Tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank)

LỜI MỞ ĐẦU Năm 2008 đang dần khép lại với biết bao sự kiện, diễn biến phức tạp và khó lường của nền kinh tế thế giới theo chiều hướng bất ổn rõ nét: Từ cuộc khủng hoảng thị trường nhà đất của Mỹ lan rộng sang khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu, suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, Anh và nhiều nước thuộc khu vực Châu Âu… Kinh tế thế giới chuyển từ xu hướng suy thoái kinh tế gắn lạm phát cao sang xu hướng thiểu phát và giảm phát đang là nỗi lo của cá

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quốc gia hiện nay. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại đạt mức kỷ lục, thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Để có thể giữ ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu trong điều kiện kinh tế suy thoái thì một nguồn lực có ý nghĩa quyết định không thể thiếu được, đó chính là vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Trước tình hình đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam, với vai trò là huyết mạch cho các DNVN trong toàn bộ quá trình phát triển, từ khâu khởi sự, đi vào hoạt động, mở rộng sản xuất kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế … phải đối mặt với những khó khăn thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới. Một câu hỏi đang được đặt ra cho thực tiễn hiện nay tại các NHTM Việt Nam nói chung và NH TMCP Nhà Hà Nội nói riêng làm thế nào để tăng cường huy động vốn, đặc biệt là huy động tiền gửi khách hàng – một nguồn huy động chiếm tỷ trọng lớn, là cơ sở đáp ứng nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh doanh, cho nhu cầu mở rộng triển khai các dịch vụ mới và áp dụng công nghệ hiện đại hóa NH. Xuất phát từ những lý do trên cùng với khoảng thời gian thực tế tại NH TMCP Nhà Hà Nội, được tiếp cận và tìm hiểu nhu cầu, thực trạng về huy động tiền gửi khách hàng tại đây, em nhận thấy quy mô huy động tiền gửi khách hàng còn chưa tương xứng với tiềm lực của ngân hàng. Do đó, em lựa chọn đề tài “Tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi khách hàng của NHTM Chương 2 : Thực trạng huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà Hà Nội Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà HN Phạm vi của đề tài là nghiên cứu hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong khoảng từ 3 năm trở lại đây. Dựa vào cơ sở lý thuyết cũng như tình hình thực tiễn, bài viết sẽ đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của ngân hàng. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm NHTM Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm trung gian trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều, góp phần kích thích sản xuất. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng đươc phát huy, đồng thời các nhu cầu về tiền tệ cũng bắt đầu nảy sinh và ngày càng trở nên đa dạng, chính điều này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của một loại hình trung gian tài chính chuyên kinh doanh về tiền tệ, đó là các ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một trong những loại hình NH trung gian lâu đời nhất. Sự ra đời của NHTM là kết quả tất yếu khách quan của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa và phân công lao động xã hội. NHTM là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế: “Là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” [Peter Rose (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính]. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các NH hầu như là giống nhau song quan niệm về NH lại không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. Sở dĩ có tình trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ NH lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. Theo quan điểm của các nhà kinh tế Mỹ thì “NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính”; Ở Pháp, theo điều 1 Luật Ngân hàng Pháp 1941 quy định: “NHTM được hiểu là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính” ; Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 1997 thì NH được định nghĩa như sau: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. “Hoạt động NH là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ NH với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.” à Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại về cơ bản đều phản ánh hoạt động của NHTM là kinh doanh tiền tệ - tín dụng, dịch vụ NH. Có thể hiểu tổng quát: NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của NH để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế. [Lê Văn Tư (2005), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính] 1.1.2. Chức năng của NHTM NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh dịch vụ tiền tệ. NHTM không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vai trò quan trọng của NHTM trong nền kinh tế được thể hiện qua các chức năng cơ bản của nó như trung gian tài chính, trung gian thanh toán, tạo phương tiện thanh toán. Trung gian tài chính: Chức năng trung gian tài chính của NH có thể thấy rõ qua sơ đồ luân chuyển vốn sau: Cho vay Đầu tư Gửi tiền Cá nhân và DN Cá nhân và DN Ngân Hàng TM Ủy thác đầu tư Sơ đồ 1.1: Luân chuyển vốn trong nền kinh tế Nguồn: www.saga.vn NH là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: một là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ cần bổ sung vốn; hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Khi thực hiện chức năng trung gian tài chính, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn, vì vậy giải quyết được mâu thuẫn tín dụng trực tiếp, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia, bao gồm: người gửi tiền, NH, người đi vay, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường Đây được coi là chức năng quan trọng nhất của NH thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của NH, đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng khác. Trung gian thanh toán: Với chức năng này, NHTM đóng vai trò là “người thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi NH là người giữ tài khoản của họ và thực hiện các lệnh thu chi của khách hàng. K. Maxr đã viết: "Công việc của người thủ quỹ chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán. Khi NH xuất hiện thì chức năng này được chuyển giao sang NH. Tuy nhiên, khác với nghề kinh doanh tiền tệ dưới hình thức ban đầu giản đơn và thuần tuý của nó - nghĩa là tách khỏi chế độ tín dụng - trong NH, thì chức năng trung gian tín dụng gắn bó một cách chặt chẽ với trung gian thanh toán. NH dùng số tiền của nhà tư bản này để cho vay". Thật vậy, chức năng này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng. Việc mở tài khoản của khách hàng, nhận tiền gửi và thanh toán hộ khách hàng đã tạo ra cơ sở để NH có thêm nguồn vốn để mở rộng cho vay. Đồng thời, thông qua việc nhận tiền gửi, NH đã mở cho khách hàng tài khoản để theo dõi các khoản thu chi, đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua NH. Chức năng này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với nhau, làm giảm đi đáng kể những chi phí có liên quan đến lưu thông tiền mặt đối với từng doanh nghiệp cũng như đối với toàn xã hội. Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho NH thông qua việc thu lệ phí thanh toán, tăng nguồn vốn cho vay của NH thể hiện trên số dư Có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Tạo phương tiện thanh toán: Khi hệ thống NH phân thành hai cấp thì NHNN là NH phát hành còn NHTM thực hiện kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Với chức năng là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHNN đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHNN phát hành qua hệ thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Như vậy, quá trình tạo tiền chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cả hệ thống NHTM chứ bản thân một NH không thể tạo ra được. Tóm lại, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán là cơ sở để NHTM thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, NH sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phân của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ. Nếu NH chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, NH vẫn chưa tạo tiền. Chỉ đến khi thực hiện cho vay, NH mới bắt đầu tạo tiền. Đây là một phát minh lớn trong hoạt động NH. Có thể thấy, các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng còn lại. Đồng thời, khi NH thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM Vai trò to lớn của NH đối với sự phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ chính đặc trưng của hoạt động NH. NHTM giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích lợi nhuận song lại ở lĩnh vực kinh doanh đặc biệt: kinh doanh tiền tệ, một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm trong nền kinh tế và có tác động tới mọi hoạt động khác. Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các NH không ngừng tăng cường mở rộng các danh mục các sản phẩm NH nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta có thể xắp xếp các hoạt động đó vào một trong ba nhóm sau: - Hoạt động huy động vốn - Hoạt động sử dụng vốn - Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính Ba hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau và có vai trò quan trọng trong việc quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của NH. Hoạt động huy động vốn  Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM tạo nên sự khác biệt so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực phi tài chính là hoạt động huy động vốn, một nghiệp vụ kinh doanh hết sức quan trọng của NHTM. NHTM sử dụng uy tín và điều kiện sẵn có của mình để tiến hành huy động vốn. Hoạt động này tạo nguồn vốn cho NHTM, vì thế đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của NH. