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn vốn này là chi phí vốn - lãi suất - của các khoản vay này thường cao và thường dao động với biên độ lớn phụ thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng xin vay. Chính vì vậy, ngân hàng chỉ dung tới nguồn vốn vay nợ trong trường hợp có những nhu cầu thanh khoản đột xuất với quy mô lớn xuất hiện mà các nguồn vốn huy động hay nguồn tiền từ việc bán các dự trữ thứ cấp là không thể đáp ứng được. Nguồn vay chính đối với các ngân hàng là từ các khoản tiền gửi của ngân hàng Trung ương, từ nguồn chiết khấu của ngân hàng Trung ương hoặc từ các công ty lớn Hoạt động sử dụng vốn Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một phần dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng vốn rất phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3 nhóm chính sau: Nghiệp vụ chiết khấu Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ có giá đó. Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy nợ như trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi chiết khấu, ngân hàng có thể giữ tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu hay bán lại trên thị trường tiền tệ. Nghiệp vụ đầu tư Nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai nhóm: Đầu tư với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận. Với mục đích thanh khoản, ngân hàng nắm giữ chứng khoán là nhằm tối đa hoá khả năng sinh lời của tài sản trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản cao. Các chứng khoán ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì chúng có thể được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. Các chứng khoán này đợc xem như dự trữ thứ cấp của ngân hàng. Ngược lại, với nhóm đầu tư với mục đích lợi nhuận, các chứng khoán trong nhóm chủ yếu là chứng khoán dài hạn của Chính Phủ với mức lãi cao và ngân hàng thường nắm giữ chúng cho tới ngày mãn hạn. Đây được xem là một nguồn thu nhập quan trọng của ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng thương mại. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập về lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là nguồn thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một ngân hàng trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy nhiên do mối quan hệ logic giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng thường xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn. Do vậy trong hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, cánh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng những tổn thất lớn. Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm là cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng,... Các ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Vốn chủ sở hữu Nguồn vốn hình thành ban đầu Nguồn vốn ban đầu hay Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Đối với các NHTM quốc doanh thì 100% vốn pháp định ban đầu là vốn do Nhà nước cấp. Đối với các NHTM cổ phần thì vốn pháp định (vốn điều lệ) hình thành do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu. Đối với các NHTM liên doanh thì vốn pháp định là vốn đóng góp của các bên liên doanh Còn vốn của ngân hàng tư nhân lại chính là vốn thuộc sở hữu của chủ ngân hàng Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Gia tăng vốn chủ sở hữu là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín cũng như sức mạnh của ngân hàng trên thị trường càng lớn. Để tăng vốn chủ sở hữu, các ngân hàng thường lấy từ các nguồn sau: - Nguồn từ lợi nhuận : Khi ngân hàng hoạt động có lợi nhuận thì lãnh đạo ngân hàng thường có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Việc này có ý nghĩa tích cực với mọi ngân hàng vì nó góp phần tạo thêm sự an tâm với các khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng tích luỹ tiền để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng nhằm tạo ra một hình ảnh ngân hàng đẹp hơn. - Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần , góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động của Ngân hàng hoặc đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ do Ngân hàng nhà nước quy định. Tuy nhiên nguồn vốn này không không phải lúc nào cũng có được. Đối với các ngân hàng Nhà nước, việc được cấp thêm vốn tuỳ thuộc vào chính sách của nhà nước mỗi năm. Còn đối với các ngân hàng cổ phần, việc tăng thêm vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới đòi hỏi sự cân nhắc của hội đồng quản trị ngân hàng. Không phải lúc nào một ngân hàng cũng có thể phát hành thêm cổ phiếu mới vì việc này có thể gây ra nhiều tác động không tốt như: giá cổ phiếu ngân hàng trên thị trường giảm, cổ tức của cổ đông ít đi Các quỹ Các quỹ của ngân hàng được lập ra với nhiều mục đích, nhằm hỗ trợ cho các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Những quỹ này đều được hình thành từ thu nhập của ngân hàng. - Quỹ dự phòng tổn thất: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất đã và sẽ xảy ra. - Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. - Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Đây là thành phần khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu bởi nó được hình thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng phát hành các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, người nắm giữ những trái phiếu này đến một thời hạn nào đó sẽ chuyển thành cổ đông của ngân hàng và được hưởng lợi tức thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này xuất hiện ở các ngân hàng sắp cổ phần hoá có tác dụng làm tăng vốn lượng vốn dài hạn trong thời điểm hiện tại và tăng vốn chủ sở hưu trong tương lai. Tại Việt Nam, trong quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương cũng đã phát hành những trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phần. Những trái phiếu này rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành đồng sở hữu một ngân hàng rất mạnh trong tương lai Vốn huy động từ nền kinh tế Tiền gửi thanh toán Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là nếu một người vừa gửi tiền sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày, còn nếu chưa cần sử dụng thì anh ta cứ để đấy khi nào cần thì rút. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không kì hạn thường yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản mà không cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Việc này đẩy nhanh tốc độ lưu thông của tiền và hạn chế bớt tiền mặt trong thanh toán. Chính ưu điểm này của tiền gửi thanh toán đã khiến nó rất được ưa thích và phổ biến với tất cả mọi người, đặc biệt là các doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động mua bán thường xuyên. Ngày nay tài khoản tiền gửi thanh toán đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu dụng đối với chủ tài khoản. Người chủ tài khoản có thể phát séc từ tài khoản của mình, thanh toán các loại hoá đơn qua ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy ATM của ngân hàng…Mạng lưới ngân hàng càng mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những người sở hữu các tài khoản tiền gửi thanh toán. Giờ đây người ta có thể mua bán với nhau dù cách xa hàng ngàn km, có thể đi du lịch khắp nơi mà chỉ cần mang theo một chiếc thẻ tín dụng được chấp nhận toàn cầu. Đặc biệt, từ sau thập niên 70 các ngân hàng đã bắt đầu trả lãi suất cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Tuy nhiên điều này càng làm tăng sự ưa thích của các khách hàng vì tiền của họ không những có thể rút được ra bất kì lúc nào mà còn sinh lãi khi không dùng đến trong một khoảng thời gian dài. Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp dẫn. Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi. Để thu hút tiền gửi thanh toán, các ngân hàng tạo rất nhiều sản phẩm cũng như tiện ích sử dụng khiến cho khách hàng có rất nhiều lựa chọn. Chỉ riêng về Thẻ đã có rất nhiều loại và nhiều tính năng phù hợp với mỗi loại khách hàng. Tương lai, tiền gửi thanh toán sẽ thay thế hầu như toàn bộ tiền mặt, nó không những giúp người sở hữu thuận lợi trong các giao dịch, ngân hàng có thêm nhiều vốn mà còn giúp Nhà nước quản lý có hiệu quả lượng tiền mặt trong lưu thông Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Bên cạnh những khoản tiền gửi thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp thương mại, tổ chức xã hội đều gửi một lượng tiền nhất định tại ngân hàng với thời hạn xác định. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một lượng tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn khác nhau để hưởng lãi (lãi suất cao hơn lãi suất của tiền gửi không kì hạn) nhằm tạo thêm thu nhập cho mình. Tuy nhiên lượng tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng rất nhỏ so với lượng tiền gửi không kì hạn, đồng thời rất khó dự đoán được sự biến động của nó do sự biến động của hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến, họ tích luỹ lại cho tương lai. Người dân có nhiều cách để giữ số tiền tiết kiệm của mình. Một trong những cách đó là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân hàng thu hút tiền gửi của người dân bằng việc đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn lâu dài. Huy động tiền gửi trong dân cư là nghiệp vụ truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư sinh lợi. Thông thường tiền gửi tiết kiệm có 2 loại chính : Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào họ muốn. Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền khi đến hạn nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn. Người gửi tiết kiệm có kì hạn có quyền yêu cầu ngân hàng thay đổi kì hạn tiền gửi của mình, nhập các sổ tiết kiệm lại với nhau, dùng sổ tiết kiệm để thế chấp vay vốn…Đặc biệt, hiện nay để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều cho người gửi tiền tiết kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Hơn nữa, người dân cũng có thể yên tâm hơn khi khoản tiền gửi của mình trong ngân hàng được bảo hiểm, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán thì người gửi vẫn có thể nhận lại toàn bộ hoặc một phần số tiền của mình từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác Giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thường xuyên có mối liên hệ với nhau về nhiều mặt trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng đều gửi một lượng tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ, chuyển khoản hay mua bán, giao dịch khác…Lượng tiền gửi này thường không lớn, biến động nhỏ nên ít ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng Vốn vay Tiền vay Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau cùng. Thông thường tất các ngân hàng thương mại và một số tổ chức tài chính khác trong nước được NHNN cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tại ngân hàng NHNN trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Đối với các NHTM thì vay mượn tại NHNN là một dịch vụ hết sức tiện lợi và hấp dẫn vào lúc nó hạ lãi suất tái chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích đầu tư. Nhưng trường hợp không may diễn ra là khi các ngân hàng đến vay vào lúc NHTƯ không muốn khuyến khích sự bành trướng của tín dụng hay đang muốn thắt chặt cung ứng tiền tệ chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đẩy lên cao và với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTƯ thì các ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống ngặt nghèo và tìm cách trả nợ rất nhanh. Những khi ấy, các khoản vay từ NHNN chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tài sản nợ của các ngân hàng. Dù ít hay nhiều, thường xuyên hay thình thoảng thì vay NHNN vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài sản nợ. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các NHTM qua 2 hình thức: - Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu sẽ trở thành tài sản cảu họ. Khi cần tiền họ mang chúng lên NHNN để tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt chẽ. Thông thường NHNN chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có thời hạn đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì. - Thế chấp hay ứng trước bảo đảm hay không có bảo đảm. Đây là hình thức cho vay thời hạn ngắn, chủ nợ không bán các phiếu nợ cho ngân hàng mà chỉ đem gửi các phiếu đó làm vật bảo đảm cho việc vay tiền. Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của NHNN đối với các NHTM như sau: Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn : là hình thức tài trợ vốn theo kế hoạch, chỉ phân phối đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho khách hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu. Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng Tiền vay các tổ chức tín dụng khác Khi vay tiền từ NHNN để đáp ứng thiếu hụt dự trữ hay chi trả cấp bách quá khó khăn (lãi suất chiết khấu cao, điều kiện vay mượn chặt chẽ..) các NHTM thường vay mượn lẫn nhau trên thị trường kiên ngân hàng. Quá trình vay mượn này rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường, các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Việc vay mượn giữa các ngân hàng là hoạt động thường xuyên và là một kênh huy động vốn tốt cho các ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp Vay trên thị trường vốn Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường xuyên (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường chủ động đi vay trên thị trường vốn. Cũng giống như các doanh nghiệp, Ngân hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách đó mà phải thông qua ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Có thể nói thị trường tài chính với vai trò trung gian điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng tăng Vay nợ khác Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các nguồn vốn vay khác như: - Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong đó Uỷ thác Đầu tư là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng. Với dịch vụ này, khách hàng uỷ thác tiền bạc, tài sản của mình cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư vào những dự án khả thi để sinh lãi. Ngân hàng với lợi thế về uy tín và thông tin cũng như khả năng thẩm định dự án tốt sẽ tiến hành hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn, mang lại thu nhập cho khách hàng đồng thời thu lời cho chính mình qua phí dịch vụ. Trong tương lai, dịch vụ Uỷ thác đầu tư hứa hẹn rất phát triển, là một nguồn thu hút vốn khá tốt và trở thành một sản phẩm cạnh tranh hấp dẫn không kém sản phẩm tiền gửi. - Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ L/C…), Hoặc các ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết dư tiền gửi từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để cho vay. Đặc điểm của nguồn này là thời gian tồn tại ngắn vì phần lớn chúng đều ở trong trạng thái chờ luân chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng chúng để cho vay lâu dài mà chỉ để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại. Các nguồn khác Các khoản nợ khác như Thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân hàng tạm thời chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Nhân tố khách quan Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng. Nếu những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì vàng còn có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn khi người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Khi đó cơ hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát triển. Hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản để thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân thấp, nhu cầu giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại ngân hàng. Điều này sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, không phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố trực tiếp tác động đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng cao; nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng thì nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng lên. Chu kì chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào những dịp nghỉ lễ trong năm, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến Có thể nói đây không phải yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng những lại có giá trị ở chỗ nó khiến cho gần hết tiền nhàn rỗi trong dân cư được luân chuyển vào ngân hàng Môi trường kinh tế Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển vốn, tỷ lệ lạm phát,... tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh, có tốc độ phát triển nhanh, thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân cư sẽ có nguồn tiền gửi dồi dào vào ngân hàng. Ngược lại, trong điều kiện tình hình kinh tế bất ổn, nền kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ lạm phát cao thì việc huy động vốn của ngân hàng nói chung và các hoạt động khác của ngân hàng noi chung sẽ gặp nhiều khó khăn bởi người dân không tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mau các tài sản có tỉnh ổn định cao, còn các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, trong môi trường ngày càng phát triển hiện nay, khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để ngân hàng tồn tại và phát triển. Nhiều sản phẩm dịch vụ đã xuất hiện liên quan đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại như dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking), máy rút tiền tự động ATM (Automatic Teller Money), thư tín dụng (L/C), hệ thống thanh toán điện tử,... đã làm cho tỷ lệ gửi tiền, thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ cao Môi trường xã hội Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy những khu vực đông dân cư, với thu nhập cao thì sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn đối với ngân hàng. Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt của dân cư ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế về tiêu dùng và tiết kiệm của người có thu nhập, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định chi tiêu số tiền nhàn rỗi của mình vào đầu tư bất động sản, động sản, chứng khoán Môi trường pháp lý Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, hàng hoá tiền tệ nên chịu tác dụng bởi nhiều chính sách, các quy định của Chính Phủ và của Ngân hàng Nhà nước. Sự thay đổi chính sách của nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng của nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động đến nguồn vốn của một ngân hàng thương mại với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới Nhân tố chủ quan Tổ chức nhân sự Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chính nhưng con người vẫn luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình, vừa là chủ thể vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc khách hàng, đặt quan hệ giao dịch,... Như vậy để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, được đào tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ cao, đồng thời phải nắm bắt được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về nghiệp vụ thì một cán bộ tín dụng phải có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và tuân thủ pháp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31740.doc
Tài liệu liên quan