TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
Trần Thị Diệu Hằng
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
SACOMBANK
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ ĐỨC LỮ
HÀ NỘI, Năm 2008
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN SACOMBANK
PHẦN MỞ ĐẦU
I – Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại cũng là nền tảng cho s
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín Sacombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động huy động vốn là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nhận thấy cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vốn đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của xã hội nói chung. Do đó, hoạt động huy động vốn đã được chú trọng ngay từ khi thành lập đến nay. Sau 16 năm phát triển, hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn tại Sacombank nói riêng và tại các ngân hàng cổ phần nói chung còn gặp nhiều hạn chế do sự phân biệt của người dân giữa ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần và do chính bản thân ngân hàng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với Sacombank là phải khắc phục những hạn chế đó để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của ngân hàng.
Để góp phần giải quyết vấn đề này, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực tiễn, trong thời gian công tác tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín tôi đã chọn đề tài “Tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”
II – Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu nội dung các hình thức và thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động huy động vốn từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank trong thời gian tới.
III – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các phương thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu thực trạng và khả năng huy động vốn của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín trong khoảng thời gian 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007
IV – Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp, tư duy lôgic kinh tế nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
V – Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Sacombank
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
VI- Các công trình nghiên cứu trước đây
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu để phát triển, tăng cường và mở rộng vốn tại các ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu các hình thức huy động vốn cũng như các giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gòn thương tín. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu các hình thức cũng như các phương thức huy động vốn tại Sacombank và từ đó đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động vốn tại Ngân hàng này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại (NHTM):
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với dân chúng và nền kinh tế. Trong các nước phát triển, hầu như không có công dân nào không có quan hệ giao dịch với một ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng tiền gửi, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Tùy điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các hoạt động kinh doanh của NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ. Nhưng nói chung, hoạt động của NHTM bao gồm:
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động trung gian khác
a) Hoạt động huy động vốn:
Đây là hoạt động khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống còn quan trọng nhất của NHTM
Huy động vốn từ vốn tự có
Vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trinh kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại.
Vốn tự có có thể được phân chia thành vốn cơ bản và vốn bổ sung.
Vốn tự có cơ bản bao gồm: cổ phẩn thường, vốn cổ phần ưu đãi, các quỹ dự trữ, quỹ dự phòng, lợi nhuận không chia và điều chỉnh tăng giá tài sản cố định, chứng khoán, thu nhập bất thường.
Vốn tự có bổ sung bao gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu trung hạn được chuyển đổi nhưng chỉ được phép dưới 50%
Nguồn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại và là điều kiện pháp lý, tài chính để thành lập ngân hàng và hoạt động kinh doanh. Nó là bộ phận nguồn vốn phản ánh quy mô, tầm cỡ của ngân hàng.
Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước.
Huy động vốn từ TCKT, cá nhân
Nguồn vốn chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, phần lớn là NHTM phải huy động từ TCKT, cá nhân. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác.Và là cơ sở chính của các khoản vay, do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Dựa vào tính khả dụng vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:
Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Mục đích của khách hàng là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn thì phải được sự đồng ý của ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi với mục đích hưởng lãi, và được huy động dưới nhiều hình thức
Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở ngân hàng TW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
Huy động từ các nguồn khác
NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ... uy tín của ngân hàng là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
b) Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: dự trữ, cho vay và đầu tư.
Dự trữ:
Dự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng vì người gửi có thể rút tiền bất kỳ lúc nào. Đây là khoản mục không được sử dụng vào mục đích sinh lời, gần như không tạo ra lợi nhuận nhưng lại đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó là nguồn thanh khoản chủ yếu của ngân hàng. Mức dự trữ này cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt.
Dự trữ có thể tồn tại ở các dạng: tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác và chứng khoán ngắn hạn, những tài sản có tính lỏng cao.
Cho vay:
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, hay cho vay là bộ phận tài sản có đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, thường chiếm 80-90% trong tổng tài sản có.
Trong nền kinh tế, luôn có những người tạm thời thừa vốn và có những người có nhu cầu sử dụng vốn vượt quá số vốn họ có. Họ đến với nhau thông qua môi giới trung gian là ngân hàng. Qua ngân hàng, người thừa vốn thấy đồng tiền của mình cũng có khả năng sinh lợi và sẽ được nhận về một khoản tiền lớn hơn, còn người thiếu vốn sẽ được thỏa mãn nhu cầu về vốn. Chênh lệch giữa mức lãi suất tiền gửi (khoản lợi của người gửi tiền) và lãi suất cho vay (chi phí cho việc sử dụng tiền của người vay) hình thành nên thu nhập của ngân hàng.
Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng càng trở nên vô cùng đa dạng. Đồng thời cũng tạo rất nhiều rủi ro cho ngân hàng thương mại.
Đầu tư:
Ngân hàng có thể tìm kiếm con đường sinh lợi cho mình bằng những hoạt động đầu tư, có thể là đầu tư trực tiếp, hoặc đầu tư gián tiếp hoặc cả hai. Với đầu tư trực tiếp, ngân hàng góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư vào trang thiết bị... chủ động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn đầu tư gián tiếp, tùy vào mục đích của mình mà ngân hàng sẽ đầu tư vào những loại chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro, vì vậy NHTM cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư.
Hoạt động trung gian:
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu nhập khá quan trọng, và sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện. Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp, bảo quản hộ tài sản, dịch vụ môi giới tư vấn, dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán...
Tóm lại: Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM là rất đa dạng và phong phú song tựu chung lại, nghiệp vụ chính của ngân hàng vẫn là hoạt động liên quan đến huy động vốn, sử dụng vốn. Để có thể hoạt động được, NHTM buộc phải có một số vốn nhất định để duy trì hai loại họat động này. Vì vậy, ta có thể nói huy động vốn là một phần hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.2 Vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất của nguồn vốn ngân hàng thương mại là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau.
1.2.2 Phân loại vốn của Ngân hàng thương mại
Ta có thể chia vốn của NHTM thành 3 loại như sau:
1.2.2.1 Vốn chủ hay còn gọi là vốn tự có
Vốn tự có chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, nhưng do tính chất thường xuyên ổn định của nó Ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định và đặc biệt tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Vốn tự có còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng.
Vốn tự có của NHTM bao gồm các thành phần cơ bản:
a) Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ là mức vốn được quy định trong điều lệ của Ngân hàng, tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Đây là điều kiện quyết định để Ngân hàng được phép thành lập và hoạt động. Tuỳ theo tính chất sở hữu của từng Ngân hàng mà nguồn vốn này được hình thành một cách khác nhau. Trong quá trình hoạt động, vốn điều lệ của Ngân hàng được tăng dần lên do việc trích lập các quỹ từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng chuyển sang.
b) Nguồn vốn dự trữ từ các quỹ:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ này được trích theo luật định để đảm bảo dần dần bổ sung vào vốn điều lệ, đáp ứng được yêu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nó được trích ra hàng năm từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định cho đến khi đạt đến một mức nào đó thì có thể xin NHTW cho chuyển vào bổ sung vốn điều lệ.
Quỹ dự trữ bù đắp rủi ro: cũng được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của Ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định. Mục đích của quỹ này là để bù đắp vào những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, đảm bảo tránh việc phá sản cho Ngân hàng.
c) Nguồn vốn tự có khác:
Nguồn này bao gồm các khoản như: lợi nhuận chưa chia của Ngân hàng, các khoản Nhà nước tài trợ, các tổ chức xã hội, phi chính phủ tài trợ, việc tăng thêm do định giá lại tài sản..
1.2.2.2 Vốn nợ
a) Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng.
b) Vốn vay:
Vốn đi vay là mối quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nước, hoặc giữa các Ngân hàng thương mại với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng TW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài… Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
c) Vốn khác:
Vốn khác bao gồm vốn trong thanh toán, vốn uỷ thác. Ngoài ra, các NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ…
1.2.3 Vai trò của vốn và công tác huy động vốn đối với NHTM
Một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất của hệ thống ngân hàng trong vài năm gần đây là việc tăng và duy trì vốn chủ sở hữu ở mức hợp lý. Thuật ngữ “vốn chủ sở hữu” có một ý nghĩa đặc biệt với ngân hàng, vốn thực hiện một số chức năng không thể thay thế trong hoạt động ngân hàng, như cung cấp những nguồn lực ban đầu để giúp ngân hàng mới thành lập hoạt động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng quản lý và phát triển ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thương mại đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Thứ nhất: Vốn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái sinh lời.
Thứ hai: Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên thậm chí ngay cả trước ngày hoạt động chính thức.
Thứ ba: Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ ( gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Thứ tư: Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác. Do đó, “tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một ngân hàng mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được dấu hiệu của thị trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn.
Nếu vốn chủ sở hữu là tiền đề ban đầu cho sự hoạt động ban đầu của ngân hàng thì vốn huy động là nhân tố không thể thiếu để một ngân hàng tồn tại và phát triển. Vốn huy động là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Khi huy động vốn, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần huy động còn lại. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng cần phải làm gì để đảm bảo rằng ngân hàng luôn luôn có đủ vốn để đáp ứng những nhu cầu tín dụng cũng như các dịch vụ tài chính khác mà xã hội yêu cầu.
Nhận thức rõ vai trò của vốn đối với NHTM từ đó công tác huy động vốn được quan tâm tương xứng và cũng có ý nghĩa sống còn đối với NHTM.
1.3 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Huy động vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn trung và dài hạn, đóng vai trò nền tảng, là cơ sở để thu hút những nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng nó có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại và phát triển của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có thể được xem xét dưới các góc độ sau:
a) Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Ở Việt Nam, để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau:
Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu.
Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu ngân hàng là chứng chỉ đầu tư vốn, nó xác nhận phần hùn của người sở hữu cổ phiếu trong ngân hàng. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông, là chủ sở hữu vốn và có trách nhiệm về mặt pháp lý trong phạm vi của vốn góp. Cổ đông không được rút vốn khỏi ngân hàng bằng cách trả lại cổ phiếu cho ngân hàng, cổ đông được chia lãi theo tỷ lệ vốn góp vào ngân hàng, nhưng phải chịu mọi rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Cổ phiếu không kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của ngân hàng phát hành.
Đầu tiên, cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, gọi là cổ phiếu ký danh. Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho người khác phải được Hội đồng quản trị cho phép, điều này gây trở gại cho việc lưu thông cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Và vậy, đến thế kỷ 18, cổ phiếu vô danh ra đời và sang thế kỷ 19 thì cổ phiếu vô danh gần như hoàn toàn thay thế cho cổ phiếu ký danh.