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn lợi của NH được tăng lên mà còn tạo cho NH uy tín ngày càng cao. Qua đó NH có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của NH. Kết cấu nguồn vốn bao gồm: Vốn tự có, tiền gửi, tiền vay và các nguồn vốn khác. Hoạt động sử dụng vốn Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ này được thể hiện thông qua nhiều nghiệp vụ cụ thể như: cho vay, đầu tư, hoạt động ngân quỹ...Trong đó, cho vay là nghiệp vụ cơ bản nhất trong sử dụng và khai thác nguồn vốn của NHTM. * Nghiệp vụ cho vay: Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh lời cao cho NH. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất. * Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường... với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh. * Nghiệp vụ ngân quĩ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của NH nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do NHNN đề ra. Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính Là nghiệp vụ của NH thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Các hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho NH. Nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ này càng mở rộng, bao gồm: - NH tiến hành chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ khách hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng... - NH đóng vai trò làm trung gian trong việc mua bán hộ cho khách hàng. - NH làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty. à Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ, NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết của hệ thống NH trong phát triển nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy của nền kinh tế. 1.2. Hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của NHTM 1.2.1. Khái niệm và vai trò của tiền gửi khách hàng đối với hoạt động của NHTM 1.2.1.1. Khái niệm và kết cấu nguồn vốn của NHTM NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ đạo của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn. Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Vốn của các NHTM phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào NH với những mục đích khác nhau. NH đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các NHTM. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM. Kết cấu nguồn vốn NHTM bao gồm : Vốn tự có, vốn huy động và vốn khác. * Vốn tự có là nguồn lực tự có mà chủ NH sở hữu và sử dụng vào mục đích kinh doanh theo luật định. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ NH, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn tự có tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM song nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát triển của một NH. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách hàng, góp phần duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp NH gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để tính toán các hệ số đảm bảo an toàn và các chỉ tiêu tài chính trong hoạt động kinh doanh NH. Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân NH mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời góp phần vào nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường. à Như vậy, vốn tự có là nguồn vốn ổn định, NH sử dụng một cách chủ động. Do đó vấn đề đặt ra là NH phải bảo toàn và không ngừng tăng vốn tự có của mình theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động kinh doanh theo đúng chính sách, chế độ, đồng thời phải sử dụng vào các mục đích đã định. * Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, NH chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của NH. Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này. - Vốn huy động từ tiền gửi: Khi một NH bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó NH huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và dân cư. Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của NH, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các NH. Vốn huy động từ tiền gửi bao gồm: tiền gửi khách hàng và tiền gửi khác (tiền gửi của các tổ chức tín dụng, tiền gửi của kho bạc Nhà nước, tiền gửi của các đoàn thể xã hội …) - Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá: Trong hình thức này NH chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu để bổ sung nguồn vốn kinh doanh của NH. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những NH có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn này còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của NH. - Vốn đi vay từ các NH khác: Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng cách vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ và NHNN dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Thực tế cho thấy, chi phí của vốn đi vay thường cao hơn chi phí của vốn huy động tại chỗ cho nên nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH. Tuy nhiên, tính chủ động của vốn đi vay lại cao hơn vốn huy động tại chỗ. * Vốn khác: Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên NHTM còn có các nguồn vốn khác cũng không kém phần quan trọng như: vốn trong thanh toán, nguồn vốn uỷ thác đầu tư...NHTM có thể sử dụng các nguồn vốn này để kinh doanh trong khoảng thời gian và điều kiện nhất định. à Tóm lại, NHTM có rất nhiều biện pháp nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn trong nền kinh tế, đó là: huy động các khoản tiền gửi; huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá; huy động từ việc đi vay các NH khác. Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHNN. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguốn vốn này thì không những nguồn lợi của NH được tăng lên mà còn tạo cho NH uy tín ngày càng cao. Qua đó NH có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của NH. 1.2.1.2. Vai trò của tiền gửi khách hàng đối với hoạt động kinh doanh của NH Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với NH là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ” nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NH lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Nói cách khác, nguồn vốn mà NH huy động được nhiều hay ít quyết định đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động cổ điển và mang tính đặc thù riêng có của NHTM. Đây cũng là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tín dụng phi NH. Quy mô của tiền gửi là rất lớn so với các nguồn vốn khác, thông thường nó chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng của các NH. Là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHTM vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, là cơ sở để NH tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà NH phải làm là huy động vốn, cụ thể là huy động tiền gửi khách hàng. Vốn huy động từ tiền gửi sẽ cho phép NH cho vay, đầu tư... để thu lợi nhuận. Đồng thời, nguồn tiền này sẽ giúp NH chủ động trong kinh doanh, tránh hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán... Có thể nói, không có nguồn tiền gửi khách hàng, NHTM sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Nghiệp vụ huy động tiền gửi khách hàng góp phần giải quyết “đầu vào” của NH. Quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NH Ngoài vai trò là cơ sở để NH tổ chức các hoạt động kinh doanh, nguồn vốn từ huy động tiền gửi khách hàng còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Tiền gửi khách hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để NH tiến hành các hoạt động kinh doanh do đó NH nào có nguồn tiền gửi huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng. Thông thường, nếu so với các NH lớn thì NH nhỏ có khoản mục đầu tư cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi cho vay của các NH này cũng nhỏ hơn. Trong khi, các NH lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và quốc tế, thì các NH nhỏ bị giới hạn về phạm vi hoạt động hẹp, mà chủ yếu trong cộng đồng. Thêm vào đó, do khả năng hạn hẹp nên các NH nhỏ không phản ứng nhạy bén với sự biến động của lãi suất, giảm khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Quyết định năng lực cạnh tranh của NH Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế, một nguồn tiền gửi huy động dồi dào sẽ tạo cho NH điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho NH. Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của NH là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Với tiềm năng vốn lớn từ hoạt động huy động tiền gửi, NH có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho NH đồng thời tăng sức cạnh tranh của NH trên thị trường. Mở rộng cơ sở khách hàng Các NH thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ yếu dựa vào nguồn tiền gửi huy động vì đây là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NH, còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết. Vì vậy, khả năng huy động tiền gửi tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với NH trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của NH sẽ tăng lên nhanh chóng và NH sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động tiền gửi NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, NHTM có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động tiền gửi để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. à Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các NH luôn tìm cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người gửi tiền cho đến việc sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị NH cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa NH đến thành công. 1.2.2. Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM Đây là hình thức huy động vốn mà NH huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đối với hầu hết các NH, tiền gửi luôn là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NH . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các NH đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng. Tùy thuộc vào tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý, người ta có thể phân loại tiền gửi thành nhiều hình thức khác nhau. Phân loại theo thời hạn Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để NH xây dựng chiến lược dự trữ phù hợp. Theo tiêu thức này, tiền gửi bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. - Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, người gửi tiền có quyền rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Vì vậy, đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành. Tiền gửi không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và NH khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Do tính chất không ổn định của nó nên NH chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và NH muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong các NH. - Tiền gửi có kỳ hạn: Ngược với tiền gửi không kỳ hạn, đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và NH về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc trên thế nữa. Do có sự xác định rõ ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự ổn định cao, NH có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý do này mà lãi suất của các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi tiền vào NH là tiền lãi, do đó thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và ngược lại. Phân loại theo đối tượng -Tiền gửi của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời nhàn rỗi.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH , họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các NH đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn … Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng, và nguồn huy động từ dân cư này thường khá ổn định. - Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào NH để hưởng tiện ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên NH luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải vì sao đây là nguồn huy động chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, có chi phí thấp và được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp. Phân loại theo mục đích - Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào NH, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nh._.ập bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu trong tương lai. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà cửa, phương tiện. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn . - Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào NH để nhờ NH giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được NH thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Lãi suất của khoản tiền này rất thấp , thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của NH với mức phí thấp. Mục đích của người gửi tiền không phải là để hưởng thu nhập mà là hưởng các dịch vụ của NH. Thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời NH có thể sử dụng vào kinh doanh. - Tiền gửi “lai” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch): Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu NH thanh toán hộ, vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên, lãi suất của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi tính cố định của khoản gửi , NH có thể không sử dụng được hoặc sử dụng rất ít số vốn huy động này để cho vay hoặc đầu tư. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi - Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các NH, nó phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng tiền gửi. - Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì NH còn nhận tiền gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP, DEM,... những khoản ngoại tệ này cũng rất quan trọng cho hoạt động NH như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tê,... à Để dễ hình dung và nắm rõ hơn, có thể theo dõi các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM qua sơ đồ trang bên: Theo đối tượng gửi Theo thời hạn gửi Theo loại tiền gửi Theo mục đích gửi Nội tệ Ngoại tệ Thanh toán Tiền gửi lai Tiết kiệm Dân cư DN và TCXH Có kỳ hạn Không kỳ hạn Hoạt động huy động TGKH của NHTM Sơ đồ 1.2: Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM Nguồn : www.saga.vn 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng huy động tiền gửi khách hàng của NHTM 1.2.3.1. Quy mô, tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi Quy mô nguồn tiền gửi được phản ánh qua khối lượng tiền gửi huy động được. Trong tổng nguồn vốn của NH thì quy mô nguồn huy động từ tiền gửi là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Công tác huy động tiền gửi không thể có hiệu quả khi mà nguồn tiền huy động lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của NH hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh. Quy mô tiền gửi lớn sẽ tạo điều kiện cho NH mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, quy mô tiền gửi thấp sẽ hạn chế khả năng tiếp cận của NHvới các khách hàng có nhu cầu vay lớn, hạn chế khả năng mở rộng dịch vụ và quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, có thể sử dụng chỉ tiêu Tổng tiền gửi/tổng vốn huy động để đánh giá tỷ trọng của nguồn tiền gửi trong tổng nguồn vốn huy động được. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà NH cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho NH khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu NH không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào. Tốc độ tăng trưởng lượng tiền gửi huy động được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô tiền gửi hiện tại so với quy mô tiền gửi trong kì trước chia cho quy mô tiền gửi trong kì trước. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%), trong đó Y là qui mô tiền gửi huy động trong năm trước của NH và y là tốc độ tăng trưởng. Nguồn tiền gửi tăng đều qua các năm khi dY > 0, nghĩa là đạt mục tiêu về nguồn huy động đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn tăng trưởng ổn định. 1.2.3.2. Cơ cấu nguồn tiền gửi Đối với NH, do mỗi nguồn tiền gửi có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu tiền gửi biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một số chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn huy động tiền gửi là: Tiền gửi không kỳ hạn/ Tổng tiền gửi và Tiền gửi có kỳ hạn/ Tổng tiền gửi: phản ánh tỷ trọng nguồn tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn trong tổng tiền gửi. Nếu tỷ trọng nguồn tiền gửi có kỳ hạn hạn có số lượng lớn chứng tỏ sự ổn định về thời gian của nguồn tiền gửi là cao. Tiền gửi dân cư/Tổng tiền gửi và Tiền gửi của các doanh nghiệp tổ chức kinh tế xã hội/Tổng tiền gửi: phản ánh tỷ trọng nguồn tiền gửi của dân cư và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội trong tổng tiền gửi. Nội tệ/Tổng tiền gửi và Ngoại tệ/Tổng tiền gửi: phản ánh tỷ trọng tiền gửi nội tệ và ngoại tệ trong tổng tiền gửi. Cơ cấu nguồn tiền gửi huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của NH mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi NH phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường để xây dựng cơ cấu hợp lý. 1.2.3.3. Chi phí huy động tiền gửi Có hai lý do chủ yếu mà NHquan tâm khi xác định chi phí huy động tiền gửi: Thứ nhất, vì nguồn tiền gửi là nguồn tiền chủ yếu mà NHsử dụng để kinh doanh, do đó tính toán tương đối chính xác chi phí huy động tiền gửi là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà NHcần thu được từ các tài sản có sinh lời. Thứ hai, do đặc điểm loại hình nguồn tiền gửi mà NHhuy động được và việc sử dụng nguồn tiền gửi này ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Do đó, phương pháp xác định chi phí huy động tiền gửi rất hữu ích cho NHđể xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu quả, bao gồm chính sách huy động tiền gửi. Chi phí huy động tiền gửi bao gồm: lãi suất huy động và các chi phí khác. Lãi suất huy động: Đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, NH phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên , đồng thời phải đảm bảo lợi ích của NH. Vì vậy trong huy động tiền gửi, mỗi NH đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường. Chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân gia quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC. Mặt khác, cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hoá lãi suất làm tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà NH đưa ra. Nếu có chính sách lãi suất phù hợp, hiệu quả, NH sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch về nguồn vốn. Chi phí khác: Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động tiền gửi còn có các chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động , chi phí in ấn phát hành , chi phí cơ sở vật chất , chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho NH. Ngoài các chỉ tiêu chính trên , chất lượng công tác huy động tiền gửi còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu : Mức độ hoạt động của tiền gửi huy động: Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn. Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt, điều này thể hiện nguồn vốn huy động được sử dụng tối đa. Mức độ thuận tiện khách hàng : Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền , rút tiền , các dịch vụ kèm theo của NH …nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng. Thời gian để huy động một số lượng tiền gửi nhất định. Một số chỉ tiêu khác như : số lượng tiền gửi bị rút ra trước thời hạn , kỳ hạn thực tế của nguồn tiền gửi… 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động tiền gửi khách hàng của NHTM 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Các hình thức huy động tiền gửi mà ngân hàng đang sử dụng Xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu, tâm lý trong dân cư mà các hình thức đầu tư của người dân, doanh nghiệp là khác nhau. Để có thể tiếp cận được nguồn tiền gửi của khách hàng, các NH cần phải đáp ứng được nhu cầu của người gửi tiền, giúp cho họ tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất. Do đó, khối lượng vốn mà NH huy động được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động tiền gửi mà NH áp dụng. Cụ thể, khi các NHTM đưa ra các hình thức huy động tiền gửi ngày càng đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống mạng lưới hoạt động và nâng cao chất lượng các dịch vụ, NH sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với NH, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho NH trong việc huy động tiền gửi. Ngược lại khi các hình thức huy động của NH chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống mạng lưới còn ít chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch với NH, thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới khả năng huy động tiền gửi của NH . 