Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Khoa Tài chính ngân hàng ----------------˜&™-------------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Đề tài : Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : THS. Nguyễn Minh Huệ Họ tên sinh viên : Trần Hồng Hạnh Lớp : Tài chính doanh nghiệp 17BN Hệ : Chính quy Hà Nội 10 – 2008 Mục lục Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Bảng 1: Chỉ tiêu về huy động vốn củ

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Chi nhánh Hà Thành Bảng 2: Kết quả hoạt động tín dụng của Chi nhánh Hà Thành Bảng 3: Các chỉ tiêu kết quả tài chính của Chi nhánh Hà Thành Bảng 4: Tình hình huy động tiền gửi của Chi nhánh Hà Thành Bảng 5: Tình hình huy động vốn theo mục đích của CN Hà Thành Bảng 6: Tình hình huy động tiền gửi thanh toán Bảng 7: Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm Bảng 8: Tình hình huy động giấy tờ có giá Bảng 9: Tình hình huy động tiền gửi theo kỳ hạn Bảng 10: Tình hình huy động tiền gửi theo loại tiền Bảng 11: Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh Hà Thành Hình 1: Sơ đồ tổ chức Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Hình 2: Sơ đồ tổ chức Chi nhánh Hà Thành Hình 3: Biểu đồ huy động vốn Chi nhánh Hà Thành giai đoạn 2005-2007 Hình 4: Biểu đồ huy động tiền gửi Chi Nhánh Hà Thành Hình 5: Biểu đồ huy động tiền gửi thanh toán Hình 6: Biểu đồ huy động tiền gửi tiết kiệm Hình 7: Biểu đồ huy động tiền gửi theo kỳ hạn Hình 8: Biểu đồ huy động tiền gửi theo loại tiền gửi LỜI MỞ ĐẦU Trong xu hướng hội nhập kinh tế ngày nay, sự cạnh tranh diễn ra vô cùng gay gắt trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Để đảm bảo cho sự phát triển, yếu tố vốn giữ vai trò then chốt với bất kỳ một doanh nghiệp nào tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, vốn giữ vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, mà ngân hàng là trung gian tài chính chủ yếu hoạt động bằng cách thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn, sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay. Do ngân hàng là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay, vì thế huy động tiền gửi là nhiệm vụ được các ngân hàng đặt lên hàng đầu, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Hoạt động cạnh tranh để thu hút tiền gửi hiện nay giữa các ngân hàng diễn ra rất khốc liệt không chỉ giữa các ngân hàng trong nước mà còn với cả các ngân hàng nước ngoài khi hiện nay nước ta đã gia nhập WTO. Vì vậy, áp lực huy động tiền gửi là rất lớn, các ngân hàng không chỉ muốn thu hút được khối lượng lớn tiền gửi mà chất lượng tiền gửi cũng là yếu tố quan trọng, đồng thời chi phí huy động phải là thấp nhất để đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng. Qua thời gian tìm hiểu và nghiên cứu thực tế tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ tại phòng Kế hoạch nguồn vốn, em đã nhận thức được tầm quan trọng về công tác huy động tiền gửi tại ngân hàng, vì vậy em đã chọn đề tài “Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Với đề tài trên em đã có cơ hội được tìm hiểu về hoạt động huy động tiền gửi tại ngân hàng và qua đó hiểu thêm về thực tế huy động tiền gửi tại Việt Nam hiện nay. Đặc biệt với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một ngân hàng hàng đầu Việt Nam, huy động tiền gửi tốt đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội do Đảng và Nhà nước đặt ra. Kết cấu đề tài: Đề tài được trình bày theo 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tuy đã có một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ tận tình nhưng do còn sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên nội dung của chuyên đề không tránh khỏi sai sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để tiếp tục đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS.Nguyễn Minh Huệ đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện đề tài này. Em cũng chân thành cảm ơn các anh chị trong phòng Kế hoạch nguồn vốn của Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong quá trình thực tập. Sinh viên Trần Hồng Hạnh Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại 1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại Định nghĩa về ngân hàng thương mại trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nên kinh tế”. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 2, được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1 Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Một là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Và hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên là hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ được chuyển từ nhóm 2 sang nhóm 1 nếu cả hai cùng có lợi, như vậy thu nhập gia tăng đã tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định đó là quan hệ tín dụng, nếu không đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu đời và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển, chính vì vậy đây là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch, như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, tăng thu nhập cho người đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy đã giải quyết được những mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia nhỏ thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung ứng một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhậnc các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cung thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất. 1.1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó đã trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất cao, đồng thời với nhu cầu có đòng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán… 1.1.2.3 Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhưu thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó ngày càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực nền kinh tế toàn cầu. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công cảu ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động nguồn tiền. Một trong những nguồn quan trọng đó là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền và cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Tại Việt Nam, trong tháng 6/2008, có lúc lãi suất huy động của một vài ngân hàng thương mại có lúc đã lên tới 20%/năm. Cho vay * Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. * Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. * Tài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thành toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhật trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ… Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi co một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các công ty chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ . Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ. Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống với cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cản uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2 Các hoạt động huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại 1.2.1 Đặc điểm của nguồn tiền gửi tại ngân hàng thương mại Hoạt động huy động tiền gửi chính là hoạt động ngân hàng mua quyền sử dụng các khoản vốn của khách hàng thông qua hình thức tiền gửi trong một thời gian nhất định và có trách nhiệm hoàn trả số vốn đó theo đúng kế hoạch. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh toán của ngân hàng. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiều gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. 1.2.2 Phân loại các hình thức huy động tiền gửi tại ngân hàng thương mại Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Trong môi trường cạnh tranh, để gia tăng nguồn tiền gửi cả về số lượng và chất lượng, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động tiền gửi khác nhau. 1.2.2.1 Phân loại theo đối tượng khách hàng Đối tượng khách hàng của ngân hàng thương mại được chia ra thành 3 nhóm đối tượng chủ yếu là khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp và khách hàng tổ chức tín dụng. Khách hàng cá nhân Khách hàng cá nhân chiếm phần lớn trong đối tượng huy động của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải đa dạng hoạt động dịch vụ tiền gửi với đối tượng khách hàng này. Mục đích chủ yếu của khách hàng cá nhân khi gửi tiền tại ngân hàng là tiết kiệm, bảo quản, sinh lời do đó khách hàng cá nhân đã mang đến một lượng vốn huy động đáng kể cho ngân hàng với số tiền nhàn rỗi của mình, với số vốn huy động được ngân hàng sẽ sử dụng chúng để thực hiện các hoạt động đầu tư một cách hiệu quả nhất. Khách hàng doanh nghiệp Tiền gửi của khách hàng doanh nghiệp tạo nên sự đa dạng hoá trọng hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng. Lượng vốn huy động từ khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác chiếm một khối lượng đáng kể trong tổng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên, mục đích gửi tiền của đối tượng này khác với khách hàng cá nhân, bởi mục đích gửi tiền của khách hàng doanh nghiệp chủ yếu là dùng để thanh toán tiền hàng và các giao dịch khác, cho nên ngân hàng khó xác định được thời gian chi trả, do đó gây khó khăn cho ngân hàng trong việc sử dụng nguồn vốn này. Mặt khác khi có tiền nhàn rỗi các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế cũng gửi tiền có kỳ hạn để kiếm lời. Khách hàng tổ chức tín dụng Tiền gửi của các tổ chức tín dụng nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn tiền này không lớn. 1.2.2.2 Phân loại theo mục đích huy động vốn Theo mục đích huy động vốn, tiền gửi bao gồm các hình thức sau: Tiền gửi thanh toán hay tiền gửi giao dịch Đây là tiền gửi của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng, thủ tục mở rất đơn giản, yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán để áp dụng đối với các loại tiền này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gằng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng…). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu ngân hàng cho phép. Phát hành các giấy tờ có giá Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành bao hồm kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá. Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường có lãi suất cao hơn tiền gửi có kỳ hạn thông thường. 1.2.2.3 Phân loại theo thời gian Tiền gửi ngắn hạn Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động trong khoảng thời gian ngắn hạn và có thời hạn dưới 1 năm. Tiền gửi trung và dài hạn Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động có thời hạn từ 1 năm trở lên. Đây là nguồn vốn ổn định được ngân hàng sử dụng với mục đích mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. 1.2.2.4 Phân loại theo loại tiền Vốn huy động bằng nội tệ Ngân hàng huy động vốn bằng nội tệ với nhiều hình thức khác nhau và mục đích sử dụng khác nhau. Vốn huy động bằng nội tệ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng. Vốn huy động bằng ngoại tệ Vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu là USD và EUR. Vốn huy động bằng ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế của ngân hàng cũng như của khách hàng. Vốn huy động bằng ngoại tệ cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng. 1.3 Tăng cường huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại 1.3.1 Quan niệm về tăng cường huy động tiền gửi Tăng cường huy động tiền gửi là làm tăng số dư tiền gửi tại ngân hàng theo định hướng kế hoạch mà ngân hàng đưa ra không chỉ về khối lượng mà cả chất lượng của nguồn tiền gửi trên cơ sở khó khăn và thuận lợi sẵn có. 1.3.2 Các biện pháp tăng cường huy động tiền gửi Thứ nhất, các ngân hàng cần tăng cường sự chỉ đạo tích cực, hỗ trợ mạnh mẽ cho các chi nhánh. Chẳng hạn liên kết với các phương tiện truyền thông để xây dựng một vài chương trình định kỳ, giới thiệu dưới nhiều hình thức khác nhau, những đổi mới của hệ thống ngân hàng giúp công chúng hiểu, biết rõ, dần tiếp cận, củng cố lòng tin và giao dịch với ngân hàng. Thứ hai, mỗi ngân hàng phải hoạch định một chiến lược huy động tiền gửi khả thi và phù hợp với nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn trung dài hạn bằng các giải pháp tích cực và khẩn trương. Thứ ba, mỗi ngân hàng cần có định hướng một chính sách khách hàng phù hợp với tiêu chí ngân hàng hướng tới phục vụ chuyên sâu loại đối tượng khách hàng nào, từ đó có những ưu đãi cụ thể với những đối tượng khách hàng ưu tiên, bên cạnh đó cũng có những ưu đãi riêng với từng loại khách hàng gửi tiền. Thứ tư, bộ phận makerting của mỗi ngân hàng cần có những chính sách cụ thể đối với khách hàng gửi tiền, tiến hành những điều nghiên cần thiết đối với bộ phận thị trường này, nắm bắt đặc điểm thu nhập, chi tiêu và mong muốn của từng nhóm khách hàng để có các hình thức và biện pháp tiếp cận, phát triển quan hệ thích hợp. Cần có những chính sách hỗ trợ cần thiết cho các ngân hàng, định hướng quảng bá thông tin ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, xử lý nghiêm khắc những trường hợp lừa đảo qua ngân hàng. Thứ năm, từng ngân hàng tiếp tục quá trình đổi mới công nghệ, tận dụng tối đa những ưu thế mà công nghệ mới mang lại. Trong quá trình chuyển đổi, tuyệt đối không để những sai sót nhầm lẫn nảy sinh ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, gây mất lòng tin nơi họ, tạo dư luận không tốt về ngân hàng. Mỗi nhân viên ngân hàng cần có thời gian nhất định để thích ứng với công nghệ mới, giới chức lãnh đạo các ngân hàng cần có những biện pháp động viên, khuyến khích giúp ._.đỡ, thậm chí cả đòi hỏi, từng nhân viên phải nổ lực hết khả năng để sớm thích nghi. Thứ sáu, các ngân hàng nên tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm huy động, nâng cao hơn nữa tính tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài, các ngân hàng phải đạt được mục tiêu: bất kỳ cá nhân tổ chức nào có nguồn tiền chưa sử dụng, đều có thể tìm kiếm ở ngân hàng một loại hình huy động nào đó phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kỳ hạn truyền thống, cần có những sửa đổi theo hướng linh hoạt: cho phép khách hàng rút tiền trước hạn từng phần, trả lãi định kỳ với những món gửi lớn, khách hàng được quyền lựa chọn kỳ hạn bất kỳ trong giới hạn kỳ hạn tối đa của ngân hàng v.v. Thứ bảy, các ngân hàng nên sớm cho phép các chi nhánh trên địa bàn thực hiện một số sản phẩm mà ngân hàng đã làm, chẳng hạn dịch vụ đầu tư tự động với những khách hàng có số dư tiền gửi giao dịch lớn, tạo điều kiện cho các chi nhánh đa dạng hoá sản phẩm. Thứ tám, về lâu dài Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán quốc gia cần có định hướng và giải pháp cho quá trình phát triển thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho dịch vụ đại lý chứng khoán của các ngân hàng trên địa bàn phát triển mạnh. Qua đó sẽ hình thành một kênh huy động tiền gửi mới nhiều tiềm năng cho các ngân hàng. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại 1.4.1 Các nhân tố khách quan Thu nhập và tâm lý của dân cư Thu nhập và tâm lý của dân cư có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng. Thu nhập của dân cư cao, khi đó khả năng tiết kiệm của người dân tăng lên, do đó họ sẽ có nhu cầu gửi tiền tại ngân hàng để gia tăng tiền tiết kiệm của mình và khả năng huy động tiền gửi của các ngân hàng sẽ tăng lên. Đồng thời tâm lý của dân cư là yếu tố quyết định đến việc gửi tiền tại ngân hàng, khi người dân có tâm lý thích giữ tiền mặt hoặc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, khi đó việc huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại sẽ gặp nhiều khó khăn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng Trong xu thế hội nhập và không ngừng phát triển hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại đã và đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Do đặc tính của sản phẩm ngân hàng là rất khó khác biệt bởi khi một ngân hàng cho ra đời một sản phẩm thì rất nhanh chóng các ngân hàng khác cũng cho ra đời các sản phẩm tương tự để cạnh tranh. Đối với hoạt động huy động tiền gửi, các ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng lãi suất, với sự cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay đã làm cho chi phí huy động vốn của các ngân hàng ngày càng cao. Môi trường kinh tế, xã hội, pháp lý Môi trường kinh tế: Các chỉ tiêu kinh tế có tác động trực tiếp tới hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại như tốc độ tăng trưởng, thu nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển, tỷ lệ lạm phát… Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao, thu nhập quốc dân cao, tỷ lệ lạm phát ổn định, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, dân cư sẽ có thu nhập cao, khi đó hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ thuận lợi, huy động tiền gửi cao. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng thấp, thu nhập quốc dân giảm, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cao, khi đó các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, người dân sẽ dùng tiền để mua các tài sản có ít rủi ro, điều này làm cho khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Trong sự phát triển chung của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Chính vì vậy, các ngân hàng đã ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin vào trong hoạt động của ngân hàng, điều này đã làm cho hoạt động phục vụ của ngân hàng trở nên nhanh chóng hơn, an toàn hơn và dễ dàng cho khách hàng sử dụng. Với sự hỗ trợ của công nghệ, khách hàng sẽ yên tâm hơn khi gửi tiền tại ngân hàng. Môi trường xã hội là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động huy động tiền gửi như sự phân bố dân cư, tập quán, tâm lý và thói quen sử dụng tiền mặt, điều này quyết định đến việc tiết kiệm và gửi tiền vào ngân hàng của người dân. Môi trường pháp lý: Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ, do đó ngân hàng chịu sự chi phối của các chính sách do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước quy định. Vì vậy, ngân hàng sẽ chịu mọi sự tác động của các chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất từ đó sẽ ảnh hưởng đến mọi hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động tiền gửi nói riêng. 