Cổ phiếu có 02 loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi:
Cổ phiếu thường, còn gọi là chứng khoán vốn, là giấy chứng nhận phần vốn góp của người nắm giữ cổ phiếu đó trong ngân hàng. Người chủ sở hữu cổ phiếu thường, gọi là cổ đông, có quyền bầu cử Hội đồng quản trị và bỏ phiếu các vấn đề chính của ngân hàng, vì họ cũng là các chủ sở hữu của ngân hàng. Cổ phiếu thường có 02 đặc điểm quan trọng, là quyền đòi hỏi cuối cùng và trách nhiệm hữu hạn. Quyền đòi hỏi cuối cùng, nghĩa là các cổ đông thường là những người đứng cuối cùng trong hàng ngũ những người có quyền đòi hỏi đối với tài sản và lợi tức của ngân hàng. Trong trường hợp phá sản, các cổ đông thường chỉ được chia những gì còn lại sau khi đã chi trả cho tất cả những đối tượng khác. Còn đối với ngân hàng đang hoạt động, cổ đông thường chỉ được chia phần lợi tức hoạt động kinh doanh còn lại sau khi trả lãi và nộp thuế lợi tức. Trách nhiệm hữu hạn có nghĩa là trong trường hợp phá sản, cổ đông chỉ có thể bị mất khoản đầu tư (cổ phần) vào ngân hàng của họ. Cổ đông khác với các chủ sở hữu các doanh nghiệp không cổ phần hoá ở chỗ: các chủ nợ có quyền xiết nợ đối với các tài sản cá nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp không cổ phần hoá còn cổ đông không chịu trách nhiệm cá nhân đối với các món nợ của công ty, trách nhiệm của họ là hữu hạn. Hầu hết các công ty cổ phần đều ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu thường. Mệnh giá này được in trên tờ cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan trực tiếp đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Ngoài ra, còn có cổ phiếu không có mệnh giá dành cho các sáng lập viên, loại cổ phiếu này có đặc điểm là chỉ được hưởng lãi sau khi lợi tức còn lại đã chia cho các cổ đông.
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có những đặc điểm của chứng khoán vốn lẫn chứng khoán nợ. Với đặc điểm của chứng khoán nợ, cổ phiếu ưu đãi hứa hẹn mang lại một khoản cổ tức cố định hàng năm, nhưng không mang lại quyền bầu cử. Với đặc điểm của chứng khoán vốn, cổ phiếu ưu đãi cũng bị xếp hạng chi trả sau trái phiếu trong trường hợp ngân hàng phá sản. Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá không liên quan trực tiếp đến giá thị trường. Do các đặc điểm riêng có của mình, giá cổ phiếu ưu đãi trên thị trường chứng khoán không dao động lên xuống nhiều như cổ phiếu thường.
Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng tham gia liên doanh.
b) Vốn điều lệ: là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHTM công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động.
Ngoài ra, NHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng như: quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi….
Thực tế, vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn hoạt động kinh doanh của một ngân hàng nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng vì nó cho thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng. Nguồn vốn này càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
1.3.2 Huy động tiền gửi từ tổ chức kinh tế, cá nhân
1.3.2.1 Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất kỳ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi thanh toán có mức lãi suất thấp hoặc không được trả lãi.
Tiền gửi thanh toán được gửi vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ… Đây không phải là tiền để dành mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì vậy khách hàng có thể rút ra hoặc sử dụng bất kỳ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản ở ngân hàng trên 2 loại tài khoản:
Tài khoản tiền gửi thanh toán ( còn gọi là tài khoản séc): tài khoản này chỉ được phép dư Có, tức khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình. Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản hay rút tiền tự động qua máy ATM. Đối với hầu hết các khách hàng, việc hưởng lãi với số vốn được dùng cho các mục đích giao dịch là thứ yếu và loại tài khoản này không đem lại lãi suất cụ thể mà nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán và sử dụng dễ dàng đồng vốn khi cần.
Tài khoản vãng lai có thể dư có hoặc dư nợ. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng và số dư nợ thể hiện khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp.
Tuy vậy trên thực tế hoạt động của Ngân hàng, sự khác nhau giữa hai loại tài khoản này dần dần bị xoá nhoà. Hiện nay, tiền gửi thanh toán cũng có thể có dư Nợ nếu khách hàng thoả thuận trước với Ngân hàng về vấn đề này.
Một hình thức thanh toán bằng séc tuy đã có từ lâu trên thế giới nhưng vẫn còn mới mẻ với nước ta là mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân. Trước đây séc chỉ được sử dụng chủ yếu để phục vụ cho các doanh nghiệp. Nay, do nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi, séc cá nhân cần phải được đưa vào vận hành trong dân chúng.
Việc đưa séc cá nhân, một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt vào lưu thông càng làm phong phú, đa dạng, thuận lợi và thích hợp với nhiều đối tượng sử dụng. Đồng thời đây cũng là cơ hội để người dân tiếp cận, làm quen với tập quán thanh toán không dùng tiền mặt, sớm hoà nhập với mạng lưới thanh toán quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán: an toàn, nhanh chóng, tránh được rủi ro như mất cắp, hỏa hoạn… so với bảo quản tiền mặt. Về mặt xã hội, giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in ấn bảo quản… góp phần kìm chế, đẩy lùi lạm phát. Việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân sẽ giúp các NHTM huy động thêm nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư.
1.3.2.2 Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn và lãi suất cao. Theo nguyên tắc khách hàng gửi chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế, do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút ra trước hạn. Trong trường hợp này, có thể có hai cách giải quyết: hoặc khách hàng được vay tiền của Ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì dùng số tiền và lãi nhận được để trả nợ và lãi vay ngân hàng, hoặc là thoả thuận với Ngân hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn.
Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, các NHTM thường đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng được mọi nhu cầu của các khách hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm… Với mỗi kỳ hạn, Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.3.2.3 Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của Ngân hàng. Ở các nước công nghiệp phát triển, trong các loại tiền gửi vào Ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá nhân được gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ.
Nhằm thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, Ngân hàng thương mại đã đa dạng hoá các hình thức huy động tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ): người gửi có thể rút ra một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Tuy nhiên khác với tiền gửi thanh toán, người gửi không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ (bao gồm nội và ngoại tệ): có nội dung cơ bản giống như tiền gửi có kỳ hạn mà chúng ta nghiên cứu ở trên, chỉ khác đối tượng khách hàng, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi bảo đảm bằng vàng: trong nền kinh tế có lạm phát, dân chúng không thích gửi tiền Ngân hàng vì sợ vốn và lãi không đảm bảo giá trị như họ giữ vàng. Chính vì lẽ đó hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng là một trong những biện pháp phần nào đáp ứng được yêu cầu đó. Người gửi tiết kiệm bằng vàng không những bảo toàn được giá trị tài sản của mình mà còn được nhận một khoản lãi từ phía ngân hàng.
Tiền gửi có tính trượt giá: Với hình thức tiền gửi tiết kiệm này, dân chúng luôn luôn nhận được thực lãi, cả khi nền kinh tế có lạm phát. Lãi suất huy động của ngân hàng luôn lớn hơn chỉ số lạm phát.
Tiết kiệm xây dựng nhà ở: đây là một loại tiết kiệm nhằm hỗ trợ người dân sớm có nhà để rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần thực hiện chính sách về nhà của Đảng và Nhà nước. Do vậy cũng đã khuyến khích phần nào người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Ngoài ra, ở một số Ngân hàng, người ta phân tiền gửi bằng ngoại tệ ra một loại tiết kiệm riêng.
Về mặt chuyên môn, Ngân hàng đòi hỏi phải báo trước việc rút tiền, nhưng trong thực tế, sự giới hạn này thường không được áp dụng. Không có hình thức nào dưới hình thức giảm lãi suất được áp dụng cho các trường hợp rút tiền tiết kiệm trước hạn.
1.3.3 Huy động vốn qua thị trường vốn
1.3.3.1 Trái phiếu
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó ngân hàng cam kết trả vốn và lãi cho người mua trái phiếu sau một thời gian nhất định. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của NHTW và có thể được phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi danh… Trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn và đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng. Kỳ hạn trái phiếu rất đa dạng: 7 năm, 10 năm, 20 năm… Hiện nay, ở nước ta trái phiếu thường được phát hành theo các kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5 năm, tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Các trái phiếu phát hành cùng đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Thêm vào đó, chủng loại cũng rất phong phú như: trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu…
Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người nắm giữ trái phiếu có thể nó làm thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Một vấn đề nữa là lãi suất của trái phiếu. Ngân hàng ấn định lãi suất của trái phiếu trên cơ sở cung cầu về vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi và NHTM đảm bảo được hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được ngân hàng áp dụng một cách linh hoạt: trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ…
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ này có mục đích là không chịu sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc và có tính ổn định cao.
1.._.3.3.2 Kỳ phiếu ngân hàng
Kỳ phiếu Ngân hàng thực ra cũng là một loại trái phiếu, nhưng là trái phiếu ngắn hạn do các NHTM phát hành và được giao dịch trên thị trường vốn ngắn hạn. Kỳ phiếu Ngân hàng là hình thức huy động vốn “ăn khách” của ngân hàng nhờ lãi suất tương đối “mềm” của nó. Do lãi suất kỳ phiếu của ngân hàng cao hơn lãi suất tiết kiệm, hơn nữa nó uyển chuyển hơn, biến động theo từng thời gian và từng địa phương cụ thể, có thể chuyển nhượng và mua bán được, cho nên một số nơi có tình trạng là có sự di chuyển từ tiền gửi tiết kiệm sang kỳ phiếu: số dư tiền gửi tiết kiệm giảm - số dư kỳ phiếu ngân hàng tăng. Khi hết thời gian phát hành kỳ phiếu thì số dư kỳ phiếu ngân hàng giảm - số dư tiền gửi tiết kiệm lại tăng.
Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động rất cơ động và thoáng. Bằng các công cụ này, các Ngân hàng có thể chủ động tạo ra một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách trong một thời gian nhất định khi đã huy động đủ khối lượng theo dự kiến, Ngân hàng sẽ ngừng việc huy động kỳ phiếu, trái phiếu. Các trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng duy trì khối lượng huy động vừa có tác dụng chống lạm phát. Điều này đặc biệt cần thiết khi nền kinh tế có lạm phát.