1.3.1.2. Lãi suất huy động Lãi suất huy động là một trong những mối quan tâm của hầu hết các cá nhân, tổ chức và dân cư muốn gửi tiền vào NH. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc vào lãi suất cao mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện thanh toán, uy tín, địa điểm ... của NH nhưng với mức lãi suất linh hoạt, hợp lý thì luôn có tác dụng kích thích người gửi tiền, đặc biệt là các đối tượng gửi tiền với mục đích chủ yếu là hưởng lãi như tiền gửi tiết kiệm. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh tế, lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư hơn. Như vậy, lãi suất là nhân tố ảnh hưởng vì nó quyết định NH huy động được bao nhiêu nhiều hay ít, đặc biệt trong bối cảnh các NH chủ yếu cạnh tranh bằng lãi suất. 1.3.1.3. Chất lượng dịch vụ NH cung cấp Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp NH cạnh trạnh phi lãi suất vì khách hàng mà NH phục vụ hiện nay không chỉ quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình dịch vụ mà NH cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, NH nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn. Chất lượng dịch vụ thể hiện ở trình độ công nghệ của NH, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên NH. Với một NH có cơ sở vật chất càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một NH có trình độ công nghệ NH cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tiền thì NH sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ NH là điều kiện quan trọng để thực hiện tốt các nghiệp vụ NH bởi họ chính là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Cán bộ NH chuyên nghiệp, nhiệt tình chu đáo, có để lại ấn tượng tốt đẹp với khách hàng thì hình ảnh của NH trong mắt khách hàng sẽ tốt hơn rất nhiều. Nhưng nếu họ không được đào tạo bài bản, được huấn luyện các kỹ năng, thái độ phục vụ không tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới công tác huy động tiền gửi khách hàng. 1.3.1.4. Uy tín của Ngân hàng Uy tín của NH cũng có ảnh hưởng nhất định đối với lượng tiền gửi huy động. Có thể coi đây chính là tài sản vô hình của NH, đặc biệt trong công tác huy động tiền gửi vì NH đã tạo được một hình ảnh riêng của mình trong lòng khách hàng. Một NH lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi thế hơn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho NH có khả năng ổn định khối lượng tiền gửi huy động và tiết kiệm chi phí huy động, từ đó, NH có thể đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn. Thậm chí trong điều kiện lãi suất gửi tiền tại NH uy tín có thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa chọn NH đó để gửi mà không tìm những nơi trả lãi hấp dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt đối an toàn. 1.3.1.5. Chính sách truyền thông Marketing Truyền thông Marketing là việc NH sử dụng các công cụ truyền tin để cung cấp thông tin, hình ảnh, dịch vụ NH nhằm xây dựng mối thông tin hai chiều giữa NH và khách hàng nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Một NH với quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp chắc chắn sẽ tạo ra uy tín, sự tin tưởng đối với khách hàng đến gửi tiền, hoạt động quảng bá sẽ dễ dàng hơn, tiếp xúc với khách hàng sẽ dễ dàng hơn. Mỗi NH tùy theo chiến lược phát triển sẽ có chính sách truyền thông Marketing khác nhau, sử dụng các công cụ khác nhau của riêng mình: quảng cáo, khuyến mại, quan hệ công chúng, … Mỗi chính sách sẽ mang lại những hiệu quả khác nhau, nhưng nhìn chung đều hướng tới mục tiêu quảng bá hình ảnh ngân hàng. Chính sách Marketing thành công sẽ là cầu nối giữa NH với khách hàng, góp phần thu hút được lượng khách gửi tiền đông đảo, chi phí thấp. 1.3.1.6. Mối quan hệ giữa huy động và sử dụng tiền gửi khách hàng Hoạt động của NH gồm hai khâu cơ bản là huy động và sử dụng vốn. Đây là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau, giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn. Hoạt động huy động tiền gửi làm nhiệm vụ khơi tăng các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trong khi hoạt động nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện sử dụng nguồn tiền đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.... để đem lại khả năng sinh lời, thu lợi nhuận về cho NH. Do vậy, nếu sử dụng vốn không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc thất thoát vốn: một phần sẽ làm giảm lợi nhuận của NHtrong khi chi phí huy động không thay đổi, mặt khác dẫn đến giảm sút lòng tin của dân chúng vào NH. Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, kết quả là quy mô huy động tiền gửi bị thu hẹp lại. Mặt khác, nếu NH sử dụng vốn có hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo tiền đề cho nguồn tiền gửi NH huy động ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. 1.3.2. Nhân tố khách quan 1.3.2.1. Chu kỳ phát triển kinh tế Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của của NHTM nói chung và hoạt động huy động tiền gửi nói riêng. Các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm phát … có tác động trực tiếp tới hoạt động huy động và sử dụng vốn của NHTM. Cụ thể, trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư được đảm bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các NH cũng ổn định, lượng tiền gửi huy động được của NH ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của NH cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu nền kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân chúng bị giảm sút. Khi đó khả năng huy động tiền gửi của NH không những bị giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào NH cũng có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy NH sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động tiền gửi, quản lý dự trữ và củng cố niềm tin cho khách hàng. 1.3.2.2. Môi trường chính trị pháp luật Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của NH với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động tiền gửi khách hàng của NH. Như chúng ta đã biết, hoạt động của NH có mức độ ảnh hưởng, tác động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể, việc huy động tiền gửi và sử dụng vốn của NH đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát … Chính vì lẽ đó, hoạt động của NH phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là NH phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều luật định của chính phủ, NHNN: và hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức… Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động tiền gửi bị thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của hoạt động huy động. Hành lang pháp lý tốt có thể tạo đà mở rộng thông thoáng hơn trên con đường phát triển của NH nhưng ngược lại, nó cũng có thể kìm hãm sự phát triển một cách đáng kể nếu không có sự quản lý giám sát một cách phù hợp, đồng bộ giữa các ban ngành liên quan. 1.3.2.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh Hiện nay, hoạt động kinh doanh NH ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình NH mới và các tổ chức tài chính phi NH. Nhiều tổ chức tài chính phi NH có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn , thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn. Do đó, cạnh tranh có xu hướng gia tăng mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa NHTM với các tổ chức tài chính phi NH. Thêm vào đó, xu hướng cạnh tranh trong ngành NH càng gia tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tài chính tiền tệ , đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ… dẫn đến nguy cơ thu hẹp thị phần huy động tiền gửi của NH trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh với các đối thủ, để có thể tồn tại, NH phải định ra chiến lược kinh doanh phù hợp, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm tốt công tác marketing. Như vậy, cạnh tranh vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt động NH trong đó có hoạt động huy động tiền gửi khách hàng. 1.3.2.4. Yếu tố thuộc về văn hóa xã hội, tâm lý khách hàng Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán, tâm lý, thói quen trong việc sử dụng tiền của dân cư. Và những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền gửi của NH . Ở những vùng mà người dân quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động tiền gửi của NH sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội , thói quen tích luỹ ảnh hưởng đến quyết định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và tiết kiệm, giữ tiền ở nhà, gửi tiền ở NH hay đầu tư vào chứng khoán hoặc bất động sản … Thêm vào đó, sự biến động vào ra của các nguồn tiền cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của mọi NH. Ngoài ra, các yếu tố như thu nhập, thời vụ chi tiêu, mức độ thường xuyên sử dụng các dịch vụ NH cũng có tác động nhất định đến hoạt động huy động tiền gửi của NH: Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà NH có thể huy động trong tương lai. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền; Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến; Mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ NH càng cao, NH càng có điều kiện mở rộng việc huy động tiền gửi. à Tóm lại, huy động tiền gửi khách hàng của NHTM là mối quan hệ kinh tế giữa ngân hàng và các khách hàng bao gồm dân cư và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động này được thực hiện trong môi trường kinh tế xã hội nên chịu sự chi phối ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố : cả nhân tố bên trong NH lẫn các nhân tố bên ngoài NH. Việc nắm bắt và phân tích kỹ các nhân tố này cũng như ảnh hưởng của chúng lên hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của NHTM sẽ tăng tính chủ động cho các NH trong việc tăng cường huy động tiền gửi khách hàng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI 2.1. Khái quát về NH TMCP Nhà Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Giai đoạn 1986 – 1990 đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống NH là quá trình ra đời hàng loạt các NH chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm NHTM quốc doanh, cổ phần, NH liên doanh,… NH phát triển Nhà Thành phố Hà Nội, tiền thân của NH TMCP Nhà Hà Nội ngày nay là một trong những NH cổ phần đầu tiên đó. Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội (HABUBANK) được thành lập từ năm 1989 với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng, NH được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trong 99 năm. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, NHTM cổ phần nhà Hà Nội đã xây dựng cho mình 5 mục tiêu chiến lược: 1. Tối đa hoá giá trị đầu tư của các cổ đông; giữ vững tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và tình hình tài chính lành mạnh. 2. Không ngừng nâng cao động lực làm việc và năng lực cán bộ; HABUBANK phải luôn dẫn đầu ngành NH trong việc sáng tạo, phát triển chính sách đãi ngộ và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho cán bộ của mình. 3. Duy trì sự hài lòng, trung thành và gắn bó của khách hàng với HABUBANK, xây dựng HABUBANK thành một trong hai NH Việt Nam có chất lượng dịch vụ tốt nhất do các doanh nghiệp cầu tiến, hộ gia đình và cá nhân lựa chọn. 4. Phát triển HABUBANK thành một trong ba NH được tín nhiệm nhất Việt Nam về: quản lý tốt nhất, môi trường làm việc tốt nhất, văn hoá doanh nghiệp chú trọng khách hàng, thúc đẩy hợp tác và sáng tạo nhất, linh hoạt nhất khi môi trường kinh doanh thay đổi. 5. Góp phần tích cực làm vững chắc thị trường tài chính trong nước. Các mốc lịch sử và thành tựu Là một trong những NH cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập thí điểm trong thời kỳ đổi mới của đất nước, ngay từ những ngày đầu thành lập, HABUBANK đã mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế và nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình từ WB, tổ chức ESCAP của UNDP. Với sự ra đời của của Pháp Lệnh Ngân hàng 1992, HABUBANK đã từng bước mở rộng, đa dạng hoá hoạt động và cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một NHTM: huy động tiền gửi và tiết kiệm từ dân cư và tổ chức, cho vay khách hàng, cung cấp các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh trong và ngoài nước,... Sau 19 năm hoạt động HABUBANK đã mở rộng các lĩnh vực kinh doanh, trở thành NHTM cổ phần đa năng có truyền thống phát triển ổn định, an toàn và hiệu quả, hướng tới mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính vững mạnh. Đến nay, HABUBANK đã thành công trong việc xây dựng cho NH một cấu trúc tài chính lành mạnh và an toàn với mức thặng dư vốn đạt trên 40% vốn điều lệ, các chỉ số an toàn vốn (CAR) đạt trên chuẩn quốc tế, các chỉ số tài chính (ROA, ROE) duy trì liên tục nhiều năm ở mức cao trong thị trường tài chính Việt Nam và Quốc tế. Các mốc phát triển quan trọng của Ngân hàng qua các thời kỳ bao gồm: Ngày 2 tháng 1 năm 1989, HABUBANK khai trương hoạt động tại số 125 Bà Triệu, Hà Nội với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng và tên gọi là "NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ HÀ NỘI". Năm 1992, với sự ra đời của Pháp lệnh ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng, HABUBANK đã vượt qua sự hữu hạn từ lĩnh vực kinh doanh "ngân hàng nhà" để trở thành NHTM đa năng, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đa dạng cho khách hàng: Thêm vào đó, cơ cấu cổ đông cũng được mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân tham gia đầu tư đóng góp phát triển. Ngân hàng cũng cũng được đổi tên thành "NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI". Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh doanh của HABUBANK với việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các cá nhân và tổ chức tài chính khác bên cạnh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà. HABUBANK chính thức được phép cung cấp ịch vụ thanh toán Quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và tăng vốn điều lệ lên 24,396 tỷ đồng. Năm 2001, HABUBANK mua lại Ngân hàng TMCP Nông thôn Quảng Ninh và mở chi nhánh đầu tiên tại Quảng Ninh, khai trương Website HABUBANK tại địa chỉ www.habubank.com.vn với những thông tin cơ bản về sản phẩm dịch vụ, lãi suất¼ cung cấp cho khách hàng. Cũng trong năm, HABUBANK triển khai hệ thống Smartbank trong toàn hệ thống, là một trong những NH đầu tiên của Việt Nam thực hiện quản lý dữ liệu tập trung và nối mạng online toàn hệ thống; trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Viễn thông tài chính liên NH toàn cầu (SWIFT) . Năm 2002, HABUBANK bắt đầu triển khai đề án Nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro, hợp tác với dự án SBV - GTZ (Đức) nhằm đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro của Ngân hàng. Năm 2005, triển khai dịch vụ NH tự động. Thành lập Trung tâm thẻ HABUBANK, phát hành thẻ HABUBANK Vantage và trở thành viên chính thức trong liên minh thẻ Vietnam Bankcard. Năm 2006, HABUBANK tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng, thành lập và đưa vào hoạt động Công ty Chứng khoán HABUBANK. Đồng thời, triển khai dự án Nâng cấp hạ tầng dữ liệu thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành. Cùng năm này, HABUBANK được Tạp chí The Banker (Anh) trao tặng danh hiệu "Ngân hàng Việt Nam của năm". Năm 2007, HABUBANK tăng vốn điều lệ từ 1.000 lên 2.000 tỷ đồng, với tổng vốn chủ sở hữu đạt gần 3.200 tỷ đồng, HABUBANK trở thành NH cổ phần có cấu trúc tài chính tốt nhất trong hệ thống NH cổ phần Việt Nam. Đồng thời cũng hoàn thành việc lựa chọn Deutsche Bank là đối tác chiến lược nước ngoài. Năm 2008, tổng vốn điều lệ của HABUBANK đã đạt 2800 tỷ đồng. Hiện tại, số chi nhánh và phòng giao dịch của HABUBANK đạt 40 điểm trên toàn hệ thống. Tới nay, qua hơn 20 năm hoạt động, HABUBANK đã có số vốn điều lệ là 2.800 tỷ đồng với mạng lưới ngày càng mở rộng. Hiện tại HABUBANK có 40 điểm giao dịch, kinh doanh nhiều loại hình NH như dịch vụ NH doanh nghiệp (kể cả tài trợ thương mại quốc tế, ngoại hối , quản lý tiền khách hàng), dịch vụ NH cá nhân (kể cả huy động, cho vay tiêu dùng, mua nhà) và các hoạt động đầu tư. 9 năm liên tục HABUBANK được NH Nhà nước Việt Nam xếp loại A và được công nhận là NH phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức HABUBANK hiện có mô hình cơ cấu tổ chức ít tầng báo cáo nhằm giảm thiểu tính quan liêu trong hệ thống cũng như để nâng cao tính năng động của tổ chức. Đặc tính nổi bật của mô hình HABUBANK là các đơn vị kinh doanh được cơ cấu tập trung vào lợi nhuận, kiểm soát rủi ro và phân định trách nhiệm rõ ràng. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của HABUBANK bao gồm: Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của HABUBANK, quyết định các vấn đề thuộc về nhiệm vụ và quyền hạn được Luật pháp và điều lệ HABUBANK quy định. Chức năng chủ yếu của Đại hội đồng cổ đông là: - Quyết định phương hướng, nhiệm vụ của năm tài chính mới thông qua các báo cáo của HĐQT và Ban kiểm soát. - Quyết định việc tăng vốn điều lệ, vốn cổ phần và phát hành cổ phiếu mới. - Bầu thành viên HĐQT và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị: do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, là cơ quan quản trị NH, có toàn quyền nhân danh NH để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của NH. HĐQT có vai trò định hướng chiến lược kế hoạch hoạt động hàng năm, chỉ đạo và giám sát hoạt động của NH thông qua Ban kiểm soát. Ban kiểm soát: là những người thay mặt cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị và điều hành của NH. Chức năng chủ yếu là: - Kiểm soát các hoạt động kinh doanh, kiểm tra sổ sách kế toán, tài sản, báo cáo, quyết toán năm tài chính và kiến nghị khắc phục những sai phạm. - Báo cáo trước Đại hội đồng cổ đông sự kiện tài chính bất thường. - Báo cáo định kỳ tình hình kiểm soát cho HĐQT. Ban điều hành: điều hành và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh hàng ngày của NH, đồng thời trình HĐQT các báo cáo tình hình hoạt động tài chính và kết quả kinh doanh của NH. Văn phòng: Làm đầu mối giao dịch, tiếp nhận tổng hợp và xử lý thông tin quản lý và quan hệ giữa NH với NHNN và các cơ quan khác; Phụ trách công tác cổ đông, cổ phần, quản lý lưu trữ hồ sơ và các tư liệu phản ánh tình hình hoạt động của NH; Phụ trách công tác mua sắm, quản lý sử dụng trang thiết bị CSVC và thực hiện các công việc khác do Lãnh đạo NH giao. Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: là phòng nghiệp vụ có chức năng giúp GĐ kiểm tra giám sát các mặt hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhằm đảm bảo việc thực hiện theo đúng pháp luật của NN và cơ chế quản lý của ngành. Phòng công nghệ thông tin: chịu trách nhiệm về mảng máy tính, điện tử, phần mềm tin học của toàn hệ thống HABUBANK; Xây dựng trang web và một số phần mềm theo yêu cầu của Ban lãnh đạo. Phòng nguồn vốn ngoại hối và ngân quỹ: chịu trách nhiệm huy động, cân đối nguồn vốn nội – ngoại tệ cho NH; Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo các quy điịnh của NHNN VN và của HABUBANK; Tiếp nhận và quản lý nguồn tài trợ cho các dự án qua HABUBANK. Phòng tài chính kế toán: tiếp nhận chứng từ và tổ chức thực hiện việc hạch toán kế toán trong NH; cung cấp kịp thời chính xác các loại báo cáo tài chính, ké toán theo quy định của NHNN và yêu cầu quản lý điều hành của HĐQT, Ban điều hành, Ban kiểm soát; lưu trữ đảm bảo bí mật an toàn bộ hồ sơ tài sản, chứng từ kế toán và các hồ sơ khác có liên quan đến tài chính kế toán của NH. Phòng phát triển kinh doanh: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của hoạt động tín dụng; quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ h._.phải mất từ 10- 20 phút trong một lần gửi hoặc rút. Đối với quá trình cho vay thủ tục còn kéo dài trong nhiều ngày. Điều này sẽ làm giảm đáng kể lượng khách hàng đến với NH vì sợ thủ tục phức tạp, mất thời gian. Mặc dù các thủ tục này củaNH đều thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng NH cũng cần phải nghiên cứu biện pháp nhằm rút ngắn thời gian trong quá trình nhận tiền gửi hoặc cho vay của mình: chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm, nối mạng giữa các máy ở các phòng trong NH, nối mạng giữa các máy của phòng kế toán với máy của kế toán trưởng và thủ quỹ, qua đó có thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng. Mặt khác, không phải ai cũng am tường hết mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng, nhất là với những khách hàng do trình độ học vấn chưa cao và với những khách hàng mới lần đầu đến gửi tiền tại NH. Việc có bảng niêm yết đầy đủ, công khai các tiện ích, dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái dễ chịu và đơn giản trong thủ tục gửi tiền, hơn nữa sẽ giúp cho khách hàng tìm thấy được một cơ hội hấp dẫn để gửi tiền cho NH mà các NH khác không có được. Hiện đại hóa công nghệ NH: Trong hoạt động kinh doanh NH hiện nay, sự thành bại phụ thuộc rất lớn vào công nghệ NH . Sức mạnh nằm trong tay những NH đặc quyền về thông tin, có hệ thống thanh toán hiện đại… Công nghệ và trình độ quản lý bao gồm quản trị NH, quản trị rủi ro,… vẫn được coi là điểm yếu của các NH trong nước so với các NH nước ngoài. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi hầu hết các NH đã phải bỏ số tiền hàng triệu USD để đầu tư cho công nghệ thông tin và đào tạo nhân lực. Việc áp dụng công nghệ tin học đã trở nên khá phổ biến trong ngành NH, với nhiều loại máy hiện đại, có một đội ngũ cán bộ chuyên gia về máy tính đông đảo, tạo cơ hội sử dụng tối ưu nguồn vốn và huy động ngày càng nhiều nguồn. Để bắt kịp với nhịp độ đó, NH TMCP Nhà Hà Nội cần coi trọng củng cố và kiện toàn phương tiện giải quyết mọi nhu cầu thanh toán; từng bước chuyển từ hình thức bán tự động sang tự động hoàn toàn một số khâu thanh toán chủ yếu để nâng cao hiệu suất giao dịch, phục vụ nhanh và đúng khách hàng trong các khâu thanh toán bù trừ, vận hành thị trường liên NH bằng điện tử; tăng cường cung cấp dịch vụ thẻ điện tử (cung cấp dịch vụ NH tại nhà, lắp đặt máy rút tiền tự động tại các điểm giao dịch), thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ NH hiện có, chú trọng nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu được phục vụ ngày càng lớn, đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Một điểm cần khắc phục ngay là hệ thống ATM. NH có quá ít các điểm rút tiền tự động, mỗi lần rút là cả một sự chờ đợi. Hiện nay, khi việc trả lương cho công nhân viên qua hệ thống ATM phát triển, NH cần khắc phục chất lượng của hệ thống ATM, tránh sự chờ đợi và hết tiền trong lúc chờ đợi rút tiền. Thêm vào đó, cần tăng hơn nữa số lượng các máy ATM, tham gia liên minh ATM rộng rãi hơn. Như vậy, việc đầu tư hơn nữa các công nghệ mới hiện đại hơn để có thể thu hút được nhiều khách hàng sử dụng các dịch vụ của NH đặc biệt là dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng hiệu quả kinh doanh của khách hàng, qua đó nâng cao uy tín của NH. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện tốt sẽ thu hút các tổ chức kinh tế, các thành phần dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua NH. NH làm tốt công tác thanh toán sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng và mặt khác thu hút được ngày càng nhiều vốn để tiến hành cho vay phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế ngày càng có hiệu quả và tăng lợi nhuận cho NH. Nâng cao trình độ nhân viên NH: Một trong những yếu tố làm tăng tính cạnh tranh của NH chính là các nhân viên làm việc có chất lượng cao. Nó quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của NH. Đối với hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố không thể thiếu, quyết định nguồn vốn huy động cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Để có thể phát triển kinh doanh, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn, thì NH phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có tinh thần trách nhiệm, có nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp… Do vậy, NH cần phải xây dựng một chiến lược bắt đầu từ khâu tuyển dụng, sắp xếp và bố trí công tác đến việc đào tạo cán bộ, cử cán bộ đi học, tập huấn … nhằm nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công nhân viên nói chung và cán bộ làm công tác nguồn vốn nói riêng. Bước sang năm 2009, các hoạt động này cần phải được đẩy mạnh hơn nữa, cụ thể: Tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp, tổ chức cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với trình độ, được bố trí sử dụng đúng chuyên môn với phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức, kỷ luật lao động và có tâm huyết với nghề nhằm phát huy năng lực sở trường của từng cán bộ. Nghĩa là, cán bộ làm công tác huy động vốn phải có kiến thức về mặt nghiệp vụ như: phải được đào tạo về tin học, về thanh toán không dùng tiền mặt... cán bộ công nhân viên phải được phổ cập các kiến thức cơ bản về vốn, lãi suất, ngoại tệ...để đáp ứng các yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp. Từ đó, họ sẽ có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp được mọi thắc mắc của người gửi tiền, hướng dẫn họ làm đúng thủ tục nhằm tạo niềm tin nơi khách hàng. Chú trọng đổi mới phong cách phục vụ khách hàng: Hiện nay, hầu hết khách hàng đến với NH chủ yếu để giao dịch, nhưng cũng có trường hợp đến để tìm hiểu NH trước khi quyết định trở thành khách hàng của NH đó. Do đó, thái độ, cung cách phục vụ của nhân viên NH là rất quan trọng. Hơn ai hết, họ là bộ mặt, là hình ảnh của NH, do vậy, phải thực sự nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, tận tâm, biết lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, có trình độ chuyên môn vững vàng và có phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, tận tình, chu đáo...tạo ra sự đồng cảm và lòng tin của khách hàng đối với NH, làm cho khách hàng cảm thấy mình được coi trọng, thấy mình đang thực sự được là “thượng đế”, hãnh diện khi bước vào NH. Để từ đó, NH sẽ ngày càng thu hút được nhiều người đến gửi tiền và sử dụng các dịch vụ khác của NH, giúp NH nâng cao vị thế cạnh tranh và mở rộng thị phần. Trang bị kiến thức Marketting cho các nhân viên NH nhằm tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong NH trở thành một mắt xích trong việc thu thập và xử lý thông tin, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng. Đặc biệt là những cán bộ huy động vốn thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng thì việc trang bị kiến thức sao cho họ phải là những cán bộ Marketting tốt nhất, phải luôn biết tận dụng cơ hội để quảng cáo, giới thiệu về NH mình, để hình ảnh NH đến được và tạo ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng. Đẩy mạnh công tác tự đào tạo trong nội bộ NH, trong nội bộ phòng để các thành viên bổ trợ thêm kiến thức chuyên môn và của những bộ phận công việc liên quan để hỗ trợ nhau, nâng cao hiệu quả trong công việc. Bên cạnh đó, NH cũng phải có chế độ quan tâm, khuyến khích thích đáng bằng lợi ích và vật chất đối với cán bộ thực sự có thành tích trong hoạt động của NH nói chung và trong trong công tác huy động vốn nói riêng. à Giải pháp đào tạo cán bộ công nhân viên để có thể thực hiện được công việc của mình đối với NH TMCP Nhà Hà Nội nói riêng và hệ thống NH thương mại nói chung có ý nghĩa quan trọng trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn với các tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế. Mở rộng mạng lưới và tăng thêm thời gian giao dịch Trong giai đoạn vừa qua, NH Nhà nước (NHNN) liên tục cấp phép cho các NH thương mại mở thêm chi nhánh, có thể nói chưa có giai đoạn nào số lượng chi nhánh và phòng giao dịch được các NH mở nhiều như hiện nay. Trước đây, các NH thương mại nhà nước có mạng lưới áp đảo các NH cổ phần thì nay, điều này phần nào đã thay đổi. Lớn nhất trong khối cổ phần vẫn thuộc về NH TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) với số chi nhánh và phòng giao dịch gần đạt mức 260. Trong vòng 2 năm trở lại đây, hầu hết các NH cổ phần đã nâng tốc độ mở rộng mạng lưới khoảng 10 – 20 điểm giao dịch mới mỗi năm. Điều này có thể trông thấy ngay trên chính các đường phố đô thị lớn, bảng hiệu các NH đã mọc lên “san sát”, việc tìm tới NH đã thuận tiện hơn rất nhiều cho người dân. Trong bối cảnh các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước cùng hoạt động đan xen trên cùng một địa bàn như vậy, với số lượng chi nhánh và phòng giao dịch mới đạt con số 40 thì việc mở rộng mạng lưới giao dịch đối với HABUBANK là rất cần thiết. Thật vậy, nguồn vốn tiềm ẩn trong dân cư còn rất lớn, để khai thác được những nguồn vốn này thì mạng lưới huy động của NH phải được mở rộng, đảm bảo thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch,khách hàng có thể gửi tiền một nơi nhưng rút tiền ở nhiều nơi. Nền kinh tế càng phát triển, khối lượng công việc ngày càng tăng lên thì vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khách hàng có thể đến giao dịch với NH mà không mất nhiều thời gian. Với quỹ thời gian eo hẹp chưa chắc đã đủ cho họ hoàn thành công việc của mình chứ chưa nói đến việc bỏ ra thời gian để tới với NH, thậm chí còn phải chờ đợi cán bộ NH rất lâu để hoàn tất một nghiệp vụ (khi đông khách). Do đó, để khuyến khích công chúng gửi tiền, giao dịch nhiều hơn, HABUBANK cần có các biện pháp tiết kiệm và giảm bớt thời gian cho khách hàng nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền tại NH, cụ thể: Bố trí mạng lưới một cách thích hợp, mở thêm các quỹ tiết kiệm lưu động đi thu tiền gửi tận nhà, hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh khi dân chúng yêu cầu, đặc biệt là tại những nơi có dự án đầu tư triển khai trên địa bàn để vận động và nhận tiền gửi dân cư khi họ nhận tiền đền bù từ giải phóng mặt bằng. Đồng thời, NH cũng cần nghiên cứu mở rộng mạng lưới giao dịch bằng việc thành lập thêm các quỹ tiết kiệm, thêm các phòng giao dịch tại các khu đông dân cư như khu chợ lớn, các trung tâm thương mại lớn của thành phố, các khu chung cư cao tầng ... mặc dù chi phí bỏ ra ban đầu là tương đối lớn song sẽ cho phép