1.4.2 Nhân tố chủ quan Chiến lược sử dụng vốn của ngân hàng Mỗi một ngân hàng sẽ căn cứ vào quy mô, đặc điểm và môi trường kinh doanh của mình sẽ đưa ra một chiến lược sử dụng vốn phù hợp và hiệu quả. Do đó, hoạt động huy động tiền gửi sẽ căn cứ vào chiến lược sử dụng vốn để đặt ra các mục tiêu cho hoạt động thu hút tiền gửi. Lãi suất huy động Lãi suất huy động là chi phí vốn mà ngân hàng phải bỏ ra để thu hút tiền gửi, lãi suất tác động trực tiếp đến lượng vốn huy động của ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước đưa ra, các ngân hàng thương mại phải tính toán thật kỹ để đưa các mức lãi suất phù hợp với tình hình thị trường đồng thời phải căn cứ vào hoạt động sử dụng vốn để đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Quy mô và uy tín của ngân hàng Một ngân hàng thể hiện quy mô của mình thông qua lượng vốn chủ sở hữu mà ngân hàng nắm giữ và mạng lưới chi nhánh bao phủ của ngân hàng đó. Một ngân hàng có quy mô lớn khi ngân hàng đó sở hữu một lượng vốn chủ lớn và một mạng lưới chi nhánh rộng khắp về mặt địa lý. Ngân hàng càng lớn thì khả năng tiếp cận mọi đối tượng khách hàng càng nhiều. Không những vậy một ngân hàng vốn lớn, có uy tín và mạng lưới rộng sẽ khiến khách hàng yên tâm hơn khi gửi tiền do đó sẽ huy động được lượng vốn nhiều hơn so với các ngân hàng khác dù trả lãi suất cao hơn, bởi khách hàng không chỉ căn cứ vào lãi suất huy động mà ngân hàng đưa ra mà căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn cho lượng tiền gửi tại ngân hàng. Đội ngũ cán bộ ngán hàng Trong xu thế cạnh tranh giữa các ngân hàng như hiện nay, trình độ và cách phục vụ của cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút khách hàng. Vì vậy không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để luôn đem lại sự hài lòng cho khách hàng là yêu cầu cần thiết mà các nhà quản lý đặt ra đối với mỗi cán bộ nhân viên ngân hàng. Để đáp ứng được các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, các cán bộ nhân ngân hàng luôn phải chú ý nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm với công việc. Các hình thức huy động và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp Mỗi đối tượng khách hàng sẽ có một nhu cầu gửi tiền khác nhau do đó một ngân hàng có các cách thức huy động tiền gửi và dịch vụ cung cấp đa dạng, linh hoạt, tiện lợi đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của khách hàng thì khả năng huy động tiền gửi sẽ càng cao. Trình độ công nghệ ngân hàng Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện ngay, ngân hàng cũng là một trong những tổ chức đi đầu trong việc ứng dụng các thành tựu của khoa học vào hoạt động của mình. Với việc sử dụng khoa học công nghệ, hoạt động của ngân hàng trở nên an toàn hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn, chất lượng dịch vụ tốt hơn, không những vậy những sản phẩm dịch vụ mới được ra đời trên nền tảng của sự hỗ trợ bởi công nghệ hiện đại. Do đó, khả năng thu hút tiền gửi của ngân hàng đã được tăng lên, đặc biệt là tiền gửi giao dịch. Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1 Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Thành 2.1.1 Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1.1.1 Giới thiệu chung Tên đầy đủ: Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Tên giao dịch quốc tế: Bank for Investment and Development of Vietnam Tên gọi tắt: BIDV. Biểu tượng: Địa chỉ: Tháp A, toà nhà VINCOM, 191 Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Điện thoại: 042200422 Fax: 04 2200399 Website: www.bidv.com.vn.   Email: bidv@hn.vnn.vn * Ngày thành lập Thành lập ngày 26/4/1957 với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam Ngày 24/6/1981 chuyển thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam Ngày 14/11/1990 đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam * Nhiệm vụ: Kinh doanh đa  ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng nâng cao lợi nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế Đất nước. * Phương châm hoạt động Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV. Chia sẻ cơ hội – Hợp tác thành công. * Mục tiêu hoạt động: Trở thành ngân hàng chất lượng – uy tín hàng đầu tại Việt Nam. * Chính sách kinh doanh: Chất lượng – tăng trưởng bền vững – hiệu quả an toàn. * Khách hàng – Đối tác Là cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính… Có quan hệ hợp tác kinh doanh với hơn 800 ngân hàng trên thế giới; Là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, Hiệp hội ngân hàng ASEAN, Hiệp hội các định chế tài chính phát triển Châu Á – Thái Bình Dương (ADFIAP), Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. * Cam kết Với khách hàng: Cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, tiện ích  nhất. Đồng thời chịu trách nhiệm cuối cùng về sản phẩm dịch vụ đã cung cấp. Với các đối tác chiến lược: “Chia sẻ cơ hội, hợp tác thành công”. Với cán bộ công nhân viên: + Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. + Luôn coi con người là nhân tố quyết định mọi thành công theo phương châm “mỗi cán bộ BIDV phải là một lợi thế trong cạnh tranh” về cả năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức. * Thương hiệu BIDV Là sự lựa chọn, tín nhiệm của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp hàng đầu của cả nước, cá nhân trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng. Được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến và ghi nhận như là một trong những thương hiệu ngân hàng lớn nhất Việt Nam, được chứng nhận bảo hộ thương hiệu tại Mỹ, nhận giải thưởng Sao vàng Đất Việt cho thương hiệu mạnh… và nhiều giải thưởng hàng năm của các tổ chức, định chế tài chính trong và ngoài nước. Là niềm tự hào của các thế hệ CBNV và của ngành tài chính ngân hàng trong 51 năm qua với nghề nghiệp truyền thống phục vụ đầu tư phát triển Đất nước. 2.2.1.2 Sơ đồ tổ chức CT Chứng khoán CT Đầu tư tài chính CT Quản lý quỹ CN & NL CT Bảo hiểm CT QL nợ và Khai thác TS CT Đầu tư công đoàn CT Cho thuê tài chính I, II TT CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TT ĐÀO TẠO HỘI SỞ CHÍNH Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Các Hội đồng, Các phòng ban KHỐI CÔNG TY KHỐI NGÂN HÀNG KHỐN ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KHỐI LIÊN DOANH KHỐI ĐẦU TƯ Ngân Hàng Lào – Việt Ngân Hàng VID –PUBLIC Ngân Hàng Việt – Nga CTLD Quản lý quỹ CTLD Tháp NHDT&PTVN * NH TMCP Nhà Hà Nội * NH TMCP Nhà TP HCM * NH TMCP Nông thôn Đại Á * Qũy TDND Trung Ương * CTCP Chuyển mạch TC quốc gia * CTCP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP HCM * CTCP Thiết bị bưu điện * CTCP Vĩnh Sơn Sông Hinh Trụ sở chính tại Hà Nội & Văn phòng đại diện tại TP HCM 3 Sở giao dịch 100 CN cấp1 400 Điểm giao dịch & 700 Máy ATM Hình 1: Sơ đồ tổ chức Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Mạng lưới BIDV là một trong những ngân hàng có mạng lưới phân phối lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam, chia thành hai khối: * Khối kinh doanh: trong các lĩnh vực sau Ngân hàng thương mại + 103 chi nhánh cấp 1 với gần 400 điểm giao dịch, hơn 700 máy ATM và hàng chục ngàn điểm POS trên toàn phạm vi lãnh thổ, sẵn sàng phục vụ mọi nhu cầu khách hàng. + Trong đó có 2 đơn vị chuyên biệt là: - Ngân hàng chỉ định thanh toán phục vụ thị trường chứng khoán (Nam Kì Khởi Nghĩa). - Ngân hàng bán buôn phục vụ làm đại lý ủy thác giải ngân nguồn vốn ODA (Sở Giao dịch 3). Chứng khoán: Công ty chứng khoán BIDV (BSC) Bảo hiểm: Công ty Bảo hiểm BIDV (BIC): Gồm Hội sở chính và 10 chi nhánh Đầu tư – Tài chính + Công ty Cho thuê Tài chính I, II; Công ty Đầu tư Tài chính (BFC), Công ty Quản lý Quỹ Công nghiệp và Năng lượng,… Các Liên doanh: Công ty Quản lý Đầu tư BVIM, Ngân hàng Liên doanh VID Public (VID Public Bank), Ngân hàng Liên doanh Lào Việt (LVB); Ngân hàng Liên doanh Việt Nga (VRB),  Công ty liên doanh Tháp BIDV. * Khối sự nghiệp Trung tâm Đào tạo (BTC). Trung tâm Công nghệ thông tin (BITC). Ban lãnh đạo Hội đồng quản trị: + Là cơ quan hoạch định chiến lược phát triển, định hướng hoạt động của BIDV. + Chủ tịch HĐQT: Ông Trần Bắc Hà. Ban Tổng giám đốc + Cơ quan điều hành mọi hoạt động của BIDV. + Tổng giám đốc:  Ông Trần Anh Tuấn. Cán bộ công nhân viên: Hơn 12000 người. làm việc chuyên nghiệp, nghiêm túc và hiệu quả, đặc biệt có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư phát triển, là thế mạnh cạnh tranh của BIDV. 2.1.1.2 Các hoạt động chính Ngân hàng: Cung cấp đầy đủ, trọn gói các dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại. Bảo hiểm: Bảo hiểm, tái bảo hiểm tất cả các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Chứng khoán: Môi giới chứng khoán; Lưu ký chứng khoán; Tư vấn đầu tư (doanh nghiệp, cá nhân); Bảo lãnh, phát hành; Quản lý danh mục đầu tư. Đầu tư tài chính: + Chứng khoán (Trái phiếu, Cổ phiếu…) + Góp vốn thành lập doanh nghiệp để đầu tư các dự án. BIDV đã, đang và ngày càng nâng cao được uy tín về cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đồng thời khẳng định giá trị thương hiệu trong lĩnh vực phục vụ dự án, chương trình lớn của Đất nước 2.1.2 Tổng quan về Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1.2.1 Qúa trình hình thành và phát triển Chi nhánh Hà Thành Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đặt địa điểm tại 34 Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, là thành viên thứ 76 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chi nhánh Hà Thành chính thức thành lập và đi vào hoạt động từ 16/09/2003 trên cơ sở tách và nâng cấp Phòng Giao dịch Trung tâm của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, khổi đầu sự nghiệp của mình chỉ với 54 cán bộ và 500 tỷ tổng tài sản. Bước đầu khi mới hoạt động, Chi nhánh Hà Thành đã gặp không ít khó khăn với tổng tài sản nhỏ, lực lượng cán bộ mỏng, đồng thời đóng trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – trung tâm thủ đô Hà Nội nơi có hơn 80 tổ chức tín dụng trong và ngoài nước đã và đang hoạt động ổn định và chiếm thị phần, những ngày đầu đi vào hoạt động Chi nhánh gặp không ít khó khăn. Chi nhánh mới ra sau nhỏ bé, nhiệm vụ lại khó, cán bộ đang quen phục vụ các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước lớn nay lại chuyên phục vụ khách hàng ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động theo hướng bán lẻ… Thực sự là khó khăn, thách thức đối với một chi nhánh non trẻ. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và sự thống nhất của Ban giám đốc và toản thể cán bộ Chi nhánh, đông thời được sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt, được sự hỗ trợ to lớn của Ban lãnh đạo, các Phòng Ban tại Hội sở chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, sau năm năm đi vào hoạt động, Chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng kể trong hoạt động kinh doanh cũng như các công tác đoàn thể khác. Chi nhánh Hà Thành đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi sáng tạo phát triển theo định hướng là mô hình Ngân hàng chuyên bán lẻ điển hình đầu tiên của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, nhiệm vụ chủ yếu của Chi nhánh Hà Thành là cung cấp các dịch vụ tài chính cho đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp liên doanh, các hộ kinh doanh cá thể, đồng thời chủ động đề xuất phát triển các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với xu thế thị trường như tham gia đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa hoạt động trong lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, kinh doanh có hiệu quả; đa dạng hóa các sản phẩm phục vụ thị trường chứng khoán; thực hiện tốt chức năng ngân hàng chỉ định thanh toán của Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hà Nội, phát triển sản phẩm mua bán kỳ hạn trái phiếu với các định chế tài chính… Với phương châm lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động, trong những năm qua, Chi nhánh Hà Thành đã không ngừng đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ của mình, sát cánh cùng các doanh nghiệp đi lên trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. 2.1.2.2 Chức năng và nhiệm vụ của Chi nhánh Hà Thành Huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các đơn vị, tổ chức kinh tế và các nguồn vốn khác. Thực hiện chức năng Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Cho vay trung hạn đối với các tổ chức kinh tế thuộc đối tượng quản lý và phục vụ có nhu cầu vay vốn để cải tạo, đổi mới trang thiết bị và mở rộng sản xuất. Thực hiện kinh doanh ngoại tệ theo quyết định của Tổng giám đốc. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc giao cho. Thực hiện chế độ kế hoạch hóa, thông tin, thống kê, kế toán tài chính theo quy định chung đối với các chi nhánh. 2.1.2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động Chi nhánh Hà Thành Về mô hình tổ chức, khi mới thành lập Chi nhánh Hà Thành đã gặp không ít khó khăn do lực lượng cán bộ và mạng lưới còn mỏng, số lượng phòng nghiệp vụ còn hạn chế với 06 Phòng và 03 Tổ nghiệp vụ, 01 Phòng giao dịch, 01 Điểm giao dịch và 03 Quỹ tiết kiệm với tổng số 54 cán bộ. Qua năm năm hoạt động, Chi nhánh Hà Thành đã thực sự lớn mạnh với số lượng cán bộ bằng 2.6 lần thời điểm mới thành lập và mô hình tổ chức đã được hoàn thiện, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Năm 2007, Chi nhánh Hà Thành đã có 12 Phòng nghiệp vụ, 01 Tổ nghiệp vụ, 06 Phòng giao dịch, 03 Điểm giao dịch và 01 Qũy tiết kiệm với tổng số cán bộ là 170 người. Chi nhánh cũng đang chuẩn bị cho việc tách thành lập Chi nhánh Thanh Xuân Chi nhánh cấp I theo chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Cơ cấu tổ chức bộ Chi nhánh Hà Thành (theo QĐ 184): BAN GIÁM ĐỐC Khối dịch vụ khách hàng Khối Quản lý nội bộ P. kế hoạch nguồn vốn P. tiền tệ kho quỹ P. tổ chức hành chính P. thanh toán quốc tế P. dịch vụ KH DN P. tài chính kế toán P. điện toán P. dịch vụ KH cá nhân P.kiểm tra nội bộ Khối tín dụng P. tín dụng P. thẩm định, QL tín dụng Khối trực thuộc P. giao dịch Điểm giao dịch Qũy tiết kiệm Hình 2: Sơ đồ tổ chức Chi nhánh Hà Thành 2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Thành 2.1.2.1 Về huy động vốn Trong những năm qua công tác huy động vốn của Chi nhánh Hà Thành luôn được quan tâm và chú trọng nên không ngừng tăng trưởng với tốc độ cao qua các năm, bên cạnh đó cơ cấu nguồn vốn cũng được dịch chuyển theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Bằng việc xác định mục tiêu, yêu cầu về công tác nguồn vốn trước hết phải tạo lập được một nền vốn vững chắc và ngày càng tăng trưởng nhằm đáp ứng cho nhu cầu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bảng 1: Chỉ tiêu về huy động vốn của Chi nhánh Hà Thành Đơn vị: Triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 1 Tổng tài sản 2,514,784 4,163,328 5,216,381 2 Huy động vốn 2,435,044 3,877,937 4,888,106 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Chi nhánh Hà Thành – BIDV) Hình 3: Biểu đồ huy động vốn Chi nhánh Hà Thành giai đoạn 2005-2007 Tại thời điểm 31/12/2007, kinh tế nước ta chịu nhiều ảnh hưởng bởi mức lạm phát cao 12.6% đã ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh Hà Thành nói riêng. Tuy nhiên với chính sách huy động linh hoạt, với đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao được sự hỗ trợ bởi tin học hóa, Tổng tài sản của chi nhánh đạt 5,216,381 triệu VND, trong đó tổng số dư huy động vốn đạt 4,888,106 triệu VND gấp 6.5 lần tại thời điểm mới thành lập năm 2003 và gấp 1.26 lần mức huy động vốn tại thời điểm 31/12/2006, đồng thời mức huy động vốn này còn vượt mức kế hoạch mà chi nhánh đặt ra trong năm 2007 đạt 106.3% so với kế hoạch. Như vậy, hoạt động huy động vốn của chi nhánh không những đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn tại chi nhánh, mà còn góp phần cân đối vốn cho toàn hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 2.1.2.2 Về hoạt động tín dụng Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn đã tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra nhiều hệ thống ngân hàng hoạt động với các mức lãi suất hấp dẫn làm cho tính cạnh tranh trong hoạt động tín dụng càng trở nên gay gắt hơn. Tuy nhiên, Chi nhánh Hà Thành đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng cường các dịch vụ cung ứng đối với khách hàng với chính sách mềm dẻo làm cho hoạt động tín dụng tiếp tục tăng trưởng. Bảng 2: Kết quả hoạt động tín dụng của Chi nhánh Hà Thành Đơn vị: Triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 1 Dư nợ tín dụng 1,504,549 2,273,097 1,546,597 Ngắn hạn 1,152,778 1,908,410 1,236,513 Trung dài hạn thương mại 351,771 364,687 310,084 2 Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 0.1 0.75 0.24 3 Tỷ trọng dư nợ NQH/TDN 78 % 82 % 93.67 % 4 Tỷ trọng dư nợ có TSBD/TDN 87 % 91 % 84.92 % (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Chi nhánh Hà Thành – BIDV) Dư nợ tín dụng tại thời điểm 31/12/2007 đạt 1,546,597 triệu VND gấp 6.5 lần khi mới thành lập. Do ảnh hưởng bởi lạm phát cao, dư nợ tín dụng của chi nhánh giảm so với năm 2006. Tuy nhiên, tín dụng phát triển theo đúng định hướng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tập trung phục vụ khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lượng khách hàng duy trì hoạt động tín dụng thường xuyên tại Chi nhánh đã lên tới trên 150 khách hàng là các doanh nghiệp với các thương hiệu có uy tín như Công ty FPT, Tập đoàn Hòa Phát, Tập đoàn Việt Á… với dư nợ tín dụng đạt gần 1600 tỷ đồng trong đó dư nợ cho vay ngoài quốc doanh chiếm tới 90%. Chất lượng tín dụng luôn được quan tâm chú trọng. Tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn luôn được duy trì ở mức thấp. Tỷ lệ nợ xấu theo điều 7 quyết định 493 tại thời điểm 31/12/2007 ở mức 2.35% tổng dư nợ (số tuyệt đối là 47 tỷ), tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo đạt 85%, tỷ lệ dư nợ trung dài hạn/tổng dư nợ đạt 15.6%. Đối với khách hàng vừa và nhỏ, chi nhánh cũng triển khai mở rộng các hình thức cho vay hấp dẫn, với các nỗ lực tổng dư nợ cho vay cá nhân tại Chi nhánh Hà Thành đến 31/12/2007 đã đạt 135 tỷ đồng, góp phần đắc lực vào việc phát triển tín dụng ngoài quốc doanh tại Chi nhánh. Chi nhánh Hà Thành là đại diện duy nhất của BIDV thực hiện cho vay hỗ trợ đảm bảo khả năng thanh toán đối với toàn bộ thành viên của thị trường. Năm 2007, doanh số cho vay đạt 205 tỷ đồng, Chi nhánh đã cấp hạn mức tín dụng cho vay chứng khoán tự doanh đối với 4 công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam là BVSC, SSI, FPTS và công ty chứng khoán Nông nghiệp. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn cung cấp sản phẩm cho vay cầm cố cổ phiếu cho các công ty chứng khoán và khách hàng cá nhân của công ty chứng khoán với doanh số cho vay trên 300 tỷ đồng. Có thể nói, những nỗ lực trong những năm qua của Chi nhánh Hà Thành, đơn vị tiên phong của hệ thống trong phục vụ doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang đem lại một diện mạo mới trong quan hệ giữa một ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu Việt Nam với cộng đồng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu dư nợ của toàn hệ thống BIDV theo hướng an toàn, hiệu quả hơn. 2.1.2.3 Kết quả tài chính Chi nhánh Hà Thành là chi nhánh có điểm xuất phát thấp khi mới khai trương hoạt động, lại gặp nhiều khó khăn do chi phí thuê nhà cao, quản lý số lượng ATM lớn, nhưng nhờ bám sát định hướng hoạt động, phân tích và tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp linh hoạt và sáng tạo đã gia tăng khả năng sinh lời, đảm bảo cơ cấu thu nhập chi phí và lợi nhuận. Bảng 3: Các chỉ tiêu kết quả tài chính của Chi nhánh Hà Thành Đơn vị: Triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 1 Tổng thu 182,850 295,140 415,327 2 Thu dịch vụ ròng 8,251 18,812 18,153 3 Lợi nhuận trước thuế 29,350 42,000 128,816 4 Qũy DPRR 8,750 21,000 48,938 5 Lợi nhuận sau thuế 21,132 30,240 92,747 6 Số lao động 135 155 170 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Chi nhánh Hà Thành – BIDV) Lợi nhuận trước thuế năm 2007đạt 128,816 triệu VND tăng trưởng 306.7% so với năm 2006. Quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh tại thời điểm 31/12/2007 đã đạt 48,938 triệu VND, tăng 233% so với năm 2006. Thu dịch vụ ròng của Chi nhánh trong năm 2007 đạt 18,153 triệu VND, là một trong mười đơn vị đứng đầu toàn hệ thống BIDV về phát triển dịch vụ. 2.1.2.4 Các hoạt động khác của Chi nhánh Hà Thành Là ngân hàng phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển của đất nước, Chi nhánh cũng đã tham gia tài trợ nhiều dự án mới mang tính tiên phong như dự án xây dựng nhà máy xi măng lò quay Lam Thạch công suất gần 500000 tấn/năm với số vốn tài trợ lên đến trên 200 tỷ đồng, dự án nhà máy sản xuất ống cốt sợi thủy tinh của Công ty cổ phần Ống sợi thủy tinh Vinaconex cung cấp cho dự án nhà máy nước Sông Đà I với số vốn tài trợ lên tới 22 tỷ đồng… Ngoài ra còn rất nhiều dự án khác Chi nhánh đã và đang tham gia tài trợ như dự án Tòa tháp đôi Hòa Bình của Công ty TNHH Hòa Bình tài trợ 100 tỷ đồng, Tòa nhà trụ sở Công ty FPT 11.7 triệu USD, dự án sản xuất tủ lạnh điều hòa bình nóng lạnh của Công ty điện lạnh Hòa Phát 22 tỷ đồng, dự án Financial Tower của Công ty Bitexco 10 triệu USD… Sau 5 năm hoạt động, Chi nhánh Hà Thành là một trong các đơn vị luôn đi đầu hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong việc triển khai các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, làm chủ công nghệ ngân hàng hiện đại, triển khai tốt việc áp dụng các sản phẩm, dịch vụ mới của hệ thống như dịch vụ Home Banking, chuyển tiền Western Union, thu mua séc du lịch, thanh toán thẻ Visa, Master, đầu mối chi trả kều hối Đài Loan, dịch vụ trả lương cho các cơ quan… Sự phát triển của Thị trường chứng khoán nước ta trong 2 năm qua đã mở ra cơ hội mới về huy động vốn cũng như cơ hội đầu tư trên thị trường. Đón bắt cơ hội này nhằm đa dạng hóa hoạt động tài sản có, Chi nhánh Hà Thành đã triển khai nghiệp vụ đầu tư và đã thu được những kết quả đáng kể, Chi nhánh Hà Thành đã thực hiện đấu giá thành công mua cổ phần phát hành lần đầu của năm công ty: Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại (1.500.000 cổ phiếu), Công ty CP Gas Petrolimex (800.000 cổ phiếu ), Công ty CP Than Cao Sơn (100.000 cổ phiếu), Công ty CP Thủy điện Thác Mơ (300.000 cổ phiếu), Công ty CP Bảo hiểm Dầu khí (250.000 cổ phiếu) với doanh số đầu tư đạt hơn 103 tỷ VND. Chi nhánh Hà Thành đã cơ cấu lại danh mục đầu tư bán một phần cổ phiếu của Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại và Công ty CP Gas Petrolimex đem lại hơn 26 tỷ VND lợi nhuận. Bên cạnh các hoạt động của một ngân hàng thương mại thông thường, Chi nhánh Hà Thành được giao nhiệm vụ của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh vinh dự thay mặt hệ thống thực hiện chứng năng Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán cho thị trường phía Bắc và cung cấp các sản phẩm ngân hàng chuyên sâu cho thị trường tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Sau hơn 3 năm thực hiện nhiệm vụ, Chi nhánh đã thực hiện công tác thanh toán bù trừ tiền mua bán chứng khoán tại sàn giao dịch thứ cấp cho gần 700 phiên giao dịch với doanh số thanh toán bù trừ đạt 382 nghìn tỷ đồng năm 2005, chi trả tiền đặt cọc cho khoảng 181 phiên đấu giá, thay mặt BIDV tham gia gần 50 phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ với tổng trị giá trúng thầu trái phiếu là 5000 tỷ đồng, đến năm 2007 doanh số thanh toán bù trừ của Chi nhánh đã lên tới 244.486 tỷ đồng. Chi nhánh đã triển khai một số nghiệp vụ mới chuyên sâu phục vụ thị trường chứng khoán như nghiệp vụ ngân hàng giám sát, quản lý danh mục đầu tư cho các công ty quản lý quỹ… Với những đóng góp thiết thực và hiệu quả như vậy, Chi nhánh Hà Thành được đánh giá là đã và đang hoàn thành tốt nhiệm vụ của Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán, góp phần đảm bảo tính thanh khoản thông suốt của thị trường, tham gia tích cực vào sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm vừa qua. Thành công này cũng đã mở ra hướng đầu tư mới cho Chi nhánh, góp phần quảng bá hình ảnh trong thời kỳ các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cổ phần hóa. 2.2 Thực trạng huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Hà Thành chính thức thành lập và đi vào hoạt động từ 16/09/2003 trên cơ sở tách và nâng cấp Phòng Giao dịch Trung tâm của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Sau gần 5 năm hoạt động, huy động tiền gửi của Chi nhánh Hà Thành không ngừng tăng lên, chi nhánh tiếp tục duy trì mối quan hệ với khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Xác định được ý nghĩa to lớn của hoạt động huy động tiền gửi, Chi nhánh Hà Thành đã thực hiện đa dạng hóa các mức lãi suất cho phù hợp với các hình thức huy động tiền gửi, đảm bảo tính cạnh tranh. Vì vậy chi nhánh đã thu hút được một lượng tiền gửi lớn, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng thể hiện sự phát triển nhanh chóng và vững chắc trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Sự phát triển của Chi nhánh được biểu hiện qua kết quả sau: Bảng 4: Tình hình huy động tiền gửi của Chi nhánh Hà Thành Đơn vị: Triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 1 Huy động vốn 2,435,044 3,877,937 4,888,106 2 Huy động tiền gửi TCKT 1,574,962 2,733,195 3,383,547 3 Huy động tiền gửi VND 860,082 1,144,742 1,504,559 (Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn Chi nhánh Hà Thành – BIDV) Hình 4: Biểu đồ huy động tiền gửi Chi Nhánh Hà Thành Biểu đồ trên cho thấy, tình hình huy động tiền gửi của Chi nhánh Hà Thành trong giai đoạn 2005 – 2007 tăng trưởng tốt, tại thời điểm 31/12/2007 tổng nguồn vốn 200.4% so với cùng thời điểm năm 2005 và tăng 126.05% so với năm 2006, còn tại thời điểm 31/12/2006 tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn so với cùng thời điểm năm 2005 là 159.25%. Như vậy, nguồn vốn của Chi nhánh tăng trưởng tương đối tốt chứng tỏ công tác huy động tiền gửi có hiệu quả, tuy nhiên do ảnh hưởng bởi tình hình lạm phát cao trong năm 2007 nên tốc độ tăng trưởng nguồn vốn và tăng trưởng tiền gửi có bị giảm sút so với năm 2006. Với công tác dự báo tốt về sự biến động của nên kinh tế trong năm 2007, chi nhánh cũng đã đặt mục tiêu phù hợp, do đó so với kế hoạch đặt ra, chi nhánh không những đã hoàn thành mà còn vượt chỉ tiêu đặt ra về huy động vốn là 4,600,000 triệu VND, thực tế năm 2007 là 4,888,106 tăng 106.3% so với kế hoạch. Biểu đồ trên cho thấy, trong tổng tiền gửi huy động._.iền có kỳ hạn dài có rất nhiều lý do do để lo lắng như vấn đề lạm phát, lãi suất, nhu cầu cần tiền đột xuất… khi đó nếu rút tiền ra, khách hàng sẽ chịu nhiều thiệt thòi vì chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, do đó khách hàng có nhu cầu chuyển nhượng tiền gửi dài hạn này sang cho khách hàng khác có nhu cầu. Do vậy, để thu hút các khoản tiền có kỳ hạn dài, Chi nhánh cần phát hành các chứng chỉ tiền gửi hoặc kỳ phiếu có khả năng chuyển nhượng ra thị trường để có thể đáp ứng được lợi ích của cả 2 bên, tạo sự thuận lợi và an tâm cho khách hàng khi gửi tiền dài hạn, đồng thời Chi nhánh sẽ tạo được nguồn tiền dài hạn, ổn định. Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi truyền thống hiện nay, Chi nhánh cần quan tâm đén các hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích như tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm học đường, tiết kiệm bảo đảm bằng vàng… Đối với hình thức tiết kiệm nhà ở, hình thức này tạo cho ngân hàng nguồn vốn có thời hạn dài đồng thời khách hàng gửi tiền có quyền vay tiền tối đa bằng số tiền đã gửi tiết kiệm với mục đích mua, cải tạo hoặc xây nhà. Hiện nay, nhu cầu chi tiêu cho nhà ở của dân cư là rất cao, đồng thời thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, do đó đây là việc hoàn toàn có thể thực hiện được. Việc này sẽ khuyến khích người dân gửi tiền nhiều hơn, ngoài ra điều này cũng khuyến khích người dân tiết kiệm dành tiền cho những nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Để huy động được nguồn tiền này, Chi nhánh cần phải tạo được sự hấp dẫn với khách hàng bằng việc trực tiếp đứng ra làm môi giới trung gian cho khách hàng gửi tiền với các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp những mặt hàng mà khách hàng có nhu cầu. Chi nhánh cũng phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, đảm bảo về chất lượng và giá cả phù hợp với khách hàng. Nếu làm được như vậy, việc thu hút khách hàng có tiền nhàn rỗi đến với ngân hàng gửi tiền sẽ dễ dàng. Hình thưc tiết kiệm hưu trí, hình thức này dành cho những người không làm cho các cơ quan được hưởng lương về già sau này, do đó họ có nhu cầu gửi tiền cho tương lai sau này bằng cách hàng tháng gửi một số tiền nhất định theo từng thời hạn khác nhau. Hình thức tiết kiệm học đường, hình thức này đang được các công ty bảo hiệm khai thác, đây là hình thức tiết kiệm để chi trả tiền cho con học hành. Hiện