1.3.4 Huy động bằng hình thức đi vay
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM, không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau như:
Vay của Ngân hàng Trung ương
Vay của các tổ chức tài chính khác
Tính chất của nguồn này là tạo vốn khả dụng cao NHTM, đặc biệt là khoản vay từ NHTW; phát sinh chi phí tương đối thấp và có tính co giãn phù hợp với nhu cầu về vốn của Ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể.
1.3.4.1 Vay ngân hàng Trung ương
Trong quan hệ với NHTW, các NHTM đóng vai trò là khách hàng thường xuyên và NHTW với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, phải luôn luôn đóng vai trò chủ nợ và là người cho vay “cuối cùng” đối với các NHTM.
Để thực hiện việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng, NHTW thường xuyên phải thực hiện các quan hệ tín dụng với các NHTM thông qua việc chiết khấu và tái chiết khấu các phiếu nợ, trong đó chủ yếu là thương phiếu và trái phiếu kho bạc. Việc cấp vốn dựa trên các cơ sở phiếu nợ này, một mặt gắn với việc phát hành tiền với quá trình lưu thông hàng hoá, mặt khác tạo điều kiện cho tiền phát hành quay trở về nơi mà nó đã ra đi – NHTW.
Hiện nay NHNN Việt Nam cho các Ngân hàng vay các loại sau:
Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: đây là hình thức tài trợ vốn theo kế hoạch được NHTW phân phối cho các ngân hàng quốc doanh.
Tái chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc và khế ước mà các tổ chức tín dụng đã cho các khách hàng vay chưa đáo hạn.
Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
1.3.4.2 Vay các tổ chức tài chính khác
Các hình thức huy động vốn nói trên đóng vai trò chủ yếu trong công tác huy động vốn của NHTM. Tuy nhiên, trong tình hình kinh doanh ngân hàng hiện nay, sẽ rất thiếu sót nếu như không đề cập đến nguồn vốn có thể huy động được bằng cách vay các NHTM khác thông qua thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng.
a) Thị trường nội tệ liên ngân hàng:
Thị trường nội tệ liên ngân hàng là thị trường tiền tệ do NHTW tổ chức để giải quyết mối quan hệ vay mượn những khoản vốn tạm thời giữa các TCTD với nhau. Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7/1993 (Quyết định số 114 – 21/06/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã giúp các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường này chuyển đổi nhanh hoạt động của mình theo cơ chế thị trường (sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn và đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi trường hợp).
Nếu như trước đây, vấn đề chủ yếu chỉ là tiền gửi, thì việc tăng trưởng của các tài sản Có, mà chủ yếu là các khoản cho vay, luôn bị chi phối khả năng tăng trưởng của các loại tiền gửi. Do vậy, đã có tình trạng có Ngân hàng cần vốn thì lại không có, trong khi có những ngân hàng thừa vốn thì không có nhu cầu cho vay, chỉ được gửi vào tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng Nhà nước. Nhưng ngày nay do đã thay đổi nhận thức về cách quản lý tài sản Nợ có tính chất mềm dẻo hơn, nên các Ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau. Việc vay mượn này có thể diễn ra ngắn hạn, thậm chí vài ngày đến một, hai tháng hoặc lâu hơn.
b) Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:
Được thành lập từ ngày 15/10/1994, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là thị trường thay thế hai Trung tâm giao dịch hiện nay và bước khởi đầu để hình thành thị trường hối đoái sau này.
Hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã thể hiện bước đi đúng hướng và được đông đảo các Ngân hàng thương mại hưởng ứng. Thị trường đã có 40 ngân hàng thương mại được phảp kinh doanh ngoại tệ tham gia. Với chế độ mua bán thông thoáng, lượng ngoại tệ giao dịch giữa các thành viên với khách hàng của mình (các đơn vị kinh tế); giữa các ngân hàng thương mại với nhau và giữa các ngân hàng thương mại với NHNN đã đạt mức khá cao.
1.3.5 Nhận uỷ thác tài trợ
Nhận uỷ thác tài trợ là nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vốn gián tiếp vào nền kinh tế dưới dạng bằng tiền hay các dây chuyền sản xuất. Ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian, được hưởng phí không có trách nhiệm thẩm định những đối tượng khách hàng này.
Nguồn vốn tài trợ thường là nguồn vốn trung hạn, còn nguồn vốn ủy thác đầu tư là nguồn dài hạn có thời hạn còn dài hơn cả các dự án cho vay từ nguồn (đối với vốn ODA từ 30 -40 năm). Nguồn vốn này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất thấp. Đây là nguồn vốn mà qua đó NHTM có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế, trong đó nguồn vốn ODA là quan trọng nhất. Vì thế, mà các NHTM cần có kế hoạch huy động và tăng cường nguồn vốn này.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
Để có một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là một vấn đề nan giải. Nó đòi hỏi ở NHTM phải có những nghiệp vụ huy động vốn linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn hoạt động của ngân hàng cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy, việc xác định và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn là rất quan trọng, từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp.
1.4.1 Các nhân tố khách quan
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước và thế giới:
Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay không. Nếu các nhân tố này tạo ra sự ổn định của đồng tiền, tăng thu nhập thì sẽ là tiền đề để tăng quy mô tiền gửi và giảm chi phí cho ngân hàng. Khi đó các doanh nghiệp và cá nhân sẽ đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nên họ vay tiền nhiều và cũng gửi nhiều. Còn khi lạm phát xảy ra sẽ làm cho lãi suất thực giảm xuống trong khi lãi suất danh nghĩa không đổi làm giảm lợi ích của người gửi tiền nên họ sẽ tích trữ vàng hoặc ngoại tệ mạnh như dollar với kỳ vọng để đảm bảo giá trị đồng tiền của mình. Do đó, ngân hàng phải có chính sách huy động vốn thích hợp và hấp dẫn như tiền gửi đảm bảo bằng vàng, tiền gửi có tính đến trượt giá, huy động vốn bằng vàng và ngoại tệ thì sẽ có thể huy động được số vốn như mong muốn và giảm được lạm phát.
Sự ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của Chính phủ nên bản thân các ngân hàng không thể điều chỉnh được.
Chính sách của Nhà nước:
Đây là một trong các yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của các NHTM. Bởi khi Nhà nước khuyến khích việc mở rộng công tác huy động vốn thì nó có các chính sách khuyến khích, có hướng dẫn cụ thể hơn cho công tác này. Từ đó, các NHTM sẽ có các cơ sở để huy động nguồn vốn này dễ dàng hơn. Ngược lại, khi nhà nước không khuyến khích thì tất yếu công tác này sẽ rất khó có khả năng phát triển.
Hiện nay, Nhà nước ta đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn và đã ban hành một số chính sách và hướng dẫn thi hành cụ thể cho công tác này. Đồng thời, khuyến khích và mong các ngân hàng làm tốt hơn để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế và thu nhập của dân cư:
Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 8 chỉ rõ: “Để tạo vốn cho đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là làm ăn hiệu quả, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm kể cả tiết kiệm trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản xuất kinh doanh và trong tiêu dùng dân cư”.
Thực tế cho thấy nguồn vốn huy động từ dân cư đóng vai trò quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong huy động vốn. Như vậy, để có nguồn cho ngân hàng huy động vốn thì trước hết đòi hỏi bản thân các tổ chức, cá nhân và Nhà nước có chính sách tiết kiệm và coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, lượng tiền tiết kiệm có được đưa vào gửi ở NHTM hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khác chẳng hạn như tâm lý của khách hàng.
Thu nhập ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiết kiệm của dân cư, (thực tế cho thấy, người dân cư có thu nhập càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể càng lớn) do đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nhìn chung, khi đất nước phát triển, cuộc sống tương đối đầy đủ thì thu nhập người dân tăng, khi đó lượng tiền gửi vào ngân hàng dưới các hình thức dài hạn như kỳ phiếu, trái phiếu và cổ phiếu cũng sẽ tăng với số lượng lớn.
Nhu cầu tín dụng:
Nền kinh tế đòi hỏi nhiều vốn cho đầu tư phát triển, ngoài vốn ngắn hạn còn rất nhiều vốn trung và dài hạn. Song tự bản thân nó không thể đáp ứng đủ lượng vốn cần thiết, NHTM với vai trò là cầu nối giữa người tiết kiệm và người đầu tư đã góp phần cung cấp một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển do đó việc đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM vẫn chiếm vị trí quan trọng và cấp thiết.
Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý:
Ở những địa điểm dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh nghiệp hoạt động và kinh tế phát triển thì NHTM có thể huy động được nhanh hơn và nhiều hơn những nơi kém phát triển. Đặc biệt, những trung tâm giao dịch buôn bán sầm uất hoặc có sự phát triển lâu đời, có độ nhảy cảm cao với lãi suất và tiện ích do nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng đem lại thì ở đó việc mở rộng và bổ sung nguồn vốn của NHTM sẽ thuận lợi hơn các vùng sâu vùng xa và những vùng chậm phát triển.
1.4.2 Các nhân tố chủ quan
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
a) Chính sách lãi suất (bao gồm cả lãi suất huy động và cho vay)
Điều đầu tiên mà các cá nhân hay bất kỳ một tổ chức kinh tế nào muốn tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng chính là lãi suất. Lãi suất càng cao thì người gửi tiền càng bị hấp dẫn nhưng lãi suất huy động cao cũng có nghĩa là lãi suất cho vay ra cũng phải cao tương ứng thì ngân hàng mới có lợi. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các doanh nghiệp đi vay vốn và ngân hàng có thể sẽ không giải quyết được phần vốn đầu ra của mình, như vậy huy động cũng không để làm gì. Vì thế, đây là chính sách qua trọng của NHTM, nó đòi hỏi phải có sự linh hoạt sao cho mức lãi suất phải đủ cao để thu hút khách hàng nhưng cũng không được quá cao để vẫn có thể thu hút được khách hàng đi vay mà không làm giảm đi lợi nhuận của ngân hàng. Mức lãi suất huy động phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo quyền lợi của người đi vay.
Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn đến quy mô tiền gửi vào NHTM đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm vì người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lợi của các hình thức đầu tư khác như: cổ phiếu, trái phiếu... Từ đó, dân chúng sẽ đưa ra quyết định có nên gửi tiền vào ngân hàng hay không! Gửi bao nhiêu và dưới hình thức nào?...