NH khai thác nguồn vốn với khối lượng lớn trong thời gian dài. Đồng thời, sự thâm nhập của mạng lưới các chi nhánh, bàn tiết kiệm lưu động vào cộng đồng dân cư sẽ góp phần quan trọng làm thay đổi tâm lý, tập quán giữ tiền tại nhà, sử dụng tiền mặt của người dân. Mặc khác, việc mở rộng mạng lưới giao dịch hiện nay là cần thiết bởi các quỹ tiết kiệm của NH hoạt động khá mạnh tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết do lượng khách rất đông, nhiều khi người gửi tiền và người rút tiền phải chờ đợi lâu bởi họ đến NH khi có tiền gửi, khi đến hạn rút mà giờ làm việc của họ cũng là giờ hành chính, NH cũng chỉ làm việc như thời gian quy dịnh. Chính vì thế nhiều khi các quỹ đông khách không đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới, NH cũng cần nghiên cứu, áp dụng thời gian giao dịch cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và tâm lý, thói quen tích luỹ, tiêu dùng của người dân trên địa bàn hoạt động của mình. NH chủ yếu hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, là những nơi tập trung đông đúc các công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, các tổ chức kinh tế – xã hội, cơ quan Chính Phủ... nên đại bộ phận là cán bộ công nhân viên, thì việc xem xét lại thời gian làm việc của NH là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn của NH nói riêng. Hiện nay giờ giao dịch của NH trùng với giờ làm việc của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nên gây khó khăn cho khách hàng khi giao dịch với NH, trong đó có những người muốn đến gửi tiền nhưng gặp khó khăn về thời gian. Vì vậy, NH nên bố trí cho riêng bộ phận quầy phục vụ các tài khoản cá nhân mở cửa sớm hơn và làm việc muộn hơn, rồi cho các cán bộ đó hưởng lương ngoài giờ. Bộ phận này có thể chia thành hai ca làm việc, hoạt động từ 7h đến 19h. Với lịch làm việc như vậy, những người có tài khoản có thể tranh thủ gửi tiền, rút tiền vào nhiều lúc khác nhau mà không ngần ngại khi nghĩ đến việc phải chờ đợi trong không khí đông đúc, ngột ngạt của quầy giao dịch khi đến đúng giờ cao điểm, vừa tận dụng tốt nhất thời gian rảnh rỗi của mình. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo Để có được hình ảnh tốt trong tâm trí của khách hàng, trước hết NH phải được khách hàng biết đến. Một trong những giải pháp cần làm là tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, đây là một công tác không kém phần quan trọng trong chiến lược huy động vốn, bởi nó tạo sẽ góp phần tạo ra nét khác biệt, vượt trội hơn hẳn của NH so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thời gian qua NH TMCP Nhà Hà Nội đã thực hiện tuyên truyền, quảng cáo nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Do đó trong thời gian tới, NH cần tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo dưới mọi hình thức để giúp khách hàng hiểu biết được những lợi ích mà khách hàng có thể có khi giao dịch với NH, cụ thể: Thường xuyên cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tài chính, báo cáo tài chính kiểm toán...của NH thông qua các ấn phẩm, truyền thanh, truyền hình để dân chúng biết cụ thể hơn về khả năng hoạt động và các dịch vụ mà NH cung cấp cũng như lợi ích mà nó sẽ đem lại cho khách hàng. Từ đó tạo ra cho khách hàng một cái nhìn tổng quát và chi tiết hơn về hoạt động của NH, giúp cho hình ảnh của NH đến được với khách hàng. Để khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng biết thêm thông tin một cách thực tế hơn, NH nên khuyến khích họ tham gia vào các buổi nói chuyện, thuyết trình giới thiệu về hoạt động của NH, đặc biệt là các sản phẩm huy động tiền gửi tại các cơ quan, xí nghiệp, trường học hay đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng... Qua đó làm cho mọi người dân thấy được các ưu điểm của việc gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của NH, đó là tính an toàn, tiện dụng, khả năng sinh lời. Tuy nhiên chỉ tuyên truyền, quảng cáo là không đủ, muốn tạo lòng tin trong dân thì phải chứng minh bằng thực tế các ưu điểm của NH và các dịch vụ NH. Tại các địa bàn hoạt động mới, nơi người dân chưa quen với việc mở tài khoản tại NH, NH nên làm thí điểm việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân ở một số cơ quan, xí nghiệp; Khuyến khích một số cơ quan mở tài khoản cá nhân cho cán bộ và trả lương qua các tài khoản này một cách miễn phí. Việc NH thành công trong thí điểm thì chẳng những đã tạo được lòng tin trong dân chúng mà chính những người tham gia thí điểm này sẽ là những quảng cáo viên tốt nhất cho NH. Cùng với việc tăng cường tuyên truyền, quảng cáo thì khuyến mãi là công cụ hỗ trợ đắc lực để hoạt động tuyên truyền, quảng cáo đạt hiệu quả cao. Để thu hút ngày càng nhiều người gửi tiền vào, NH nên áp dụng các hình thức khuyến mãi đa dạng, tạo sự thích thú nơi khách hàng, khách hàng không những được hưởng mức lãi suất hợp lý mà còn được hưởng sự ưu đãi do khuyến mãi đem lại như: tham dự hình thức quay xổ số dự thưởng, áp dụng lãi suất ưu đãi hoặc khuyến khích vật chất đối với những khách hàng duy trì giao dịch thường xuyên với NH như tặng quà vào những dịp đặc biệt (Lễ, Tết, ngày sinh nhật...), tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, làm công tác từ thiện...nhằm gây ảnh hưởng, nâng cao uy tín của NH sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư. Tổ chức nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Đây là công việc quan trọng để thực hiện chiến lược cạnh tranh có hiệu quả của NH. Việc nghiên cứu phải được tiến hành thường xuyên, trên cơ sở so sánh sản phẩm, giá cả (chi phí huy động), các hoạt động quảng cáo, mạng lưới NH... với các đối thủ gần gũi (các NH cùng địa bàn, các NH trong cùng khối cổ phần…). Với cách làm này, NH có thể xác định được các lĩnh vực cạnh tranh thuận lợi và bất lợi, tạo tiền đề cho NH giành thắng lợi trong cạnh tranh. è Để giải quyết những khó khăn và tồn tại, ngoài việc áp dụng các giải pháp trên, NH TMCP Nhà Hà Nội cần áp dụng một số giải pháp hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng huy động vốn như: áp dụng chính sách lãi suất một cách linh hoạt theo từng thời kì, gắn liền huy động vốn với sử dụng vốn một cách có hiệu quả, xây dựng chiến lược khách hàng, … Những giải pháp trực tiếp giúp NH có thể đạt được kết quả như mong muốn một cách nhanh chóng nhưng phải có các giải pháp hỗ trợ thì kết quả đạt được mới lâu dài, ổn định và bền vững. 3.3. Kiến nghị nhằm tăng cường huy động tiền gửi khách hàng tại NH TMCP Nhà Hà Nội Để có thể tăng cường khả năng huy động tiền gửi khách hàng, góp phần mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh của NH TMCP Nhà Hà Nội trên thị trường thị nỗ lực của bản thân NH là chưa đủ, mà cần có sự giúp đỡ từ phía NHNN và các ban ngành chức năng của Nhà nước. 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Một thực trạng là hiện nay ở nước ta là đa số người dân vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán, sử dụng tiền nhàn rỗi dưới dạng tích trữ vàng và ngoại tệ. Trong một vài năm trở lại đây, người dân có xu hướng sử dụng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào bất động sản và thị trường chứng khoán. Một trong những lý do dẫn tới thực trang này là sự thiếu tin tưởng vào khả năng ổn định của nền kinh tế. Do đó để thu hút nguồn nhàn rỗi trong dân cư thì NHNN, với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động NH, có chức năng quan trọng là thực hiện hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia với mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định cán cân thanh toán và giảm thất nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển xã hội, nâng cao đời sống người dân, phải có một chính sách tiền tệ hợp lý thông qua các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở…Nhất là trong giai đoạn lạm phát tăng và lãi suất biến động bất thường như hiên nay. Cụ thể, NHNN cần thực hiện các biện pháp: Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng. Hiện nay, hoạt động NH tuân theo sự điều chỉnh của Luật NH nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, ngoài ra còn có nhiều quy định khác. Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các quy định chưa rõ ràng, như quy định về vốn tự có của NH, quy định về các hoạt động huy động vốn, các quy định về chỉ tiêu hoạt động của NH bị thay đổi quá nhiều trong thời gian ngắn... Điều đó cho thấy những yếu tố còn thiếu chặt chẽ trong luật và các văn bản dưới luật do NH Nhà nước ban hành. Điều này đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản quy phạm về lĩnh vực NH tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung các văn bản luật và dưới luật một cách có hệ thống, chính xác đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều sự được điều chỉnh của luật pháp, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách của các NH. Thứ hai, NHNN cần có chính sách về lãi suất, về hạn mức, về dự trữ... hợp lý hơn, khoa học hơn trong từng thời kỳ trên cơ sở bảo vệ quyền lợi cho các NH và khách hàng. Trước mắt, NHNN cần đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ dao động phù hợp cho từng giai đoạn phát triển kinh tế. Nghĩa là tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của tăng trưởng kinh tế, của hoạt động NH để định ra lãi suất cơ bản hợp lý, phù hợp với mối quan hệ cung cầu về vốn và đảm bảo cho các NHTM kinh doanh có lãi. Từng bước tiến tới điều hành lãi suất bằng biện pháp tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở, bỏ mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép. Cụ thể, thay vì áp dụng lãi suất cơ bản với biên độ giao động cũng mang tính áp đặt về khung lãi suất như quy định lãi suất trần cho vay và sàn huy động của trước kia, NHNN sẽ chỉ công bố lãi suất tái chiết khấu mà NH áp dụng từ đó các NHTM sẽ đưa ra được mức lãi suất phù hợp. Điều này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh với mức cao hơn giữa các NHTM, tạo thêm sự chủ động linh hoạt và tự chủ trong kinh doanh của các NH. Mỗi NHTM có thể tuỳ thuộc vào vị thế trên thị trường để ấn định mức lãi suất phù hợp hay vì bị kiềm chế bởi khung lãi suất. Điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng xoá bỏ dần sự chênh lệch giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ, chỉ để một mức chênh lệch hợp lý để cho dân chúng không đổi hết nội tệ sang ngoại tệ dẫn đến sức ép về tỷ giá. Về lâu dài, NHNN cần có biện pháp, chính sách để hạ dần mức lãi suất trong nước, để hoà nhập mặt bằng lãi suất trên thế giới. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Thứ ba, tăng cường hoạt động thanh tra giám sát các NHTM NHNN cần chấn chỉnh, xử lý kịp thời những sai phạm làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, của nhân dân, đưa hệ thống các TCTD đi vào nề nếp và có hiệu quả, nâng cao uy tín của hệ thống NH trong nền kinh tế. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các NHTM và chỉ đạo, hỗ trợ giúp các đơn vị hiện đại hóa NH, trên cơ sở đổi mới công nghệ NH, tạo tiền đề cho các NHTM phát triển mạnh trong hoạt động. Thứ tư, xây dựng và điều hành một chính sách tiền tệ ổn định và hợp lý hơn trong từng thời kỳ NHNN cần thực thi các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có việc kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính tiền tệ có hiệu quả nâng cao sự tín nhiệm của đồng việt nam trong quan hệ tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần phải thực thi chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh bằng lãi suất giữa các NH thông qua việc điều tiết lãi suất thị trường theo lãi suất định hướng của mình. à Chính sách này cần phải theo sát với tín hiệu của thị trường, góp phần ổn định giá trị đồng tiền, tạo lòng tin cho người dân yên tâm gửi tiền vào NH, khi đó NH có cơ hội thu hút nhiều nguồn vốn hơn đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư phát triển kinh tế. Thứ năm, mở rộng bảo hiểm tiền gửi Sự an toàn của NHTM luôn là mỗi quan tâm hàng đầu đối với người gửi tiền. Để đảm bảo an toàn (giảm thiểu rủi ro) cho các NHTM, công ty bảo hiểm tiền gửi ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền trong trường hợp rủi ro xảy ra nghĩa là NH bị phá sản. Bảo hiểm tiền gửi ra đời với mục đích sẽ làm tăng niềm tin của quần chúng vào NH, nhằm huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền gửi của dân cư. NH Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho công ty bảo hiểm tiền gửi như bắt buộc các NHTM phải gửi các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của mình để công ty bảo hiểm tiền gửi có thể hiểu rõ được hoạt động của NH và có biện pháp cứu trợ kịp thời khi NH gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. NH Nhà nước giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của các NH và các tổ chức tín dụng khác có thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi. Bên cạnh đó, mức bồi thường thiệt hại rủi ro tiền gửi hiện nay vẫn chưa thoả đáng không kích thích khách hàng có cơ số tiền lớn gửi vào NH. NHNN nên có chính sách bảo hiểm tiền gửi giống như chính sách bảo hiểm các tài sản khác. Có như vậy mới giúp khách hàng an tâm gửi tiền và NH có thể huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. 3.3.2. Đối với chính phủ Có thể nói, chủ trương chính sách của Chính phủ trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ, có sự chồng chéo và thường xuyên thay đổi. Do đó, để tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động tiền gửi của các NHTM nói riêng, Chính phủ cần phải có thực hiện các biện pháp sau: Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô gồm nhiều yếu tố, bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tỷ giá... Chúng có tác động to lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động tiền gửi của NH nói riêng. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần có những việc làm cụ thể sau: Phối hợp với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết một nền kinh tế phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị đồng tiền, đặc biệt là các khoản tiền gửi tại NH, dù là dưới hình thức nào. Mặt khác, thông qua việc ổn định giá trị đồng tiền để xác định tỷ giá hợp lý nhằm giảm thiểu hiện tượng đầu cơ ngoại tệ... Kết quả là thu hẹp phạm vi hoạt động của ngoại tệ, mở rộng phạm vi lưu hành VND góp phần vào việc kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả và chính xác, xây dựng lãi suất phù hợp và giữ vững ổn định tiền tệ. Tạo lập môi trường pháp lý ổn định. Hoạt động của NHTM vẫn nằm trong môi trường pháp lý do Nhà nước quy định, chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh doanh NH; Đòi hỏi Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của mình xây dựng được môi trường pháp lý ổn định. Việc ban hành một hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng không chỉ tạo niềm tin cho dân chúng mà những quy định, khuyến khích của nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận tiêu dùng chưa cần thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ từ vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi tiền vào NH. Ngày nay chúng ta đang tiếp tục phát triển nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường, tiến tới giảm bớt sự can thiệp quá sâu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động của các NHTM. Hệ thống NH với vai trò là mạch máu của nền kinh tế do đó giữ cho hệ thống NH hoạt động một cách hài hoà, ổn định là điều kiện cần thiết. Vì vậy nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật vừa thống nhất, vừa đầy đủ tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động một cách lành mạnh, đạt hiệu quả cao. Về môi trường xã hội Ở nước ta hiện nay, công tác huy động tiền gửi của các NHTM vẫn bị hạn chế, do ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý của người dân, đặc biệt thói quen giữ tiền ở nhà, mua vàng tích trữ. Chính phủ cần có các biện pháp tuyên truyên nhằm khuyến khích động viên người dân gửi tiền và chi tiêu qua tài khoản mở tại NH, nên có quyết định bắt buộc các cán bộ thuộc cơ quan Nhà nước phải mở tài khoản và sẽ được trả lương qua tài khoản đó... để có thể thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào NH. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn nâng cao đời sống và thu nhập của người dân để họ có thể tăng tích luỹ và sẽ gửi tiền vào NH ngày càng nhiều hơn. KẾT LUẬN Hai năm đã đi qua từ khi Việt Nam là thành viên WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Với chức năng đầu mối tài chính cho nền kinh tế, để tạo thế đứng của mình trên thị trường, các NHTM không ngừng nâng cao khả năng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư, phát triển sản xuất. Do đó, việc mở rộng phạm vi áp dụng ảnh hưởng của các loại tiền gửi tới các tổ chức kinh tế cũng như các tầng lớp dân cư là vấn đề sống còn của NH nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, tăng sức cạnh tranh khi đất nước mở cửa sâu rộng. Nhận thức được vấn đề này, HABUBANK đã có những bước đi tích cực trong việc phát triển hoạt động huy động tiền gửi khách hàng và bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, HABUBANK còn nhiều hạn chế về mặt chất lượng dịch vụ nhất là cán bộ huy động tiền gửi khách hàng và công nghệ ngân hàng. Đó là tồn tại lớn nhất cản trở sự phát triển của hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của ngân hàng. Do những hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, tài liệu cũng như thời gian nghiên cứu, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như chưa hoàn chỉnh về mặt hình thức. Tuy nhiên, em hy vọng với việc nghiên cứu thực trạng, từ đó đưa ra các giải pháp, chuyên đề có thể góp một phần nào đó vào việc phát triển sâu rộng hơn nữa hoạt động huy động vốn nói chung và huy động tiền gửi khách hàng nói riêng tại NH TMCP Nhà Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – T.S Lê Thanh Tâm cùng toàn thể cán bộ phòng Phát triển kinh doanh NH TMCP Nhà Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng Thương mại, NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật. Peter Rose (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Lê Văn Tư (2005), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 2006, 2007, 2008. Nguyễn Văn Giàu (2008), Tổng kết hoạt động Ngân hàng Việt Nam năm 2008. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997/QH10 ngày 12/12/1997. Quyết định 1160/2004/QĐ – NHNN về điều chỉnh hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm đối với các tổ chức nhận tiền gửi được pháp luật cho phép. Quyết định 47/2006/QĐ – NHNN về việc điều chỉnh, sửa đổi bổ sung quy chế bảo hiểm tiền gửi. Quyết định 2003/QĐ – NHNN quyết định của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Một số quyết định NHNN ban hành liên quan đến việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kì như: Quyết định 1141/2007/QĐ – NHNN, Quyết định 187/2008/QĐ – NHNN. Một số trang web: www.saga.vn Tình hình ngân hàng năm 2008 và dự báo 2009. Ngân hàng thương mại và vai trò của NHTM. Huy động vốn Ngân hàng – Vấn đề tâm lý. www.cafeF.vn Chính sách tiền tệ: một năm chưa có tiền lệ. Gửi tiền, căn thêm tính thanh khoản Đua lãi suất: cân nhắc hậu quả và hiệu quả DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT NH NHTM NHNN TMCP Ngân hàng Ngân hàng thương mại Ngân hàng Nhà nước Thương mại cổ phần DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang 2.1 Tình hình nhân sự trong 5 năm vừa qua của HABUBANK 35 2.2 Tình hình huy động vốn của HABUBANK 36 2.3 Cơ cấu nguồn vốn của HABUBANK 36 2.4 Tình hình cho vay của HABUBANK 38 2.5 Doanh thu và lợi nhuận của HABUBANK 41 2.6 Tình hình huy động và sử dụng vốn của HABUBANK 50 3.1 Một số chỉ tiêu kế hoạch trong năm 2009 60 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang 2.1 Tăng trưởng tiền gửi khách hàng 43 2.2 Cơ cấu nguồn tiền gửi khách hàng theo đối tượng huy động 45 2.3 Cơ cấu nguồn tiền gửi khách hàng theo kỳ hạn 47 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu Tên sơ đồ Trang 1.1 Luân chuyển vốn trong nền kinh tế 5 1.2 Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM 18 2.1 Cơ cấu tổ chức của NH TMCP Nhà Hà Nội 34  MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22160.doc
Tài liệu liên quan