nay, nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và thế giới, nhu cầu cho con đi du học đang rất phát triển, vì vậy hình thức gửi tiền này đang được các gia đình có điều kiện, thu nhập cao rất quan tâm, do đó đây là nguồn tiền mà ngân hàng cần chú ý đến. Hình thức tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, đây là hình thức tiết kiệm không còn xa lạ với người dân, hình thức này đã được áp dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần. Hình thức này đảm bảo cho người gửi tiền khi lạm phát tăng cao dẫn đến sự bất ổn về tiền tệ. Đa dạng hóa hình thức tiền gửi cá nhân Hình thức này giúp Chi nhánh thu hút được tiền nhàn rỗi từ dân cư với lãi suất thấp. Đồng thời phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hóa hoạt động thanh toán qua ngân hàng, tiết kiệm được chi phí phát hành tiền, hơn nữa còn giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông, hạn chế được nguy cơ lạm phát. Với tốc độ phát triển của nền kinh tế, việc mở tài khoản cá nhân là điều cần thiết để ngân hàng thực hiện hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và triển khai các dịch vụ đến mọi tầng lớp dân cư. Trong điều kiện nước ta, phần lớn dân cư thu nhập còn thấp, hình thức tiền gửi cá nhân còn rất mới mẻ, trong khi đó với người gửi tiền mong muốn được hưởng lãi suất cao, còn tài khoản tiền gửi cá nhân áp dụng lãi suất không kỳ hạn. Để thu hút được nguồn tiền này từ dân chúng, Chi nhánh cần xem xét đến chính sách lãi suất áp dụng, đồng thời cho họ thấy các tiện ích sẽ được hưởng khi sử dụng như dịch vụ thanh toán. Ngân hàng có thể áp dụng việc theo dõi 2 tài khoản song song của khách hàng cá nhân, đó là tài khoản tiền gửi cá nhân va tiền gửi có kỳ hạn. Khi số dư trong tài khoản tiên gửi cá nhân cao, Chi nhánh sẽ chuyển một khoản tiền này sang tài khoản tiết kiệm kỳ hạn của cá nhân đó, ngược lại, khi khách hàng có nhu cầu thanh toán, Chi nhánh chuyển số tiền cần thiết sang tài khoản cá nhân cho khách hàng. Như vậy, ngân hàng sẽ giảm được chi phí trong việc rút tiền nhiều lần của khách hàng, đồng thời giúp việc thanh toán của khách hàng được thuận lợi hơn. Với việc trả tiền lương qua tài khoản hiện nay, số lượng tài khoản cá nhân đang ngày càng tăng lên, nhu cầu thanh toán qua ATM do đó ngày một nhiều hơn, vì vậy Chi nhánh cần đa dạng hình thức tiền gửi với loại tiền này. Chi nhánh nên cử người xuống doanh nghiệp để giới thiệu các sản phẩm tiền gửi cá nhân tới nhân viên doanh nghiệp, đồng thời có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khi họ thực hiện việc trả lương cho nhân viên tại Chi nhánh. Và Chi nhánh không chỉ cung cấp dịch vụ thanh toán như hiện nay, mà nên ứng dụng thêm việc gửi tiền qua ATM, như vậy tạo điều kiện thuận lợi với những người không có thời gian đến ngân hàng gửi tiền. Hiện nay, số lượng sinh viên trên địa bản thủ đô là khá lớn, việc khai thác tiền gửi cá nhân với đối tượng khách hàng này là rất tiềm năng, do đó Chi nhánh cần có sự liên kết với các trường đại học, cao đẳng trong việc mở tài khoản cá nhân. Đa dạng hóa tiền gửi doanh nghiệp Đây là loại tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế gửi vào với mục đích thanh toán, chi trả hoặc phát hành séc. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên địa bàn là rất lớn, số lượng doanh nghiệp giao dịch qua ngân hàng vẫn còn chưa nhiều, với định hướng là ngân hàng bán lẻ phục vụ các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp, khách hàng ngoài quốc doanh vì vậy đây là cơ hội để Chi nhánh thu hút các doanh nghiệp này gửi tiền, tiến hành thanh toán qua ngân hàng. Do đó, Chi nhánh cần đặt việc huy động nguồn tiền lên hàng đầu, phấn đấu trở thành trung tâm thanh toán của mọi đối tượng, bởi loại tiền này có chi phí huy động thấp, không cần bảo hiểm do thời hạn ngắn, ít bị ảnh hưởng về giá trị tiền gửi và khối lượng tiền gửi lớn. Nhược điểm của loại tiền này là thường xuyên biến động và không ổn định do phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu thường xuyên của khách hàng, nhưng bù lại Chi nhánh có thể duy trì được số lượng lớn khách hàng đến gửi tiền và khối lượng lớn tiền gửi, thanh toán qua hoạt động giao dịch của doanh nghiệp và góp phần trực tiếp nâng cao uy tín của ngân hàng. Chi nhánh cần nâng cao hiệu quả của các công cụ thanh toán nhanh chóng và an toàn, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, Chi nhánh cần tích cực vận động doanh nghiệp chuyển tiền qua hình thức thanh toán bằng séc hay qua thẻ thanh toán ATM. Điều này vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi cầm séc nộp vào Ngân hàng có thể nhận ngay tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản, tạo điều kiện cho Chi nhánh thu hút thêm vốn từ tiền gửi. Để thu hút các doanh nghiệp đến mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, Chi nhánh cần cử cán bộ xuống tận doanh nghiệp giới thiệu cho doanh nghiệp các loại tài khoản và những tiện ích của chúng. Đồng thời Chi nhánh có những ưu đã khuyến khích doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua Chi nhánh. Không những vậy, Chi nhánh cần bám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, theo dõi các dòng tiền luân chuyển của doanh nghiệp khi thanh toán, mua vật tư hay bán hàng hóa, đặc biệt với các doanh nghiệp có doanh thu lớn, đây là nguồn tiền gửi rất quan trọng, vì vậy Chi nhánh cần tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa Chi nhánh với doanh nghiệp. Đa dạng hóa các loại giấy tờ có giá Một hình thức huy động tiền gửi nữa của Chi nhánh cần được quan tâm là phát hành các loại giấy tờ có giá như Trái phiếu, Kỳ phiếu, Chứng chỉ tiền gửi, mặc dù đây là hình thức huy động không thường xuyên. Chi nhánh nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các loại giấy tờ có giá nhằm tạo tính lỏng cho công cụ nợ này hoặc phát hành qua thị trường mở để dễ dàng chuyển nhượng lại cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức tài chính ngân hàng nào có nhu cầu. Chi nhánh cũng cần có các trái phiếu khác nhau như vô danh, ghi danh, ghi sổ… với các hình thức trả lãi và thời hạn khác nhau để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Để nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi có thời hạn trong thời gian dài cho đầu tư, thì vấn đề cần quan tâm trong huy động là ngân hàng phải lấy tư cách của Nhà nước hoặc địa phương để huy động tiền gửi đầu tư cho các công trình kinh tế trọng điểm. Chi nhánh nên phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mục đích với các hình thức đa dạng hơn như trả lãi trước, trả lãi sau, lãi suất và kỳ hạn cũng được điều chỉnh linh hoạt hơn tùy thuộc vào môi trường cạnh tranh cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng sẽ thu hút được lượng tiền gửi không nhỏ, chi phí huy động thấp khi sử dụng hình thức huy động này. 3.2.4 Sử dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý Lãi suất là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thu hút tiền gửi vào ngân hàng. Ngoại trừ tiền gửi không kỳ hạn ít nhạy cảm với sự biến đổi của lãi suất, còn lại các nguồn tiền gửi có kỳ hạn có phản ứng rất nhanh với lãi suất, đặc biệt với các nguồn tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư. Bởi khách hàng khi có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiết kiệm, mục tiêu hàng đầu của người gửi tiền vẫn là lãi suất sau đó mới đến vấn đề an toàn tiền gửi và các dịch vụ tiện ích được hưởng từ phía ngân hàng. Trong hoàn cảnh nền kinh tế có lạm phát cao, lãi suất có ảnh hưởng vô cùng lớn đến quyết định của người gửi tiền, bên cạnh vấn đề an toàn tiền gửi và các dịch vụ tiện ích được hưởng là một trong các yếu tố vô cùng quan trọng nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay. Thấy rõ được điều này, Chi nhánh rất chú trọng đến việc thay đổi lãi suất trong từng thời kỳ cho phù hợp với lãi suất thị trường nhằm thu hút tiền gửi của mọi thành phần kinh tế, tuy nhiên Chi nhánh là một đơn vị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trực thuộc ngân hàng nhà nước, cho nên so với lãi suất của các ngân hàng thương mại cổ phần, căn cứ mục đích sử dụng vốn của Chi nhánh đặt ra nên lãi suất của Chi nhánh có thấp hơn. Do đó, Chi nhánh cần xác định biện pháp tăng lãi suất phù hợp để hấp dẫn người gửi tiền và thu hút được khối lượng lớn tiền gửi. Tuy nhiên, đây là biện pháp có giới hạn, bởi tăng lãi suất huy động tức là tăng chi phí đầu vào, do vậy ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn cũng như kết quả kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả huy động, Chi nhánh cần tăng lượng tiền gửi huy động và giảm chi phí huy động, Chi nhánh cần đưa ra mức lãi suất hợp lý để kích thích khách hàng đồng thời đảm bảo được quy mô và cơ cấu hợp lý nguồn tiền gửi với chi phí huy động thấp, đáp ứng được nhu cầu sử dụng an toàn và sinh lời nhưng vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất quy định trên cơ sở của nền kinh tế thị trường, từ đó các ngân hàng thương mại dựa vào lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất quy định để tính toán lãi suất đầu và đưa ra mức lãi suất đầu vào phù hợp với mức độ cần thiết của nguồn vốn, từng thời điểm, từng khu vực và từng kỳ hạn huy động, sao cho kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn, đồng thời vẫn đảm bảo chi phí huy động và lãi suất đầu ra hợp lý. Với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường hiện nay, càng đòi hỏi sự năng động và linh hoạt của Chi nhánh trong quá trình tìm kiếm nguồn tiền gửi. 3.2.5 Phát triển mạng lưới và nâng cao uy tín Với xu thế cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường hiện nay, mạng lưới Chi nhánh đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thu hút nguồn tiền gửi. Trước hết, đó là do thói quen giao dịch trực tiếp của người dân, thứ hai đó là việc trình độ công nghệ ngân hàng chưa chưa phép giao dịch qua internet hay các phương tiện điện tử. Để phát triển mạng lưới, Chi nhánh cần có kế hoạch lộ trình cụ thể và triển khai nghiêm túc lộ trình đã định, đồng thời cần có một bộ phận chuyên trách phát triển mạng lưới. Chi nhánh cần chú ý tới môi trường hoạt động tại nơi đặt địa điểm giao dịch như số lượng doanh nghiệp đóng trên địa bàn, mật độ dân cư, mạng lưới giao thông, quy hoạch phát triển của địa bàn trong thời gian tới, chú ý tới các khu vực hiện tại chưa phát triển lắm nhưng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai đây sẽ là khu vực rất tiềm năng, đối với các địa bàn đã có nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính hoạt động, không nên mở phòng giao dịch tại đây. Hiện nay, việc giao dịch qua thẻ ATM đang phát triển mạnh, Chi nhánh cần trang bị thêm các máy rút tiền để phục vụ khách hàng, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác thanh toán qua ATM và các sản phẩm dịch vụ qua thẻ thanh toán. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng đã khẳng định được uy tín, tên tuổi nhiều năm qua. Vì vậy, là một đơn vị tiên phong trong hệ thống BIDV, sau 5 năm chính thức đi vào hoạt động, Chi nhánh đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc cũng như với các Chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Để tiếp tục khẳng định và giữ vững uy tín, vị thế, Chi nhánh cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách phục vụ của mình. 3.2.6 Đẩy mạnh chiến lược Marketting Với ngân hàng, để mở rộng hoạt động của mình thì việc marketting, quảng cáo là điều vô cùng cần thiết. Vì lợi ích của khách hàng và của chính ngân hàng, Chi nhánh cần có phòng Marketting riêng để chuyên thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu khách hàng, phân loại thị trường, phân loại khách hàng để có cách xử lý phù hợp. Thêm vào đó, nhiều người dân đến ngân hàng chỉ để gửi tiền lấy lãi, do đó các sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn rất trìu tượng, do đó Chi nhánh cần có hình thức tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo để khách hàng biết được hoạt động của Chi nhánh, các tiện ích khi giao dịch và các ưu đãi dành cho khách hàng. Với quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng cả về số lượng lẫn phạm vi, các sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn, việc tiếp thị các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là vô cùng cần thiết, do đó nếu không có Marketing thì ngân hàng sẽ bị trì trệ rất nhiều và dần dần mất tính cạnh tranh trên thị trường. Một trong những chương trình điển hình nhất của hoạt động Marketting nói chung và Marketting ngân hàng nói riêng là thuyết trình, quảng cáo trên truyền hình… Đối với phương pháp thuyết trình, Ngân hàng có thể áp dụng ở các doanh nghiệp bầng việc thành lập các đội giới thiệu sản phẩm của ngân hàng, đội này sẽ chủ động liên hệ, xin phép doanh nghiệp được thuyết trình về tiện ích của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đưa ra. Với cách tiếp cận trực tiếp khách hàng, ngân hàng sẽ thu thập được thông tin về nhu cầu khách hàng thông qua việc lấy ý kiến trực tiếp từ khách hàng. Với hoạt động quảng cáo trên truyền hình cần tổ chức một đội ngũ chuyên viên quảng cáo chuyên nghiệp. Trong công tác huy động tiền gửi, việc quảng cáo, tuyên truyền nên tập trung vào một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, hình thức huy động, lợi ích khi gửi tiền, khai trương quỹ tiết kiệm mới… đặc biệt khi có hình thức huy động mới. Thực tế cho thấy, ngân hàng phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn với lãi suất hấp dẫn nhưng người dân vẫn chưa được biết. Một cách thức quảng cáo đơn giản là dán các tờ áp phích tại quầy giao dịch của ngân hàng. Song hành với hình thức quảng cáo là khuyến mại, giúp đẩy mạnh thêm hoạt động quảng cáo thu hút tiền gửi vào ngân hàng. Các hình thức quảng cáo đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú đối với khách hàng như trả lời câu hỏi có thưởng, hình thức xổ số theo tài khoản, lãi suất ưu đãi với khách hàng thường xuyên giao dịch. Các hình thức quảng cáo hiệu quả sẽ nâng cao hình ảnh và uy tín của ngân hàng và làm cho khách hàng và người dân biết đến ngân hàng nhiều hơn. 3.2.7 Phát huy tối đa yếu tố con người Yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động xã hội, trong kinh doanh và đặc biệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, yếu tố con người là vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của một ngân hàng. Phát huy tối đa yếu tố con người là một giải pháp trước mắt mà còn về lâu dài phát triển vững chắc hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Thành. Các nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp làm việc với khách hàng, vì vậy văn minh ngân hàng, những cảm nhận đầu tiên về ngân hàng sẽ được thể hiện qua phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ ngân viên ngân hàng. Do vậy, để đạt kết quả tốt trong kinh doanh, nhân viên của Chi nhánh không chỉ có chuyên môn cao mà còn phải có lòng yêu nghề và đạo đức nghề nghiệp. Chi nhánh Hà Thành đã củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức đặc biệt đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tăng cường giám sát, kiểm tra nội bộ, quản lý tài chính và tăng cường kỷ luật lao động. Để phát huy năng lực cán bộ, Chi nhánh cần tạo môi trường làm việc thuận lợi đồng thời tiến hành nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ. Chi nhánh cần phải thường xuyên tiến hành tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ kết hợp với các chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần cho những nhân viên trực tiếp tham gia hay tự học để nâng cao nghiệp vụ. Chi nhánh cần tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên đi nghiên cứu tìm hiểu, tham quan học tập ở các nước có ngành ngân hàng phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng cần có hình thức thưởng phạt nghiêm minh. Từ đó Chi nhánh tạo dựng được một đội ngũ đội ngũ nhân viên theo đúng tiêu chuẩn, có trình độ chuyên môn giỏi, hiểu biết pháp luật, tác phong làm việc chuyên nghiệp điều này sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động huy động tiền gửi của Chi nhánh. 3.2.8 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, khi hành lang pháp lý được thông thoáng, các rào cản về việc phân biệt đối xử giữa các ngân hàng với nhau cũng không còn nữa, khi mà dịch vụ của các ngân hàng gần như tương đương nhau thì ngân hàng nào có công nghệ tiên tiến hơn, ngân hàng đó sẽ có được ưu thế trong các cuộc chạy đua giành lấy niềm tin khách hàng. Công nghệ chính là yếu tố hàng đầu để các ngân hàng duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Hầu hết các ngân hàng đã ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh từ các sản dịch vụ truyền thống cho đến việc triển khai các sản phẩm dịch vụ hiện đại, công nghệ đã trở thành yếu tố quyết định sự hiệu quả trong hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Do đó, Chi nhánh cần phải có một chiến lược công nghệ hiệu quả, hiện đại hóa hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm hệ thống hạ tầng mạng và viễn thông, hệ thống trung tâm dữ liệu, hệ thống bảo mật, hệ thống Call center, hệ thống giám sát và quản trị đồng thời ứng dụng các dịch vụ công nghệ hiện đại như Core banking là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng, thông qua đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn, Internet banking và phone banking, trade finance, hệ thống thanh toán như giải pháp chuyển mạch, ATM, POS, Card & smart card, hệ thống chuyển mạch tài chính và sự liên kết các ngân hàng thành viên. Đối với việc ứng dụng công nghệ vào huy động tiền gửi, mỗi khách hàng sẽ được cấp mã số riêng theo dõi từng tài khoản chi tiết mở tại ngân hàng, các thông tin về khách hàng sẽ được ngân hàng bảo mật. Việc ứng dụng công nghệ vào trong dịch vụ gửi tiền sẽ giúp khách hàng có thể dễ dàng gửi tiền vào Chi nhánh hoặc rút tiền ra dù ở thời điểm nào và bất cứ đâu, tất cả các hoạt động này sẽ được trung tâm quản trị dữ liệu xử lý mà không phải trực tiếp giao dịch với Chi nhánh. Với xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay, công nghệ ngân hàng đang được ứng dụng đã làm tăng vòng quay của vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông do đó khối lượng tiền gửi tại ngân hàng ngày càng tăng lên. Ngoài ra, để đảm bảo phục vụ tốt hoạt động thanh toán cho thị trường chứng khoán, công nghệ đóng vai trò quyết định, vì yêu cầu của thị trường chứng khoán ngày nay đòi hỏi phải trang bị hệ thống công nghệ hiện đại. Chính vì vậy, Chi nhánh cần nhanh chóng triển khai các chiến lược xây dựng công nghệ đã được xây dựng như chiến lược công nghệ thông tin đến năm 2010, dự án hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn 2008 – 2012, xây dựng hệ thống thông tin quản lý MIS hiện đại đưa vào phục vụ hoạt động sớm. 3.3 Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 3.3.1 Kiến nghị đối vớí Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần căn cứ vào tình hính và yêu cầu của thị trường, cũng như điều kiện cụ thể của Chi nhánh để xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý đồng thời đề ra các biện pháp hữu hiệu, chặt chẽ bám sát tình hình của Chi nhánh. Chiến lược huy động vốn trong đó có huy động tiền gửi là một trong các chiến lược liên quan chặt chẽ tới chiến lược phát triển chung của ngân hàng, chịu sự quy định của ngân hàng. Do đó, hoạt động huy động của Chi nhánh có hiệu quả mới đảm bảo sự thành công chiến lược phát triển chung của Ngân hàng. Chi nhánh cần có sự phối hợp đồng bộ với Trung tâm công nghệ thông tin Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để giải quyết những bất cập và triển khai các ứng dụng phần mềm mới để phát huy hiệu quả tối đa trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Chi nhánh. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động tiền gửi, cần phát huy vai trò của kiểm toán nội bộ, tăng tính độc lập cho bộ phận này để hoạt động của bộ phận kiểm toán là cánh tay đắc lực của Giám đốc. Không chỉ vậy, Ngân hàng cần có những biện pháp đẩy mạnh và phát triển mạng lưới các chi nhánh của mình nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý trên toàn bộ hệ thống đặc biệt là các khu công nghiệp, khu chế xuất và các vùng nông thôn. Đối với các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa thì công tác quản lý có phần vất vả và phức tạp nhưng không có nghĩa là không thực hiện được. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, ngân hàng cần củng cố, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch hiện có, đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng khi đến với ngân hàng, qua đó tạo niềm tin trong khách hàng và thu hút ngày càng nhiều nguồn tiền gửi nhàn rỗi của khách hàng đến với ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy trong công tác huy động tiền gửi cũng như hoạt động kinh doanh của BIDV có sự hướng dẫn và chỉ đạo của NHNN, tạo điều kiện cho ngân hàng huy động vốn trong đó bao gồm cả huy động tiền gửi và sử dụng khối lượng tiền huy động được có hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước là nơi hoạch định các chính sách tiền tệ quốc gia với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, NHNN cần xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ổn định và hợp lý theo tín hiệu của nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp của NHNN chỉ được thông qua các hình thức gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở… đồng thời có cơ chế về lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, các quy định về cho vay, thế chấp, bảo lãnh… thích hợp. Về lãi suất, NHNN cần ban hành một hệ thống lãi suất cơ bản hợp lý, có tính ổn định lâu dài và phù hợp với từng thời kỳ nhất định nhưng vẫn đảm bảo mức lãi suất thực dương có lợi cho người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng. Từ 01/3/2007, NHNN bắt đầu thực hiện bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng (TCTD), thống nhất thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong việc huy động tiền gửi của các TCTD theo Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN. Ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy động 12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại thời điểm đó, đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là 14%/năm. Việc NHNN chuyển từ cơ chế lãi suất trần và lãi suất sàn sang điều hành theo lãi suất cơ bản là một bước tiến lớn. Tuy nhiên về lâu dài NHNN cũng cần có những biện pháp hạ thấp lãi suất trong nền kinh tế để từng bước hòa nhập với mặt bằng lãi suất chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bởi với một mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho các doanh nghiệp khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, điều này làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cũng như hiệu quả kinh doanh và hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại trong nước. Về tỷ giá, để hạn chế sự biến động về tỷ giá, tạo sự an tâm cho khách hàng gửi tiền cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện và tập trung các vấn đề như hoàn thiện thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ, hình thành các quỹ ngoại tệ tập trung do NHNN trực tiếp đứng ra điều hành và quản lý nhằm dự trữ một lượng ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về ngoại hối, xác định tỷ giá sát với thực tế quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, NHNN cần phát huy vai trò quản lý đối với các ngân hàng thương mại, cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra để nâng cao hiệu quả cho vay và sử dụng nguồn tiền huy động được để làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên lành mạnh và hiệu quả, đồng thời NHNN cần yêu cầu ngân hàng thương mại công khai những đánh giá về hoạt động của ngân hàng để có định hướng cho người gửi tiền. 3.3.3 Kiến nghị đối với Chính phủ Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như các ngân hàng khác chỉ thực hiện được tốt nếu có các điều kiện kinh tê, xã hội và pháp lý cần thiết tạo nên một hệ thống các giải pháp hỗ trợ công tác huy động tiền gửi của ngân hàng. Đó chính là vai trò của Nhà nước, Chính phủ trong việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý và môi trường xã hội trong nền kinh tế thị trường. Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm rất nhiều yếu tố như tổng sản phẩm quốc dân, lạm phát, tốc độ tăng trưởng, thất nghiệp, ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán… bao trùm lên hoạt động kinh doanh của các chủ thể đặc biệt có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như hoạt động huy động tiền gửi. Trong thời gian qua, Chính phủ đã rất thành công trong việc điều hành các chính sách vĩ mô, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Vì vậy, để tiếp tục tạo môi trường vĩ mô ổn định, Chính phủ cần đưa ra các chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời tạo môi trường pháp lý lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý của nước ta đã có nhiều điều chỉnh sửa đổi khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tuy nhiên vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất và đồng bộ. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức đăng ký với Văn phòng Chính phủ để đưa vào chương trình xây dựng mới pháp luật với thời gian trình Quốc hội dự kiến Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng sẽ trình vào kỳ họp đầu năm 2008, Luật Bảo hiểm tiền gửi trình vào năm 2009 và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng vào năm 2010. Các văn bản pháp luật này cần nhanh chóng xúc tiến triển khai để tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng theo hướng minh bạch, hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hơn nữa, việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ rõ ràng còn tạo niềm tin với công chúng, có tác động trực tiếp đến việc tiết kiệm của người dân, khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng hạn chế giữ tiền mặt, từ đó thay đổi thói quen giữ tiền tiết kiệm ở nhà. Việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường pháp luật là cơ sở để Nhà nước thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội trong việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Khi thu nhập của dân chúng được cải thiện, thói quen giữ tiền thay đổi sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút tiền gửi từ dân chúng vào ngân hàng trở nên dễ dàng hơn. KẾT LUẬN Huy động tiền gửi không phải là hoạt động mới ở các ngân hàng, nhưng đây là hoạt động quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Chính vì vậy, tăng cường huy động tiền gửi sẽ quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng hiện nay đã và đang tìm ra nhiều biện pháp để tăng cường huy động tiền gửi sao cho khối lượng tiền huy động được lớn, chất lượng cao và chi phí thấp. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác huy động tiền gửi tại ngân hàng. Trong thời gian này em cũng đã học hỏi và trang bị cho mình thêm nhiều kiến thức từ môi trường thực tế mà em được tiếp xúc. Qua đó, em đã hoàn thành đề tài “Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Tuy nhiên, do thực tế kinh doanh phong phú, đa dạng và hạn chế về thời gian hơn nữa khả năng có hạn, nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót về mặt nội dung cũng như về hình thức, em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Minh Huệ, các anh chị tại phòng Kế hoạch nguồn vốn, Chi nhánh Hà Thành đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thực hiện đề tài thực tập tốt nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Thị Thu Hà (2007), “Giáo trình Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Frederic S.Mishkin (2005), “Giáo trình tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân. 3. Lưu Thị Hương, Vũ Duy Hào (2007), “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân. 4. Luật các tổ chức tín dụng (1997). 5. Báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của Chi nhánh Hà Thành. 6. Báo cáo thường niên năm 2007 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 7. Tạp chí Đầu tư – Phát triển, tháng 8, năm 2008. 8. Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN. 9. Một số tài liệu tham khảo khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7905.doc
Tài liệu liên quan