Trường hợp gửi tiền với thời hạn dài thì khách hàng gặp nhiều rủi ro vì có thể lạm phát làm mất giá trị của đồng tiền hoặc khó có khả năng chuyển thành tiền hay gặp rủi ro khác của ngân hàng, gắn liền với khả năng họ không nhận lại được hoặc khó nhận được số tiền gửi tại ngân hàng. Vì thế, để làm cho khách hàng cảm thấy yên tâm gửi tiền vào ngân hàng thì bản thân ngân hàng phải đảm bảo lãi suất thực dương; cùng với khả năng chuyển đổi thành tiền dễ dàng hơn cần có mục đích rõ ràng trong khoản tiền huy động.
Đối với các tổ chức kinh tế xã hội thì ít nhạy cảm hơn đối với lãi suất mà NHTM huy động, họ quan tâm nhiều tới công nghệ ngân hàng, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất và tính tiện ích mà ngân hàng đưa ra cũng được các tổ chức này đặc biệt quan tâm.
b) Chính sách sản phẩm
Hình thành một cơ cấu sản phẩm đa dạng cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc thu hút khách của NHTM. Thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có thể thành công với cơ cấu sản phẩm nghèo nàn. Đa dạng hóa sản phẩm trong lĩnh vực ngân hàng đã khó, đa dạng hóa các hình thức huy động càng nan giải hơn. Đa dạng hóa sản phẩm không chỉ dừng lại ở đa dạng hóa kỳ hạn huy động vốn mà còn thể hiện ở sự đa dạng trong hình thức huy động. Các ngân hàng hiện nay không chỉ huy động tiền gửi tiết kiệm mà còn khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài khoản tiền gửi, huy động qua kỳ phiếu, trái phiếu... Qua đó từng bước đã thu hút được nhiều khách hàng hưởng ứng.
Một NHTM có sự đa dạng về nghiệp vụ huy động vốn trong nền kinh tế, thỏa mãn được nhu cầu của người gửi tiền sẽ làm cho khách hàng qua tâm và thúc giục họ gửi tiền vào ngân hàng hơn là tìm kiếm các hình thức đầu tư khác.
Chính sách xúc tiến khuyếch trương
Chính sách quảng cáo đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành trong thời đại ngày nay, trong đó không loại trừ ngành ngân hàng.
Ngày nay việc mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua việc khuyếch trương hoạt động quảng cáo, tuyên truyền là một việc làm hết sức cần thiết. Để tạo được hình ảnh đẹp trong con mắt khách hàng thì NHTM phải thực hiện đồng bộ nhiều yếu tố. Trong đó không chỉ chú trọng đến các hình thức quảng cáo như: quảng cáo trên tạp chí, Panô, internet... mà cần có sự kết hợp với các chính sách như: chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, đặc biệt là việc tuyên truyền quảng cáo để mọi tầng lớp dân cư hiểu biết về các thông tin là cần thiết.
Với phương châm “Sự thành công của khách hàng chính là sự thành công của ngân hàng”, ngân hàng phải làm sao cho người dân biết đến hoạt động của mình, thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Và trên cơ sở hiểu biết công tác huy động của ngân hàng thì dân chúng mới có thể nhiệt tình hưởng ứng.
Trình độ công nghệ của ngân hàng
Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã đóng góp rất nhiều vào sự thành công của các doanh nghiệp kể cả các ngân hàng. Việc áp dụng tin học trong hệ thống ngân hàng đã giúp ích rất nhiều trong việc lưu trữ và tìm lại thông tin, giúp cho ngân hàng có thể phục vụ khách hàng được nhanh chóng hơn, chính xác hơn và vì vậy lôi cuốn được nhiều khách hàng hơn.
Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã góp phần đáng kể làm cho thông tin giữa khách hàng và ngân hàng được nối liền, tăng cường thêm mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng.
Việc áp dụng công nghệ hiện đại vào ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc áp dụng những thành công của công nghệ thông tin, hơn thế nữa đó là sự áp dụng những máy móc hiện đại vào hoạt động của ngân hàng, hình thành nên những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Sự mở rộng mạng lưới bán hàng điện tử, tăng máy rút tiền tự động đã làm tăng thêm khối lượng khách hàng cho ngân hàng.
Khi trình độ ngân hàng càng hiện đại thì ngân hàng giảm bớt được các chi phí quản lý và những chi phí khác, giúp ngân hàng có thể tăng thêm lãi suất tiền gửi mà không làm ảnh hưởng đến lãi suất cho vay hay thiệt hại đến lợi nhuận của ngân hàng. Và như thế sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền.
Kết luận: trình độ công nghệ ngân hàng đã gián tiếp tác động tới khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Ngân hàng nào có trình độ công nghệ cao sẽ thúc đẩy nhanh khối lượng vốn huy động.
Uy tín của ngân hàng
Khi khách hàng quyết định gửi tiền vào ngân hàng thì người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do đó, họ thường có sự cân nhắc và lựa chọn ngân hàng nào được họ thừa nhận là an toàn và thuận lợi nhất hay nói cách khác có uy tín đối với người gửi tiền. Uy tín của ngân hàng được thể hiện qua sự hoạt động lâu năm của ngân hàng, cán bộ ngân hàng, công nghệ ngân hàng hay kết quả hoạt động kinh doanh... Do vậy, các ngân hàng phải tạo ra lòng tin cho các khách hàng bằng cách phục vụ nhiệt tình, chu đáo, nhanh chóng, mặt khác các khoản tiền cũng phải hoàn trả đủ và đúng thời hạn, đáp ứng mọi yêu cầu thanh toán của khách hàng. Khi có lòng tin vào ngân hàng, tất yếu họ sẽ mang tiền đến gửi.
Tinh thần thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên ngân hàng
Với tình hình hiện nay, đây là một yếu tố khá quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Trong nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh với quan điểm khách hàng là thượng đế thì tất cả các doanh nghiệp không riêng gì ngân hàng đều muốn gây được sự chú ý của khách hàng ngay từ buổi đầu. Để làm được điều này thì cần phải chú trọng tới tinh thần thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ nhân viên, vì chính điều này có tác động trực tiếp tới suy nghĩ, nhận thức, ấn tượng của khách hàng đối với ngân hàng. Nếu khách hàng có ấn tượng tốt với ngân hàng thì chắc chắn họ sẽ muốn tiếp tục quan hệ với ngân hàng. Còn ngược lại, khi khách hàng thấy tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng không tốt thì họ sẽ tìm đến ngân hàng khác với thái độ phục vụ tốt hơn và lợi ích của họ vẫn được đảm bảo.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SACOMBANK
2.1 Khái quát về Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của Sacombank
Chức năng, nhiệm vụ của Sacombank
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, tên viết là Sacombank, có trụ sở chính tại Số 278 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 8, quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập và hoạt động theo Giấy phép số 0006/NH-CP ngày 05/12/1991, trên cơ sở sáp nhập 4 tổ chức tín dụng là: Ngân hàng phát triển kinh tế Gò Vấp, HTX tín dụng Lữ Gia, Tân Bình và Thành Công với chức năng, nhiệm vụ chính là huy động vốn, cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng.
Bộ máy tổ chức của Sacombank
Đứng đầu bộ máy tổ chức là Đại hội đồng cổ đông. Đại diện cho Đại hội đồng cổ đông là Hội đồng quản trị. Bộ máy tổ chức của Sacombank được thể hiện thông qua sơ đồ tổ chức ( được trình bày ở trang sau)
2.1.2. Tình hình hoạt động của Sacombank
Ngày 21/12/1991, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) được chính thức cấp phép hoạt động trên cơ sở chuyển thể và sáp nhập Ngân hàng phát triển kinh tế Gò Vấp và 3 Hợp tác xã tín dụng: Tân Bình – Thành Công - Lữ Gia. Khởi đầu, ngân hàng có mức vốn điều lệ là 2,9 tỷ đồng với 4 điểm giao dịch chỉ trong phạm vi Tp. Hồ Chí Minh và tình hình tài chính, nhân sự không thực mạnh. Đây cũng là giai đoạn mà các hợp tác xã tín dụng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng với hàng loạt các hợp tác xã tín dụng mất khả năng chi trả, vỡ nợ niềm tin của công chúng đối với các định chế tài chính ngoài quốc doanh sụp đổ.
Ra đời và hoạt động trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, có những thời điểm tưởng chừng như không thể vượt qua được, nhưng với quyết tâm và những quyết sách đúng đắn, kịp lúc kịp thời đến nay Ngân hàng đã đứng khá vững và phát triển, thương hiệu và hình ảnh Sacombank đã tìm được vị trí xứng đáng trên thị trường cũng như trong lòng công chúng. Sau gần 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với:
5.116 tỷ đồng vốn điều lệ;
Trên 239 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45 tỉnh thành trong cả nước và 01 Văn phòng đại diện tại Trung Quốc;
9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng tại 91 quốc gia và vùng lãnh thổ;
Khoảng 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo;
Khoảng 60.000 cổ đông đại chúng;
Chúng ta xem xét các khía cạnh sau:
Huy động vốn:
Tình hình cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trong những năm gần đây diễn ra vô cùng gay gắt. Bên cạnh việc cạnh tranh thu hút vốn thông qua chính sách lãi suất, các ngân hàng cũng liên tục đưa ra các chương trình khuyến mãi, các sản phẩm huy động hấp dẫn,.. để tăng nguồn huy động. Ngoài ra, cũng phải kể đến yếu tố cạnh tranh ngoài ngành ngân hàng. Sự phát triển của thị trường vốn vớ các đợt phát hành thành công các loại trái phiếu, tính hấp dẫn của các đợt phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức tài chính phi Ngân hàng như bảo hiểm, bưu điện, công ty tài chính,.. cũng đã chia sẻ thị phần huy động vốn, tạo sức ép lên nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đó, việc mở rộng mạng lưới và đưa ra nhiều sản phẩm huy động đa dạng, áp dụng cơ chế điều hành lãi suất linh hoạt, phong cách phục vụ được cải tiến theo hướng đem tịên ích cao nhất đến cho khách hàng, cộng với vị thế và uy tín Sacombank đã thu hút được nguồn huy động với sự tăng trưởng khá cao.
Đến 31/12/2006, tổng nguồn huy động của Ngân hàng là 21.338 tỷ đồng, tăng 74% so với năm trước và tăng hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng toàn ngành (35%). So với năm 2001, tổng nguồn vốn huy động tăng 7,5 lần, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là: 50,5%. Và tại 31/12/2007, tổng nguồn huy động tăng 161% so với năm 2006.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động thì huy động vốn bằng VNĐ chiếm tỷ trọng 81%, bằng vàng là: 9% và bằng ngoại tệ là 10%; Nguồn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt 88,8% trong tổng nguồn huy động. Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng 96,9%.
Bên cạnh việc đa dạng hoá sản phẩm, để mở rộng nguồn vốn huy động, tăng tỷ trọng nguồn vốn dài hạn, Ngân hàng tiếp tục đàm phán, giải ngân nguồn vốn uỷ thác, đầu tư từ các định chế tài chính quốc tế. Số dư huy động đến cuối năm 2007 đạt 1.003,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,8% tổng nguồn vốn huy động.
Nhìn chung, Sacombank có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động khá cao và sự chuyển dịch về cơ cấu huy động khá hợp lý, cho thấy công tác mở rộng mạng lưới, mở rộng địa bàn hoạt động đã bắt đầu phát huy tác dụng. Đây cũng là lợi thế cạnh tranh của Sacombank trong thời kỳ hội nhập toàn diện. Hoạt động cho vay:
Trong bối cảnh biến động mạnh của tình hình kinh tế - xã hội, thị trường vốn và thị trường tiền tệ trong nước, Sacombank đã không ngừng nâng cao năng lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay thích ứng với từng địa bàn và hoàn cảnh cho vay, đưa ra các sản phẩm và dịch vụ cho vay hấp dẫn, linh hoạt; hoàn thiện chính sách tín dụng, các mô hình đánh giá xếp hạng và các biện pháp kiểm soát tín dụng hiệu quả. Nhờ vậy, hoạt động tín dụng của Sacombank có sự tăng trưởng khá ổn định.
Tính đến thời điểm 31/12/2007 tổng dư nợ cho vay quy ra VNĐ là 35,378 tỷ đồng, tăng 146% so với đầu năm và tăng hơn 3 lần so với tốc độ tăng trưởng toàn ngành.
Về cơ cấu dư nợ cho vay: Cơ cấu danh mục cho vay khách hàng của Sacombank không ngừng được cải thiện theo hướng đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng và mở rộng địa bàn cho vay, ngành nghề cho vay và đối tượng vay vốn. Qua đó nhằm phân tán rủi ro tín dụng và phù hợp với định hướng phát triển Sacombank là một ngân hàng bán lẻ - đa năng - hiện đại - tốt nhất Việt Nam.
Theo thời hạn cho vay: cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng 61,4% và cho vay trung dài hạn 38,6%.
Tỷ lệ cho vay/ huy động cuối năm 2007 là 63,5% giảm 4% so với năm 2006. Đây là định hướng phát triển bền vững của Sacombank nhằm từng bước đa dạng danh mục sử dụng vốn và giảm dần sự lệ thuộc vào hoạt động tín dụng.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao nhưng chất lượng tín dụng vẫn đảm bảo, nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ là 0,95%, trong đó tỷ lệ nợ xấu 0,72% và quỹ dự phòng rủi ro đến cuối năm 2007 đạt 81,4 tỷ đồng, tăng 77,4% so với năm trước. Đây là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết, làm tăng sự an toàn và lành mạnh trong hoạt động.
Công cụ sử dụng để kiểm soát chất lượng tín dụng cũng được tăng cường và hiện đại hoá. Hệ thống xếp hạng tín dụng sau thời gian vận hành thử nghiệm đã chính thức áp dụng cho tất cả các khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Hệ thống này là công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc chuẩn hoá việc xếp loại, xếp hạng khách hàng, quản lý chất lượng tín dụng, dự báo rủi ro,....
Từ chỗ đơn thuần là huy động – cho vay, đến nay Ngân hàng đã đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của mình. Việc cung cấp đa dạng dịch vụ không chỉ giúp tăng thêm thu nhập, mà còn là hướng phát triển chiến lược của Ngân hàng trong dài hạn, từng bước tăng tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu, giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào thu nhập từ hoạt động tín dụng, đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững của Ngân hàng.
Hoạt động đầu tư:
Cùng với sự khởi sắc của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, thị trường chứng khoán phát triển sôi động và chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh, đây là cơ hội tiềm năng để phát triển hoạt động đầu tư. Bên cạnh tăng nhanh vốn điều lệ để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư, liên doanh liên kết, góp vốn mua cổ phần vào các tổ chức kinh tế, Sacombank đã và đang thực hiện chính sách đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm sự trữ thanh khoản thứ cấp, phân tán rủi ro và tối ưu hoá lợi nhuận. Tính đến cuối năm 2007, tổng số dư đầu tư và chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và góp vốn mua cổ phần đạt 4.350 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2006. Nhìn chung, hoạt động đầu tư đóng góp đáng kể vào kết quả chung của Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán và bảo lãnh:
+ Hoạt động thanh toán quốc tế: Khởi đầu nghiệp vụ thanh toán quốc tế từ năm 1994 với những cái “không:” không kinh nghiệm, không ngân hàng đại lý, thương hiệu, uy tín chưa được biết đến; việc mở thư tín dụng phải được thực hiện qua trung gian là các ngân hàng bạn. Từng bước, từng bước, vừa làm vừa học hỏi, rút kinh nghiệm, qua hơn 10 năm Ngân hàng đã có những thành công bước đầu trong nghiệp vụ này. Ngân hàng đã đặt quan hệ với 1.173 đại lý của 72 Ngân hàng, và đến cuối năm Sacombank đã đặt quan hệ với 8.900 đại lý của 222 Ngân hàng tại 85 quốc gia trên thế giới.
Tổng doanh số thanh toán quốc tế (quy đổi USD) trong năm 2007 là: gần 2.301,46 triệu USD, tăng 20% so với năm trước. Hiện nay, Sacombank đã thiết lập mạng lưới hàng ngàn đại lý của hàng trăm ngân hàng tại hàng chục các quốc gia khắp 5 châu, tham gia Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT), nâng cấp dịch vụ, rút ngắn thời gian thanh toán, nâng cao uy tín trong cộng đồng và ngân hàng. Những yếu tố này đã góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển mạnh mẽ. Trong năm 2004, 2005, 2006,2007 Sacombank đã được các ngân hàng Citigroup, HSBC, Wachovia, Union Bank of California,... trao tặng bằng khen vì những thành tích trong lĩnh vực thanh toán quốc tế.
+ Hoạt động thanh toán nội địa: Nhờ việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải tiến việc xử lý chứng từ thanh toán, cũng như tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, chất lượng hoạt động thanh toán nội địa đã tăng lên đáng kể. Doanh số chuyển tiền đi trong và ngoài hệ thống tăng trưởng ổn định, năm 2007 đạt 160.505 tỷ đồng, tăng 70% so với năm trước.
+ Bảo lãnh: Doanh số bảo lãnh trong năm 2007 là 78 triệu USD và 982,3 tỷ đồng.
- Hoạt động thanh toán thẻ: Với tái cấu trúc mới, trung tâm thẻ trực thuộc khối dịch vụ cá nhân đã đi dần vào hoạt động ổn định và có nhiều tiến bộ so với các năm trước. Với sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới như thẻ Visa Debit, thẻ đồng thương hiệu VNPay, Sacom Metro, triển khai hoạt động chấp nhận thanh toán thẻ Master, dịch vụ chuyển tiền qua máy ATM,.... Bước đầu hoạt động thanh toán thẻ của Sacombank đã tạo ra được sự chuyển biến đáng kể. Tổng số thẻ đã phát hành trong năm 2007 là 60.775 thẻ, tăng 40% so với năm trước. Nâng tổng số thẻ lưu hành đến cuối năm 2007 đạt 110.144 thẻ. Mạng lưới chấp nhận thẻ được tái bố trí, sắp xếp lại địa điểm và mở rộng thêm, đến cuối năm 2007 có 1.417 điểm chấp nhận thẻ.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sacombank phát triển mạnh trong những năm gần đây, với doanh số năm sau cao hơn năm trước và đóng góp một tỷ trọng không nhỏ trong thu dịch vụ của Ngân hàng. Doanh số kinh doanh tiền tệ trong năm 2006 đạt hơn 15 tỷ USD gấp 195 lần so với năm 1994.
Các nghiệp vụ phái sinh của hoạt động này như: nghiệp vụ hoán đổi (Swap), kỳ hạn (future), quyền chọn (option),... cũng góp phần đa dạng hoá sản phẩm, cung cấp thêm lựa chọn cho khách hàng và đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
Kết quả hoạt động kinh doanh: Liên tục từ năm 1993, sau hơn 1 năm đi vào hoạt động đến nay Sacombank luôn có lợi nhuận với xu hướng chung là năm sau cao hơn năm trước. Năm 2007 là năm đạt mức lợi nhuận cao nhất từ trước đến nay. Lợi nhuận trước thuế đạt 1.452 tỷ đồng, tăng 167% so với năm trước, bằng 15,5 lần so với năm 2001 và đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2007 là 74%.
Với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ, hiện đại, đa năng hàng đầu tại Việt Nam, Sacombank đã và đang thực hiện các chiến lược trọng tâm: tăng cường năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển hệ thống sản phẩm dịch vụ,… đến nay Sacombank đã tăng vốn điều lệ lên 5.116 tỷ đồng, trở thành 1 trong 5 ngân hàng thương mại Việt Nam có nguồn lực tài chính mạnh nhất. Và vào ngày 16/05/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính Sacombank.
2.2 Thực trạng huy động vốn tại Sacombank từ 2005 đến 2007
Giai đoạn từ năm 2004 – 2007 chứng kiến nhiều sự biến động của nền kinh tế thế giới cũng như tại Việt Nam. Sự biến động này đã ảnh hưởng toàn diện đến hoạt động kinh tế xã hội cả nước, đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, từng sự biến động của kinh tế thế giới đều có nhữ._.cho việc sử dụng nguồn nhân lực chưa đúng chuyên môn hay không đạt hiệu quả trong công việc sẽ trở thành một gánh nặng cho ngân hàng.
Đồng thời đó chính là việc duy trì và ứng dụng công nghệ chưa đồng bộ trong toàn hệ thống sẽ tốn kém và chậm trễ hơn so với đối thủ
Nguồn vốn huy động trung dài hạn còn chưa đáp ứng được với nhu cầu tín dụng trung dài hạn.
Mặc dù, Sacombank đã mở rộng các điểm thanh toán thẻ cũng như đa dạng các loại thẻ song nghiệp vụ thanh toán thẻ chưa phát huy được vai trò của mình, số lượng thẻ phát hành chưa đạt so với kế hoạch, số lượng giao dịch qua thẻ không nhiều và chưa thường xuyên nên chưa tận dụng được tối đa nguốn vốn trong thanh toán.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SACOMBANK
3.1 Định hướng phát triển của Sacombank
Bước vào năm 2008, bản lề của giai đoạn phát triển 2006-2010 và là năm thứ 2 nền kinh tế nước ta hội nhập WTO ngày càng toàn diện, trong đó theo lộ trình sẽ có sự hiện diện ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cơ hội và thách thức đang chờ đón. Dựa vào nội lực của Sacombank, cùng với những lợi thế so sánh Sacombank đã mạnh dạn xây dựng định hướng phát triển năm 2008 và các năm tiếp theo đổi mới và tự tin, tiếp tục đưa Sacombank phát triển tăng tốc, bền vững, an toàn và hiệu quả.
Về năng lực tài chính:
Tiếp tục tăng nhanh vốn tự có bằng việc tăng cường tích lũy thông qua việc phát triển mạnh các quỹ dự trữ và dự phòng, phấn đấu đến cuối năm 2010 vốn tự có đạt khoảng 16.000 - 16.500 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ đô-la Mỹ). Trong đó, vốn điều lệ tính đến năm 2010 đạt khoảng trên 11.500 tỷ đồng chủ yếu bằng phương thức tái đầu tư từ cổ tức của cổ đông hiện hữu.
Về tổng tài sản:
Tổng tài sản của Sacombank đến năm 2010 dự kiến sẽ đạt mức tối thiểu 155.000 tỷ đồng tăng gấp gần 10,5 lần so với cuối năm 2005. Trong đó, giai đoạn 2007-2010 nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng trưởng bình quân 60-65%.
Về hoạt động tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay đến cuối năm 2010 dự kiến sẽ đạt 82.000 – 83.500 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 65 – 67% trên tổng nguồn vốn huy động, tăng bình quân mỗi năm khoảng 55 – 60% so với năm trước. Trong đó, dư nợ cho vay nhỏ, phân tán phải chiếm tỷ trọng 55 – 60%. Nợ quá hạn chiếm tỷ trọng dưới 2%/ tổng dư nợ tín dụng.
Về kinh doanh dịch vụ:
Trong thời kỳ kế hoạch 2006 – 2010, Sacombank sẽ tập trung hết sức vào quá trình phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng; quan tâm đặc biệt đến các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng quốc tế. Dự kiến đến năm 2010 thu nhập phi tín dụng phải chiếm tỷ trọng khoảng 32 - 35% trên tổng thu nhập của ngân hàng.
Về lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính:
Trong những năm 2007 – 2010 đảm bảo lợi nhuận trước thuế tăng bình quân mỗi năm 55 – 60% so với năm trước. Tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài sản vào năm 2010 dự kiến đạt 1,7 - 1,9% và tỷ suất sinh lời/ vốn vào năm 2010 đạt 22 - 23%.
Về mạng lưới hoạt động:
Phấn đấu đến cuối năm 2010, mạng lưới chi nhánh của Sacombank sẽ có mặt tại tất cả các tỉnh, thành miền Nam, miền Trung và tại tất cả các tỉnh thành kinh tế trọng điểm miền Bắc. Dự kiến mạng lưới hoạt động của Sacombank vào năm 2010 sẽ đạt trên 320 điểm. Đồng thời tiến hành thành lập các chi nhánh/VPĐD tại các quốc gia lân cận, văn phòng đại diện tại Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Từ năm 2007, Sacombank cũng đã lên kế hoạch thành lập thành lập công ty vàng bạc, đá quý.
Về hệ thống công nghệ thông tin:
Mục tiêu đặt ra Sacombank phải là một trong những ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và tiên tiến nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại trong cả nước.
Về phát triển nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố cốt lõi để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Dự kiến đến năm 2010 đội ngũ CBNV của Ngân hàng đạt trên 9.500 người, Sacombank sẽ khẩn trương xây dựng Trung tâm đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo căn bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo nâng cao và đào tạo cán bộ quản lý điều hành các cấp.
Về tái cấu trúc tổ chức và hoạt động của Ngân hàng:
Hoàn thiện bộ máy điều hành theo dòng sản phẩm hướng về khách hàng, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên theo hướng chuyên nghiệp hóa, tăng cường kỹ năng quản trị – điều hành – giám sát. Đồng thời trong năm 2007 hoàn tất chương trình chuẩn mực hóa, mô hình hóa các quy trình tác nghiệp để nâng cao năng suất lao động và chăm sóc tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng.
Mục tiêu chung của chiến lược phát triển là phải đạt được những giá trị cốt lõi: Ngân hàng phát triển nhanh, ổn định và bền vững trên cơ sở đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giao dịch tài chính của khách hàng; đảm bảo được các lợi ích cộng đồng và xã hội; tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng, cổ đông và các nhà đầu tư; tăng thu nhập cho cán bộ nhân viên.
Về huy động vốn:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động, tăng 45% đến 65% so với năm 2007 nhằm tương xứng với quy mô vốn tự có và đáp ứng nhu cầu tín dụng. Trong đó, nguồn vốn có lãi suất thấp phấn đấu đạt từ 20% đến 25%. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và phương thức huy động vốn. Tăng cường tài khoản thanh toán để tận dụng nguồn vốn trong thanh toán.
3.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank
3.2.1 Tăng quy mô vốn chủ sở hữu
Các ngân hàng trên thế giới trong những năm gần đây đang chịu một áp lực rất lớn từ nhiều phía buộc phải tăng mức vốn để đảm bảo tăng trưởng và giảm rủi ro cho những người gửi tiền. Có rất nhiều yếu tố gây nên áp lực này, bao gồm cả những yếu tố thuộc về các cơ quan quản lý và các yếu tố thuộc về thị trường tài chính. Lạm phát là một yếu tố quan trọng gây áp lực tăng vốn, bởi vì dù lạm phát nâng cao giá trị tài sản của ngân hàng nhưng lạm phát cũng đồng thời nâng cao giá trị của các khoản nợ và kết quả là giá trị vốn của ngân hàng có chiều hướng giảm sút. Nền kinh tế ngày càng biến động trong những năm gần đây cũng buộc ngân hàng phải tìm cách bổ sung quy mô vốn của mình vì môi trường kinh tế mới này đưa đến những rủi ro cao hơn trong hoạt động ngân hàng. Những giới hạn về cho vay cũng là yếu tố thúc đẩy các ngân hàng nâng cao mức vốn để có thể đáp ứng yêu cầu vay vốn của những khách hàng lớn. Chi phí hoạt động tăng lên, đặc biệt là chi phí về đất đai, trang thiết bị, chi phí về nhân sự tăng cao trong những năm gần đây đã gây khó khăn cho vấn đề tăng thu nhập của ngân hàng – nguồn cơ bản để tăng vốn hàng năm. Cuối cùng, rất nhiều nhà đầu tư trên thị trường vốn cho rằng hoạt động ngân hàng dường như tiềm ẩn nhiểu rủi ro hơn dưới tác động của quá trình phi quản lý hóa, của sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng và dưới tác động của điều kiện kinh tế không ổn định. Giới đầu tư trên thị trường vốn dường như muốn các ngân hàng phải chú ý hơn nữa tới sức mạnh về vốn của họ và tỏ ra không hào hứng với những chứng khoán hay chứng chỉ tiền gửi tiền của những ngân hàng có mức tư bản hóa kém.
Ngân hàng có thể tăng vốn qua 02 hình thức: tăng vốn từ nguồn nội bộ và tăng vốn từ nguồn bên ngoài.
Tăng vốn từ nguồn nội bộ: trong nhiều năm, nguồn bổ sung vốn cơ bản là những khoản lợi nhuận không chia sau khi ngân hàng đã tiến hành chia cổ tức. Nguồn vốn phát sinh nội bộ có thuận lợi là giúp ngân hàng không phải phụ thuộc vào thị trường vốn và nhờ vậy tránh được chi phí huy động vốn.
Tăng vốn từ nguồn bên ngoài, nếu ngân hàng có nhu cầu tăng vốn từ các nguồn bên ngoài thì có thể lựa chọn các cách sau: bán cổ phiếu, bán tài sản và thuê lại hoặc cho thuê tài sản cố định.
Khi tăng vốn ngân hàng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
Ngân hàng phải xác định quy mô vốn hợp lý
Xác định lượng vốn có thể được tạo ra từ việc không chia lợi nhuận
Đánh giá và lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhất với những nhu cầu và mục tiêu của ngân hàng
3.2.2 Mở rộng mạng lưới và đa dạng hóa hình thức huy động
Đối với công tác mở rộng mạng lưới:
Tiếp tục phát triển mở rộng mạng lưới theo đúng kế hoạch đã đề ra, đặc biệt là thành lập các khu kinh tế mới như: khu kinh tế Hải Hà- Quảng Ninh; Đông Nam- Nghệ An; Hòn La- Quảng Bình; khu kinh tế Nam Phú Yên,...Đây sẽ là những nơi thu hút vốn đầu tư rất lớn, là cơ hội và tiềm năng phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng. Đồng thời, kiểm tra đánh giá để có biện pháp củng cố, phát triển mạng lưới đang có, đặc biệt là mạng lưới phòng giao dịch phát triển với tốc độ khá nhanh thời gian qua.
Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu các địa bàn trọng điểm, có nhiều tiềm năng để chuẩn bị cho kế hoạch mở rộng mạng lưới trong những năm tới. Đảm bảo cho việc phát triển mạng lưới là nhằm chiếm lĩnh thị trường trọng điểm và phục vụ cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, hạn chế việc phát triển chỉ để tăng trưởng tín dụng.
Đối với hoạt động huy động vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế tiếp tục tăng cao để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng nên cạnh tranh về huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ rất gay gắt, do đó ngân hàng cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Cần theo dõi diễn biến trên thị trường để có những điều chỉnh kịp thời về lãi suất, áp dụng mức lãi suất “thông minh” theo từng khu vực. Xây dựng cơ sở dữ liệu và phân tích về cơ cấu lãi suất, tác động của cơ cấu lãi suất đến nguồn vốn huy động của ngân hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công cụ lãi suất.
Triển khai các chương trình huy động kèm theo tặng quà hoặc tiết kiệm dự thưởng một cách linh hoạt, hấp dẫn và áp dụng ở những địa bàn trọng điểm về huy động. Thiết lập quan hệ và có chính sách phù hợp đối với một số khách lớn nhằm tăng cường và ổn định nguồn vốn lãi suất thấp.
Tăng cường tiếp thị, cung cấp những sản phẩm dịch vụ đa dạng nhằm tăng số lượng tài khoản thanh toán từ đó giúp ngân hàng có nguồn vốn lãi suất thấp cũng như có điều kiện bán chéo sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Tăng cường mối quan hệ thanh khoản, các hạn mức tín dụng với các ngân hàng bạn, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tranh thủ nguồn vốn liên ngân hàng và chủ động trong những tình huống thiếu hụt thành khoản. Đẩy mạnh hoạt động tiếp nhận vốn từ các dự án, tổ chức tài chính quốc tế như RDF, FMO, JBIC… nhằm bổ sung một phần nguồn vốn trung dài hạn ổn định.
3.2.3 Phát triển sản phẩm thẻ và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ thanh toán khác nhằm sử dụng tối ưu nguồn vốn trong thanh toán
Trên cơ sở định hướng và chiến lược đã được xác lập, từng bước tổ chức thực hiện, khắc phục và chỉnh sửa những tồn tãi cũ về yếu tố kỹ thuật, quy mô tổ chức; đầu tư mạnh về nhân lực và tài lực cho hoạt động phát triển thẻ theo hướng xác định đây là một trong những sản phẩm dịch vụ chính yếu trong tương lai của ngân hàng.
Tăng cường sự phối hợp giữa trung tâm thẻ, khối tín dụng và các chi nhánh trong hoạt động phát triển thẻ, đặc biệt là thẻ tín dụng thông qua việc xây dựng các sản phẩm thẻ tín dụng hướng đến những đối tượng khách hàng chuyên biệt với những cơ chế, chính sách tín dụng được điều chỉnh một cách linh hoạt và phù hợp. Rút kinh nghiệm những sản phẩm trước đây, cần phải chuẩn bị tốt để khi đưa sản phẩm là phải thắng, chiếm lĩnh thị trường.
Song song đó chuẩn bị điều kiện cần thiết để phát hành thẻ quốc tế, cũng như thẻ liên thông với các ngân hàng khác; tích cực tiếp thị và phát triển thẻ Sacombank, mở rộng hệ thống các điểm chấp nhận thẻ của Sacombank trên các địa bàn và vị trí trọng điểm.
3.2.4 Tăng cường công tác marketing trong huy động vốn:
Một trong những nguyên nhân của việc người dân chưa muốn gửi tiền vào ngân hàng là bởi họ chưa biết đến hình ảnh ngân hàng đó. Điều đó đồng nghĩa với việc uy tín của ngân hàng đó chưa cao, nên ngân hàng chưa thể làm tốt vai trò của mình. Đối với Sacombank thời gian qua đã không ngừng có những chiến dịch quảng bá, xây dựng thành một thương hiệu mạnh trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên trước sức ép cạnh tranh, đặc biệt sức ép cạnh tranh từ các ngân hàng lớn trên thế giới đặt chi nhánh tại Việt Nam, ngân hàng cần có những chiến lược cụ thể và hiệu quả nhằm nâng cao hình ảnh của mình.
Trước tiên đó chính là việc nỗ lực xây dựng một văn hoá doanh nghiệp bền vựng có tầm nhìn dựa trên giá trị cốt lõi được đánh giá cao của ngân hàng. Ngân hàng, cụ thể là bộ phận nghiên cứu triển khai cùng đội ngũ marketing cần có những kế hoạch nghiên cứu thị trường một cách sâu sắc để tìm kiếm và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu phát sinh của khách hàng theo một cách đặc trưng nhất để tạo ra sự khác biệt trong nhận thức của khách hàng.
Tiếp đó, ngân hàng cần xây dựng và quảng bá thương hiệu của Sacombank trên thương trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tham gia xếp hạng tín nhiệm quốc tế, thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài chính - ngân hàng, các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội tài chính ngân hàng trong và ngoài nước, cũng như chủ động tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động từ thiện.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, một thương hiệu mạnh cần phải dựa trên những ưu điểm vượt trội ở chính sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp. Vì rằng, với những thông tin quảng cáo có thể thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhưng để giữ khách hàng ở lại lâu dài thì chính chất lượng thực sự của dịch vụ ngân hàng cung cấp mới có thể làm được điều đó.
3.2.5 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Có huy động được vốn thì mới có hoạt động sử dụng và sử dụng vốn quay trở lại là cơ sở và động lực cho công tác huy động vốn. Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để ngân hàng thực hiện huy động vốn sau này. Chỉ khi nào khách hàng thực sự tin tưởng là đồng tiền họ gửi vào ngân hàng được an toàn và sinh lãi thực sự thì họ mới gửi. Các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh ngân hàng cổ phần ở Việt Nam hiện nay mặc dù có mức huy động lãi suất khá cao, thời gian phục vụ nhanh, thái độ thường là tốt hơn ngân hàng quốc doanh nhưng lượng khách thu hút được vào ngân hàng này vẫn chỉ là những con số rất nhỏ bé. Đơn giản là người dân vẫn chưa tin tưởng vào các ngân hàng này. Họ không biết là ngân hàng này làm ăn có lãi thường xuyên hay không hay là đang huy động để thực hiện những dự án có thể sinh lãi nhưng rủi ro cao, nếu không trả được nợ thì tuyên bố phá sản. Ai cũng hiểu rằng kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh thương mại, có đầu ra, đầu vào nếu không giải quyết đầu ra được tốt thì đầu vào đương nhiên bị ứ đọng, và chẳng có khách hàng nào muốn cấp vốn cho một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chẳng có ai gửi tiền vào những ngân hàng có vấn đề về tín dụng.
Ngân hàng muốn được khách hàng tin tưởng gửi tiền thì trước tiên cần phải chứng minh cho khách hàng thấy được ngân hàng là người biết kinh doanh, có khả năng làm lợi cho khách hàng, tức là phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của mình mà chủ yếu là hoạt động cho vay của ngân hàng.
Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho ngân hàng đồng thời tạo ra cơ sở để ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng của mình.
Dưới đây là một số giải pháp ngân hàng có thể sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thời gian tới.
Huy động vốn và sử dụng vốn phải gắn bó với nhau theo một nguyên tắc tương ứng về thời hạn đồng thời xem xét tính ổn định của nguồn tiền huy động theo thời hạn để có những phương án sử dụng hợp lý, đem lại hiệu quả cao với chi phí thấp.
Công tác thu nợ cần chú trọng việc thu nợ đúng hạn đảm bảo cho ngân hàng thực hiện các kế hoạch, mục tiêu theo đúng chiến lược đã đặt ra.
Tiếp tục tái cơ cấu dư nợ tín dụng theo chủ trương và kế hoạch đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, tạo cơ cấu an toàn và có hiệu quả. Tiến hành xây dựng cơ cấu tín dụng định hướng trong dài hạn nhằm giúp các đơn vị chủ động trong việc tái cơ cấu và phát triển tín dụng đúng định hướng.
Nghiên cứu và áp dụng việc điều chỉnh lãi suất theo hướng linh hoạt, áp dụng cho từng loại hình cho vay khác nhau, cho từng đối tượng khách hàng, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Có như vậy mới giúp ổn định tăng trưởng tín dụng đồng thời tăng thu nhập trong điều kiện lãi suất bình quân đầu ra của ngân hàng đang khá cao như hiện nay.
Thực hiện phân loại khách hàng và có chính sách ưu đãi phù hợp, cạnh tranh cao đối với khách hàng lớn, có uy tín, sử dụng nhiều sản phẩm - dịch vụ của ngân hàng, đồng thời mạnh dạn tăng lãi suất và mở rộng có chọn lọc đối với cho vay phân tán.
Tích cực nghiên cứu, triển khai và đẩy mạnh một số nghiệp vụ mới theo nhu cầu của nền kinh tế như bao thanh toán, cho vay cầm cố chứng từ có giá, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, thanh toán mua bán nhà đất, mua nhà trả góp, đẩy mạnh cho vay từ nguồn vốn tín dụng quốc tế như RDF, FMO,… Các nghiệp vụ phải đơn giản hoá thủ tục và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nền kinh tế và của khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu về chất lượng tín dụng.
Đi đôi với việc phát triển tín dụng, cần tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng bền vững. Tiến hành một cách quyết liệt công tác thu hồi và xử lý nợ quá hạn, lên kế hoạch và lập lộ trình cụ thể cho việc giải quyết nợ nhằm khống chế tỷ lệ nợ quá hạn theo kế hoạch đặt ra.
Củng cố và phát huy vai trò của phòng quản lý tín dụng tại các chi nhánh, tránh tình trạng thiếu cán bộ hoặc bố trí các bộ phận kiêm nhiệm hoặc chỉ hoạt động hình thức.
3.2.6 Hoàn thiện củng cố hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác huy động vốn
Công tác tiếp nhận, chuyển giao và đưa vào vận hành hệ thống Core-banking – T24 phải luôn được xem là một trong những công tác trọng tâm và phải được ưu tiên tập trung nhân lực và tài lực để dự án sớm được hoàn thành theo đúng tiến độ.
Chú ý phối hợp tổ chức tốt giữa ban điều hành và các chi nhánh, phòng ban nghiệp vụ trong quá trình cài đặt và vận hành hệ thống Corebanking mới.
Trung tâm công nghệ thông tin cần phải có những bước chuẩn bị thích hợp cho việc tiếp nhận và vận hành thuần thục những công nghệ mới ứng dụng cho hoạt động ngân hàng; phát huy hơn nữa công tác hỗ trợ nghiệp vụ cho các đơn vị thông qua việc nâng cao chất lượng quản lý điều hành qua mạng thông tin, qua hệ thống cơ sở dữ liệu cũng như tham gia vào việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng kỹ thuật cao.
Để đáp ứng nhu cầu phục vụ mới với số lượng ngày càng lớn, với đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng, ngân hàng cần đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Một ngân hàng tiêu chuẩn trước tiên phải dựa vào công nghệ hiện đại và thiết lập được một hệ thống thanh tra, kiểm soát, phòng ngừa hữu hiệu mọi rủi ro mới nâng được sức cạnh tranh, thu hút được nhiều vốn cho đầu tư phát triển.
3.2.7 Nâng cao trình độ nghiệp vụ, tác phong phục vụ của nhân viên ngân hàng
Hiện nay, khi bước vào ngân hàng, một số khách hàng vẫn còn bỡ ngỡ, ngại ngùng. Nguyên nhân phần lớn là do ảnh hưởng thái độ của nhân viên ngân hàng. Khi khách hàng bước vào ngân hàng thường chỉ có 2 lý do: 1, giao dịch với ngân hàng như gửi tiền, vay tiền, làm các dịch vụ; 2, khách hàng tìm hiểu trước về ngân hàng rồi mới quyết định giao dịch hay không. Vì lần đầu tiên đến với ngân hàng nên khách hàng không rõ phải làm thủ tục thế nào, khâu nào trước, khâu nào sau. Nếu nhân viên ngân hàng có thái độ vui vẻ nhiệt tình, chỉ dẫn tỉ mỉ cho khách hàng, giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng sẽ khuyến khích họ đến giao dịch với ngân hàng vào lần sau, và ngược lại. Do đó, trình độ, tác phong phục vụ của cán bộ nhân viên ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút khách hàng của một ngân hàng. Để đáp ứng được những yêu cầu phát triển chung của toàn ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn nói riêng đối với ngân hàng Sacombank, đòi hỏi ngân hàng phải tiếp tục có những cải tiến và đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ nhân viên.
Về cán bộ cần đào tạo và đào tạo lại có hệ thống các cán bộ theo tiêu chuẩn qui định. Cán bộ làm công tác tiền gửi phải hiểu biết nhiều mặt nghiệp vụ, có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp từng thắc măsc của người gửi tiền. Nói chung, cán bộ ngân hàng cần phải tích cực hoạt bát, lịch sự vui vẻ khi giao tiếp trên cơ sở đó tăng cường tín nhiệm, thắt chặt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
Tiếp tục kiện toàn bộ máy, sắp xếp, bố trí nhân sự theo hướng tinh gọn với tính chuyên nghiệp cao và trẻ hoá, năng động hoá đội ngũ cán bộ điều hành các cấp. Trong đó, phải chú trọng công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn bị đội ngũ kế thừa, cũng như ổn định bộ máy nhân sự.
Tiến hành rà soát, đánh giá lại các chức vụ và vị trí công việc của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng để có thể điều chỉnh và bố trí công tác phù hợp với khả năng, nguyện vọng và định hướng sắp xếp, cơ cấu, bố trí công việc trong tương lai.
Nâng cao ý thức trách nhiệm, tác phong làm việc, thái độ phục vụ khách hàng của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng tạo nên phong cách phục vụ mới mang đậm bản sắc văn hoá Sacombank. Xây dựng môi trường làm việc đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau nhằm tạo nên nét văn hoá ứng xử không những đối với khách hàng bên ngoài mà còn đối với nội bộ nhân viên ngân hàng.
Đi đôi với quá trình xây dựng, bổ sung, bồi dưỡng nguồn nhân lực Sacombank ngày một chuyên nghiệp và vững mạnh thì phải tiến hành sàng lọc, tinh giản biên chế đối với những người không đáp ứng được yêu cầu, không có tiến bộ và không có khả năng thích nghi với công việc sau khi đã được tạo điều kiện đào tạo lại và bố trí công tác phù hợp với khả năng.
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong điều kiện hiện nay, với một nền kinh tế phát triển, đời sống người dân nâng cao, khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng đều là những người có tri thức cao do đó họ đòi hỏi ngày càng cao về dịch vụ ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng là cạnh tranh không giới hạn, cạnh tranh phi giá.
3.2.8 Các biện pháp khác
Tăng thêm thời gian phục vụ khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng, ngân hàng có thể bố trí nhân viên thay phiên nhau làm buổi trưa để phục vụ khách hàng có nhu cầu giao dịch.
Thực hiện chính sách chăm sóc, tư vấn khách hàng thường xuyên: thường xuyên gọi điện hỏi thăm và thông báo cho khách hàng những thông tin mới như các chương trình khuyến mại, những sản phẩm mới hay khi lãi suất thay đổi cũng cần thông báo cho khách hàng và tư vấn cho khách hàng thêm những thông tin cần thiết để khách hàng lựa chọn. Đối với những khách lớn, giao dịch thường xuyên thì cần phải có những chính sách ưu đãi riêng. Như ngày sinh nhật, ngày thành lập doanh nghiệp, ngày lễ thì ngân hàng nên có sự quan tâm như thăm hỏi và tặng quà.
3.3 Các kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước
a) Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:
Môi trường kinh tế vĩ mô ảnh hưởng rất lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao hiệu quả huy động vốn ngân hàng. Nếu môi trường kinh tế bất ổn định thì người dân sẽ hạn chế gửi tiền do lòng tin sụt giảm, do đó ngân hàng muốn huy động đủ vốn thì phải trả một khoản lãi suất cao để thu hút tiền gửi trong dân. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, đất nước đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, việc ổn định được nền kinh tế vĩ mô càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết do việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt sự can thiệp của chính phủ trong các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên bản chất của nền kinh tế nước ta là định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, do đó dù ít dù nhiều hoạt động kinh tế vẫn cần có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm giảm thiểu những tác động xấu, ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế trong nước.
Ổn định tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ thuận lợi hơn, người dân sẽ an tâm hơn khi gửi tiền, đặc biệt là với những khoản tiền gửi dài hạn. Để làm được điều đó, Nhà nước cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền; có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt, tránh các đột biến làm giảm sức mua của đồng nội tệ.
Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Chính phủ cần phải đưa ra các chính sách về ngoại giao, tiết kiệm, cải tiến bộ máy ngân hàng theo hướng tăng cường hiệu lực quản lý, giảm bớt hệ thống quản lý cồng kềnh, sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Ngoài ra, đối với chính sách huy động vốn qua ngân hàng cũng cần phải được Nhà nước khuyến khích nhiều hơn nữa bằng các biện pháp linh hoạt, cụ thể thông qua các qui định lãi suất, chính sách tỷ giá, thuế… Mặt khác, Nhà nước cũng cần chú trọng công tác thanh kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu tư, xây dựng tránh tình trạng đầu tư lãng phí, tham ô làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
Duy trì ổn định chính trị: sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng thúc đẩy huy động vốn có hiệu quả. Một nền chính trị được kiến tạo vững chắc có thiết chế hợp lý, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ thì những chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực huy động vốn sẽ dễ dàng được thực hiện. Ngược lại, sự bất ổn chính trị - xã hội sẽ tạo nên những hoài nghi của dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước về chế độ, chính sách khiến họ e ngại khi bỏ vốn đầu tư.
b) Tạo lập môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý nước ta còn nhiều bất cập, các văn bản có sự chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ ràng và thiếu đồng bộ do đó một nhiệm vụ cấp thiết của Nhà nước là sớm hoàn thiện môi trường pháp lý.
Việc xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ, rõ ràng không chỉ tạo niềm tin cho dân chúng mà còn khuyến khích và tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm: chuyển bộ phận tiêu dùng chưa cấp thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào ngân hàng.
Ngân hàng trực tiếp tham gia huy động các nguồn vốn khác nhau: tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư… Bởi vậy, việc tạo lập chính sách, cơ chế thực hiện chiến lược vốn phải đầy đủ các hình thức huy động vốn, đề cao chiến lược sử dụng vốn và cần phải có sự hợp lực của nhiều cấp ngành có liên quan.
Đồng thời việc hoàn thiện luật giúp cho các ngân hàng hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao được hiệu quả của công tác huy động vốn. Tránh trường hợp cạnh tranh nhiều rủi ro, thiếu bền vững bằng những cuộc chạy đưa lãi suất giữa các ngân hàng như giai đoạn vừa qua, làm tăng chi phí đồng thời cũng làm mất lòng tin của khách hàng.
Tóm lại, việc ban hành, hướng dẫn thi hành và thực hiện cần phải có sự thống nhất chặt chẽ. Đồng thời phải có sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác. Mặt khác phải xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Trung Ương
Ngân hàng Trung ương với chức năng quản lý và điều hành hệ thống NHTM, là ngân hàng của các ngân hàng. Nó đóng vai trò định hướng cho các ngân hàng thương mại trong các hoạt động của ngân hàng và tác động rất lớn đến chiến lược huy động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Do đó, Ngân hàng Trung ương cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý hơn nhằm khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền.
Ngoài ra, việc ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành luật và các văn bản khác phải thể hiện rõ ràng, chính xác và có tầm nhìn dài hạn.
Chính sách lãi suất linh hoạt theo từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng.
Ban hành và có các hướng dẫn cụ thể về lãi suất gửi tiền đối với các khoản tiền có kỳ hạn dài.
Hướng dẫn và đưa vào sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để khách hàng quen với việc sử dụng dịch vụ, thiết bị của ngân hàng và quan hệ lâu dài với ngân hàng. Đây là hình thức giúp cho ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng.
Mặt khác, Ngân hàng Trung ương cần có sự kết hợp đồng bộ với các ngành, các cấp đặc biệt là lắng nghe tiếng nói từ các ngân hàng thương mại để có những giải pháp phù hợp cũng như tính khả thi cao khi áp dụng các chính sách, chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng,
Kết luận
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín tuy là một ngân hàng cổ phần mới thành lập từ năm 1992 nhưng đến nay đã trở thành 1 trong 5 ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phát triển khởi sắc và trước những thắng lợi vẻ vang của Việt Nam trên trường quốc tế, dưới sự chỉ đạo sâu sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và được sự hậu thuẫn vững chắc của bà con cổ đông cùng sự thương yêu gắn bó thuỷ chung của hàng chục vạn khách hàng trên khắp mọi miền đất nước, năm 2007, Sacombank đã có nhiều nỗ lực và đã tạo ra được những bước tăng trưởng vượt bậc cả bề rộng lẫn bề sâu; đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007; luôn giữ vững và phát huy vị thế của một ngân hàng bán lẻ hàng đầu, đồng thời cũng chuẩn bị khá chu đáo mọi điều kiện cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2008. Trong đó, hoạt động huy động vốn đã đạt được những thành công nhất định. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Ngân hàng thương mại nói chung và của Sacombank nói riêng.
Mặc dù đã có những thắng lợi bước đầu trong hoạt động này như mạng lưới huy động rộng khắp, cách tính lãi suất linh hoạt,...nhưng nếu Sacombank phát huy lợi thế của mình hơn nữa và khắc phục những tồn tại thì Sacombank sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa và phù hợp với quy mô vốn chủ sở hữu. Đồng thời để đạt được kết quả đó đòi hỏi sự cố gắng của toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng, sự hỗ trợ của Nhà nước, của Ngân hàng nhà nước cùng các cơ quan hữu quan khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31769.doc